Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo quá trình hội nhập châu á thái bình dương thời kỳ đổi mới 1986 2002

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (610.56 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ, giới hạn của đề tài .................................................... 2
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................ 3
5. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 3
6. Bố cục ....................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ
NƯỚC TRONG KHU VỰC- CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG ............. 4
1.1. VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA KHU VỰC CHÂU Á THÁI BÌNH
DƯƠNG VỚI CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ ....................................................... 4
1.1.1. Khái quát khu vực Châu Á- Thái bình Dương ..................................... 4
1.1.2. Vị trí và vai trò của khu vực Châu Á- Thái bình Dương với cộng
đồng quốc tế ................................................................................................... 6
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRONG
KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG TRƯỚC NĂM 1986 .............. 8
1.2.1. Với Trung Quốc ................................................................................... 8
1.2.2. Với Hoa Kỳ .......................................................................................... 9
1.2.3. Với Nhật Bản...................................................................................... 10
1.2.4. Với các nước Đông Nam Á ................................................................ 12
1.2.5. Với Ôxtrâylia...................................................................................... 15
Tiểu kết chương 1 ........................................................................................ 16
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP CHÂU Á - THÁI BÌNH
DƯƠNG THEO ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ... 17
2.1. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ..... 17


2.1.1. Bối cảnh lịch sử và xu thế toàn cầu hóa .............................................. 17
2.1.2. Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (có với khu
vực Châu Á- Thái bình Dương) .................................................................... 18


2.2. QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH
DƯƠNG ....................................................................................................... 25
2.2.1. Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc .......................................... 25
2.2.2. Bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ................................................. 29
2.2.3. Khai thông, mở rộng quan hệ Việt Nam –Nhật Bản............................ 35
2.2.4. Hội nhập ASEAN ............................................................................... 39
2.2.5. Thiết lập quan hệ Việt Nam - APEC ................................................... 44
2.3. Thành tựu, thách thức và kinh nghiệm ................................................... 48
2.2.1. Thành tựu ........................................................................................... 48
2.3.2. Thách thức .......................................................................................... 50
2.3.3. Kinh nghiệm ....................................................................................... 53
Tiểu kết chương 2 ........................................................................................ 57
KẾT LUẬN ................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 60


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo quá trình hội nhập châu Á - Thái Bình Dương thời kỳ đổi mới (1986 2002)”. Em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới Tiến sĩ Khuất Thị
Hoa - Người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.
Em xin bày tỏ lòng cảm ơn tới các thầy, cô trong trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2; đặc biệt là các thầy cô trong khoa Lịch sử đã giúp đỡ em
trong suốt thời gian qua.
Em cũng xin bày tỏ lời cảm ơn tới gia đình cũng như bạn bè đã tạo điều
kiện và giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành khóa luận.
Trong quá trình nghiên cứu, với điều kiện hạn chế về thời gian cũng
như kiến thức của bản thân nên khóa luận khó tránh khỏi những thiếu sót.
Kính mong sự chỉ bảo của các thầy cô cũng như các bạn sinh viên.

Hà Nội, Tháng 5 năm 2013

Sinh viên

Trần Thị Ngân


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan với đề tài: “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá
trình hội nhập châu Á - Thái Bình Dương thời kỳ đổi mới (1986 - 2002)”
là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dựa trên những kiến thức đã được học
trong chuyên ngành Lịch sử Đảng và các tài liệu tham khảo, đặc biệt dưới sự
giúp đỡ của Tiến sĩ Khuất Thị Hoa. Kết quả này không trùng với kết quả của
bất cứ tác giả nào khác. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Hà Nội, Tháng 5 năm 2013
Sinh viên
Trần Thị Ngân


THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

NAFTA

: Hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ

ANZERTA

: Hiệp định mậu dịch tự do Ôxtrâylia – Niu Dilân (ANZERTA)

APEC


: Tổ chức hợp tác thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương

AFTA

: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN

DCND

: Dân Chủ Nhân Dân

DCCH

: Dân Chủ Cộng Hòa

ĐH

: Đại hội

GNP

: Tổng sản phẩm quốc dân

G7

: Các nước công nghiệp phát triển

HNBCHTW

: Hội nghị Ban Chấp Hành trung ương


IMF

: Quỹ tiền tệ quốc tế

NQTW

: Nghị quyết trung ương

NIC

: Nước công nghiệp mới

OSS

: Cơ quan tình báo chiến lược Hoa Kỳ

SEATO

: Hiệp ước quân sự Đông Nam Á

POW/MIA

: Tù binh chiến tranh và người mất tích trong chiến tranh

EU

: Liên minh Châu Âu

WTO


: Tổ chức thương mại thế giới


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Vào cuối thế kỷ XX, trước sự biến động to lớn và toàn diện của thế
giới, đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã kịp
thời điều chỉnh chiến lược đối ngoại, sáng suốt đề ra đường lối, chủ trương
phù hợp với tình hình, phát triển mạnh mẽ quan hệ hữu nghị, hợp tác với các
nước, tham gia tích cực đời sống quốc tế. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX của Đảng đã đánh giá cao hoạt động đối ngoại thời kỳ đổi mới là đã “phá
được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế”. Một thành công lớn của hoạt động đối ngoại thời
kỳ này là quá trình hội nhập khu vực Châu Á – Thái Bình Dương thông qua
việc bình thường hóa và thiết lập quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước,
tham gia tổ chức ASEAN (7/1995), trở thành thành viên của tổ chức APEC (
tháng 11/1998), góp phần tạo môi trường khu vực hòa bình, thuận lợi và tranh
thủ các nguồn lực bên ngoài, hiện đại hóa đất nước.
Thành công của quá trình hội nhập khu vực đã khẳng định sự đúng đắn
của đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng được đề ra từ đại hội Đảng lần
thứ VI, đồng thời là những kinh nghiệm quý báu, cơ sở quan trọng cho việc
hoạch định các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và nhà nước trong
thời gian tới.
Việc nghiên cứu quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế nói
chung, hội nhập khu vực Châu Á – Thái Bình Dương nói riêng theo đường lối
đổi mới của Đảng là rất cần thiết, vừa mang ý nghĩa khoa học, vừa có giá trị
thực tiễn sâu sắc, nhất là trong thời điểm hiện nay, khi Việt Nam đang phấn
đấu để tiếp tục hội nhập nền kinh tế quốc tế. Đồng thời, từ thực tiễn quá trình
đó, rút ra một vài kinh nghiệm có ý nghĩa tham khảo cho công tác đối ngoại


1


trong thời gian tới. Đề tài còn là nguồn tư liệu quý , bổ ích trong quá trình
giảng dạy, học tập lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì những lý do trên tôi quyết định chọn vấn đề : “Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo quá trình hội nhập Châu Á – Thái Bình Dương thời kỳ đổi
mới(1986 - 2002)”, làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân ngành lịch sử của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Liên quan đến vấn đề nghiên cứu có một số công trình như sau:
Nguyễn Hữu Cát, "Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với các nước lướn
trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, tạp chí Cộng Sản, 1977, tr.56 - 59
Hồ Châu, Nguyễn Hoàng Giáp: “Cục diện mới ở Châu Á - Thái Bình
Dương và sự lựa chọn - điều chỉnh chính sách kinh tế của một số nước lớn trong
khu vực hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 5, tháng 3/1995, tr. 16 - 22.
Võ Hùng Dũng, "Ngoại thương Việt Nam từ 1991 - 2000 những thành tựu
và suy nghĩ", Tạp chí nghiên cứu kinh tế, tháng 10/2002
Lê Thu Hằng “APEC: một số vấn đề cơ bản”, Kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương, số 3, tháng 9/1998, tr. 55 - 61.
Vũ Khoan: Châu Á Thái Bình Dương - một hướng lớn trong chính sách
đối ngoại của nhà nước ta”, tạp chí Cộng sản, tháng 7/1993, tr. 35 - 37…
Lê Văn Sang, "Việt Nam gia nhập APEC: Những lợi ích có thể dành
được và những khó khăn phải vượt qua", tạp chí kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương, số 3, tháng 9/1998, tr.3 - 12.
Chủ yếu các tác giả trên đề cập đến vấn đề kinh tế, việc hội nhập và
phát triển trong quan hệ các nước châu Á - Thái Bình Dương trong giai đoạn
hiện nay và một số định hướng trong việc đề ra quan hệ với các nước thuộc
khu vực .Các tác giả trên đề cập đến việc Việt Nam gia nhập Châu Á - Thái


2


Bình Dương một cách chung chung, chưa có đề tài nào đề cập đến Việt Nam
gia nhập Châu Á - Thái Bình Dương theo đường lối của Đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu trong đề tài: Làm sáng rõ quá trình hội nhập châu
Á- Thái Bình Dương theo đường lối đối ngoại rộng mở của Đảng Cộng sản
Việt Nam (1986-2002), từ đó rút ra một vài kinh nghiệm.
Xác định nhiệm vụ của đề tài: Trình bày có hệ thống quan điểm, quá
trình lãnh đạo và hiệu quả chiến lược trên lĩnh vực đối ngoại với các nước
trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương của Đảng giai đoạn 1986-2002,
đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: Thời kỳ đổi mới giai đoạn 1986-2002
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tài liệu
Nguồn tư liệu được sử dụng chủ yếu trong khóa luận bao gồm:
- Các văn kiện của Đảng, Nghị quyết Hội nghị BCH TƯ, các nghị
quyết, chỉ thị của Trung ương Đảng.
- Các văn kiện của Nhà nước như Hiến Pháp, Pháp lệnh, các nghị
quyết, chỉ thị, nghị định, quyết định của chính phủ. Các tài liệu về tổ chức
Châu Á - Thái Bình Dương có đề cập tới Việt Nam gia nhập tổ chức. Những
văn kiện của Đảng về chính sách, đường lối hội nhập khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương
- Một số sách, báo, tạp chí trong và ngoài nước đã xuất bản.
- Các công trình khoa học nghiên cứu về châu Á - Thái Bình Dương.
Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu đề tài này, người viết đã sử dụng phương pháp
luận sử học của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp


3


phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên cạnh đó còn sử dụng các
phương pháp khác như : so sánh, đối chiếu, thống kê, tổng hợp, phân tích..
5. Đóng góp của khóa luận
Làm sáng rõ quá trình hội nhập châu Á- Thái Bình Dương theo đường
lối đối ngoại rộng mở của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986-2002), từ đó rút ra
một vài kinh nghiệm. Qua đó thấy được vai trò và tầm quan trọng của Đảng
khi lãnh đạo Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới,
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Nó góp phần đưa Việt
Nam hòa nhập vào nề kinh tế thế giới, sánh ngang với các nước trên trường
quốc tế.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được
chia làm 2 chương:
Chương 1 ; Mối quan hệ giữa Việt Nam với một số nước trong khu vực
Châu Á – Thái Bình Dương
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quá trình hội nhập Châu
Á – Thái Bình Dương (1986-2002)

4


Chương 1.
MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC
TRONG KHU VỰC CHÂU Á- THÁI BÌNH DƯƠNG
TRƯỚC NĂM 1986
1.1. VỊ TRÍ VÀ VAI TRÒ CỦA KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH

DƯƠNG VỚI CỘNG ĐỒNG QUỐC TẾ
1.1.1. Khái quát về khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
Thuật ngữ Châu Á - Thái Bình Dương mới được sử dụng rộng rãi từ
chiến tranh thế giới thứ hai, để chỉ một khu vực bao gồm các nước thuộc vành
đai Thái Bình Dương.
Trên thực tế, khái niệm Châu Á - Thái Bình Dương gắn liền với những
biến động về kinh tế, chính trị, nên có phạm vi rộng, hẹp khác nhau tùy theo
góc độ xem xét trên lĩnh vực địa - tự nhiên, địa - kinh tế hay địa - chính trị.
Theo đó chúng ta có thể hiểu khái niệm Châu Á - Thái Bình Dương bao gồm
các quốc gia và vùng lãnh thổ thuộc vùng vành đai và vùng lòng chảo Thái
Bình Dương là hợp lý. Với cách hiểu như vậy, có thể xác định khu vực này
bao gồm một số quốc gia và vùng lãnh thổ như : Đài Loan, Hàn Quốc, Hoa

5


Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam, Xingapo, Oxtraylia, Liên
Bang Nga, Niu Dilan, Indonexia..
Về địa lý: Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực rộng lớn với Thái
Bình Dương có tiềm năng lớn về khoáng sản và hải sản, đặc biệt là về dầu mỏ
và khí đốt; có trên một nghìn loài cá, có các ngư trường nước nóng (chiếm
một nửa ngư trường nước nóng thế giới). Đây là khu vực đa dạng về địa lý,
diện tích dân số và các điều kiện tự nhiên khác.
Về văn hóa: Châu Á - Thái Bình Dương có một số quốc gia thuộc khu
vực Châu Á nằm trong vành đai Thái Bình Dương, thời cổ đại chịu sâu sắc
của các nền văn minh lớn như: Trung Hoa, Ấn Độ…Nơi đây sớm có các tôn
giáo lớn : Đạo Phật, Đạo Ấn Độ sau đó là đạo Hồi, Đạo Thiên Chúa và các
tôn giáo đó đã trở thành quốc giáo ở một số nước như: Thái Lan(đạo Phật);
Brulay (đạo Hồi); Philippin (đạo Thiên Chúa). Sự tác động của các tôn giáo
đã ghi dấu ấn sâu đậm trong đời sống dân cư , góp phần tạo nên sự thống nhất

trong đa dạng về văn hóa khu vực.
Về lịch sử: vào thời cận đại, phần lớn các quốc gia trong khu vực bị tư
bản các nước Châu Âu xâm lược. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ và nhiều quốc gia độc lập ra
đời.
Về thể chế chính trị: Trong khu vực có nhóm nước xã hội chủ nghĩa
như: Việt Nam, Trung Quốc và nhóm nước tư bản chủ nghĩa như: Mỹ,
Canada, Ôxtrâylia và nhóm các quốc gia độc lập…
Về kinh tế : trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia khu vực châu
Á – Thái Bình Dương hết sức đa dạng. Có những nước công nghiệp phát triển
hàng đầu thế giới như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada; các nước và vùng lãnh thổ
công nghiệp mới như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo; những
nước đang trong quá trình công nghiệp hóa như: Indonexia, Malaixia, Thái

6


Lan, Philippin, Trung Quốc và những nước có trình độ phát triển thấp hơn
như ba nước ở Đông Dương, Mianma..bởi vậy GDP( tổng sản phẩm quốc nội)
bình quân đầu người của các quốc gia là khác nhau.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Châu Á - Thái Bình Dương là nơi hội tụ
những mâu thuẫn lớn của thế giới, là khu vực nóng bỏng và xung đột vũ trang
kéo dài. Bước vào thập niên 80 của thế kỷ XX, khu vực châu Á - Thái Bình
Dương đi dần vào trạng thái hòa bình, ổn định, được dư luận thế giới coi là
khu vực yên tĩnh, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, xu thế hợp tác trong khu
vực ngày càng phát triển. Trên cơ sở đó vai trò, vị trí của khu vực Châu Á Thái Bình Dương ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Sự đa dạng về địa lý, dân tộc, tôn giáo, văn hóa, sự khác nhau về lịch
sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế giữa các quốc gia trong khu
vực châu Á - Thái Bình Dương là cơ sở để các nước hoạch định chính sách
đối ngoại thích hợp nhằm bảo đảm hiệu quả cho tiến trình hợp tác kinh tế,

giao lưu văn hóa, xã hội khu vực.
1.1.2. Vị trí và vai trò của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với cộng
đồng quốc tế
Châu Á - Thái Bình Dương là một thực thể đa dạng, bao gồm những
nước phát triển; các nước trong khối NIC (nước công nghiệp mới) như Mỹ,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc; có 2 trung tâm kinh tế thế giới. Có các nền
kinh tế ở Đông Á, Đông Nam Á phát triển năng động nhất thế giới. Có Trung
Quốc là nước đông dân nhất thế giới với tiềm lực kinh tế lớn và tốc độ tăng
trưởng kinh tế liên tục cao trong nhiều năm. Ngoài ra có ba cơ chế thương
mại khu vực và tiểu khu vực là: hiệp định thương mại tự do Bắc Mỹ
(NAFTA); khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và Hiệp định mậu dịch
tự do Ôxtrâylia - Niu Dilân (ANZERTA)

7


Tổ chức APEC (tổ chức hợp tác thuộc khu vực châu Á - Thái Bình
Dương) chiếm 56% GDP và hơn 46% kim ngạch buôn bán hàng hóa thế giới.
Theo đánh giá của Tạp chí The Economist (Anh) tốc độ tăng trưởng kinh tế
của các nước APEC năm 2000 trên 5,5 %. Theo một số dự báo, đến năm 2020
các nước APEC sẽ chiếm khoảng 2/3 sản xuất thế giới…Trong APEC có ba
nguồn đầu tư quan trọng nhất thế giới là Mỹ, Nhật, Trung Quốc.
Lượng dự trữ đầu tư nước ngoài hướng nội của APEC năm 1980 là 193
tỷ USD, đến năm 1992 tăng lên 892 tỷ USD, chiếm khoảng 38% và 4,5 %
lượng dự trữ toàn cầu. Lượng dực trữ đầu tư trực tiếp nước ngoài của APEC
vào các nước năm 1980 là 283,3 tỷ USD, tăng lên 911 tỷ USD năm 1992. Hoa
Kỳ là nước đầu tư nhiều nhất trong khối APEC và cũng là nước đầu tư lớn
nhất trên thế giới.
Một số thành viên của APEC như Hoa Kỳ, Nhật, ASEAN..là những
chủ đầu tư và là bạn hàng quan trọng của liên minh Châu Âu (EU) - một trung

tâm thương mại lớn của thế giới.
Trong khu vực có một số nước giữ vai trò trụ cột ở các tổ chức kinh tế
quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế - IMF ( Mỹ chiếm 18,38% cổ phiếu, sau đó
đến Nhật; 5.7 %, do đó tiếng nói của Hoa Kỳ coi trọng lượng nhất). Bốn trong
số tám thành viên của tổ chức các nước công nghiệp phát triển G7, ba trong
số năm nước thường trực của Hội đồng bảo an Liên Hợp Quốc là các nước
Châu Á - Thái Bình Dương.
Mặt khác, châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có tiềm lực quốc
phòng và lực lượng vũ trang mạnh nhất thế giới. Theo các nhà nghiên cứu thì
sáu trong bảy cường quốc vũ trang lớn nhất ở khu vực là nước thuộc APEC
như : Mỹ, Nga, Trung Quốc, Việt Nam, cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên, Hàn Quốc; “Nhật Bản là một trong những nước có ngân sách quốc

8


phòng lớn nhất thế giới, với gần 1% tổng sản phẩm quốc dân (GNP) khổng lồ
được chi cho quốc phòng.
Vì những lý do trên mà ngay từ đầu thế kỷ XX đã có nhiều ý kiến dự
báo cho rằng “Châu Á - Thái Bình Dương sẽ trở thành trung tâm thế giới”.
Cựu tổng thống Hoa Kỳ Reagan trong lời phát biểu ngày 8/2/1985 nói: “Châu
Á - Thái Bình Dương là tương lai của thế giới”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong bối cảnh quốc tế còn tồn tại nhiều yếu
tố bất ổn như tranh chấp, xung đột sắc tộc, tôn giáo và chiến tranh cục bộ, thì
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương với tiềm lực kinh tế, chính trị, quân sự to
lớn của mình đã và đang có vị trí, vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế,
chính trị và an ninh thế giới.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA VIỆT NAM VỚI MỘT SỐ NƯỚC TRONG
KHU VỰC CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG TRƯỚC NĂM 1986
1.2.1. Với Trung Quốc

Trung Quốc là nước láng giềng lâu đời của Việt Nam, có vai trò là một
nước lớn trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và có tầm ảnh hưởng về
kinh tế chính trị, văn hoá xã hội rất lớn. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là
một trong những mối quan hệ địa chính trị lâu đời nhất trên thế giới còn tồn
tại đến ngày nay và là chủ đề nóng bỏng trong mấy nghìn năm lịch sử của
Việt Nam, cho dù thời đại nào đều mang tính thời sự. Là hai nước láng giềng,
chung biên giới trên bộ và trên biển, lại có quá trình gắn bó tương tác về văn
hóa lịch sử, cũng như các cuộc chiến tranh qua lại giữa hai nước, đã làm cho
Quan hệ Việt Trung trở nên vô cùng phức tạp và nhạy cảm.
Ngày 1/10/1949, Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
DCND (Dân Chủ Nhân Dân) Trung Hoa ra đời. Việc Chính phủ Cộng hòa
DCND Trung Hoa và Việt Nam DCCH (Dân Chủ Cộng Hòa) tuyên bố công
nhận và đặt quan hệ ngoại giao với nhau là sự kiện lịch sử có ý nghĩa to lớn

9


đối với cách mạng hai nước. Kể từ đó cách mạng Việt Nam phá được thế bị
bao vây và tiếp nhận sự giúp đỡ to lớn của cách mạng Trung quốc đặc biệt là
trong 2 cuộc chiến tranh giữ nước (1945-1975).
Mặc dù với quan điểm tiến bộ, các nhà lãnh đạo của Đảng và nhà nước
Trung Quốc đã nhiều lần khẳng định phía Trung Quốc không coi viện trợ là
việc giúp đỡ của một bên, mà là viện trợ lẫn nhau. Chủ tịch Mao Trạch Đông
từng nói: Nhân dân Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc phải cảm ơn
nhân dân Việt Nam đã đánh thắng đế quốc Mỹ. Thủ tướng Chu Ân Lai cũng
từng nói: Nhân dân Việt Nam kháng chiến, đổ máu hy sinh trên tuyến đầu
chống Mỹ, đó là sự chi viện mạnh mẽ biết bao đối với nhân dân Trung Quốc
đang tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa…nhưng trên thực tế, quan hệ giữa
Việt Nam và Trung Quốc luôn có những biến động phức tạp, lúc thăng lúc
trầm làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai nước, đặc biệt là từ cuối 1975

đến cuối thập niên 80 của thế kỷ trước. Tuy nhiên, trong bối cảnh lịch sử thế
giới hiện đại, mối quan hệ giữa hai nước ngày càng được tăng cường cải
thiện.
1.2.2. Với Hoa Kỳ
Nhận thức sâu sắc Hoa Kỳ là một cường quốc rộng lớn với tiềm lực
kinh tế lớn nhất thế giới và là nước đồng minh chống chủ nghĩa phát xít, ngay
trong chiến tranh thế giới thứ II, Hồ Chí Minh đã cố gắng đặt quan hệ với Hoa
Kỳ và đã có những hiệu quả đáng kể. Sự giúp đỡ của OSS (Cơ quan tình báo
chiến lược) với cách mạng Việt Nam là một ví dụ. Ngay sau khi Việt Nam
dân chủ cộng hòa ra đời, với chủ trương thực hiện đường lối ngoại giao thêm
bạn bớt thù nhằm giảm bớt khó khăn cho đất nước, thay mặt Chính phủ, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần liên hệ với phía chính phủ Hoa Kỳ để bày tỏ
quan điểm, lập trường và thiện chí hữu nghị của nhân dân Việt Nam với Hoa
Kỳ và hy vọng nhận được sự giúp đỡ của chính phủ Hoa Kỳ nhằm ngăn chặn

10


hành động xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp. Nhưng với bản chất chống
cộng quyết liệt, chính phủ Hoa Kỳ không những không đáp ứng mà còn ủng
hộ thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam và ngày càng can thiệp sâu
vào cuộc chiến tranh ở Đông Dương, họ tăng cường viện trợ cho thực dân
Pháp trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam và từng bước thế chân xâm lược từ
1954 đến 1975 đối với Việt Nam để cuối cùng chuốc lấy thảm bại.
Tuy thất bại trong chiến tranh xâm lược và phải điều chỉnh chiến lược,
Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chính sách thù địch chống phá công cuộc tái thiết đất
nước của nhân dân Việt Nam: phong tỏa tài sản của Việt Nam ở nước ngoài
(sau 30/4/1975); tuyên bố cấm vận thương mại (ngày 15/5/1975); ba lần phủ
quyết Việt Nam gia nhập Liên Hợp Quốc…Xuất phát từ yêu cầu khách quan
và lợi ích của hai nước, từ năm 1977, Việt Nam và Hoa Kỳ đã có những hoạt

động bước đầu cho tiến trình bình thường hóa quan hệ. Nhưng rất đáng tiếc,
do bản chất chống cộng quyết liệt của Hoa Kỳ nên mọi cố gắng của nhân dân
Việt Nam đều bị từ chối. Đặc biệt là trong bối cảnh Việt Nam ký hiệp ước
hữu nghị và hợp tác với Liên Xô và quan hệ Trung Quốc - Việt Nam ngày
càng căng thẳng, Hoa Kỳ huỷ bỏ ý định bình thường hóa quan hệ với Việt
Nam mà quay sang cấu kết với một số nước trong khu vực, tập hợp lực lượng
bao vây, cấm vận Việt Nam. Theo đó, suốt từ cuối thập niên 70 đến hết thập
niên 80 của thế kỷ trước, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục cùng với các nước phương Tây
và một số nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương cô lập Việt Nam. Quan
hệ Việt Nam - Hoa Kỳ ngày càng trở trở nên căng thẳng. Quan hệ đó đã chi
phối tiêu cực quan điểm của nhiều nước đối với Việt Nam, đặc biệt là các
nước đồng minh của Hoa Kỳ, thân Hoa Kỳ ở Châu Á - Thái Bình Dương.
1.2.3. Với Nhật Bản
Việt Nam và Nhật Bản là hai nước đều nằm trong vùng “ khí hậu gió
mùa” có lịch sử phát triển hàng nghìn năm và cùng thuộc trong vùng nông

11


nghiệp trồng lúa nước của châu Á, có nhiều điểm tương đồng về phong tục,
tập quán, tín ngưỡng tôn giáo, cùng chịu ảnh hưởng dòng văn hoá phương
Đông, đặc biệt là văn hoá Trung Hoa. Vào nửa cuối thế kỷ XIII, cả hai dân
tộc Việt - Nhật đều đã ghi vào lịch sử nhân loại dấu son chói lọi với những
chiến thắng lẫy lừng trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên
Mông. Người Nhật cũng đã đến buôn bán ở Việt Nam từ thế kỷ XIV và cửa
biển Hội An của Quảng Nam đã trở thành thương cảng và phố Nhật (Nihon
Machi) lớn nhất của Việt Nam, đóng vai trò trung tâm buôn bán của Nhật với
Đông Nam Á khi đó. Chiến tranh thế giới thứ II, phát xít Nhật xâm lược Việt
Nam và nhiều nước châu Á khác trong thế chiến thứ hai. Đây là thời kỳ “đen
tối ” nhất trong quan hệ bang giao hai nước.

Sau khi Việt Nam DCCH ra đời, thực hiện hai nguyên tắc đối ngoại:
thêm bạn, bớt thù và biểu dương lực lượng, sãn sàng thiết lập quan hệ ngoại
giao với tất cả các nước trên cở sở tôn trọng quyền bình đẳng và chủ quyền
quốc gia hai bên, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định : “chính phủ Việt Nam
dân chủ cộng hòa sãn sàng buôn bán với Nhật Bản cũng như các nước khác,
trên nguyên tắc bình đẳng hai bên cùng có lợi”. Thực tiễn, quan hệ Việt Nam
và Nhật Bản trong những năm 1945 - 1988 trải qua nhiều bước thăng trầm,
gắn liền với những biến động chính trị xã hội của hai nước và quốc tế, nhất là
thái độ của Nhật trong thời kỳ nhân dân Việt Nam tiến hành kháng chiến
chống Mỹ cứu nước.
Sau chiến thắng mùa xuân 1975, để khắc phục hậu quả nặng nề của
chiến tranh, Việt Nam cần sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế. Đại hội đại biểu
lần thứ IV (12-1976); lần thứ V (3-1982)của Đảng đã chủ trương “thiết lập và
mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác” [13,
tr.50] , trong đó chú trọng hơn nữa việc cải thiện quan hệ với Nhật Bản.

12


Về phía Nhật Bản sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế và việc mở rộng
quan hệ đối ngoại với bên ngoài đã tạo thêm thế và lực mới cho nước này.
Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng là địa bàn mà người Nhật khá
quan tâm trong chiến lược đối ngoại của họ. Ngày 18/8/1977, tại Manila, thủ
tướng Nhật Fukuda đã đọc bài diễn văn về chính sách đối ngoại của Nhật Bản
đối Đông Nam Á mà về sau gọi là học thuyết Fukuda. Theo học thuyết đó,
một trong ba nguyên tắc quan trọng được đề cập là “Nhật sẽ theo đuổi mối
quan hệ có tính chất xây dựng với các nước Đông Dương đặc biệt là Việt
Nam, đồng thời Nhật chủ trương thúc đẩy chung sống hòa bình giữa ASEAN
và các nước Đông Dương...” để giảm bớt sự phụ thuộc vào Mỹ để tăng
cường ảnh hưởng chính trị của mình và coi đó là yếu tố làm hạn chế ảnh

hưởng của sức mạnh Xô Viết [1, tr.153].
Như vậy, sau năm 1975, Việt Nam và Nhật Bản đều tìm thấy lợi ích
của mình trong quan hệ giữa hai nước. Do đó, quan hệ Việt - Nhật ngày càng
được nâng cao. Nhưng nhìn chung quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trước năm
1986 chịu sự chi phối sâu sắc của chiến tranh lạnh, đặc biệt là của Mỹ đối với
Nhật Bản. Vì vậy, quan hệ giữa hai nước còn nhiều hạn chế.
1.2.4. Với các nước Đông Nam Á
Ngay từ khi mới giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam
và nhà nước Việt Nam DCCH đã quan tâm đến quan hệ bang giao với các
nước láng giềng, đặc biệt là các nước thuộc khu vực Đông Nam Á. Năm
1947, trong các bức điện gửi cho các nhà lãnh đạo một số nước khu vực. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nói rõ quan điểm ngoại giao của Việt Nam: “ Việt Nam
chỉ muốn hòa bình và độc lập để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế
giới, trước hết với các dân tộc anh em ở Á Đông và Việt Nam chỉ giữ gìn chủ
quyền, độc lập của mình, chứ không hề xâm phạm đến ai” [12, tr.5,22].

13


Do tác động của hoàn cảnh lịch sử thời kỳ này nên quan hệ giữa Việt
Nam và các nước Đông Nam Á diễn biến phức tạp. Nhìn tổng thể quan hệ
nước ta với các nước Đông Nam Á giai đoạn 1945 - 1967 ở trong tình trạng
lạnh nhạt, đối đầu, thậm chí thù địch, đặc biệt ở một số nước ủng hộ Hoa Kỳ
xâm lược Việt Nam
Năm 1967, tổ chức hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN) ra đời .
Từ đây quan hệ Việt Nam với các nước thành viên ASEAN và tổ chức
ASEAN trở thành mối quan tâm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với
khu vực Đông Nam Á.
Tổ chức ASEAN thành lập vào thời gian cuộc chiến tranh chống Mỹ ở
Việt Nam đang diễn ra căng thẳng. Thái Lan và Philippin - hai thành viên của

ASEAN tham gia SEATO (hiệp ước quân sự Đông Nam Á) trực tiếp ủng hộ
Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam . Vì vậy, ở thời kỳ đầu, Việt Nam
có những nghi ngại nhất định trong quan hệ với các nước ASEAN.
Do biến đổi tình hình thế giới và khu vực vào đầu thập niên 1970, đặc
biệt là sự thất bại nặng nề của Hoa Kỳ ở Việt Nam đã khá rõ ràng, các nước
ASEAN đã điều chỉnh lại chiến lược của mình. Tuyên bố ZOPFAN tháng
11/1971 thể hiện sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của các nước
ASEAN. Trong quan hệ với Việt Nam, tuyên bố này thể hiện thái độ tích cực
bước đầu của các nước ASEAN đối với cuộc chiến tranh xâm lược của Hoa
Kỳ ở Việt Nam. Từ năm 1972, Philippin, Malaixia và Xingapo bắt đầu quan
hệ với Việt Nam về kinh tế, thương mại và ngoại giao. Tháng 3/1973,
Philippin và Thái Lan rút hết quân khỏi Việt Nam.
Từ sau Hiệp định Pari (27/1/1973), đặc biệt là từ tháng 4/1975, miền
Nam được hoàn toàn giải phóng, cuộc chiến tranh Đông Dương kết thúc.
Việt Nam tích cực triển khai chính sách khu vực, tăng cường quan hệ với các
nước thành viên ASEAN bằng một loạt các hoạt động ngoại giao: thiết lập

14


quan hệ ngoại giao với Malaixia (tháng 3/1973). Với Xingapo (1/8/1973), xúc
tiến đàm phán lập quan hệ ngoại giao với Philippin.
Trên cơ sở, hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất khẳng định chính
sách của mình là cùng tồn tại hòa bình với các nước Đông Dương ngày
23/2/1976, tháng 7/1976, Việt Nam công bố “chính sách bốn điểm của Việt
Nam đối với khu vực”, nêu lên những nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng
và phát triển quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á. Tuyên bố này
được một số các quốc gia trong khu vực, tuyên bố hoan nghênh và ủng hộ.
Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao với Idonexia từ năm 1964, đến
tháng 8/1976, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các thành

viên ASEAN.
Đây là thời kỳ quan hệ giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN
có chiều hướng phát triển tốt trên các lĩnh vực. Tuy vây, giữa Việt Nam với
ASEAN vẫn chưa có được sự hiểu biết đầy đủ về nhau và vẫn còn những cản
trở bởi sự ăn cách về chế độ chính trị giữa hai bên. Do đó, đến thời điểm này,
Việt Nam vẫn chưa có quan hệ trực tiếp với tổ chức ASEAN.
Từ năm 1979, xuất hiện vấn đề Campuchia, Quan hệ Việt Nam nói
riêng và các nước Đông Dương nói chung với các nước ASEAN giảm xuống
mức thấp nhất. Song vì lợi ích của khu vực và thế giới. Đảng và nhà nước ta
vẫn chủ động kêu gọi các nước ASEAN “hãy cùng các nước Đông Dương
tiến hành đối thoại và thương lượng để giải quyết những vấn đề trong quan hệ
giữa hai nhóm nước, tiến tới thực hiện một Đông Nam Á hòa bình, ổn định,
hữu nghị và hợp tác” [15, tr.1 - 53]
Tháng 1/1980 đến tháng 8/1986, tại các hội nghị bộ trưởng ngoại giao
các nước Đông Dương, Việt Nam đã đưa ra nhiều đề nghị phía ASEAN đối
thoại để giải quyết vấn đề khu vực.

15


Tại diễn đàn Liên Hợp Quốc, từ năm 1980 đến năm 1985, Việt Nam,
Lào cũng thường xuyên nêu vấn đề “hòa bình, ổn định và cùng hợp tác ở
Đông Nam Á” nhằm thúc đẩy xu hướng đối thoại giữa hai nhóm nước Đông
Dương và ASEAN.
Tiếc rằng, những đề nghị của Việt Nam về đối thoại và hợp tác khu vực
đều không được các nước ASEAN chấp nhận. Các hoạt động của ASEAN
trong quan hệ với Việt Nam ở giai đoạn này chịu ảnh hưởng của vấn đề
Campuchia, quan hệ ASEAN - Việt Nam trở nên lạnh nhạt, trì trệ.
Trong năm 1988, đã diễn ra hai sự kiện quan trọng: không gặp chính
thức JIM 1 (ngày 25 đến ngày 28/7/1988) và chủ trương của thủ tướng Thái

Lan Chatichai: biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường. Đây là
những tín hiệu tích cực tạo cơ sở cho các bước phát triển tiếp theo của quan
hệ Việt Nam - ASEAN trong thời gian tới.
1.2.5. Với Ôxtrâylia
Ôxtrâylia là một trong hai quốc gia lớn và quan trọng của khu vực châu
Đại Dương, là đồng minh của Hoa Kỳ, từ sau chiến tranh thế giới thứ hai,
đường lối đối ngoại của Ôxtrâylia chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan hệ quốc tế
thời kỳ chiến tranh lạnh. Tháng 9/1954, Ôxtrâylia gia nhập tổ chức Hiệp ước
Đông Nam Á (SEATO) trực tiếp chống lại cách mạng Việt Nam.
Thất bại của Mỹ cùng với những biến động mới trên chính trường nước
này, đã xuất hiện những tiến bộ trong quan hệ Ôxtrâylia - Việt Nam. Sự kiện
Ôxtrâylia đặt quan hệ ngoại giao với Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày
26/2/1973 đã đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ hai nước, đồng thời
có ý nghĩa lớn trong quan hệ quốc tế đương thời bởi vì Ôxtrâylia là một trong
những nước tư bản đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ với nước
ta.

16


Quan hệ giữa hai nước được cải thiện tốt trong những năm tiếp theo.
Nhưng khi sự kiện Campuchia bùng nổ, quan hệ giữa Việt Nam và các nước
phương Tây nói chung và Ôxtrâylia nói riêng trở lên phức tạp, ngừng trệ. Có
thể khẳng định rằng “quan hệ Việt Nam - Ôxtrâylia trong hơn bốn năm liền
(1979 -1982)…là thời gian giá lạnh nhất giữa hai nước kể từ khi thiết lập
quan hệ ngoại giao. Bằng việc cắt viện trợ cho Việt Nam và ủng hộ
Campuchia dân chủ, chính phủ của thủ tướng Fraser đã tạo ra những hố ngăn
cách trong quan hệ giữa Việt Nam - Ôxtrâylia. Khi Công đảng quay trở lại
nắm chính quyền tại nước này năm 1983, đã có một số cố gắng trong việc tìm
kiếm giải pháp cho vấn đề Campuchia, quan hệ giữa hai nước bắt đầu ấm lên”

[28, tr.433 - 434].
Tóm lại, cuộc chiến tranh lạnh giữa hai hệ thống chính trị - xã hội thế
giới kéo dài từ giữa thập kỷ 1940 cho đến đầu thập kỷ 1990 đã ảnh hưởng sâu
sắc đến quan hệ quốc tế đương thời và chi phối mạnh mẽ đến chính sách đối
ngoại của các quốc gia - dân tộc, hoặc là đứng về phe tư bản chủ nghĩa hoặc
là đứng về phe xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam là nước xã hội chủ nghĩa. Hai cuộc chiến tranh xâm lược của
nhân dân Việt Nam mang ý nghĩa thời đại sâu sắc - là điểm nóng trong cục
diện chiến tranh lạnh quyết liệt giữa hai hệ thống chính trị, xã hội do Liên Xô
và Mỹ đứng đầu. Phần lớn các nước khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
thuộc phe tư bản chủ nghĩa, vì vậy quan hệ Việt Nam với các nước này từ
năm 1945 đến giữa thập kỷ 1980 diễn biến phức tạp, về cơ bản là đối đầu,
thậm chí thù địch, đặc biệt là khi xảy ra sự kiện Campuchia năm 1979.
Vấn đề giải tỏa tình trạng căng thẳng, đối đầu thù địch giữa Việt Nam
với các nước trong khu vực, tiến tới thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác các
nước là hết sức quan trọng và cấp bách đối với cách mạng nước ta.
Tiểu kết chương 1

17


Có thể thấy sau chiến tranh thế giới thứ hai, mối quan hệ giữa Việt
Nam và các nước trong khu vực Thái Bình Dương, do những lợi ích về chính
trị và những hiểu nhầm giữa các nước trong khu vực đã làm cho tình cảm hữu
nghị giữa các nước trong khu vực trở lên căng thẳng. Mặc dù chính phủ Việt
Nam đã cố gắng để củng cố quan hệ giữa nước ta với Trung Quốc, Nhật, Hoa
Kỳ, các nước Đông Nam Á nhưng trước những biến động của tình hình phức
tạp lúc bấy giờ làm quan hệ giữa nước ta với các nước nói trên vẫn không
được cải thiện là bao.


18


Chương 2
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP CHÂU Á - THÁI BÌNH DƯƠNG THEO
ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1. ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
2.1.1. Bối cảnh lịch sử và xu thế toàn cầu hóa
Từ những năm cuối thập niên 70, đặc biệt là trong những năm đầu 80
của thế kỷ XX, sự tăng trưởng kinh tế liên tục và với nhịp độ cao của châu Á
mà nòng cốt là các nền kinh tế Đông Á đã thu hút sự chú ý của cả thế giới.
Tiếp theo "sự thần kỳ" của Nhật Bản, các nền kinh tế công nghiệp mới,
ASEAN và đặc biệt là sự nổi lên của Trung Quốc đã biến châu Á thành khu
vực phát triển kinh tế năng động bậc nhất thế giới.
Từ những năm 1980, các nước châu Á luôn luôn dẫn đầu thế giới về tốc
độ phát triển kinh tế trong khi kinh tế thế giới bị suy thoái vào đầu những năm
1990. Xuất khẩu thực sự là động lực tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á.
Trong giai đoạn 1980 - 1992, xuất khẩu của các nước châu Á tăng nhanh nhất
thế giới, đạt tốc độ bình quân hàng năm trên 10%, so với 4% của các nước
châu Âu và Mỹ La-tinh và 6% của các nước công nghiệp phát triển vốn chiếm
tới 2/3 thương mại thế giới. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các nước
châu Á tăng mạnh, phần lớn từ Mỹ, Nhật Bản và các nền kinh tế NIE (nền
kinh tế công nghiệp mới). Tiềm lực lớn về xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ và
vốn đầu tư đòi hỏi phải có thị trường ổn định, rộng mở và hạn chế đến mức
tối đa những hàng rào ngăn trở sự lưu chuyển của hàng hoá, dịch vụ, đầu tư
trong khu vực. Do đó, hợp tác và liên kết kinh tế khu vực trở thành nhu cầu
cấp thiết để bảo đảm cho sự phát triển kinh tế cao và ổn định.
Trong khi đó, xu thế toàn cầu hóa phát triển mạnh, thể hiện qua sự phân
công lao động quốc tế đan xen nhau dưới tác động của những tiến bộ của


19


khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin. Việc Trung Quốc cải
cách và mở cửa càng làm gia tăng xu thế này ở châu Á - Thái Bình Dương.
Trong nền kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất, thương mại, tài chính và
dịch vụ ngày càng được quốc tế hóa. Từ cuối những năm 1980, như một sự
ứng phó với toàn cầu hoá, xu thế khu vực hóa cũng phát triển mạnh mẽ cả về
chiều rộng và chiều sâu. Biên độ của nó rộng khắp các khu vực châu Âu và
Bắc Mỹ. Trong khi đó, từ cuối thập niên 70, đặc biệt từ cuối thập niên 80 của
thế kỷ XX, châu Á- Thái Bình Dương tuy có ổn định tương đối về chính trị,
và là một khu vực năng động và có nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao nhưng
chưa có một hình thức liên kết nào có tính chất chính thức, liên chính phủ và
toàn khu vực để bảo đảm lợi ích của các nước trong khu vực trước sự gia tăng
ngày càng mạnh của chủ nghĩa khu vực bảo hộ ở Tây Âu và Bắc Mỹ. Vì vậy,
chính sự tăng trưởng cao liên tục và phát triển của nền kinh tế ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa cũng như sự tuỳ
thuộc lẫn nhau ngày càng tăng giữa các nền kinh tế đã đặt ra yêu cầu khách
quan, cấp bách cho việc hình thành một diễn đàn mở rộng trong khu vực
nhằm phối hợp chính sách về các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy tự do hóa và
khuyến khích thương mại hàng hoá, dịch vụ và đầu tư, tăng cường hợp tác
kinh tế, khoa học - công nghệ giữa các nền kinh tế ở châu Á - Thái Bình
Dương, qua đó duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và bảo đảm sự phát triển
bền vững của khu vực.
2.1.2. Đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam (đồi với khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương)
Thực trạng đất nước và những chuyển biến lớn lao của tình hình thế
giới đã đặt ra yêu cầu khách quan là phải đổi mới tư duy trong mọi hoạt động
lĩnh vực của Đảng và nhà nước để ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đồng
thời để thích ứng với môi trường chính trị quốc tế. Đại hội lần thứ VI của


20


×