Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

đảng bộ huyện hạ hòa lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân pháp 1946 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.41 KB, 60 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ

======***======

PHẠM CÔNG LINH

ĐẢNG BỘ HUYỆN HẠ HÕA (PHÖ THỌ)
LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN KHÁNG CHIẾN
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946-1954)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng

Giáo viên hƣớng dẫn
Trần Thị Chiên

Hà Nội - 2012


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, ngoài sự cố gắng của bản thân, tôi
nhận được sự giúp đỡ của thầy cô và bạn bè.
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo Trần Thị Chiên người đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong trường Đại học Sư
phạm Hà Nội 2. Đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục Chính trị đã
giảng dạy, chỉ bảo tôi trong suốt thời gian qua.
Cảm ơn các bạn sinh viên đã đóng góp ý kiến và ủng hộ tôi hoàn thành
khóa luận này.
Với điều kiện hạn chế về thời gian cũng như kiến thức của bản thân nên
khóa luận khó tránh khỏi những thiếu xót, kính mong được sự đóng góp ý kiến


của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Phạm Công Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề trình bày trong khóa luận là của riêng
tôi, có sự tham khảo ý kiến của những người đi trước, tham khảo các tài liệu
có liên quan, dưới sự hướng dẫn của cô Trần Thị Chiên.
Khóa luận không sao chép từ một tài liệu, một công trình sẵn có.
Nếu sai em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
Sinh viên

Phạm Công Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN HẠ HOÀ ....................................... 10
1.1. Vài nét về huyện Hạ Hoà ................................................................... 10
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ………………………………….6
1.1.2. Dân cư và truyền thống lịch sử ………………………………...….8
1.2. Hạ Hoà sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ............................... 16
Chƣơng 2. ĐẢNG BỘ HUYỆN HẠ HÕA LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU
TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP ........................................................ 20
2.1. Chủ trƣơng kháng chiến chống Pháp ............................................... 20

2.1.1 Hoàn cảnh lịch sử ........................................................................... 20
2.1.2. Chủ trương kháng chiến chống Pháp ............................................ 21
2.2. Đảng bộ huyện Hạ Hoà lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp
...................................................................................................................... 27
2.2.1. Trên mặt trận quân sự .................................................................... 28
2.2.2. Trên mặt trận kinh tế ...................................................................... 31
2.2.3. Trên mặt trận văn hóa, giáo dục .................................................... 35
2.2.4. Công tác Y tế .................................................................................. 38
2.2.5. Trên mặt trận ngoại giao ............................................................... 39
2.2.6. Đảng bộ và nhân dân Hạ Hòa đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng
và tổ chức mặt trận................................................................................... 39
2.2.7. Xây dựng hậu phương trong kháng chiến chống Pháp.................. 43
2.3. Kết quả, ý nghĩa, nguyên nhân thắng lợi và bài học kinh nghiệm. 46
2.3.1. Kết quả, ý nghĩa lịch sử .................................................................. 46
2.3.2. Nguyên nhân thắng lợi ................................................................... 49
2.3.3. Bài học kinh nghiệm ....................................................................... 51
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 59


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hạ Hòa là một huyện miền núi nằm ở phía Bắc tỉnh Phú Thọ, đã từng là
một trong những trung tâm của quốc gia Văn Lang thời các vua Hùng dựng
nước. Hiện nay, ở Hạ Hòa còn lưu danh những tên tuổi mang dấu ấn truyền
thuyết như đền mẫu Âu Cơ (xã Hiền Lương - Hạ Hoà), đầm Ao Châu 99
ngách (thị trấn Hạ Hòa - huyện Hạ Hoà).
Trải qua hàng vạn năm lịch sử, nhân dân Hạ Hòa vốn cần cù trong lao
động, thông minh dũng cảm trong chiến đấu, năng động sáng tạo trong xây
dựng và bảo vệ quê hương, đã viết lên những trang sử hào hùng của mình.

Những trang sử vẻ vang càng đậm nét hơn, rực rỡ hơn khi Đảng bộ huyện Hạ
Hòa ra đời.
Trong cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược
(1946 -1954), Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến toàn
dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực cánh sinh. Trên cơ sở vận dụng quan điểm
của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến tranh nhân dân
trong thời đại mới và truyền thống đánh giặc của tổ tiên, đã đưa cuộc kháng
chiến chống Pháp đi đến thắng lợi vẻ vang. Bằng cách đánh du kích, chiến
tranh nhân dân ở địa phương đã góp phần quan trọng tạo điều kiện cho cuộc
chiến đấu của bộ đội chủ lực giành thắng lợi trên chiến trường.
Huyện Hạ Hòa là địa bàn có vị trí quan trọng, là nơi đã diễn ra nhiều
trận đánh ác liệt giữa ta và địch trong những năm kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược (1946 - 1954). Trong cuộc kháng chiến đó, Đảng bộ huyện Hạ
Hòa đã lãnh đạo nhân dân đứng lên đấu tranh giành thắng lợi.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta vẫn luôn xác định phải huy động sức
mạnh toàn dân, sức mạnh của toàn địa phương để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, nghiên cứu về chiến tranh nhân dân ở địa


phương dưới sự lãnh đạo của một Đảng bộ thực hiện chủ trương của Trung
ương Đảng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là một việc làm có ý
nghĩa về lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Ngày nay, Đảng Bộ huyện Hạ Hoà vẫn xác định xây dựng phát triển
kinh tế và bảo vệ vững chắc địa bàn là nhiệm vụ chiến lược. Nhân dân Hạ Hoà
đang cùng với cả nước ra sức xây dựng phát triển kinh tế, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá góp phần thực hiện mục tiêu chung của đất nước:
“Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,công bằng, văn minh”.
Tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta trong kháng chiến chống thực
dân Pháp nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm phục vụ xây dựng phát triển
kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện là cần thiết. Từ đó, thấy được vai trò của

Đảng bộ và nhân dân Hạ Hòa trong việc vận dụng sáng tạo, linh hoạt đường
lối của Trung ương Đảng vào tình hình cụ thể ở địa phương mình.
Huyện Hạ Hoà - Phú Thọ là quê hương của tôi, nhận thức được sự hy
sinh to lớn của cha anh trong cuộc đấu tranh bảo vệ quê hương, giành độc lập
dân tộc. Qua việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp tôi hiểu nhiều hơn, sâu sắc
hơn về một giai đoạn lịch sử oanh liệt của quê hương, về vai trò lãnh đạo của
Đảng bộ huyện. Từ đó tôi nhận thấy mình phải học tập, rèn luyện để xứng
đáng với truyền thống của quê hương và góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp xây
dựng quê hương mình ngày càng giàu đẹp hơn.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: Đảng bộ huyện Hạ
Hoà (Phú Thọ) lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực dân Pháp (1946
-1954) cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đề tài Đảng bộ huyện Hạ Hoà - Phú Thọ lãnh đạo nhân dân kháng
chiến chống thực dân Pháp (1946 - 1954) là hoàn toàn mới mẻ. Đến thời điểm
này, chưa có một công trình nào nghiên cứu riêng lẻ, sâu rộng và hệ thống về
vấn đề này.


Trong khoa học lịch sử Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về
chiến tranh nhân dân như:
- Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ chính trị tiến hành
(1966), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, thắng lợi và bài học
kinh nghiệm, Nxb Sự thật, Hà Nội.
- Võ Nguyên Giáp (1972), Vị trí chiến lược của chiến tranh nhân dân ở
địa phương và các lực lượng vũ trang địa phương, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội.
- Võ Nguyên Giáp (1975), Sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân
Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Sự thật, Hà nội.
Những cuốn sách trên chỉ nghiên cứu, trình bày chủ yếu về lý luận, trên

một cục diện chung của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Ở địa phương tỉnh Phú thọ đã có những cuốn sách mang tính lịch sử và
cuốn Lịch sử Đảng bộ như:
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (1968), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ tập 1 (1939 - 1968), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Phú Thọ tập 2 (1968 - 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Ban Thường vụ huyện Uỷ Hạ Hoà - Phú Thọ (1999), Lịch sử Đảng bộ
huyện Hạ Hoà (1930-1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội… Tuy nhiên,
những cuốn sách này chưa đi sâu vào một vấn đề cụ thể, mà chỉ lược sử dưới
góc độ nghiên cứu chung.
Như vậy, chưa có một công trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể về sự
lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hạ Hoà trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp (1946 - 1954). Để từ đó rút ra những ý nghĩa lịch sử, bài học kinh
nghiệm nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng quê hương Hạ Hoà và củng cố
thế trận an ninh - quốc phòng ở địa phương. Do đó, đề tài này sẽ làm rõ những
nội dung trên để chúng ta hiểu sâu về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ Hạ Hoà,


tinh thần chiến đấu, hy sinh của quân và dân địa phương, những thành tựu đạt
được trong kháng chiến chống Pháp của nhân dân Hạ Hoà trong sự nghiệp đấu
tranh chung của đất nước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiêm cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện Hạ Hoà, thấy được những
thành tựu của Đảng bộ và nhân dân Hạ Hoà đạt được trong kháng chiến chống
Pháp. Từ đó rút ra những ý nghĩa, bài học kinh nghiệm phục vụ cho công cuộc
xây dựng và phát triển của quê hương Hạ Hoà sau này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tập trung sưu tầm, kiếm tìm những nguồn tư liệu, xử lý tư liệu, hệ

thống hoá nội dung mà đề tài nghiên cứu.
Nhiệm vụ cụ thể:
- Làm rõ vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và dân cư của huyện Hạ Hoà.
- Trình bày sự lãnh đạo của Đảng bộ Hạ Hoà, những thành tựu đạt được
trong kháng chiến chống Pháp của nhân dân Hạ Hoà.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài sẽ tiến hành nghiên cứu những nội dung liên quan đến cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân huyện Hạ Hoà từ năm 1946 đến năm
1954.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
- Những tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp về
chiến tranh nhân dân, chiến tranh du kích.
- Các văn kiện của Đảng, báo cáo chính trị của tỉnh Phú Thọ của huyện
Hạ Hoà qua các thời kỳ.
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, lịch sử Đảng bộ huyện Hạ Hoà, lịch sử
Đảng bộ các xã trên địa bàn huyện.


4.2. Phương pháp nghiên cứu
- Đề tài nghiên cứu dựa trên quan điểm lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời dựa trên phương
pháp luận sử học, phương pháp lôgíc.
- Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp phân tích, phương pháp tổng
hợp, phương pháp hệ thống hoá…
5. Bố cục của khoá luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận thì khoá luận gồm hai chương:
Chương 1. Khái quát về huyện Hạ Hoà
Chương 2. Đảng bộ huyện Hạ Hoà lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946 - 1954)



Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN HẠ HOÀ
1.1. Vài nét về huyện Hạ Hoà
1.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
* Vị trí địa lý
Hạ Hòa thời cổ mang tên là Hạ Hoa. Trong thời kỳ các vua Hùng dựng
nước huyện nằm ở trung tâm quốc gia Văn Lang. Thời Bắc thuộc, Hạ Hòa
thuộc quận Giao Chỉ. Thời Nhà Nguyễn Hạ Hòa thuộc phủ Lâm Thao tỉnh
Sơn Tây. Năm 1893, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định tách Hạ Hòa ra
khỏi chế độ quản của Đạo quan binh thứ 4, nhập trở lại phủ Lâm Thao nhưng
thuộc tỉnh Hưng Hóa. Năm 1903, tỉnh lỵ Hưng Hóa chuyển về làng Phú Thọ
thuộc tổng Phú Yên - Sơn Vi, từ đó Hạ Hòa nằm trong tỉnh Phú Thọ.
Năm 1968, theo Nghị quyết 504 - NQ/TVQH, Hạ Hòa nhập với Thanh
Ba thành huyện Thanh Hòa nằm trong tỉnh mới là Vĩnh Phú (do việc sáp nhập
hai tỉnh Vĩnh Phú và Phú Thọ). Trước khi tái lập tỉnh Phú Thọ (1995), Hạ Hòa
chính thức trở lại đơn vị hành chính cấp huyện với 32 xã và một thị trấn.
Hạ Hoà là một huyện miền núi nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Phú Thọ, phía
Đông Bắc giáp huyện Đoan Hùng (32,15 km), Phía Nam giáp huyện Cẩm Khê
(19,37 km), phía Đông giáp huyện Thanh Ba (19,62 km), phía Tây giáp huyện
Yên Lập (16,48 km), phía Tây Bắc giáp huyện Trấn Yên và huyện Yên Bình,
tỉnh Yên Bái (37,51 km).
Với vị trí địa lý như vậy, tạo điều kiện cho huyện Hạ Hoà đẩy mạnh
chiến tranh nhân dân trong kháng chiến. Đồng thời Hạ Hòa có cơ hội phát
triển kinh tế, xã hội và mở rộng quan hệ với các khu vực lân cận góp phần xây
dựng và bảo vệ quê hương Phú Thọ ngày càng giàu đẹp.
* Điều kiện tự nhiên
- Địa hình



Huyện Hạ Hoà có diện tích tự nhiên là 339,34 km2, bao gồm một Thị
trấn (Thị trấn Hạ Hoà) và 32 xã. Địa hình huyện Hạ Hoà thuộc kiểu lòng chảo,
thoải dần theo hướng Đông Nam, được tạo thành bởi các sườn núi cao về phía
tả ngạn sông Thao. Do vậy, đã tạo ra các loại hình sinh thái khác nhau như:
vùng đất bãi, vùng đồi thấp, vùng núi cao có nhiều hứa hẹn để địa phương
phát triển nông, lâm, ngư nghiệp.
- Khí hậu
Huyện Hạ Hoà nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, mang nhiều nét
đặc trưng của khí hậu miền núi phía Tây Bắc. Nhiệt độ trong năm trung bình
220C đến 24 0C, cao nhất vào mùa hạ là 360C, thấp nhất vào mùa đông dưới
100C. Lượng mưa trung bình trong toàn huyện khoảng 2000 mm. Gió mùa
Đông Bắc ở Hạ Hoà kéo dài từ tháng 12 năm trước đến tháng 3 năm sau, gió
mùa Đông Nam bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11 trong năm. Trong những năm
gần đây, Hạ Hoà xuất hiện bão lốc cục bộ, kèm theo mưa lớn, lũ lụt… Do
huyện Hạ Hoà nằm giữa lòng chảo hai khu vực hồ thuỷ điện lớn đó là: thủy
điện Hoà Bình và thủy điện Thác Bà.
Hạ Hoà có độ ẩm trung bình 80 - 85 % trên năm, trong đó độ ẩm cao
nhất đo được là 96 %, thấp nhất là 60 %.
- Sông ngòi
Chế độ thuỷ văn Hạ Hoà rất phong phú, lưu vực sông Thao (tên gọi
riêng từ biên giới Việt Trung đến Việt Trì của sông Hồng), kéo dài từ Tây Bắc
xuống Đông Nam với chiều dài 33,5 km. Với một hệ thống đầm, hồ, ngòi dày
đặc, thuận tiện cho sinh hoạt, sản xuất, du lịch và nuôi trồng thuỷ sản. Hơn
nữa, Hạ Hoà có thế mạnh về tài nguyên đất (đất phù xa, đất đỏ bazan, đất
chiêm trũng…) và các loại khoáng sản quý (quặng sắt, cao lanh…).
Sông ngòi và hồ đầm phong phú, trữ lượng nước lớn dùng trong việc
cung cấp cho sinh hoạt, sản xuất, vận chuyển, nuôi trồng thuỷ sản và du lịch.
Tuy nhiên, do tốc độ dòng chảy lớn về mùa mưa và luôn luôn thay đổi, lòng



sông bị nâng lên hiện tượng sói lở, ngập úng ngày càng nhiều gây không ít trở
ngại trong sản xuất và sinh hoạt.
- Đất đai
Hạ Hoà có 33.934.41 ha đất tự nhiên, trong đó có đất thổ cư, đất nông
nghiệp, đất chuyên dùng và đất chưa sử dụng. Toàn huyện có 13.822 ha rừng,
chia ra có 2.367 ha rừng tự nhiên và 11.455 ha rừng trồng.
Trong điều kiện lớp phủ rừng nguyên sinh bị phá huỷ và lớp phủ rừng
thứ sinh không có tán lá đủ rộng để ngăn những trận mưa sối xả vào phiến đá,
sườn dốc làm cho lớp đất vụn bị cuốn đi, đôi khi tạo ra những cơn lũ thật khó
lường. Vì vậy, cần có biện pháp để bảo vệ lớp phủ thực vật rừng để ngăn chặn
xói mòn và thiên tai xảy ra.
Thiên nhiên quả đã góp phần ưu đãi cho huyện Hạ Hoà những tài
nguyên đất đai, rừng núi, khí hậu, nguồn nước phong phú và đa dạng. Mỗi
người chúng ta đều có ý thức bảo vệ, giữ gìn vốn quý ấy cho nuôn đời con
cháu mai sau.
1.1.2. Dân cư và truyền thống lịch sử
* Dân cư
Hàng vạn năm trước đây, trên lưu vực sông Thao ở Hạ Hoà con người
đã tập trung cư trú, họ biết tạo ra các công cụ lao động thô sơ, làm lều, lán để
ở bên các đồi gò. Lúc này, tuy gia đình chưa xuất hiện, trồng trọt và chăn nuôi
chưa trở thành nghề, nhưng con người đã biết dùng lửa để làm chín thức ăn.
Chủ nhân của nền văn hoá Sơn Vi (Lâm Thao) trên đất Hạ Hoà để lại nhiều
dấu tích ở các xã: Động Lâm, Ấm Thượng, Lang Sơn, Mai Tùng, Vĩnh
Chân…
Sau những gián đoạn kéo dài, con người đã là chủ nhân của nền văn
minh sông Hồng, các thành viên của nhà nươc Văn Lang - Âu Lạc của Hùng
Vương - An Dương Vương. Nghề nông và thủ công phát triển mạnh, kỹ thuật
đúc đồng đã cung cấp cho những đồ dùng sắc bén.



Người dân Hạ Hoà đa phần là dân bản địa, chủ yếu là dân tộc
Kinh.Cùng với tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, nhân dân Hạ Hoà có
nhiều đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước.
Dân cư ở Hạ Hoà ngày càng đông lên, đầu thế kỷ XX khoảng 1 vạn
người, đến năm 1954 có khoảng 4 vạn người. Hiện tại ở Hạ Hoà có 308 điểm
dân cư, tập hợp thành 210 thôn chiếm diện tích là 2.597.74 ha. Cư dân Hạ Hoà
thuộc loại trẻ, số đang trong độ tuổi lao động cao. Toàn huyện tính đến giữa
năm 1997 có trên 52.000 lao động chiếm trên 50% dân số, trên 90% cư dân
sống bằng nghề nông.
* Truyền thống lịch sử
Trải qua bao biến thiên lịch sử, nhân dân huyện Hạ Hòa - Phú Thọ luôn
nêu cao truyền thống lao động cần cù, sáng tạo. Họ đã tạo ra những nét đặc
sắc trên quê hương mình và được lưu giữ, phát huy cao hơn từ đời này qua đời
khác. Tiêu biểu như truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm, truyền
thống hiếu học, truyền thống văn hóa.
Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại xâm là nét nổi bật trong
những trang sử vẻ vang của Hạ Hoà trong suốt tiến trình lịch sử. Do vị trí địa
lý, huyện Hạ Hòa thường ít nằm trong hướng xâm lược chính của kẻ thù,
nhưng khi có giặc thì nhân dân Hạ Hòa không ngần ngại vùng lên cầm gươm,
ôm súng chiến đấu với bè lũ cướp nước.
Vào đầu công nguyên, đất nước ta dưới ách thống trị của nhà Đông
Hán. Chúng ngày đêm ra sức thống trị, bóc lột của cải của nhân dân, thi hành
những chính sách đồng hóa “sát phu, hiếp phụ” một cách tàn nhẫn. Năm 34,
Tô Định sang thay Tích Quang làm thái thú Giao Chỉ, chúng thực hiện những
chính sách áp bức, bóc lột dã man. Các Lạc tướng bị đè nén, khống chế, ngày
đêm oán hạn chờ ngày vùng lên. Đúng vào thời điểm mùa xuân năm 40 sau
Công nguyên, hai chị em Trưng Trắc, Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa.



Trong đội ngũ đông đảo tướng lĩnh ấy, Hạ Hòa vô cùng tự hào vì đã
đóng góp vào sự nghiệp chung, những gương mặt sáng ngời như hai chị em:
Lê Ả Lan, Lê Anh Tuấn ở xã Văn Lang, Hải Long ở xã Mai Tùng.
Trong cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần II, thực dân Pháp tìm cách đánh bằng
được vùng Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang rộng lớn. Sau đó chúng cố thủ
ở ba huyện Cẩm Khê, Hạ Hòa, Yên Lập. Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn
Quang Bích cùng với nghĩa quân với hơn 70 tay súng tấn công vào Ngòi Lao Hạ Hòa. Cuộc tiến công đã giành thắng lợi, giết nhiều tên địch và bắn thương
viên Tri huyện, làm cho Pháp phải tăng cường lực lượng vào Ngòi Lao và đồn
Khố Xanh ở xã Lang Sơn - Hạ Hòa.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930), lãnh đạo phong trào
cách mạng Việt Nam qua các cao trào đấu tranh. Năm 1940, Nhật vào xâm
lược Đông Dương, Nhật Pháp câu kết với nhau thống trị nhân dân Việt Nam.
Trong bối cảnh ấy, mâu thuẫn dân tộc càng trở nên gay gắt, nhiều đồng chí
hoạt động cách mạng đã hướng về Hạ Hoà để xây dựng cơ sở.
Giữa năm 1943, đồng chí Hoàng Quốc Việt, uỷ viên Ban thường vụ
Trung ương Đảng đã quyết định chọn Khu Vần xã Hiền Lương (Hạ Hoà) để
xây dựng một căn cứ địa cách mạng (Chiến khu Vần), tạo bàn đạp chuẩn bị
khởi nghĩa giành chính quyền.
Cùng với cao trào kháng Nhật cứu nước đang lên cao khắp nơi, Tổng bộ
Việt Minh đã triệu tập Hội nghị quân sự Bắc Kỳ để quyết định những nhiệm
vụ quân sự cần kíp. Hội nghị chủ trương phát động chiến tranh du kích, mở
rộng xây dựng căn cứ địa cách mạng để chuẩn bị khởi nghĩa khi thời cơ đến.
Trong tình hình ấy, tháng 5 năm 1945, tại xã Hiền Lương (Hạ Hoà), trước sự
chứng kiến đông đảo của bà con nhân dân, đội du kích Âu Cơ được thành lập.
Sau đó, đội du kích Âu Cơ được trang bị vũ khí, hang say luyện tập, chuẩn bị
khởi nghĩa.


Cùng với cao trào kháng Nhật cứu nước, Đảng đã chủ trương phá kho
thóc của Nhật để cứu đói, được quần chúng nhân dân ủng hộ. Hưởng ứng chủ

trương ấy, đội du kích Âu Cơ (Hạ Hoà) đã phối hợp với nông dân trong huyện
nổi dậy phá kho thóc của Nhật - Pháp ở Vân Hội thu được hàng trăm tấn thóc
cứu đói cho dân.
Nhận được tin Nhật đem quân từ Yên Bái xuống tấn công vào căn cứ
Vần - Hiền Lương. Đội du kích Âu Cơ đã vạch ra kế hoạch, chuẩn bị hành
quân đến bao vây địch tại nhà Chánh tổng Khánh. Mờ sáng ngày 20 tháng 6
năm 1945, đội du kích đã nổ súng thị uy, quân Nhật hoảng sợ tháo chạy lên
rừng. Ngày 22 tháng 6 năm 1945, Nhật tấn công đội du kích Âu Cơ - Hiền
Lương, đội du kích Âu Cơ do đồng chí Hoàng Quang Minh chỉ huy đã tổ chức
chặn đánh trên đồi Cây Vải (xã Hiền Lương). Từ đây khí thế cách mạng sục
sôi khắp nơi, nhân dân Hạ Hòa chuẩn bị mọi điều kiện để khởi nghĩa.
Đi đôi truyền thống đấu tranh đánh giặc giữ nước, vùng đất Hạ Hoà là
nơi đất thiêng, có phong tục, tập quán và tryền thống văn hoá lâu đời. Truyền
thống hiếu học của nhân dân Hạ Hoà được sử sách nghi nhận và ca ngợi. Lê
quý Đôn đã viết trong sách “Kiến văn tiểu lục”: Một dải sông Thao, dân tục
thuần hậu, biết lễ phép văn tự. Thời Trần ở xã Vụ Cầu (Hạ Hoà) có nhà thơ
Hàn Thuyên - người đầu tiên ở Việt Nam đã đưa đường luật vào thơ nôm.
Tưởng nhớ đến người xưa có công mở đất, tôn thờ Đạo gia tiên vừa là
mỹ tục vừa là tín ngưỡng của người dân Hạ Hoà. Nhân dân ở đây đã xây dựng
đền Mẫu Âu Cơ (Quốc Mẫu) ở xã Hiền Lương - Hạ Hoà và nhiều đình chùa
khác: đền Gò Chén (xã Đan Thượng), đền Chu Hưng (xã Ấm Hạ)… Với các
hội hè, đình đám, các trò chơi dân gian được tổ chức thường xuyên.
Kho tàng tục ngữ, ca dao, phương ngôn và văn nghệ dân gian của nhân
dân Hạ Hoà cũng rất phong phú. Làng chèo ở các xã Vĩnh Chân, Mai Tùng,
Xuân Áng, Minh Côi khá nổi tiến trong vùng. Những xóm làng trù phú, nên
thơ, những rừng cọ đồi chè bên bờ sông Thao đã tạo nguồn cảm hứng sáng


tác. Trong lao động sản xuất, nhân dân còn sáng tạo nên loại hình hát ví
đồi chè:

Lạ lùng ta mới đến đây,
Thấy chè thì hái biết tay ai chồng,
Chề đâu thơm lạ thơm lùng,
Thơm cả người hái, người chồng cũng thơm.
Tôn giáo và tín ngưỡng ở Hạ Hoà cũng đặc sắc: tục lệ thờ cúng tổ tiên,
các vị anh hùng; Phật giáo có mặt ở Hạ Hoà từ thời nhà Trần, đến nay vẫn còn
tồn tại, có nhiều chùa chiền ở các làng xã và nhiều người theo. Thiên chúa
giáo đã du nhập vào Hạ Hoà từ đầu thế kỷ XX, tập trung ở một số xã ven sông
Thao như Nhà thờ đạo Thiên Chúa ở xã Lang Sơn, Minh Hạc, Bằng Giã…
Thiên nhiên, truyền thống lịch sử, văn hoá và con người Hạ Hoà đã hoà
chung với núi sông, dân tộc Việt Nam, cùng tiếp bước đi lên trong sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
1.2. Hạ Hoà sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa được độc lập, nhân dân vô cùng tự hào, phấn khởi, song lại đứng trước
những khó khăn to lớn.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, một loạt các nước ở Trung, Đông Âu
được giải phóng, lập lên chế độ dân chủ nhân dân và từng bước tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội từ một nước Liên Xô đã trở thành hệ thống thế
giới gồm nhiều nước và là chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh và hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ xã hội. Cùng với sự ra đời của hệ thống
xã hội chủ nghĩa thế giới, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở nhiều
nước Châu Á, Châu Âu, Châu Phi phát triển mạnh mẽ. Lúc này chủ nghĩa đế
quốc lâm vào khủng hoảng và ngày càng suy yếu. Hơn nữa, mâu thuẫn giữa
một bên là hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng các lực lượng đấu tranh cho hòa


bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ với một bên là phe đế quốc do Mỹ
cầm đầu nổi lên ngày càng sâu sắc.
Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc Việt Nam bước vào kỷ

nguyên mới - kỷ nguyên độc lập tự do. Nhân dân Việt Nam trở thành người
làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và bước đầu được hưởng những quyền lợi
do cách mạng đem lại. Họ hiểu rõ thiêng liêng của những quyền lợi ấy, một
lòng gắn bó và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây chính là nguồn
sức mạnh vô tận giúp Nhà nước cách mạng còn đang trong thời kỳ trứng nước
vượt qua mọi khó khăn, thử thách.
Nước việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời là một trong những sự kiện
quan trọng nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi,
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà gặp phải vô vàn những khó khăn thử
thách. Chính quyền cách mạng còn non trẻ, lực lượng vũ trang còn yếu, tài
chính trống rỗng, nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm đang đe doạ tới sự tồn
vong của đất nước. Cách mạng lúc này đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi
tóc”. Nhưng thuận lợi là cơ bản, khó khăn chỉ là tạm thời trước mắt. Nhân dân
cả nước cùng nhau đoàn kết, dưới sự lãnh đạo của Đảng nước ta bước sang
thời kỳ mới.
Trong tình hình chung của cả nước, nhân dân Hạ Hoà sau khi giành
được chính quyền cũng gặp rất nhiều khó khăn. Mượn cớ tước vũ khí quân
Nhật, quân Trung Hoa quốc dân Đảng đã theo sông Hồng và đường sắt Lào
Cai - Hà Nội tràn vào địa phận Hạ Hoà, theo sau là bọn Việt Nam quốc dân
đảng nhằm thủ tiêu thành quả cách mạng.
Thêm vào đó, hậu quả nạn đói năm 1945, cùng thiên tai, lũ lụt đã cướp
đi hàng trăm mẫu lúa, hoa màu làm cho đời sống của nhân dân càng thêm khổ
cực. Do tàn dư của chế độ cũ, hơn 90% dân số huyện mù chữ, các tệ nạn xã
hội tràn lan (cờ bạc, ma tuý, nghiện hút, trộm cắp…).


Chính quyền cách mạng huyện Hạ Hoà còn non trẻ, chưa có kinh
nghiệm, còn nhiều lúng túng trong tổ chức và điều hành mọi hoạt động xã hội.
Đội ngũ cán bộ Đảng viên quá ít, lại chưa được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên
môn, nghiệp vụ quản lý. Thực tế, tình hình hết sức khó khăn, phức tạp, đòi hỏi

cán bộ, Đảng viên và nhân dân Hạ Hoà phải vươn lên. Trong bối cảnh đó, hơn
lúc nào hết, yêu cầu đoàn kết toàn dân, tập trung lực lượng, chọn những giải pháp
tối ưu nhất để phát huy những thuận lợi, khắc phục những khó khăn để củng cố
chính quyền, giải quyết nạn đói, nạn dốt và đối phó với giặc ngoại xâm.
Ngày 25 tháng 11 năm 1945, Trung ương Đảng ra chỉ thị “Kháng chiến
kiến quốc” đã chỉ rõ tính chất của cách mạng Đông Dương: “Phải đề phòng
nạn đói cuối năm nay và sang đầu năm, sẽ hết sức trầm trọng ở Miền Bắc
Đông Dương. Ngay lúc này một số khá đông ở đồng bằng Bắc Bộ đã đói rồi.
Công việc cứu đói cũng cần như công việc đánh giặc” [4, tr. 34]. Quán triệt
chỉ thị của Trung ương đảng, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Hạ
Hoà đã xác định nhiệm vụ của địa phương lúc này là ra sức củng cố chính
quyền cách mạng, xây dựng xã hội mới, cuộc sống mới cho nhân dân.
Hưởng ứng lời kêu gọi của chủ tịch Hồ Chí Minh “Tăng gia sản xuất,
tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa” [18, tr. 221]. Chính quyền
huyện Hạ Hoà và các tổ chức đoàn thể đã thi đua sản xuất, thực hành tiết
kiệm. Phong trào bình dân học vụ được phát động sôi nổi trong toàn huyện,
với khẩu hiêụ “đi học là yêu nước”, “đi học là kháng chiến và diệt ngoại
xâm”. Mọi người, mọi nhà đều đi học, tất cả đều thực hiện lời dạy của chủ tịch
Hồ Chí Minh: “Những người biết chữ dạy những người chưa biết chữ, những
người chưa biết chữ gắng học cho biết, vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa
biết chữ thì anh bảo, cha mẹ chưa biết chữ thì con bảo…phụ nữ lại càng phải
học”[19, tr. 397 - 398]. Do thực hiện chỉ thị của Trung ương Đảng và tỉnh uỷ
Phú Thọ, Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời huyện Hạ Hoà đã có chủ


trương chỉ đạo đúng đắn, nên trong một thời gian ngắn, nạn đói bị đẩy lùi,
bước đầu giải quyết nạn mù chữ, củng cố chính quyền và các tổ chức đoàn thể.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Như vậy, nhờ có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội tương
đối đặc thù cùng với truyền thống yêu nước của nhân dân huyện Hạ Hoà.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhân dân Hạ Hoà anh hùng đã giành
được chính quyền, xây dựng và củng cố chính quyền, xây dựng tổ chức Đảng
vững mạnh, giải quyết những khó khăn trước mắt, phát triển kinh tế, xã hội.
Đó là những điều kiện, tiền đề quan trọng để Đảng bộ và nhân dân Hạ Hoà
bước vào một giai đoạn mới với những nhiệm vụ cam go, quyết liệt hơn, cùng
nhân dân cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954).


Chƣơng 2
ĐẢNG BỘ HUYỆN HẠ HÕA LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ĐẤU
TRANH CHỐNG THỰC DÂN PHÁP
2.1. Chủ trƣơng kháng chiến chống Pháp
2.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp nổ súng gây chiến ở Nam
Bộ. Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: ủng hộ cuộc kháng
chiến của đồng bào Nam Bộ. Nhân dân Hạ Hòa đã làm tốt nhiệm vụ, động
viên và đưa tiễn những đoàn quân Nam tiến. Thanh niên Hạ Hòa hăng hái tòng
quân, xung phong vào đội “Nam tiến”. Mặt trận và các Tổ chức đoàn thể đã
vận động hội viên cùng nhân dân ủng hộ tiền của, lương thực thực phẩm,
thuốc men, quân tư trang cho Nam Bộ kháng chiến.
Chính quyền huyện Hạ Hòa đã chỉ đạo nhân dân tổ chức mít tinh, biểu
tình lên án hành động xâm lược của thực dân Pháp và biểu thị ý chí quyết tâm
chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Thời gian này, hội phụ nữ xã Đan Thượng (Hạ Hoà)
đã tổ chức lao động gây quỹ, diễn kịch bán vé lấy tiền góp vào “quỹ Nam Bộ”
đồng thời gửi quyết tâm thư hứa sẵn sàng xung phong đi bộ đội, đi bất cứ nơi
đâu khi tổ quốc cần.
Năm 1946, toàn huyện có hàng trăm thanh niên tình nguyện lên dường
tòng quân (xã Lang Sơn có 48; Y Sơn có 17; Đan Thượng 18...). Nhiều người
con của Hạ Hòa đã có mặt trong đoàn quân Nam tiến, một số đã vĩnh viễn
nằm lại nơi chiến trường cho nền độc lập tự do cuả tổ quốc.

Hưởng ứng phong trào thi đua yêu nước do Đảng, Chính phủ phát động,
chính quyền, nhân dân Hạ Hòa phát huy nỗ lực đóng góp cho công cuộc
kháng chiến, kiến quốc. Phong trào “Tuần lễ vàng”, “Qũy độc lập”, “Qũy vệ
quốc đoàn”, “Quỹ mùa đông binh sỹ”... đây là cuộc vận động lớn được tiến
hành sôi nổi, hiệu quả ở huyện Hạ Hòa.


Đầu năm 1946, tình hình ở huyện Hạ Hòa trở nên phức tạp. Tại xã Đan
Thượng, Lang Sơn, Minh Hạc, Văn Lang... hàng trăm quân Trung Hoa quốc
dân Đảng đi bè mảng theo sông Hồng tràn vào quấy nhiễu gây nhiều khó
khăng cho nhân dân địa phương. Quân Tưởng đi ngựa lùng sục vào các gia
đình vơ vét của cải, cướp bóc lương thực, bắt cắt hàng trăm mẫu lúa cho ngựa
ăn... chúng trắng trợn bắt, trói người vô tội. Giặc Tưởng giễu võ gương oai, đi
lại và đe dọa tinh thần của người dân. Đồng thời, chúng dùng tiền quan kim,
quốc tệ làm lũng đoạn thị trường.
Núp dưới bóng quân Tưởng, bọn Việt quốc, Việt cách đứng đầu là tên
Vũ Hồng Khanh điên cồng chống phá cách mạng. Bọn chúng móc ngoặc với
tên việt gian lừa bịp nhân dân bằng mọi cách, phá hoại chiến khu Vần ở Hiền
Lương. Lợi dụng tình thế, tên chủ đồn điền Hạ Dương ở xã Y Sơn (Hạ Hoà)
đã có những hành động chống phá lại chính quyền, bộc lộ bản chất địa chủ
phản động.
Sát cánh cùng nhân dân cả nước, cán bộ, Đảng viên và nhân dân Hạ Hòa
khẩn trương xây dựng lực lượng: bộ đội địa phương và dân quân du kích. Thi
đua sản xuất tiết kiệm chuẩn bị mọi điều kiện bước vào thời kỳ mới: Kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ độc lập, tự do cho nhân dân.
2.1.2. Chủ trương kháng chiến chống Pháp
Sau Hiệp định Sơ Bộ (6/3/1946) và Tạm ước (14/9/1946), thực dân
Pháp bội ước. Pháp cho quân khiêu khích ở Lạng sơn, Hải Phòng, tàn sát nhân
dân ta ở Hà Nội. Pháp còn gửi tối hậu thư đòi ta phải giải tán lực lượng, trao
quyền kiểm soát thủ đô cho chúng. Trước tình thế đó, Đảng, Chính phủ và chủ

tịch Hồ Chí Minh đã quyết định phát động cả nước kháng chiến.
Ngày 12/12/1946, Ban thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị “Toàn
dân kháng chiến”. Chỉ thị đã nêu rõ mục đích, tính chất, chương trình kháng
chiến. Những nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến đã được nêu cô
đọng trong văn kiện lịch sử này. Tuy chưa hoàn chỉnh nhưng những nội dung


đó là vấn để thiết yếu, cơ bản nhất để lãnh đạo thống nhất toàn dân, toàn quân
ta trong kháng chiến chống Pháp.
Hội nghị Ban thường vụ Trung ương Đảng mở rộng họp từ ngày 18 đến
19/12/1946, tại làng Vạn Phúc Thị xã Hà Đông đã phát động cả nước kháng
chiến. Đêm 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí Minh ra “lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến”, khẳng định thiện chí hòa bình, quyết tâm kháng chiến và niềm tin tất
thắng của nhân dân ta. Đồng thời lời kêu gọi “toàn quốc kháng chiến” đã nêu
lên tư tưởng cơ bản của đường lối chiến tranh nhân dân. Nhân dân cả nước
đứng lên theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch:
Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng
chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng
quyết tâm cướp nước ta lần nữa !
Không! Chúng ta hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất
nước, nhất định không chịu làm nô lệ…
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên
đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm
dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân Pháp cứu nước…
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ
gìn đất nước.

Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy
sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta [12, tr. 480].
Tháng 3/1947, tổng Bí thư Đảng Trường Chinh đã viết cuốn “Kháng
chiến nhất định thắng lợi”. Đây là văn kiện quan trọng góp phần giáo dục


quân và dân ta bước vào cuộc kháng chiến thắng lợi và phân tích một cách
khoa học đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện...
Như vậy, đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng ta được hoàn
chỉnh và thể hiện tập trung trong ba văn kiện lớn được soạn thảo và công bố
ngay trước và sau ngày cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Đó là văn kiện
Toàn dân kháng chiến của Trung ương Đảng (12/12/1946), Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946) và tác phẩm Kháng chiến
nhất định thắng lợi của Trường Chinh.
Nội dung đường lối:
Mục đích kháng chiến: Kế tục và phát triển sự nghiệp Cách mạng
Tháng Tám, “Đánh phản động thực dân Pháp xâm lược; giành thống nhất và
độc lập” [9, tr. 150].
Tính chất kháng chiến: “Cuộc kháng chiến của dân tộc ta là một cuộc
chiến tranh cách mạng của nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Nó có tính
chất toàn dân, toàn diện và lâu dài”. “Là một cuộc chiến tranh tiến bộ vì tự
do,độc lập, dân chủ và hòa bình”[17, tr. 31]. Đó là cuộc kháng chiến có tính
chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
Chính sách kháng chiến: “Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động
thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hòa
bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân. Thực hiện toàn dân kháng chiến… Phải tự
cấp, tự túc về mọi mặt”.
Chương trình và nhiệm vụ kháng chiến “Đoàn kết toàn dân. Thực hiện
quân, chính, dân nhất trí… Động viên nhân lực, vật lực, tài lực, thực hiện toàn
dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến, trường kỳ kháng chiến… Giành

quyền độc lập, bảo toàn lãnh thổ, thống nhất Trung, Nam, Bắc. Củng cố chế
độ Cộng hòa Dân chủ… Tăng gia sản suất, thực hiện kinh tế tự túc”.


Phương châm tiến hành kháng chiến: Tiến hành cuộc chiến tranh nhân
dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình
là chính.
Kháng chiến toàn dân: “Bất kỳ đàn ông đàn bà không chia tôn giáo,
đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân pháp”, thực hiện mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi
làng xóm là một pháo đài.
Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt: chính trị, quân sự, kinh
tế, văn hóa, ngoại giao. Trong đó:
Về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng,
chính quyền, các đoàn thể nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc
yêu chuộng tự do hòa bình.
Về quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, tiêu diệt địch, giải phóng
nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh
chính quy, là “triệt để dùng du kích, vận động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng
chiến lâu dài… Vừa đánh vừa võ trang thêm; vừa đánh vừa đào tạo thêm
cán bộ”.
Về kinh tế: Tiêu thổ kháng chiến, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp, tập
trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công ghiệp
quốc phòng.
Về văn hóa: Xóa bỏ văn hóa thực dân phong kiến, xây dựng văn hóa
dân chủ mới theo ba nguyên tắc: Dân tộc, khoa học, đại chúng.
Về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. “Liên
hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp”, sẵn sàng đàm phán
nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưa đánh nhanh thắng nhanh của

pháp, để có thời gian phát huy yếu tố “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” của ta,


chuyển hóa tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn
địch, đánh thắng địch.
Dựa vào sức mình là chính: “Phải tự túc, tự cấp về mọi mặt”, vì ta bị
bao vây bốn phía, chưa được nước nào giúp đỡ nên phải tự lực cánh sinh. Khi
nào có điều kiện ta sẽ tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, song lúc đó cũng
không được ỷ lại.
Đường lối kháng chiến của Đảng với nội dung cơ bản như trên là đúng
đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các
nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp
với hoàn cảnh thực tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch, căn cứ vào đường lối kháng
chiến của Trung ương, Đảng bộ tỉnh Phú Thọ đã vạch ra phương hướng,
nhiệm vụ của cuộc kháng chiến, trước mắt là vừa xây dựng lực lượng vừa sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ địa phương. Trong đó, chú ý đến lực lượng chính trị,
củng cố và phát triển chính quyền các cấp, củng cố tổ chức đoàn thể, tăng
cường khối đại đoàn kết toàn dân. Cần ra sức xây dựng lực lượng vũ trang,
bao gồm dân quân du kích, du kích tập trung ở cấp huyện và tỉnh.
Trước tình hình đó, Đảng bộ huyện Hạ Hòa đề ra phương hướng lãnh
đạo nhân dân đoàn kết giữ vững chính quyền cách mạng. Tại các cơ sở, cán bộ
và nhân dân đã kịp thời di chuyển trụ sở, ủy ban và các đoàn thể về nơi an
toàn. Những cuộc họp lớn được tổ chức ở những địa điểm xa, được canh gác
cẩn mật. Đối với bọn Trung Hoa dân quốc, chính quyền vận động nhân dân
mềm dẻo, tránh xảy ra xô xát, phòng ngừa mọi sự khiêu khích của chúng; đối
với bọn phản động thì kiên quyết trừng trị và vạch trần âm mưu.
Theo chủ trương chung của Trung ương Đảng, cuối năm 1946, huyện
Hạ Hòa thành lập Ủy ban kháng chiến cùng song song tồn tại với hệ thống Ủy
ban hành chính. Đến cuối 1947, đã tiến hành sát nhập Ủy ban kháng chiến và

Ủy ban hành chính thành Ủy ban kháng chiến huyện để phù hợp với tiến trình


×