Tải bản đầy đủ (.doc) (116 trang)

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊNTRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊNTỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (516.42 KB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ BÍCH HỢP

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

NGHỆ AN -– 2014


2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGUYỄN THỊ BÍCH HỢP

VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG Ở HUYỆN CẨM XUYÊN
TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

Chuyên ngành : Chính trị học
Mã số

: 60310201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ


Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Viết Quang
Học viên: Nguyễn Thị Bích Hợp
Lớp:

Chính trị học


3

NGHỆ AN – 2014


2

Lời cảm ơn!

Để hoàn thành luận văn thạc sỹ với đề tài "Văn hóa chính trị của đội
ngũ giáo viên trung học phổ ở huyện Cẩm Xuyên tỉnh Hà Tĩnh hiện nay",này
trước hết tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành đến Tiến sĩ
Trần Viết Quang - người thầy đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn cho
tôi trong suốt quá trình thực hiện.
Tôi xin được chân thành cảm ơn quý Thầy, , Cô trong khoa Giáo dục
chính trị và khoa Sau Đại học và khoa Giáo dục Chính trị đã tận tình truyền
đạt kiến thức cho tôi trong suốt khóa học. Với vốn kiến thức được tiếp thu
trong quá trình học tập không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu luận
văn mà còn giúp ích rất nhiều cho tôi trong quá trình dạy học và công tác sau
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn phòng tổ chức cán bộ và phòng THPT Sở
Giáo dục và Đào tạo Hà Tĩnh, Ban giám hiệu các trường Trung học phổ
thông: Cẩm Xuyên, Cẩm Bình, Hà Huy Tập, Nguyễn Đình Liễn và ở Huyện

Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, Huyện ủy Cẩm Xuyên đã cung cấp cho luận văn
những tư liệu thực tế quý giá.
Tôi xin được cảm ơn sự góp ý chân thành của quý Thầy giáoy , Cô giáo
trong hội đồng khoa học và sự động viên nhiệt tình của các anh, chị, em và
các bạn bè, đồng nghiệp. trong lớp Cao học Chính trị khóa 20.
Mặc dù đã rất cố gắng trong quá trình thực hiện luận văn, nhưng là
lần đầu nghiến cứu một đề tài lớn, tiếp cận tài liệu chưa thật nhiều và sâu sắc
nên chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót cần được bổ
sung. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý Thầy, ,Cô trong hội đồng
khoa học và bạn bè, đồng nghiệp để luận văn được hoàn chỉnh hơn.


3
Xin chân thành cảm ơn!
Cuối cùng xin gửi lời tri ân
đến gia đình, bạn bè và tất cả những người thân yêu đã luôn động viên, khích
lệ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.!
Vinh, ngày 24 tháng 10 năm 2014
Học viên

Nguyễn Thị Bích Hợp

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

- Ban chấp hành trung ương

- BCHTƯ

- Công nghiệp hóa, - hiện đại hóa


- CNH, - HĐH

- Chủ nghĩa xã hội

- CNXH

- Đại học, cao đẳng, trung cấp

- ĐH,

CĐ, TC
- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

- HVCTQGHCM

- Giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, thạc sĩ

- GS, PGS, TS, ThS

- Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

- HVCTQGHCM

- Trung học phổ thông
- Trung ương

- THPT
- TƯ (TW)



4

- Văn hóa chính trị

- VHCT

- Xã hội chủ nghĩa

- XHCN

MỤC LỤC


1

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính trị là lĩnh vực hoạt động rộng lớn và quan trọng của loài người.
Lịch sử hoạt động chính trị gắn liền với lịch sử đấu tranh xây dựng xã hội và
phát triển đời sống con người. Văn hóa chính trị (VHCT) được hình thành và
phát triển cùng với văn hóa nói chung. Chính trị thể hiện trình độ hoạt động
của con người, vì vậy là sản phẩm của văn hóa.Với tư cách là một phương
diện của văn hóa, VHCT với các tính chất, đặc điểm, chức năng của mình lại
nâng cao trình độ chính trị cho con người. Điều đó, có nghĩa VHCT không
phải là biểu hiện bề ngoài của chính trị, mà thẩm thấu trong cơ thể chính trị;
nó là sức sống và do đó là sức mạnh bên trong của đời sống chính trị. Như
vậy VHCT có vai trò vô cùng to lớn trong hoạt động chính trị, nó không chỉ
phản ánh đời sống chính trị, mà còn nằm ngay trong mọi thành phần, mọi
hoạt động chính trị của con người, nó tác động mạnh mẽ và toàn diện tới
phương hướng, tính chất, nội dung, kết quả và hiệu quả của hoạt động chính

trị.
Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước oai hùng của dân tộc Việt
Nam đã hình thành nên nền văn hóa đặc sắc của Việt Nam. Với những phẩm
chất tốt đẹp của mình, văn hóa Việt Nam đã trở thành bản chất, linh hồn và
sức sống của VHCT Việt Nam, xây dựng nên nền VHCT Việt Nam nhân văn
và tiến bộ. VHCT Việt Nam đã tạo nên sức mạnh của nền chính trị Việt Nam.
Đặc biệt từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối đúng đắn, bản
chất dân chủ, khoa học và cách mạng, VHCT Việt Nam đã đưa cách mạng
Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, nâng dân tộc ta, đất nước ta
lên một tầm cao mới.
Trong sự nghiệp cách mạng hiện nay - sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, đặc biệt trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều diễn

1


2
biến phức tạp như hiện nay, đòi hỏi hơn bao giờ hết ở nhân dân, cán bộ, đảng
viên những yêu cầu mới về VHCT. Thời đại trí tuệ, xu thế toàn cầu hóa, giao
lưu, hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng, cần đến một đội ngũ cán bộ, đảng
viên có phẩm chất, năng lực, trình độ VHCT cao.
Đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh đã và đang
phấn đấu vươn lên về mọi mặt và đã đạt được nhiều thành tích nổi bật trong
thời gian qua. Trong quá trình đó họ đã tạo nên sắc diện VHCT cho chính
mình trong đời sống chính trị. Tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định.
Những hạn đó đã làm ảnh hưởng đến hình ảnh cũng như chất lượng của người
Thầy. Do vậy, cần phải có những giải pháp kịp thời nhằm khắc phục những
hạn chế và nâng cao chất lượng cho đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo
dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay.

Nâng cao VHCT trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong tất cả các
chủ thể chính trị đang hoạt động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở nước
ta hiện nay, trong đó có đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh
Hà Tĩnh là một yêu cầu bức thiết của sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung
và sự nghiệp đổi mới giáo dục - đào tạo nói riêng, nhằm xây dựng những chủ
thể chính trị có trình độ VHCT, thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng,
nhân dân giao phó. Đề tài: “Văn hóa chính trị của đội ngũ giáo viên trung
học phổ thông ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay”, vì vậy, có ý
nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn, đồng thời rất bức thiết đối với nước ta
hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
VHCT có tầm quan trọng như vậy, song về phương diện lý luận, nó
được quan tâm nghiên cứu rất muộn và hạn chế ở nước ta, dường như nó bị
hòa tan trong các khoa học chính trị. Do vậy, VHCT cũng chưa được quan

2


3
niệm, chưa được hiểu như một lĩnh vực văn hóa độc lập với những nét đặc thù
với tính chất và bản chất riêng, với sức mạnh và vai trò quan trọng của nó.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, ở Việt Nam một vài cơ quan mới
đặt vấn đề nghiên cứu chính trị như một khoa học độc lập với đối tượng, chức
năng, phương pháp nghiên cứu riêng. Và có thể nói cũng từ đó VHCT mới
được nhìn nhận và quan niệm như một lĩnh vực tri thức, một phương diện
biểu hiện đặc thù với sức sống và sức mạnh riêng của nó trong đời sống xã
hội nói chung, trong hoạt động chính trị nói riêng.
Cho đến giữa những năm 90 của thế kỷ trước, một số công trình nghiên
cứu của văn hóa chính trị bắt đầu xuất hiện ở nước ta. Ban đầu là những bài
báo, bài tạp chí đăng trên những tạp chí khoa học như: Tạp chí Cộng sản, Tạp

chí triết học, Tạp chí nghiên cứu lý luận, Tạp chí văn hóa - nghệ thuật. Những
năm cuối thế kỷ XX xuất hiện một vài cuốn sách viết về VHCT. Đó là: : “Văn
hóa chính trị Việt Nam - truyền thống và hiện đại” của giáo sư Nguyễn Hồng
Phong; “ Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo ở nước
ta hiện nay” do GS, TS Phạm Ngọc Quang chủ biên; “Vai trò của văn hóa
trong hoạt động chính trị của Đảng ta hiện nay” do GS.TS. Trần Văn Bính
chủ biên. Trong những năm gần đây, VHCT trở thành một trong những đề tài
hấp dẫn và bức xúc. Vì vậy ở các trường đại học đã xuất bản nhiều giáo trình
có sự phân tích thích đáng cho VHCT như: Tập bài giảng Chính trị học, giáo
trình Chính trị học đại cương của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
biên soạn, hay giáo trình Chính trị học của Khoa Luật trường Đại Học Vinh
do PGS. TS. GVCC Đoàn Minh Duệ và GS. TS Nguyễn Đăng Dung đồng
chủ biên.
Ở các công trình đó, các tác giả đã đi sâu vào những vấn đề có tính lý
luận chung: lý luận về văn hóa, vấn đề văn hóa trong hoạt động chính trị,
trong sự hình thành và phát triển những phẩm chất chính trị của con người,
của cán bộ, của Đảng và Nhà nước ta.

3


4
Trong thời gian gần đây, cũng đã có một số luận văn thạc sỹ, luận án
tiến sĩ chuyên nghành chính trị học đã đi sâu vào đề tài VHCT. Đó là: luận án
Tiến sĩ “Văn hóa thẩm mỹ” của tác giả Xi Lửa Bum Khăm; luận văn Thạc sỹ
“Văn hóa chính trị và những giá trị tiêu biểu của VHCT Việt Nam truyền
thống” của tác giả Lâm Quốc Tuấn; luận văn Thạc sỹ “Văn hóa chính trị Việt
Nam và vai trò của nó đối với công cuộc đổi mới hiện nay” của tác giả Lê
Tấn Lập; luận văn Thạc sỹ “Văn hóa chính trị đối với việc nâng cao chất
lượng cán bộ của thành phố Đà Nẵng hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Lệ;

luận văn Thạc sỹ “Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ thành phố Đà Nẵng
trong giai đoạn đổi mới hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thủy; luận văn
Thạc sỹ “ Văn hóa chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, tỉnh
KonTum hiện nay thực trạng – giải pháp” của tác giả Nguyễn Minh Đức; luận
văn Thạc sỹ
“Văn hóa chính trị của đội ngũ giảng viên đại học ở nước ta hiện nay –
thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy. Các luận án,
luận văn đó đã bước đầu đem lại những đóng góp có ý nghĩa cho việc xây
dựng VHCT, làm rõ đặc điểm, vai trò của VHCT trong đời sống chính trị - xã
hội.
Sự phát triển của bản thân chính trị học nói chung và lý luận về VHCT
nói riêng đang đặt ra một cách bức thiết việc nghiên cứu sâu sắc về VHCT
trong từng con người cụ thể với tư cách là những chủ thể chính trị trong hệ
thống chính trị Việt Nam. Đội ngũ cán bộ giáo viên THPT trên cả nước nói
chung và đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nói
riêng là một lực lượng chính trị to lớn và hết sức quan trọng trong sự nghiệp
đào tạo ra những chủ thể chính trị mới hoạt động trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Nâng cao VHCT cho đội ngũ này là một yêu cầu cấp bách hiện
nay. Đề tài luận văn này muốn đi sâu nghiên cứu VHCT, nhằm đưa VHCT tới
mọi hoạt động sống của các chủ thể chính trị, trong đó có việc nâng cao

4


5
VHCT cho đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Đề
tài “Văn hóa chính trị của đội ngũ giáo viên trung học phổ thông ở Huyện
Cẩm Xuyên, Tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” được thực hiện như là sự tiếp nối những
công trình đã có ở trên; nhằm tạo một bước phát triển mới về phương diện lý
luận cũng như thực tiễn của quá trình xây dựng đội ngũ giáo viên THPT hiện

nay nói chung và cán bộ giáo viên THPT trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh
Hà Tĩnh nói riêng. Đề tài mong đóng góp tiếng nói nhỏ bé của mình vào sự
nghiệp cách mạng chung của đất nước và sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Từ cơ sở lí luận và thực tiễn, luận văn đề xuất các giải pháp nhằm nâng
cao VHCT cho đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục hiện nay.
Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu làm rõ bản chất, đặc điểm, vai trò của VHCT, đồng thời
làm rõ sự cần thiết và những yêu cầu nâng cao VHCT cho đội ngũ giáo viên
THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Phân tích thực trạng VHCT của đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm
Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh hiện nay.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao VHCT cho
đội ngũ giáo viên THPT trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng
Luận văn nghiên cứu VHCT của đội ngũ giáo viên THPT
- Phạm vi
Luận văn khảo sát, điều tra văn hóa chính trị của đội ngũ giáo viên
THPT công lập ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh

5


6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Vận dụng kiến thức chính trị học Mác -– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

để phân tích, làm rõ những vấn đề VHCT cũng như vai trò của nó trong hoạt
động chính trị của chủ thể chính trị; kế thừa các thành tựu nghiên cứu của
những người đi trước về VHCT; dựa trên những quan điểm của Đảng và Nhà
nước ta về nguồn lực con người để phân tích nhu cầu về chủ thể chính trị theo
yêu cầu cách mạng hiện nay.
- Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; tiếp cận đối tượng từ chính trị học; các phương pháp lịch sử - lôgíc,
phân tích - tổng hợp, khái quát hóa, trong quá trình thực hiện luận văn.
6. Đóng góp về lý luận và thực tiễn cuả luận văn
Dựa vào những nội dung cơ bản của VHCT mà những người đi trước đa
nghiên cứu, luận văn phân tích, làm rõ tầm quan trọng và sự tác động đặc thù
của VHCT tới đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh và
đưa ra những giải pháp sát thực, hữu hiệu nhằm nâng cao VHCT cho đội ngũ
giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và giáo viên
THPT trên cả nước nói chung trong giai đoạn đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo hiện nay.
- Về lý luận, luận văn làm rõ những đặc điểm, yêu cầu về VHCT đối với
đội ngũ giáo viên THPT ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh trong việc nâng
cao chất lượng của đội ngũ cán bộ này.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho những người quan tâm đến
VHCT và vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ giáo viên trong các trường THPT
trên địa bàn huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh nói riêng và các trường THPT
trong cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.

6



7

B. NỘI DUNG
Chương 1
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI NÂNG CAO
VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN
TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Văn hóa chính trị
1.1.1. Khái niệm văn hóa chính trị
1.1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm khá rộng gắn liền với đời sống con
người và xã hội. Tùy thuộc vào thời gian, không gian, đặc điểm của xã hội và
thời đại, đồng thời cũng phụ thuộc vào cách tiếp cận khác nhau mà khái niệm
văn hóa mang những nội dung không giống nhau. Trong đời sống xã hội,văn
hóa không chỉ là một lĩnh vực riêng biệt mà còn xuyên suốt “cơ thể” xã hội,
thẩm thấu vào mọi lĩnh vực hoạt động, mọi quan hệ của con người.
Ở phương Đông, một trong những trung tâm văn hóa lớn là Trung
Quốc, từ thời nhà Chu (thế kỷ XI - VIII trước công nguyên) trong sách vở đã
thấy xuất hiện từ văn và từ hóa. Người Trung Quốc quan niệm văn hóa là chế
độ, văn trị, giáo hóa, lễ nhạc, điển chương. Trong lịch sử lâu dài, Trung Quốc
đạt được rất nhiều thành tựu trên các lĩnh vực, nhưng khoa học về văn hóa
chưa phát triển, nên cách hiểu trên duy trì đến thời cận đại thì tiếp nhận khái
niệm văn hóa từ phương Tây du nhập sang.
Ở phương Tây, văn hóa (culture) với tư cách là một từ, đã xuất hiện từ
trước công nguyên trong ngôn ngữ Latinh. Theo nhà ngôn ngữ học Vunđơ
(W. Wundt) người Đức: Văn hóa có nghĩa là khai khẩn, vở hoang đất đai, sau

7



8
trở thành cultura nghĩa là cày cấy, gieo trồng, chăm sóc. Từ vun trồng gắn với
nghề nông, xã hội phát triển, theo quy luật, ngôn ngữ cultura dần dần thêm
những nghĩa mới, là vun trồng tinh thần, ở đây hiểu là có học vấn, có giáo
dục, sự mở mang trí tuệ tinh thần con người.
Trong thời kì Phục Hưng thế kỷ XV- XVI, ở phương Tây nhằm khôi
phục lại nền văn minh rực rỡ Hi Lạp – La Mã cổ đại, người ta muốn phát triển
khả năng phi thường của con người trên nhiều phương diện, đặc biệt là văn
chương và nghệ thuật, từ văn hóa có thêm nghĩa chỉ năng lực sáng tạo của con
người, đề cao con người, con người là tột đỉnh sáng tạo của tạo hóa.
Đến thế kỷ XVIII, từ văn hóa được đưa vào khoa học, sử dụng như một
thuật ngữ khoa học. Năm 1974, từ văn hóa xuất hiện và được đưa vào từ điển
Đức. Các nhà khai sáng cũng đã quan tâm đến văn hóa và có những khái niệm
khác nhau về văn hóa. Vonte dùng khái niệm văn minh để miêu tả các thời kỳ
phát triển của khoa học, nghệ thuật, đạo đức, pháp luật, nhà nước. Rútxô quan
niệm văn hóa là hiện tượng xã hội. Như vậy ở thế kỷ XVIII, văn hóa đã trở
thành một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu phân tích, đề cập trong các
nghành khoa học xã hội và nhân văn. Khái niệm văn hóa vì vậy cũng trở nên
đa nghĩa, phong phú hơn.
Sang thế kỷ XIX, từ nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau, các nhà
khoa học ở các nước Anh, Đức, Pháp, Mỹ, trong các công trình khoa học đã
hướng tới xác định văn hóa như đối tượng nghiên cứu của một nghành khoa
học độc lập. Ở Đức 1955, Cơlem đã cho xuất bản bộ sách gồm hai tập: Khoa
học về văn hóa. Năm 1871 E. Taylo công bố công trình Văn hóa nguyên thủy.
Với sự xuất hiện của tác phẩm này, ngành khoa học văn hóa chính thức được
khẳng định.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác, trong quá trình lao động, ý thức
của con người xuất hiện, và ngay trong hoạt động lao động đó, con người đã
tạo ra văn hóa.


8


9
Trong mấy thập kỷ vừa qua, do vị trí vai trò của văn hóa ngày càng được
khẳng định trong đời sống nhân loại cũng như sự phát triển bền vững của các
quốc gia, khái niệm văn hóa ngày càng được nhắc đến nhiều hơn, trở nên phổ
biến và thâm nhập vào trong mọi hoạt động của con người.
Theo ông Phederico Mayo - Tổng giám đốc UNESCO thì: “Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại.
Qua các thể kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá
trị, các truyền thống và các thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của
mỗi dân tộc” [45; 31]. Định nghĩa trên đã tiếp cận văn hóa dưới góc độ hoạt
động và văn hóa là hệ thống giá trị chuẩn mực đồng thời nhấn mạnh đặc tính
dân tộc của văn hóa.
Ở Việt Nam, trước Cách mạng Tháng Tám, đã có một số học giả trong
và ngoài nước nghiên cứu về văn hóa Việt Nam. Đề cương về văn hóa Việt
Nam năm 1943 của Đảng ta và những hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng đã đặt nền móng cho lý luận văn hóa theo
quan điểm Mác - Lênin ra đời. Lý luận đó được bổ sung, phát triển và kiểm
nghiệm qua hai cuộc kháng chiến và xây dựng hòa bình ở miền Bắc. Trong
thời kỳ đổi mới, hưởng ứng Thập kỷ thế giới vì sự phát triển văn hóa và do
yêu cầu xâu dựng đất nước, khoa học văn hóa ở nước ta phát triển mạnh mẽ.
Từ thực tiễn lịc sử lâu dài của dân tộc, trong tác phẩm Văn hóa đổi mới,
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng viết: “Văn hóa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ
lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng đồng các dân
tộc Việt Nam vượt qua biết bao sóng gió và thác ghềnh tưởng chừng không
thể vượt qua được, để không ngừng phát triển và lớn mạnh, viết nên những
trang sử lạ lùng bởi tính kiên cường trong hoạn nạn, bởi khí phách hào hùng
trong giữ nước và dựng nước” [13; 9] … “Cốt lõi của sức sống đó là văn hóa

với ý nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm cả một hệ thống các
giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sức

9


10
nhạy cảm tiếp thụ cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của
cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình và
không ngừng lớn mạnh” [13; 10].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về văn hóa: :“Vì lẽ sinh tồn
cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra
ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa hoc, tôn giáo, văn hoc, nghệ
thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặc, ăn, ở và các phương
thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó
mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi của sự sinh tồn” [29; 431]. Hồ Chí Minh nêu rõ, hoạt động sáng tạo văn
hóa là hoạt động có ý thức có mục đích của loài người. Văn hóa với quan
niệm rộng bao gồm toàn bộ những giá trị vật chất, những giá trị tinh thần và
phương thức sinh hoạt.
Xuất phát từ thực tiễn phát triển của dân tộc, trong Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ năm (khóa VIII), Đảng ta đã tiếp cận văn
hóa dưới góc độ toàn bộ những giá trị tinh thần, tạo nên nền tảng tinh thần
của xã hội và chia thành 8 lĩnh vực cơ bản, trong đó tư tưởng, đạo đức, lối
sống và đời sống văn hóa đươc coi là lĩnh vực quan trọng nhất hiện nay.
Trong Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta tiếp tục khẳng
định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động
lực phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa khơi dậy tiềm năng, phát huy sức sáng
tạo của con người, tạo ra sự phát triển hài hòa gữa đời sống vật chất và tinh

thần. Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế và chính trị” [12; 36].
Để thích ứng được với xu thế hội hập, hợp tác hiện nay tại Hội nghị
Trung ương 9 khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 33 về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất
nước. Nghị quyết đã đưa ra mục tiêu chung để phát triển văn hóa giai đoạn

10


11
hiện nay là: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt nam phát triển toàn
diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, dân chủ và
khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội,
là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” [23; 2].
Những định nghĩa về văn hóa dù phong phú đầy đủ đến cũng chỉ nêu bật
được một hoặc vài phương diện của văn hóa. Có thể nói, văn hóa là một khái
niệm trừu tượng, nội hàm của văn hóa không xác định cụ thể, nên rất khó có
một định nghĩa rõ ràng, đầy đủ, chính xác. Tuy vậy, từ những quan niệm trên,
ta thấy, khái niệm văn hóa có thể được nhận diện qua ba cấp độ khác nhau:
Ở mức độ đơn giản, văn hóa được xem là văn học nghệ thuật (văn hóa
văn nghệ). Ở mức độ phức tạp hơn, văn hóa còn được xem là lối sống(văn
hóa đời sống) bao gồm: ngôn ngữ giao tiếp, ẩm thực, cách cư xử, đạo đức,
truyền thống, đức tin…, tức là hệ thống các giá trị tinh thần của một nhóm
người, một dân tộc hay một xã hội. Với nghĩa rộng nhất, văn hóa được xem là
tất cả những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra để phục vụ
cho sự tồn tại và phát triển của con người. Nói một cách đơn giản, văn hóa là
tất cả những gì do con người, ở trong đời sống xã hội của con người và liên
quan trực tiếp đến con người. Tiếp cận văn hóa trong văn hóa chính trị là theo

nghĩa rộng nói trên. Văn hóa được xem như cốt lõi của bản lĩnh, bản sắc và
truyền thống tốt đẹp của một dân tộc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử
dân tộc, tạo nên sức sống trường tồn của dân tộc.
Với cách tiếp cận như trên văn hóa có thể được hiểu, là một tập hợp bao
gồm hệ thống các giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, trí tuệ
và tài năng, sức nhạy cảm tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản
lĩnh và bản sắc của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự
bảo vệ mình và để không ngừng lớn mạnh.

11


12
Trong xã hội có giai cấp, một nhân tố cấu thành rất quan trọng của văn
hóa đó là VHCT. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo vươn tới các giá trị
nhân văn, nâng đỡ hạnh phúc cho con người. Mọi sự sáng tạo hướng tới tiêu
diệt con người, làm tha hóa con người đều là phản văn hóa.
Chính vì thế, trong hoạt động chính trị, văn hóa là hoạt động cốt lõi nhất,
nếu hoạt động chính trị nào đi ngược lại chủ nghĩa nhân văn, phá hoại hòa
bình, tách rời các giá trị chân - thiện - mỹ đều bị xem là những hiện tượng
phản văn hóa.
1.1.1.2 Khái niệm chính trị và mối quan hệ chính trị - văn hóa nhìn từ
góc độ văn hóa học
Chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành giai cấp và hình thành nhà
nước. Thuật ngữ chính trị xuất phát từ tiếng Hi Lạp có nghĩa là những công
việc liên quan tới nhà nước, là nghệ thuật cai trị nhà nước, là phương pháp
nhất định để thực hiện các mục tiêu của gia.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, chính trị đã từng là lĩnh vực hoạt
động, là công cụ đặc quyền của những nhóm xã hội thống trị để buộc những
người bị trị phải phục tùng và thực hiện lợi ích của họ. Do vậy, chính trị được

coi là đặc quyền của tầng lớp trên, thậm chí là của một người. Sau đó do sự
phát triển của tư tưởng dân chủ, chính trị trở thành công việc của đông đảo
quần chúng.
Từ thời cổ đại cho đến nay, nhiều nhà tư tưởng đã đưa ra nhiều quan
niệm khác nhau về phạm trù chính trị:
Nhà triết học cổ đại Hi Lạp - – Platon đã cho rằng: “chính trị là sự cai
trị, đó là nghệ thuật cai trị những con người với sự bằng lòng của họ, theo
ông, cai trị bằng sức mạnh là độc tài còn cai trị bằng thuyết phục mới đích
thực là chính trị” [8; 7].
Nhà xã hội học Đức đầu thế kỷ XX -– Mác Vây Be (Maxweber), quan
niệm: “chính trị là khát vọng tham gia vào quyền lực hay ảnh hưởng đến sự

12


13
phân chia quyền lực giữa các quốc gia, bên trong quốc gia, hay giữa các tập
đoàn người trong một quốc gia. Chính trị là những mong muốn và những
tương tác khách quan của cộng đồng người đối với quyền lực” [8; 8]. Xuất
phát từ quan điểm này, một số học giả khác hiểu chính trị là sự khôn khéo,
khả năng đạt được sự phân chia chức năng mà vẫn đảm bảo duy trì sự tác
động qua lại của chúng.
Trong những quan niệm nêu trên tuy có chứa đựng một số nhân tố hợp
lý nhất định, nhưng chúng vẫn chưa nêu lên được nội dung cơ bản nhất của
phạm trù chính trị với tư cách là một thực thể tồn tại trong đời sống với những
cấp độ khác nhau (Cá nhân, cộng đồng, giai cấp, dân tộc, nhân loại) liên quan
đến công việc của nhà nước.
Kế thừa những tinh hoa nhân loại, với thế giới quan khoa học của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã đưa ra cách hiểu đúng đắn về chính trị.

Theo Các Mác: “giai cấp nào muốn nắm quyền thống trị, ngay cả khi
người thống trị của nó đòi hỏi phải thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự
thống trị nói chung, như trong trường hợp của các giai cấp vô sản, thì giai cấp
ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền, để đến lượt mình, có thể hiểu lợi ích
của bản thân mình như là lợi ích phổ biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực
hiện trong bước đầu” [26; 48]. Như vậy chính trị bao giờ cũng gắn liền với
giai cấp, giai cấp nào muốn nắm được chính quyền, xóa bỏ xã hội cũ và xây
dựng xã hội mới, trước hết phải dành lấy chính quyền.
Các Mác đã viết: “Tuyệt đối từ bỏ chính trị là không thể được, tất cả các
tờ báo chủ trương từ bỏ chính trị cũng đều làm chính trị. Vấn đề là làm chính
trị như thế nào và làm loại chính trị gì. Vả chăng đối với chúng ta không thể
từ bỏ chính trị. Đảng công nhân với tư cách là chính Đảng đã tồn tại trong
phần lớn các nước. Chúng ta không được phá hoại nó bằng sự cổ vũ từ bỏ
chính trị. Thực tiễn của cuộc sống hiện đại, sự áp bức chính trị của chính phủ

13


14
hiện tồn đối với công nhân nhằm mục đích chính trị. Cổ vũ họ từ bỏ chính trị
có nghĩa là đẩy họ vào vòng tay của chính trị tư sản. Từ bỏ chính trị là hoàn
toàn không thể được, đặc biệt là sau khi công xã Pari đã đưa hoạt động chính
trị của giai cấp vô sản vào chương trình nghị sự…”[ 27; 551- 552 ].
Như vậy bản chất giai cấp của hoạt động chính trị đã được Các Mác
khẳng định rõ ràng: chính trị là hoạt động thực hiện lợi ích giai cấp. Nhưng
lợi ích giai cấp khác nhau thì mục tiêu chính trị cũng khác nhau.
Theo V.I.Lênin: “chính trị có lô gích khách quan của nó, không phụ
thuộc vào những dự tính của cá nhân này hay cá nhân khác, của đảng này hay
đảng khác” [36; 246 ]. Đây là một quan niệm khẳng định chính trị không phải
hình thành theo ý muốn của mỗi người, mỗi đảng mà gắn với điều kiện lịch

sử cụ thể nhất định.
V. I. Lênin còn chỉ rõ: “chính trị là quan hệ giữa các giai cấp - là cái
quyết định vận mệnh của nước cộng hòa. Bộ máy là một công cụ bổ trợ, nó
càng vững mạnh chừng nào thì càng tốt và càng có ích hơn cho những sự biến
đổi. Nhưng không có năng lực chấp hành sứ mệnh đó, thì cũng chẳng còn có
tác dụng gì nữa” [39; 87- 88]. Như vậy vấn đề mà Lênin quan tâm là “năng
lực chấp hành sứ mệnh” của giai cấp. Năng lực này không chỉ phụ thuộc vào
ý chí, nguyện vọng của giai cấp mà còn phụ thuộc vào trình độ dân trí, trình
độ văn hóa của quần chúng nhân dân. Vì vậy Lênin đã nhấn mạnh: “Một
người không biết chữ là người đứng ngoài chính trị, trước hết là phải dạy a, b,
c, d…cho họ đã. Không thế, thì không thể có chính trị, không thế thì chỉ có
những tin đồn đại, những chuyện nhảm nhí, những chuyện hoang đường,
những thiên kiến, chứ không phải là chính trị” [39; 218 ].
V.I. Lênin còn cho rằng: “Quần chúng có hàng triệu, và chính trị thì bắt
đầu ở nơi nào có hàng triệu người, không phải ở nơi có hàng nghìn người, mà
ở đâu có hàng triệu người thì ở đó có một chính trị nghiêm túc” [37; 20].

14


15
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đời sống xã hội có bốn lĩnh vực cơ bản là
kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội, phải coi các lĩnh vực đó đều quan trọng
như nhau.
Theo Người, mấu chốt của vấn đề chính trị ở Việt Nam trong những
năm đầu thế kỷ XX là giành và giữ chính quyền, là thực hiện dân chủ kiểu
mới, là làm cho nhân dân thực sự là người làm chủ, làm cho dân giàu, nước
mạnh và sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên tinh thần hòa hiếu, tôn
trọng chủ quyền và hợp tác cùng có lợi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ mối quan hệ giữa chính trị và văn hóa,

theo Người, chính trị và văn hóa tồn tại trong thể thống nhất: Chính trị với
văn hóa, văn hóa với chính trị có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Sau khi
giành được độc lập Người đã nhấn mạnh:… “ Xưa kia chính trị bị đàn áp, nền
văn hóa của ta vì thế không nảy sinh được. Nay nước ta đã độc lập, tinh thần
được giải phóng, cần phải có một nền văn hóa hợp với khoa học, hợp với
nguyện vọng của nhân dân” [2; 10 ].
Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Văn hóa không đứng ngoài
mà ở trong kinh tế và chính trị”. Khái niệm “ở trong” theo Người, chính là
mối quan hệ toàn diện và hữu cơ của văn hóa với chính trị, chính tri với văn
hóa. Hoạt động văn hóa nào cũng mang tính chất chính trị và mọi hoạt động
chính trị đều mang tính văn hóa, văn hóa phải trở thành động lực và mục tiêu
của hoạt động chính trị.
Như vậy, tiếp cận vấn đề từ chủ nghiac Mác - Lênin, có thể xem chính
trị là một lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện mối quan hệ giữa các giai
cấp, các dân tộc, các quốc gia trong vấn đề giành, giữ, sử dụng hoặc chi phối
quyền lực nhà nước.
Cùng với sự phát triển của đời sống chính trị, những kinh nghiệm chính
trị được tích lũy ngày càng phong phú và sâu rộng. Một trong những động
lực quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển chính là văn hóa. Văn hóa là động

15


16
lực của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển hiện thực chính trị. Nhu
cầu nâng cao hiệu quả hoạt động chính trị đã khái quát hóa kinh nghiệm chính
trị thành lý luận chính trị, từ đó tạo điều kiện cho sự tìm tòi, tiếp cận đúng về
quan niệm văn hóa chính trị
1.1.1.3. Khái niệm văn hóa chính trị
Từ bản chất của văn hóa và chính trị như đã xác định trên, ta thấy chính

trị là một bộ phận, một phương diện của văn hóa, nó biểu hiện khi khẳ năng
và năng lực của con người trong việc giác ngộ lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc;
trong việc tổ chức, hoàn thiện hệ thống tổ chức quyền lực, nhằm hiện thực
hóa lợi ích giai cấp hay lợi ích dân tộc, của nhân dân phù hợp với mục tiêu
chính trị và sự tiến bộ xã hội. Chính trị vừa là thành quả của văn hóa, lại vừa
là yếu tố tạo nên văn hóa nói chung. Chỉ có thể định nghĩa được VHCT trên
cơ sở sự gắn kết chính trị với văn hóa.
VHCT là một khái niệm chính trị học hiện đại, mới ra đời và đang được
làm phong phú thêm trong tiến trình phát triển môn chính trị học ở các nước
khác nhau, gắn liền với các chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Vì vậy khó có
thể đưa ra một định nghĩa thống nhất. Nhìn chung, VHCT là khái niệm dùng
để chỉ mối quan hệ giữa truyền thống xã hội (thường được gọi là văn hóa) đối
với hành vi tham gia chính trị của con người, tức là giữa văn hóa và sự vận
hành của thể chế chính trị. Văn hóa gắn liền với dân tộc, phản ánh bản sắc độc
đáo của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một nền văn hóa riêng. Trong thực tế
cùng một chế độ chính trị, nhưng ở mỗi nước khác nhau thì chế độ ấy có
những biểu hiện khác nhau, bởi vì người dân (nhất là những người lãnh đạo
nhà nước) tham gia hoạt động chính trị ở từng nước chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi truyền thống văn hóa của dân tộc mình, vì vậy hoạt động chính trị của họ
có sắc thái riêng phản ánh nền văn hóa đó. Mỗi dân tộc có truyền thống
VHCT riêng, nó tác động to lớn đến sự phát triển chính trị của dân tộc đó.

16


17
Việc định nghĩa VHCT tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu và những
cách tiếp cận khác nhau. Quan điểm về VHCT trong Nho giáo của Trung Hoa
cổ đại được tiếp cận từ tư tưởng đức trị. Luận điểm này được trình bày trong
Giáo trình Chính trị học của Học viện Hành chính Quốc gia như sau: Tư

tưởng chính trị của Khổng Tử là lấy đạo nhân làm gốc. Theo Khổng Tử: Cái
nhanh thành hiệu của đạo người là việc chính trị, cái nhanh thành của đạo đất
là sự mọc cây cối, ấy việc chính trị cũng như cây lau, cây sậy vậy. Cho nên,
làm chính trị cốt dùng ở người hiền; sữa mình là dùng người hiền; lấy đạo mà
sửa mình, lấy nhân mà sữa đạo. Đạo nhân, theo Khổng Tử là cái gốc của việc
chính trị. Có sữa được mình cho ngay chính, thì những kẻ hiền tài mới theo
mình mà giúp mình, có người hiền tài giúp mình thì việc chính trị rất chóng
có công hiệu, khác nào đất tốt thì cây cối mọc lên nhanh chóng vậy. Người
làm chính trị, cai quản quốc gia, các bậc thánh hiền cần sữa mình cho đến bậc
nhân để xem cái đạo của mình mà thi hành ra khắp thiên hạ. Người quân tử
phải biết làm điều nhân nghĩa.
Trong giáo trình Chính trị học PGS. TS. GVCC Đoàn Minh Duệ và GS.
TS Nguyễn Đăng Dung định nghĩa: “Văn hóa chính trị là một hệ giá trị văn
hóa được con người tiếp nhận và lựa chọn, biến nó thành nhu cầu, thành vũ
khí, phương tiện trong hoạt động chính trị” [8; 354].
Trong cuốn sách “Văn hóa chính trị và việc bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo
nước ta hiện nay” của tác giả Phạm Ngọc Quang định nghĩa: “VHCT là một
phương diện của văn hóa; nó nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt
động chính trị dựa trên sự nhận thức sâu sắc các quan hệ chính trị hiện thực
cùng những thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị
cơ bản của giai cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển của lịch sử.
VHCT nói lên phẩm chất và hình thức hoạt động chính trị của con người cùng
những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện những lợi ích giai cấp cơ
bản của chủ thể tương ứng” [45; 19 ].

17


18
Theo “Tập bài giảng chính trị học” của Viện khoa học chính trị HVCTQGHCM: “VHCT là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh thần được

hình thành trong thực tiễn chính trị. Nó là cái góp phần chi phối hoạt động
của các cá nhân, của các nhà chính trị, góp phần định hướng hoạt động của họ
trong việc tham gia vào đời sống chính trị để phục vụ lợi ích căn bản của một
giai cấp nhất định. VHCT là một trong những cơ sở định hình và định hướng
cho các tổ chức chính trị, đặc biệt là Đảng và Nhà nước, cho các phong trào
chính trị trong một xã hội nhất định” [51; 279].
Như vậy, có thể thấy, VHCT là một hệ thống giá trị văn hóa được con
người tiếp nhận và lựa chọn, biến nó thành nhu cầu, thành vũ khí, phương tiện
trong hoạt động chính trị. VHCT là tổng hợp những giá trị vật chất và tinh
thần được hình thành trong thực tiễn chính trị. Nó chi phối hoạt động của các
các nhân, các nhà chính trị và định hướng hoạt động của họ trong việc tham
gia vào đời sống chính trị.
VHCT có thể được xem như là chất lượng tổng hợp của tri thức và kinh
nghiệm hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân
tạo thành ý thức chính trị, thành động cơ thúc đẩy họ vươn tới những hành
động chính trị một cách tự giác phù hợp với lý tưởng chính trị của xã hội. Đó
là trình độ giác ngộ khoa học về chính trị, tức là nắm vững những tri thức tạo
thành cơ sở giúp con người nhận thức đúng bản chất của lợi ích và quyền lực
chính tri, biết phân biệt sự khác nhau về động cơ, thái độ và hành vi đấu tranh
giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội và các dân tộc.
Là một phương diện của văn hóa, VHCT được hình thành và phát triển
gắn liền với sự nâng cao của văn hóa. Các nhà chính trị và mỗi cá nhân công
dân khi tham gia vào đời sống chính trị không thể có một trình độ giác ngộ
khoa học về chính trị cũng như kỹ năng, kỹ xảo trong hoạt động chính trị nếu
thiếu hoặc không có một trình độ học vấn, tri thức và khả năng nắm bắt thực
tiễn ở một mức độ nhất định. Do đó, VHCT không chỉ được đo bằng tri thức,

18



19
trình độ học vấn mà còn được thể hiện qua sự khéo léo, nghệ thuật trong các
mối quan hệ chính trị.
VHCT phản ánh năng lực sáng tạo vươn tới các giá trị nhân văn trong
hoạt động chính trị. Các hoạt động này thể hiện ở quan điểm lý luận chính trị,
lý tưởng và tình cảm chính trị, hệ thống thiết chế và thể chế cùng với cá nhân
và cộng đồng tham gia vào đời sống chính trị. Tinh thần cốt lõi của văn hóa
chính trị là các giá trị nhân văn trong xử lý chính trị. Chính trị có văn hóa hay
xử lý chính trị nhân văn là chính trị giải phóng con người khỏi sự áp bức bóc
lột về phương diện giai cấp, dân tộc và xã hội, phấn đấu để ngày càng nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đó chính là VHCT được xây
dựng trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Cấu trúc, đặc điểmtính, chức năng của văn hóa chính trị
1.1.2.1. Cấu trúc của văn hóa chính trị
Cấu trúc của VHCT là một hệ giá trị bao gồm nhiều nhân tố cấu thành,
chúng có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại và ảnh hưởng lẫn nhau.
Tri thức, sự hiểu biết, giác ngộ khoa học về chính trị.
Tri thức, sự hiểu biết về chính trị là sự thống nhất hữu cơ giữa tri thức
khoa học (lý luận) và tri thức kinh nghiệm chính trị. Cả hai nhân tố này đều
có tầm quan trọng và tính quyết định như nhau. Thực tiễn cho thấy, không
phải cá nhân nào có trình độ học vấn chính trị cao cũng đều là người có khả
năng nhạy bén, sáng suốt khi đứng trước các vấn đề chính trị. Và ngược lại,
cũng không phải bất kỳ ai có bề dày kinh nghiệm được tích lũy trong hoạt
động thực tiễn cũng có thể giải quyết tốt các vấn đề chính trị nảy sinh. Tuy
nhiên, xét về bản chất và khuynh hướng thì trình độ học vấn chính trị có vị trí
chi phối. Nó có thể khái quát những kinh nghiệm chính trị thực tiễn thành
những vấn đề mang tính lý luận, vạch ra được bản chất và quy luật ẩn dấu sau
những tri thức kinh nghiệm đã được tích lũy.

19



×