Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo cải cách hành chính nhà nước từ 1986 1996

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (971.35 KB, 79 trang )

Khóa luận tốt nghiệp
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

VŨ THỊ HUẾ

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
LÃNH ĐẠO CẢI CÁCH NỀN HÀNH
CHÍNH NHÀ NƯỚC TỪ NĂM 1986
ĐẾN NĂM 1996
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI, 2013

SV: Vũ Thi Huế

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận là kết quả cố gắng của bản thân tôi trong quá trình học tập
và nghiên cứu tại trường Đại học. Tôi xin cam đoan rằng đề tài nghiên cứu:
"Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước
từ 1986 đến 1996". không trùng lặp với các đề tài khác và chưa được công
bố trên bất kỳ công trình nghiên cứu nào.

Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Sinh viên


Vũ Thị Huế

SV: Vũ Thi Huế

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Trang

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

3

Chương 1: NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

10

THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
1.1. Thực trạng nền hành chính nhà nước Việt Nam thời kỳ

10

trước đổi mới
1.2. Nhu cầu cải cách nền hành chính nhà nước Việt Nam

18

Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO CẢI


27

CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG 10 NĂM
(1986-1996)
2.1. Cải cách nền hành chính nhà nước những năm đầu đổi

27

mới từ 12/1986 đến 5/1991
2.2. Đảng lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước Việt

44

Nam từ 6/1991 đến 6/1996
2.3. Một số kết quả và những kinh nghiệm chủ yếu của Đảng

58

trong cải cách nền hành chính nhà nước 1986-1996
KẾT LUẬN

74

TÀI LIỆU THAM KHẢO

76

PHỤ LỤC


79

SV: Vũ Thi Huế

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nền hành chính nhà nước là bộ phận trọng yếu của Nhà nước, có
chức năng tổ chức, thực thi pháp luật, đưa ý chí của Đảng và nguyện vọng
của nhân dân đã ghi nhận trong luật pháp được hiện thực hóa. Không thể thực
hiện được đúng và đủ ý chí của đảng cầm quyền, nếu nền hành chính nhà
nước yếu kém, kể cả khi ý chí đó đã được thể chế hóa đầy đủ về mặt lập
pháp. Vì vậy, bao giờ và ở đâu còn giai cấp và Nhà nước, thì lúc đó và ở đó
giai cấp cầm quyền luôn tìm mọi cách giữ và chi phối nền hành chính nhà
nước, để qua đó nắm và điều khiển quyền lực nhà nước khi vận hành trên
phương diện hành pháp.
Nhận thức rõ điều đó, từ khi trở thành đảng cầm quyền đến nay,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết sức chăm lo xây dựng, củng cố nền hành
chính nhà nước đủ khả năng thực thi đường lối của mình ở từng thời điểm
lịch sử cụ thể.
Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với khởi xướng công cuộc đổi mới
toàn diện, Đảng chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước nhằm tháo
gỡ những rào cản trong cơ chế quản lý kinh tế, giải phóng sức sản xuất, dân
chủ hóa đời sống xã hội, phát huy cao nhất năng lực nội sinh của nhân dân,
tạo thế và lực mới để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh những
kết quả tích cực đã đạt được - có thể đo đếm bằng con số, sự kiện và cảm nhận

của người dân qua thụ hưởng trong cuộc sống hàng ngày - thì cũng phải
khách quan thấy rằng, cải cách nền hành chính tiến hành rất chậm, chưa đáp
ứng được yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; còn thiếu những thể
chế hành chính nhà nước định hướng cho cơ chế quản lý mới phát triển;
tổ chức bộ máy vừa cồng kềnh, vừa kém hiệu lực; phẩm chất và năng lực
SV: Vũ Thi Huế

1

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
của công chức còn không ít bất cập, còn chế độ công vụ chưa chuyển biến
kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế...
Khuyết tật của nền hành chính nhà nước đã tạo kẽ hở cho một bộ phận
công chức lợi dụng, thực hiện các hành vi lợi dụng của công, vi phạm quyền
dân chủ của nhân dân, cản trở thực hiện các mục tiêu mà Đảng đã dự kiến.
Trong khi đó, sức ép của hội nhập kinh tế quốc tế rất nặng nề và rất khẩn
trương, cạnh tranh ngày càng gay gắt. Nếu không muốn tụt hậu xa hơn về
kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới thì Việt Nam phải
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, trong đó cải cách nền hành chính nhà nước trở
thành một "mắt xích" trọng yếu để phát huy cao nhất năng lực nội sinh của
dân tộc, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, tạo ra khả năng cao nhất khai
thác nguồn lực bên ngoài phục vụ sự nghiệp phục hưng dân tộc. Đồng thời,
cải cách nền hành chính còn liên quan trực tiếp đến yêu cầu mở rộng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa - một vấn đề cơ bản của định hướng xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ quá độ mà đảng cầm quyền phải quan tâm đầy đủ.
Trong bối cảnh đó, tổng kết, đánh giá lại quá trình lãnh đạo cải

cách nền hành chính nhà nước của Đảng trong những năm đổi mới trở
thành một yêu cầu khoa học có ý nghĩa thực tiễn cấp bách. Bởi vì, trong điều
kiện đảng cầm quyền và duy trì nền chính trị nhất nguyên, mọi cải cách nhà
nước chỉ được khởi động khi đảng cầm quyền có sự đổi mới tư duy chính
trị và tư duy đổi mới đó phải biến thành ý thức tự giác của mỗi tổ chức
đảng và đảng viên. Với tư cách là người "ấn nút", khởi động cuộc cải cách
và điều khiển quá trình vận hành của công cuộc cải cách, mọi chuyển biến
của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức có tác dụng mở đường cho cải
cách hành chính, còn ngược lại, sẽ tạo ra những lực cản. Thực tiễn Đảng
lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước trong 10 năm đầu của công cuộc
đổi mới rất cần được tổng kết nhằm đúc rút những kinh nghiệm hữu ích
SV: Vũ Thi Huế

2

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
phục vụ yêu cầu tiếp tục lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước thời gian
tới.
Từ những lý do nêu trên, tôi chọn đề tài "Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước từ 1986 đến 1996".
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Vấn đề cải cách nền hành chính nước ta đã có rất nhiều tác giải đề cập
đến như:
- Những nghiên cứu của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước về
xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
về đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Trường Chinh (1991), Mấy vấn đề về Nhà nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.
Nguyễn Văn Linh (1998), Đổi mới để tiến lên.
Đỗ Mười (1991) , Xây dựng nhà nước của nhân dân - Thành tựu,
kinh nghiệm và đổi mới.
- Nghiên cứu của các nhà lý luận và các nhà tổ chức thực tiễn về tổ
chức bộ máy nhà nước, về hoạt động của Nhà nước, về nền hành chính
nhà nước...
Trần Trọng Đường (1998) , Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Lê Sĩ Dược (2000), Cải cách bộ máy hành chính cấp Trung ương
trong công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
Thang Văn Phúc (2001),Cải cách hành chính nhà nước - Thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp.
- Nghiên cứu của các nhà khoa học lịch sử về quá trình hình thành
của nền hành chính nhà nước, về sự lãnh đạo của Đảng đối với nền hành
chính nhà nước trong các thời kỳ đã qua.
SV: Vũ Thi Huế

3

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Nguyễn Trọng Phúc (1991), Về xây dựng và bảo vệ chính quyền
nhân dân trong những năm 1975- 1990.
Hồ Xuân Quang (1988), Một số quan điểm cơ bản của Đảng Cộng
sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân từ 1986 đến nay.
Nguyễn Trọng Phúc (1999), Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam

trong sự nghiệp đổi mới.
Tuy nhiên chưa có tác giả nào nghiên cứu về vấn đề "Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà nước từ 1986 đến 1996".
Với đề tài này tôi hy vọng khóa luận sẽ là tài liệu tham khảo tốt cho
sinh viên khoa sau và đưa ra một số giải pháp nhằm cải cách nền hành
chính nhà nước, xây dựng nền hành chính gần dân, tăng cường khả năng
tham gia của quần chúng vào công việc Chính phủ, mở rộng các dịch vụ
hành chính công nhằm đáp ứng tốt hơn xu hướng văn minh, tiến bộ và thúc
đẩy cải cách kinh tế, xã hội.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Luận chứng cơ sở lịch sử của các kinh nghiệm được tổng kết với ý
nghĩa làm tài liệu tham khảo tốt sinh viên khóa sau,
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phân tích, luận giải, làm sáng rõ những quan điểm, đường lối của
Đảng cũng như quá trình tổ chức thực tiễn trong lãnh đạo cải cách nền
hành chính nhà nước của Đảng.
- Bước đầu đánh giá những thành tựu, hạn chế, trên cơ sở đó rút ra
một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo cải cách nền hành chính nhà
nước

SV: Vũ Thi Huế

4

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Trong đề tài này, tôi tập trung tìm hiểu quá trình hình thành và phát
triển quan điểm, đường lối của Đảng về cải cách nền hành chính nhà
nước và việc tổ chức thực hiện đường lối đó trong thực tiễn từ 1986 đến
1996.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với đề tài, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cải cách nền hành
chính nhà nước từ 1986 đến 1996” đề tài đi sâu nghiên cứu và phân tích
những nội dung liên quan đến vấn đề cải cách nền hành chính nhà nước từ
1986 đến 1996.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu
5.1. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp chuyên ngành khác
- Khóa luận được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân.
- Để thực hiện k h ó a luận, tác giả đã vận dụng, kết hợp hai
phương pháp chính là lịch sử và lôgíc.
+ Phương pháp lịch sử được quán triệt trong phân kỳ, trình bày
tiến trình phát sinh, phát triển của mỗi chủ trương, chính sách, là cơ sở
khoa học cho việc đúc rút các nhận xét và kết luận.
+ Phương pháp lôgíc được thể hiện trong trình bày từng chương,
tiết, đặc biệt là những vấn đề mang tính khái quát như đúc rút nhận xét và
tổng kết kinh nghiệm.
Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp khác như đồng đại và
lịch đại, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh...
SV: Vũ Thi Huế

5

K35 GDCD



Khóa luận tốt nghiệp
5.2. Nguồn tư liệu
Các nguồn tư liệu sau đây được sử dụng để nghiên cứu đề tài:
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước về khoa học công nghệ.
- Kế thừa tài liệu từ công trình nghiên cứu của các học giả có
liên quan đến đề tài: các đề tài nghiên cứu khoa học, các sách tham khảo,
chuyên khảo và các bài viết được đăng tải trên các báo, tạp chí và các
loại ấn phẩm khác.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của khóa luận gồm 2 chương, 4 tiết.

SV: Vũ Thi Huế

6

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

NỘI DUNG
Chương 1
NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
THỜI KỲ TRƯỚC ĐỔI MỚI
1.1. THỰC TRẠNG NỀN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRƯỚC
ĐỔI MỚI


1.1.1. Thời kỳ 1945 - 1975
Từ 1945 đến 1975 là thời kỳ nền hành chính nhà nước cách mạng
mới ra đời, được xây dựng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng giải
phóng dân tộc và sau đó xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc, với các
giai đoạn chính sau đây:
- Từ 1945 đến 1946: Đây là giai đoạn Đảng Cộng sản Việt Nam mới
bước lên địa vị cầm quyền, tiến hành xây dựng nền hành chính nhà nước
cách mạng trở thành công cụ cơ bản để điều hành công cuộc "kháng chiến"
và "kiến quốc". Mới giành được chính quyền về tay nhân dân, Nhà nước
cách mạng non trẻ đã phải đối phó với sự chống phá quyết liệt của thù
trong, giặc ngoài. Đặc điểm này chi phối rất lớn đến tổ chức bộ máy, cơ
chế vận hành của nền hành chính nhà nước cũng như phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với nền hành chính nhà nước.
Một là, Chính phủ lâm thời được thiết lập từ cuộc Cách mạng Tháng
Tám đã từng bước được hợp thức hóa sau cuộc Tổng tuyển cử (6-1-1946).
Sau Tổng tuyển cử, Đảng tiếp tục lãnh đạo bầu ra Chính phủ chính thức và
lãnh đạo bầu cử Hội đồng nhân dân địa phương và cơ sở (3-1946), kiện toàn
Ủy ban Hành chính các cấp. Đặc điểm của nền hành chính nhà nước giai
đoạn này là: 1) Hội đồng nhân dân chỉ được thiết lập ở 2 cấp: tỉnh và xã,
riêng khu vực đô thị thiết kế theo mô hình chính quyền một cấp hoàn chỉnh
nên Hội đồng nhân dân chỉ có ở cấp thành phố (hoặc thị xã); 2) ủy ban
SV: Vũ Thi Huế

7

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
hành chính được thiết lập ở 4 cấp: kỳ, tỉnh, huyện và xã.

Hai là, cơ cấu tổ chức của cơ quan hành chính nhà nước ở Trung
ương lúc mới hình thành luôn ở trong trạng thái "động", phải thường xuyên
cải tổ, thực hành liên hiệp, với sự tham gia rộng rãi của nhiều lực lượng
chính trị, đảng phái, nhằm xây dựng khối đoàn kết dân tộc và hạn chế sự
chống phá của thù trong, giặc ngoài. Sắc lệnh số 75/SL (17-12-1945) về
trưng tập công chức phục vụ kháng chiến là nỗ lực nằm trong mục tiêu đó,
nhất là sử dụng số công chức của chế độ cũ. Bên cạnh cơ quan hành chính
địa phương, trong quá trình chuẩn bị toàn quốc kháng chiến, đã hình thành
thêm Ủy ban bảo vệ (sau đổi thành là Ủy ban kháng chiến) chuyên trách
công tác kháng chiến. Chính phủ mới cũng đã có nhiều nỗ lực thể chế hóa
đường lối của Đảng trong ban hành quy chế công chức, công vụ, giao
nhiệm vụ quản lý công chức cho Bộ Nội vụ (Sắc lệnh số 58 ngày 3-5-1946).
Ba là, đứng trước bao bộn bề khó khăn của thù trong, giặc ngoài,
nhưng Đảng đã tập trung nhiều nỗ lực lãnh đạo Quốc hội xây dựng Hiến
pháp để tạo khuôn khổ pháp lý cho sự định hình một nền hành chính nhà
nước ổn định. Ngày 9-11-1946, Hiến pháp dân chủ đầu tiên được Quốc hội
thông qua, mà nhiều định chế của nó đã thể chế hóa quan điểm của Đảng
về mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, giữa
chính quyền Trung ương và chính quyền địa phương, giữa Nhà nước và
công dân... tạo cơ sở để xây dựng nền hành chính nhà nước "mạnh mẽ",
"sáng suốt" - như "Lời nói đầu" của Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận. Hiến
pháp đã phân biệt rõ quyền độc lập tương đối giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp; định ra thiết chế Chủ tịch nước vừa là nguyên thủ
quốc gia, vừa là người đứng đầu nền hành chính nhà nước với quyền hành
rất lớn, đủ khả năng thực thi quyền lực do nhân dân ủy thác để đấu tranh
chống thù trong, giặc ngoài ở một thời đoạn lịch sử "ngàn cân treo sợi tóc".
SV: Vũ Thi Huế

8


K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Bốn là, trong bối cảnh thù trong giặc ngoài chống phá quyết liệt, sự
lãnh đạo của Đảng đối với bộ máy nhà nước nói chung và nền hành chính nhà
nước nói riêng được tiến hành một cách "kín đáo" và "khôn khéo", nhất là
từ sau khi Đảng rút vào hoạt động bí mật (11-11-1945). Tuy không có điều
khoản riêng trong Hiến pháp ghi nhận quyền lãnh đạo của Đảng, nhưng ý chí và
đường lối của Đảng đã được thể chế hóa xuyên suốt nội dung của Hiến pháp và
các văn bản pháp luật khác. Ngoài ra, Đảng còn lãnh đạo thông qua vai trò cá
nhân đảng viên tham gia trong cơ cấu nền hành chính nhà nước từ Trung
ương đến cơ sở, mà dấu ấn rõ nét nhất là người đứng đầu nền hành chính
quốc gia - thiết chế Chủ tịch nước được Hiến pháp năm 1946 trao quyền rất
rộng: "Chủ tịch nước Việt Nam không phải chịu bất cứ trách nhiệm nào, trừ
khi phạm tội phản quốc" (Điều 60) [18, tr.18].
- Từ 1947 đến 1954: Đây là giai đoạn Đảng lãnh đạo toàn quốc
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, nền hành chính nhà nước được
điều chỉnh nhằm đảm bảo thích ứng với yêu cầu chỉ đạo, điều hành cuộc
kháng chiến. Toàn quốc kháng chiến bùng nổ đã đặt ra nhu cầu tăng
cường khả năng chỉ đạo tập trung, thống nhất của nền hành chính nhà
nước. Do đó, Hiến pháp năm 1946 chưa có điều kiện cụ thể hóa thành các
đạo luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn buộc phải sử dụng sắc lệnh để điều hành
đất nước, tăng cường quyền lực của người đứng đầu nền hành chính nhà
nước. Đối với cơ quan hành chính địa phương, để phù hợp với nhu cầu chỉ
đạo một đất nước trải dài từ Bắc đến Nam, từ cuối 1945 đã hình thành các
chiến khu với chức năng quân sự, đến khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ
được đổi thành các "khu" (từ 12-1946 đến 1-1948), rồi "liên khu" (từ 11948) với sự kiêm nhiệm chức năng hành chính và quân sự. Chính quyền
từ tỉnh xuống xã cũng hợp nhất giữa Ủy ban Kháng chiến và Ủy ban hành
chính thành Ủy ban Kháng chiến - Hành chính với chức năng hành chính SV: Vũ Thi Huế


9

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
quân sự nêu trên. Mặc dù phải tập trung điều hành cuộc kháng chiến, nhưng
Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, vẫn tập trung nhiều nỗ lực
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; chỉnh đốn tác phong của cơ quan hành
chính các cấp; ban hành nhiều chính sách đáp ứng nhu cầu của thực tiễn cuộc
kháng chiến và chuẩn bị tiền đề cho giai đoạn phát triển sau. Nỗ lực ấy được
phản ánh ở việc Chủ tịch Hồ Chí Minh dành tâm lực, trí lực viết tác phẩm
"Sửa đổi lối làm việc" (1947) để làm tài liệu huấn luyện, giáo dục cán bộ,
công chức; thành lập hệ thống các trường đào tạo cán bộ; ban hành Sắc
lệnh 188/SL (9-5-1948) lập chế độ công chức với thang lương chung các
ngạch và các hạng phù hợp với chính thể dân chủ cộng hòa; ban hành Sắc
lệnh số 76/SL về Quy chế công chức ấn định những nghĩa vụ, quyền lợi, tổ
chức quản lý, sử dụng, tuyển dụng, tặng thưởng, hưu trí, kỷ luật, thôi việc...
đối với công chức. Đây là những văn bản pháp luật về công chức mang tính
khoa học, dân chủ, có hiệu lực cao và nội dung hoàn chỉnh phù hợp với
nền công chức hiện đại lúc bấy giờ đang thực hiện ở một số nước phát triển
trên thế giới.
- Từ 1954 đến 1975: Đây là giai đoạn đất nước bị chia làm hai miền,
phải tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau.
Miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, miền Bắc đi lên chủ
nghĩa xã hội nhằm đem lại cuộc sống ấm no, tự do cho nhân dân miền Bắc,
đồng thời làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. ở miền
Nam, từ tháng 12-1960 đã hình thành Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền
Nam Việt Nam, vừa thực hiện chức năng đoàn kết dân tộc, vừa đảm đương

chức năng của một chính quyền tổ chức điều hành cuộc kháng chiến ở miền
Nam. Đến tháng 6-1969, Chính phủ lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam
được thành lập, có tổ chức bộ máy từ Miền đến cơ sở, vừa điều hành kháng
chiến, vừa tổ chức lại đời sống nhân dân ở vùng giải phóng. Dưới sự lãnh
SV: Vũ Thi Huế

10

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
đạo trực tiếp của Trung ương Cục, các Khu ủy, Đảng bộ địa phương, tổ
chức bộ máy và cơ chế vận hành của chính quyền các cấp ở miền Nam được
điều chỉnh phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng.
Ở miền Bắc, sau năm 1954, Đảng đã lãnh đạo sửa đổi Hiến pháp
(1959) để tạo khuôn khổ pháp lý cho sự định hình một tổ chức bộ máy và
cơ chế vận hành của nền hành chính nhà nước phù hợp yêu cầu tình hình
mới. Hiến pháp năm 1959 tuy chưa có điều khoản riêng ghi nhận quyền
lãnh đạo của Đảng, nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và
toàn xã hội được đảm bảo trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Nền hành chính nhà nước có điều chỉnh so với trước, nhất là giảm bớt quyền
hành của người đứng đầu nền hành chính nhà nước; thừa nhận quyền tự trị
về phương diện hành chính của một số địa bàn dân tộc thiểu số và gắn với
nó đã hình thành Khu tự trị Việt Bắc và Khu tự trị Tây Bắc; điều chỉnh địa
giới hành chính một số tỉnh. Đến năm 1959, “bộ máy quản lý hành chính
cấp Trung ương ở miền Bắc có 36 cơ quan thuộc Chính phủ; địa giới hành
chính địa phương được phân thành 25 tỉnh và 2 khu tự trị” [23, tr. 15].
Cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Chính phủ đã ban hành hàng
loạt quy định để điều chỉnh chế độ công chức và công vụ, như: Nghị định số

23/CP (30-6-1960) Về phân loại tổ chức, phân loại chức vụ cán bộ, viên
chức trong khu vực hành chính sự nghiệp; Nghị định 25/CP (5-7-1960) về
Quy định chế độ tiền lương thuộc khu vực sản xuất; Nghị định số 24/CP (133-1960) về Ban hành Điều lệ tuyển dụng và cho thôi việc đối với công nhân
viên chức nhà nước. Tuy vậy, tình hình hình đội ngũ cán bộ, công chức
ngày càng tăng lên (xem biểu 1), vì vậy, ngày 5-11-1974 Chính phủ đã ra
Nghị định số 245/CP về tinh giản bộ máy hành chính nhà nước.

SV: Vũ Thi Huế

11

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Bảng 1.1: Thống kê diễn biến số lượng cán bộ, công chức những năm
(1954 – 1975)
Năm

1954

1955

1956

1957

Số

44.620


98.752

116.551

94.940

1963

1965

1968

1970

1958

1969

1961

103.940 130.091 150.310

lượng
(người)
Năm

1971

1973


1975

1600000 240.600 281.191 320.919 240.600 474.028 478.417

Số
lượng
(người)

Nguồn: [23].
Nhìn chung, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nền hành chính nhà nước
ở miền Bắc sau năm 1954 đã được điều chỉnh cho thích ứng với yêu cầu
chuyển từ điều hành kháng chiến sang điều hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa trên miền Bắc và có những thời đoạn chống chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, đảm đương vai trò hậu
phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Nền hành chính nhà nước đó
mặc dù tổ chức và hoạt động trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp,
song đã làm tròn vai trò, sứ mệnh lịch sử trong một hoàn cảnh đặc biệt khi
đất nước tạm thời bị chia làm hai miền, phải tiến hành hai chiến lược cách
mạng khác nhau.
1.1.2. Thời kỳ 1975 - 1986
Sau ngày đất nước thống nhất (30-4-1975), Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ 24 khóa III (9-1975) đã chủ trương thống nhất nước nhà
về mặt Nhà nước. Thực hiện chủ trương đó, việc hiệp thương giữa hai miền
Nam - Bắc và tổng tuyển cử bầu Quốc hội thống nhất trên cả nước được tiến
SV: Vũ Thi Huế

12

K35 GDCD



Khóa luận tốt nghiệp
hành để đã tạo cơ sở cho sự hình thành một nền hành chính nhà nước thống
nhất. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đã nhấn
mạnh yêu cầu: "Nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta
và nhân dân ta phải đặc biệt quan tâm là nhanh chóng xây dựng và củng
cố bộ máy chính quyền nhà nước các cấp ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện
bộ máy chính quyền nhà nước các cấp ở miền Bắc, kiện toàn Nhà nước
của cả nước" [10, tr. 131-132]. Nghị quyết Đại hội IV của Đảng cũng nhấn
mạnh:
Đảm bảo tốt sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một điều
kiện tiên quyết để tăng cường nhà nước, nâng cao hiệu lực của
Nhà nước. Mặt khác, Đảng không thể xây dựng chủ nghĩa xã
hội nếu không có Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng và quyền
làm chủ tập thể của nhân dân thể hiện tập trung ở Nhà nước,
được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Nhà nước.
Phải thường xuyên kiện toàn bộ máy nhà nước. Nâng cao năng
lực tổ chức của Đảng trước hết chính là nâng cao năng lực của
Đảng trong việc xây dựng, kiện toàn và sử dụng, phát huy Nhà
nước như một công cụ sắc bén nhất để tổ chức thực hiện đường
lối chính sách của Đảng [10, tr. 148-149].
Hiến pháp năm 1980 đã thể chế hóa quyền lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước với điều khoản hiến định: "Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên
phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam được vũ
trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà
nước, lãnh đạo xã hội" [18, tr. 76]. Đại hội V của Đảng (3-1982) tiếp tục khẳng
định: "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cải tiến phương
pháp lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với chính quyền là điều kiện quyết
định để phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước” [11, tr. 117].

SV: Vũ Thi Huế

13

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Trên cơ sở đường lối Đại hội IV và Đại hội V của Đảng, nền hành
chính nhà nhà nước được tiếp tục xây dựng và củng cố.
Về tổ chức bộ máy nền hành chính nhà nước, đã được điều chỉnh
lại từ Trung ương đến địa phương theo Hiến pháp năm 1980 và các luật
tổ chức nhà nước. Theo đó, thiết chế Hội đồng Chính phủ được chuyển
thành Hội đồng Bộ trưởng, Thủ tướng Chính phủ được chuyển thành Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng; lập thiết chế Chủ tịch Hội đồng nhà nước - tổ chức
và hoạt động theo nguyên lý chế độ nguyên thủ tập thể - để thay thế cho thiết
chế Chủ tịch nước trước đó. Nếu như Hiến pháp năm 1959 xác định hai tư
cách của Hội đồng Chính phủ là: 1) "cơ quan chấp hành của cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất"; 2) "và là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa" [18, tr. 53], thì Hiến pháp năm
1980 chỉ xác định một tư cách của "Hội đồng Bộ trưởng... là cơ quan chấp
hành và hành chính nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất" [18, tr. 113-114]. Địa giới hành chính các tỉnh cũng được điều chỉnh
theo hướng sáp nhập các tỉnh nhỏ thành tỉnh lớn.
Về thể chế hành chính, giai đoạn này, Quốc hội đã có nhiều nỗ lực
ban hành các đạo luật và Chính phủ ban hành các văn bản dưới luật cần thiết
phục vụ yêu cầu xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước và quản lý kinh tế - xã
hội như: Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng (4-7-1981), Luật Tổ chức Hội
đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân (30-6-1983), Pháp lệnh trừng trị tội hối
lộ (20-5-1981), Pháp lệnh về việc xét và giải quyết đơn thư khiếu nại và tố

cáo của công dân (27-11-1981), Pháp lệnh về trừng trị các tội đầu cơ, buôn
bán hàng lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép (30-6-1982), Điều lệ xí
nghiệp công nghiệp quốc doanh (1-12-1978)... Trong khuôn khổ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung bao cấp, song Chính phủ cũng đã có một số văn bản
dưới luật thể hiện dấu hiệu đổi mới, phản ánh sự thể chế hóa quan điểm
SV: Vũ Thi Huế

14

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
của Hội nghị Trung ương sáu khóa VI của Đảng (9-1979) như: Quyết định
tiến hành cải cách giáo dục phổ thông (27-3-1981), Quyết định 25/CP (211981) về thực hiện "ba phần kế hoạch" trong các xí nghiệp quốc doanh,
Quyết định 26/CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán sản phẩm và
vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất, kinh doanh của
Nhà nước.
Về chế độ công chức, công vụ, chế độ tiền lương, Chính phủ đã ban
hành nhiều văn bản dưới luật quy định lề lối làm việc, chính sách và chế độ
với cán bộ, như: Quyết định 169/HĐBT (29-1981) ban hành Bản Điều lệ về
chế độ làm việc và quan hệ công tác của Hội đồng Bộ trưởng; Nghị định
217/CP (8-6-1979) quy định về chế độ trách nhiệm, kỷ luật, chế độ bảo vệ
của công, chế độ phục vụ nhân dân của cán bộ, nhân viên và cơ quan nhà
nước; Nghị định 16/HĐBT (8-5-1982) về tinh giản biên chế hành chính
nhằm tạo ra bộ máy quản lý nhà nước gọn nhẹ, có hiệu lực; Nghị định
117/HĐBT (15-7-1982) về bản danh mục số 1 các chức vụ viên chức nhà
nước để làm căn cứ xây dựng chức danh đủ tiêu chuẩn nghiệp vụ; Nghị
định 235/HĐBT về cải cách chế độ tiền lương của công nhân, viên chức và
lực lượng vũ trang, xóa bỏ dần chế độ cung cấp hiện vật theo giá bù lỗ,

chuyển sang chế độ trả lương bằng tiền có quỹ hàng hóa, đảm bảo quán
triệt nguyên tắc phân phối theo lao động...
1.2. NHU CẦU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Mặc dù đã có những những nỗ lực xây dựng, củng cố nền hành chính
nhà nước nhưng sự lãnh đạo của Đảng đối với nền hành chính nhà nước còn
bộc lộ những hạn chế cơ bản sau:
Một là, Đảng hiểu và vận dụng nguyên tắc "thống nhất quyền lực
nhà nước" trong xây dựng nền hành chính nhà nước một cách máy móc,
xơ cứng.

SV: Vũ Thi Huế

15

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
Quan niệm lúc bấy giờ cho rằng, quyền lực nhà nước khởi nguồn từ
nhân dân, mà nhân dân đã trao quyền (bầu ra) cho Quốc hội thì quyền lực
phải thống nhất ở Quốc hội, từ quyền lập pháp, hành pháp đến tư pháp. Còn
các cơ quan hành chính nhà nước cũng chỉ là tham mưu và chấp hành của
Quốc hội, không thấy được tính độc lập tương đối của nó trong thực thi chức
năng quản lý hành chính nhà nước. Do đó, trong bộ máy nhà nước không có
sự phân công, phân nhiệm rõ ràng giữa từng cơ quan với chức năng lập
pháp, hành pháp và tư pháp với tính đặc thù của nó. Một khi các chức
năng của từng cơ quan nhà nước không được xác định rõ ràng sẽ dẫn tới
chồng lấn giữa lập pháp của Quốc hội và lập quy của Chính phủ, giữa quản lý
vĩ mô của Nhà nước Trung ương và quyền tự chủ của chính quyền địa

phương, giữa quản lý nhà nước của Chính phủ và các bộ, ngành với quản lý
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Còn về phía Quốc hội, mặc dù Hiến
pháp ghi nhận là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng do "ôm đồm"
các quyền nên rốt cuộc không có điều kiện thực hiện những chức năng vốn
có của nó là lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước. Vì không thực hiện tốt chức năng lập pháp nên thiếu
những luật pháp cần thiết tạo khuôn khổ pháp lý cho nền hành chính nhà
nước vận hành, để lại những khoảng trống mà những cán bộ tha hoá, biến
chất trong các cơ quan công quyền lạm dụng, đẩy các tệ nạn trong bộ máy
nhà nước gia tăng. Vì buông lỏng chức năng giám sát tối cao, thậm chí gần
như lãng quên, nên những biểu hiện lạm quyền và sai phạm trong cơ quan
hành chính nhà nước ít bị ngăn chặn, phát hiện và đưa ra ánh sáng. Vì buông
lỏng vai trò của Quốc hội trong quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước, chính xác hơn là có thông qua tại các kỳ họp của Quốc hội một
cách hình thức, chiếu lệ, không được nghiên cứu cẩn trọng, nên dẫn tới các
cơ quan hành chính nhà nước quyết định tùy tiện những vấn đề lớn của
SV: Vũ Thi Huế

16

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
đất nước, nhiều khi gây ra hậu quả nghiêm trọng, mà các chủ trương
nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa...
là những ví dụ điển hình.
Hai là, Đảng hiểu và vận dụng nguyên tắc "tập trung dân chủ"
trong xây dựng nền hành chính nhà nước chưa thấu đáo.
Mặc dù đường lối của Đảng vẫn khẳng định phải quán triệt nguyên

tắc tập trung dân chủ trong xây dựng bộ máy nhà nước, nhưng trên thực tế
thiết kế mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành của Nhà nước lại chưa
xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ. Nguyên tắc tập trung
dân chủ khi vận dụng vào từng trường hợp cụ thể của hệ thống chính trị
chưa được làm sáng tỏ, nhất là sự khác nhau trong xây dựng cơ quan lãnh đạo
đảng và bộ máy nhà nước, giữa cơ quan dân cử hoạt động theo chế độ tập
thể và nền hành chính theo chế độ thủ trưởng, giữa cơ quan hành chính nhà
nước Trung ương, địa phương và cơ sở. "Tập trung" là một thuộc tính vốn
có của quyền lực nhà nước, nhưng "tập trung" lại chưa dựa trên nền tảng
"dân chủ", không bị kiểm soát bởi một "cơ chế dân chủ", nên dẫn tới tha hóa
quyền lực ở các tầng nấc khác nhau của cơ quan hành chính nhà nước. Vì
thế dẫn tới tình trạng Trung ương không kiểm soát hết địa phương, cấp trên
không nắm hết được tình hình cấp dưới, các cơ quan quản lý nhà nước
không bao quát hết đối tượng quản lý. Càng tập trung cao độ theo cơ chế
kế hoạch hóa, càng dẫn tới quan liêu và ngày càng xa rời quần chúng,
không nắm hết những vận động của quy luật khách quan đang tồn tại trong
thời kỳ quá độ.
Ba là, các "cơ quan quản lý hành chính- kinh tế can thiệp sâu vào
hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị kinh tế cơ sở" [12, tr. 73].
Chính vì thế, cơ quan hành chính nhà nước ôm đồm, bao biện công
việc của các chủ thể sản xuất kinh doanh, biến các chủ thể ấy trở thành đối
SV: Vũ Thi Huế

17

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
tượng thụ động trông chờ, ỷ lại vào quyết định của Nhà nước. Điều đó

không chỉ triệt tiêu khả năng tự chủ, sáng tạo vốn có của các đơn vị kinh
tế, mà còn biến cơ quan hành chính nhà nước trở thành một "tổ chức kinh
tế" với trách nhiệm nặng nề và không đủ khả năng thực thi nhiệm vụ quản
lý nhà nước. Càng ôm đồm, bao biện công việc của doanh nghiệp thì càng
đẩy nền hành chính nhà nước rơi vào quan liêu hóa nặng nề. Càng quan liêu
hóa thì càng giảm sút hiệu lực quản lý và khủng hoảng kinh tế - xã hội là hệ
quả tất yếu từ cách quản lý đó.
Bốn là, tổ chức bộ máy nền hành chính nhà nước cồng kềnh, kém
hiệu lực.
Do nhận thức giản đơn về các nguyên tắc tổ chức nhà nước theo
học thuyết Mác - Lênin và duy trì cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp,
nên tổ chức bộ máy nhà nước ngày càng phình to để đảm đương các chức
năng mà nó "ôm đồm" của doanh nghiệp và xã hội. Nếu như trước 1975,
Hội đồng Chính phủ có 21 bộ, 10 Ủy ban Nhà nước và 10 Tổng cục trực
thuộc, thì đến năm 1985 đã tăng lên tới 60 cơ quan trực thuộc, trong đó có
24 bộ, 9 Ủy ban Nhà nước, 27 Tổng cục và Cơ quan trực thuộc (với 800
vụ, viện và 691 liên xí nghiệp, tổng công ty nhà nước). Ở cấp tỉnh cũng
phình to lên 30-35 sở, ty. Mỗi quận (huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) có
từ 20-25 phòng ban. Càng cồng kềnh thì hiệu lực và hiệu quả quản lý càng
giảm sút, gia tăng tình trạng quan liêu, cấp trên không nắm được tình hình
cấp dưới và cơ sở, cấp dưới báo cấp trên không chuẩn xác, nhưng lại thiếu
các cơ chế phát hiện, ngăn ngừa, làm cho tiêu cực trong bộ máy nhà nước
gia tăng. Tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, nhưng chức năng không rõ
ràng, nên dẫn tới hai xu hướng không thích hợp với nền hành chính nhà
nước: phân tách nhiều bộ ngành quản lý những lĩnh vực chuyên môn hẹp
nên không có khả năng nắm và phối hợp mang tính liên ngành giữa các
SV: Vũ Thi Huế

18


K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
lĩnh vực; bộ máy cồng kềnh nhưng trách nhiệm không rõ ràng vừa lấn sân
nhau, vừa bỏ sót đối tượng quản lý.
Năm là, chế độ công vụ, công chức bị nghiệp dư hóa, không thích
ứng với xu hướng chuyên nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Từ cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chuyển sang cách mạng xã
hội chủ nghĩa chúng ta quan niệm giản đơn rằng, sau khi đã thủ tiêu chính
quyền của giai cấp bóc lột, thiết lập chính quyền của nhân dân, phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân, gia tăng thành phần giai cấp công
nhân và nhân dân lao động trong chính quyền, tự bản thân nó đã thể hiện tính
chất xã hội chủ nghĩa, khác biệt với nền hành chính của giai cấp bóc lột, hoạt
động theo lối công chức hành chính "sáng cắp ô đi, tối cắp ô về" xa rời
cuộc sống của nhân dân lao động. Đó thực chất là sự giản đơn và nghiệp dư
hóa tổ chức và hoạt động của nền hành chính nhà nước và chưa nhận thấy
quá trình phân công lao động ngày càng sâu sắc giữa các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Cũng chính vì thế mà nhận thức về công chức, viên chức không
rõ ràng, tất cả những người làm việc trong biên chế của tổ chức đảng, cơ
quan nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp, các đơn vị sự nghiệp... đều được
đồng nhất hóa bởi một khái niệm "cán bộ" chung chung, không thấy hết
những đặc trưng khác nhau của lao động ở từng loại hình cơ quan, đơn vị.
Đội ngũ này lại không hoặc ít được quan tâm đào tạo nghiệp vụ quản lý hành
chính nhà nước, hoạt động chủ yếu bằng kinh nghiệm; bố trí, sử dụng, điều
động, thôi việc, đề bạt, kỷ luật... đều thiếu tiêu chí rõ ràng, thậm chí có nơi
tiến hành tùy tiện. Trong khi chất lượng công chức ít được quan tâm và chế
độ công vụ bị giản đơn hóa, thì số lượng công chức lại phát triển rất nhanh,
không phù hợp với yêu cầu tinh gọn bộ máy trong xã hội hiện đại (xem bảng
1.2):


SV: Vũ Thi Huế

19

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp

Bảng 1.2: Thống kê diễn biến số lượng cán bộ, công chức những năm
1977 – 1986
Năm
Số

1977

1978

1984

1985

1986

872.828

955.828

1.991.510


1.235.010

1.195.923

lượng
(người)
Nguồn: [23].
Sáu là, chế độ chính sách đối với cán bộ được thực hiện bằng cung
cấp giá trị hiện vật, theo lối bình quân, không tạo được động lực cho đội
ngũ cán bộ phấn đấu.
Thêm vào đó đời sống ngày càng khó khăn, phân phối hiện vật không
đáp ứng được nhu cầu tái tạo sức lao động, dẫn tới đội ngũ cán bộ chỉ chú
ý đến "làm kế hoạch 3" để giải quyết sinh kế, không chú tâm với công việc.
Công vụ hành chính vốn đã bị nghiệp dư hóa, cộng thêm đời sống khó khăn
và sự không chú tâm đó, càng đẩy hoạt động của nền hành chính nhà nước
rơi vào trì trệ, xơ cứng, quan liêu, xa dân, cán bộ không thiết tha với công
việc, ngại phấn đấu học tập để nắm bắt các tri thức quản lý, năng lực ngày
càng bị mai một.
Bảy là, thể chế hành chính nhà nước được ban hành chủ yếu xuất
phát từ nhu cầu đảm bảo chức năng thống trị chính trị, thiếu những thể
chế hành chính phục vụ nhu cầu quản lý đời sống kinh tế - xã hội. Nhìn
các đạo luật được ban hành giai đoạn này có thể thấy rất rõ điều đó, chủ yếu
là các luật tổ chức bộ máy nhà nước, luật hình sự, rất ít luật về kinh tế, dân
sự. Trong khi đó những đổi mới từng phần bắt đầu khởi động từ sau Hội
nghị Trung ương sáu khóa IV (9-1979) đã dẫn tới sự định hình "thị trường tự
do" bên cạnh "thị trường có tổ chức", mà lại thiếu thể chế hành chính để
SV: Vũ Thi Huế

20


K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
quản lý. Điều đó dẫn tới những diễn biến tự phát trong hoạt động lưu
thông, phân phối, nhất là móc ngoặc giữa cán bộ đang nắm nguồn hàng
nhà nước với tư thương... gây rối loạn nền kinh tế mà không có khung pháp
lý để ngăn ngừa hoặc xử lý. Do thiếu khung pháp lý cần thiết, nên khi đứng
trước những tình thế bức xúc, Nhà nước buộc phải sử dụng các biện pháp
hành chính để xử lý và lúc đó tất yếu vi phạm quyền con người và "nhiều vụ
rất nghiêm trọng, nhưng chưa được xử lý nghiêm minh, kịp thời" [21, tr. 67].
Tám là, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nền hành chính
nhà nước lạc hậu, chậm được đổi mới, tình trạng bao biện ngày càng
nặng nề.
Sự lẫn lộn giữa Đảng và Nhà nước dẫn đến tình trạng vừa bao
biện làm thay, vừa buông trôi khoán trắng cho Nhà nước làm
cho Nhà nước khó phát huy vai trò chủ động, sáng tạo trong
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, vừa thụ động ỷ lại
vào sự lãnh đạo của cơ quan đảng, vừa lúng túng do dự không
dám nhận trách nhiệm vì các quyết định của mình [21, tr.71].
Đặc thù lãnh đạo của Đảng đối với từng cơ quan lập pháp, hành pháp,
tư pháp; giữa Trung ương và địa phương; giữa vai trò tập thể và chức trách
cá nhân; thẩm quyền, trách nhiệm của từng cơ quan lãnh đạo Đảng đối với
nhiệm vụ lãnh đạo nền hành chính... chưa được làm rõ. Đây là kẽ hở để một
bộ phận đảng viên lạm quyền, đối với những công việc mang tính công vụ
thì buông lỏng, đùn đẩy trách nhiệm, còn đối với những công việc mang
lại tư lợi thì lạm dụng. Càng bao biện chức năng của Nhà nước, thì càng
tạo kẽ hở để cho những đảng viên thoái hóa, biến chất lợi dụng, nhất là
trong điều kiện thiếu khung pháp lý cần thiết để đặt đảng viên hoạt động dưới

pháp luật.
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã
SV: Vũ Thi Huế

21

K35 GDCD


Khóa luận tốt nghiệp
hội, vì vậy Đảng phải thẳng thắn nhận trách nhiệm, thừa nhận khuyết điểm
của mình đối với sự yếu kém của nền hành chính nhà nước. Chính vì vậy,
muốn đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa - con đường mà Đảng và toàn dân tộc đã
lựa chọn - thì Đảng phải từng bước khắc phục những yếu kém, đổi mới nội
dung và phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, tiến hành cải cách bộ máy
nhà nước, trong đó quan trọng là phải biết nắm lấy khâu then chốt có ý nghĩa
quyết định là: cải cách nền hành chính nhà nước bởi tiến hành cải cách
hành chính có hiệu quả sẽ là đòn bẩy cho toàn bộ guồng máy xã hội
chuyển động theo hướng tích cực.
Chín là, sự thay đổi cơ bản trong cơ cấu và đổi mới cơ chế quản lý
kinh tế trong thời gian này cũng đặt ra những yêu cầu phải xây dựng lại cơ
cấu của bộ máy và nền hành chính nhà nước, đặc biệt là thể chế quản lý
kinh tế. Có thể khẳng định rằng quá trình tìm tòi đường lối đổi mới của
Đảng được đánh dấu bằng Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6
(khóa IV) (8/1979) với nghị quyết khuyến khích sản xuất phát triển, "làm
cho sản xuất "bung ra". Cũng chính từ đó, Đảng ta đã dần nhận ra sự hạn
chế của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, từng bước thử nghiệm cơ chế
mới: cơ chế kế hoạch hóa tập trung theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa. Sự đổi mới bước đầu trong cơ chế quản lý kinh tế đòi

hỏi có những cải cách về chức năng và thiết chế hành chính nhằm tạo môi
trường cho hoạt động kinh tế diễn ra đúng hướng.
Mười là, bên cạnh đó, yêu cầu phải nhanh chóng tiến hành đổi
mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nền hành chính
nhà nước cũng xuất phát từ những biến đổi của tình hình thế giới. Sau
chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt là từ sau cuộc "khủng hoảng dầu
mỏ" đầu những năm 70 của thế kỷ XX, một xu thế mới đã diễn ra trên thế
SV: Vũ Thi Huế

22

K35 GDCD


×