ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
HÀ VŨ TUYẾN
ĐẢNG BỘ TỈNH VĨNH PHÚC LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2008
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:
60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG BÁ MINH
HÀ NỘI - 2011
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI, thế kỷ mới với những xu hướng
thuận lợi, khó khăn và thách thức mới, thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học hiện
đại, kỹ thuật tiên tiến, kinh tế hội nhập... đã làm cho cục diện thế giới có nhiều
biến động và phân hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, an ninh, quốc phòng. Một số quốc gia, dân tộc đã có những thay đổi lớn về
chất so với những thập niên cuối thế kỷ XX.
Trước xu thế hội nhập sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH HĐH) đã và đang lôi cuốn, tác động đến tất cả các nước cũng như đến tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đối với nước ta, từ xuất phát điểm là nền kinh
tế tiểu nông, muốn thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu và nhanh chóng đạt đến trình
độ của một nước phát triển vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh” tất yếu phải tiến hành thực hiện sự nghiệp CNH HĐH như là “một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội”. Đây cũng là nhiệm vụ trung tâm có tầm quan trọng
hàng đầu trong thời gian tới của cách mạng nước ta. Trong hàng loạt phương
thức và biện pháp để thực hiện sự nghiệp CNH - HĐH, vấn đề xây dựng nguồn
nhân lực (NNL) hết sức cần thiết và có tính chiến lược lâu dài. Ngày nay, chất
lượng NNL có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển, nếu trước đây sự phát
triển của một quốc gia chủ yếu dựa vào các nguồn lực như tài nguyên thiên
nhiên, nguồn vốn, nguồn lao động đông đúc, thị trường tiêu thụ... thì hiện nay
chính tri thức lại có ý nghĩa hết sức lớn lao, góp phần tạo nên sự thịnh vượng,
giàu có cho một quốc gia, lãnh thổ. Xu thế TCH cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, đặc biệt là sự ra đời của Internet đã làm cho các quốc gia,
lãnh thổ ngày càng trở nên gần nhau hơn, qua đó sự cạnh tranh cũng càng trở
lên gay gắt hơn và tất nhiên ưu thế cạnh tranh bao giờ cũng nghiêng về quốc
7
gia, lãnh thổ có chất lượng NNL cao hơn, được đào tạo tốt hơn. Bởi vì, NNL
chính là lực lượng lao động đã, đang và sẽ tham gia đắc lực vào tiến trình CNH
- HĐH; là nguồn lực có ý nghĩa quyết định đối với các nguồn lực khác cũng
như quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng.
Sau hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, trên địa bàn cả nước ta nói
chung, ở tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, NNL đã khẳng định vai trò quan trọng trong
việc tạo ra khối lượng lớn sản phẩm hàng hóa, phong phú và đa dạng, tạo tiền
đề vững chắc cho sự nghiệp CNH - HĐH. Tuy nhiên, vấn đề đào tạo sử dụng
NNL ở Vĩnh Phúc đang đặt ra hàng loạt vấn đề cả về lý luận và thực tiễn cần
được nghiên cứu đánh giá, nhất là cần được tổng kết để rút ra những vấn đề
mấu chốt, kịp thời đưa ra những đề xuất, kiến nghị để công tác này đi đúng quỹ
đạo, phù hợp với quy luật khách quan. Xu thế thời đại, vấn đề TCH, nhất là
trong điều kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới đang đặt ra
nhiều thách thức cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung, tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng, vì vậy việc chuẩn bị NNL đáp ứng với sự phát
triển nhanh bền vững là yêu cầu bức thiết đặt ra.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2008”
làm luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở tỉnh Vĩnh Phúc cũng như trong cả nước đã có nhiều công trình nghiên
cứu khoa học, các hội thảo khoa học, các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ của các nhà khoa
học về đề tài này ở nhiều góc độ, phạm vi rộng, hẹp khác nhau như: Nghiên
cứu con người và nguồn nhân lực đi vào CNH, HĐH, "Về phát triển toàn diện
con người thời kỳ CNH, HĐH" của GS.TS Phạm Minh Hạc viết về sự phát triển
của giáo dục và đào tạo, về vấn đề bồi dưỡng phát huy nguồn lực con người, đặc
biệt là nguồn lực trí tuệ - nhân tài của đất nước; "Vai trò của nguồn nhân lực
trong sự nghiệp CNH, HĐH, những thách thức lớn đối với Việt Nam", "Đào
8
tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực tài năng" của Trần Văn Tùng, đã
giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực trong nền kinh tế đổi mới
và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở khía cạnh phát triển giáo dục của
một số nước trên thế giới và ở Việt Nam; "Nguồn lực con người trong quá
trình CNH, HĐH ở Việt Nam" của Tiến sỹ Đoàn Khải; "Phát huy nguồn lực
con người để CNH, HĐH" của Tiến sỹ Vũ Bá Thể; "Phát huy yếu tố con người
trong lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay" của Tiến sỹ Hồ Anh Dũng;
"Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất
nước" của Mai Quốc Chính, đã chỉ sự cần thiết phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực để đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước; "Phát triển nguồn nhân
lực giáo dục đại học ở Việt Nam" của Đỗ Minh Cương và Nguyễn Thị Doan,
đề cập đến một số nội dung về giáo dục đại học nhằm đi đến mục tiêu qua đó
đưa ra những giải pháp có tính khả thi nhằm phát triển nguồn nhân lực giáo
dục đại học nước ta, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH; "Bồi dưỡng và đào
tạo lại đội ngũ nhân lực trong điều kiện mới" của Nguyễn Minh Đường;
"Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm Đông
Á" của Lê Thị Ái Lâm; Luận án tiến sĩ "Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
tiếp cận kinh tế tri thức" của Lê Thị Ngân; "Đề án phát triển nguồn nhân lực
phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Vĩnh phúc giai đoạn 2008 -2015"
của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc.
Ngoài ra còn có nhiều công trình, tác phẩm khoa học của các nhà khoa
học, nhà quản lí khác. Nhìn chung, chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp
và có hệ thống về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực. Đây là vấn đề mới mẻ
và phức tạp, nên việc nghiên cứu về nguồn lực này ở nước ta chưa nhiều, chưa
có sự thống nhất cao. Cho đến nay, việc đi sâu nghiên cứu dưới góc độ lịch sử
Đảng và từ thực tiễn Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển
NNL từ năm 2001 đến năm 2008, ở tỉnh Vĩnh Phúc chưa có công trình nghiên
9
cứu riêng một cách trực tiếp. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến
năm 2008”, là cách tiếp cận cụ thể một lĩnh vực chưa được đề cập một cách
hoàn chỉnh, toàn diện như nội dung của luận văn đề cập.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Nghiên cứu lý luận về NNL tạo cơ sở khoa học cho phân tích thực
trạng xây dựng, phát triển NNL này ở tỉnh Vĩnh Phúc.
Rút ra những kinh nghiệm để xây dựng, phát triển NNL nhằm đáp ứng
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc trong những năm tới.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta về xây dựng, phát triển nguồn nhân lực.
Làm rõ thực trạng về NNL ở tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2001 đến 2008.
Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc vận dụng chủ trương của
Đảng, Nhà nước về xây dựng, phát triển NNL, từ đó đề ra chủ trương và sự
chỉ đạo xây dựng, phát triển NNL trên địa bàn tỉnh.
Đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; rút ra những kinh
nghiệm từ quá trình lãnh đạo xây dựng, phát triển NNL của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc để vận dụng vào giai đoạn mới đạt kết quả cao hơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát
triển nguồn nhân lực.
* Phạm vi nghiên cứu:
10
Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc về xây dựng, phát triển NNL.
Về thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc từ năm 2001 đến năm 2008.
Về không gian: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
xây dựng, phát triển NNL trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
Một số tác phẩm kinh điển viết về con người dưới chế độ chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội.
Một số tác phẩm, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguồn
nhân lực.
Các nghị quyết, chỉ thị của Đảng cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc; các báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh phúc và một số Sở, Ban,
ngành của tỉnh về vấn đề NNL, những nội dung liên quan về nguồn nhân lực.
Ngoài ra tác giả còn sử dụng các nguồn tư liệu thành văn trên các báo,
tạp chí có liên quan đến nội dung của luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu, nhưng phương pháp
chủ yếu là: Phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic và sự kết hợp hai
phương pháp đó. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp khác như phương
pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, điều tra xã hội học… Trên cơ sở chọn lọc
và xử lý thận trọng các nguồn tư liệu, các dữ liệu trong mối quan hệ với nhau
để luận giải các vấn đề mà luận văn đề cập đến.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
11
Luận giải những vấn đề lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển
nguồn nhân lực.
Phân tích, đánh giá thực trạng nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân
lực ở Vĩnh Phúc trước năm 2001.
Luận văn bước đầu hệ thống hóa quá trình Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc
lãnh đạo xây dựng, phát triển NNL từ năm 2001 đến năm 2008. Đúc rút một
số kinh nghiệm vận dụng vào phát triển NNL trong thời gian tới.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
trong việc tìm hiểu, nghiên cứu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chƣơng 1: Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xây
dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2001 đến năm 2005.
Chƣơng 2: Bước phát triển mới của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh đạo
xây dựng, phát triển nguồn nhân lực từ năm 2006 đến năm 2008.
Chƣơng 3: Kết quả và kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc lãnh đạo xây dựng, phát triển nguồn nhân lực (2001-2008).
12
Chƣơng 1
CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
VĨNH PHÚC XÂY DỰNG, PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Sự cần thiết và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc xây
dựng, phát triển nguồn nhân lực (2001-2005)
1.1.1. Sự cần thiết phải xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh
Vĩnh Phúc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
- Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội.
Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng
đồng bằng Sông Hồng, vùng Thủ đô.
Tỉnh Vĩnh Phúc được thành lập năm 1950, trên cơ sở sát nhập hai tỉnh Vĩnh
Yên và Phúc Yên, năm 1968 sát nhập với tỉnh Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú, từ
ngày 01 tháng 01 năm 1997 tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập. Thực hiện chủ trương
của Đảng và Nhà nước về mở rộng địa giới, hành chính Thủ đô Hà Nội, từ ngày
1/8/2008, huyện Mê Linh thuộc tỉnh Vĩnh Phúc chuyển toàn bộ về Thành phố Hà
Nội.
Hiện nay Vĩnh Phúc có diện tích tự nhiên 1.231km2, dân số 10,2 triệu
người. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính; 1 thành phố, 1 thị xã và 07 huyện, 137
xã, phường, thị trấn, trong đó có 39 xã miền núi.
Vĩnh Phúc có hệ thống giao thông đa dạng, gồm cả đường sắt, đường
bộ và đường thuỷ; gần sân bay quốc tế Nội Bài, là cầu nối giữa Thủ đô Hà
Nội với các tỉnh miền núi phía Bắc và tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), vì vậy rất
thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập, đặc biệt vùng đất cao, có
những thuận lợi trong thu hút đầu tư phát triển các khu công nghiệp.
Vĩnh Phúc nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nhiệt độ trung
bình hàng năm 24-25oC; lượng mưa 1200-1400ml; có 3 vùng sinh thái rõ rệt
là: Đồng bằng, trung du và miền núi. Những đặc điểm khí hậu, sinh thái trên
13
tạo tiềm năng phát triển nông nghiệp đa dạng về cây lương thực, cây ăn quả,
chăn nuôi và phát triển kinh tế đồi rừng. Dọc theo dãy Tam Đảo với nhiệt độ
trung bình 180C, có nhiều danh lam, thắng cảnh, di tích lịch sử, rất thuận lợi
cho phát triển du lịch.
Vĩnh Phúc đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển
công nghiệp các tỉnh phía Bắc; sự hình thành và phát triển các tuyến hành
lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích
gần hơn với các trung tâm kinh tế, công nghiệp và những thành phố của quốc
gia và quốc tế: Hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng, Quốc lộ 2
Việt Trì - Hà Giang - Trung Quốc, hành lang đường 18 và trong tương lai là
đường vành đai IV Thành phố Hà Nội...
Do vị trí thuận lợi và chính sách ưu đãi đầu tư hợp lý của tỉnh, Vĩnh
Phúc là một địa chỉ hấp dẫn của các nhà đầu tư. Tháng 7/2003, Vĩnh Phúc
được Chính phủ phê duyệt là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Vào thời điểm tái lập, xuất phát điểm nền kinh tế của tỉnh rất thấp; kinh
tế thuần nông, tỷ trọng nông nghiệp chiếm trên 52%, công nghiệp chiếm
12,8%, thu nhập bình quân đầu người là 155,58 USD, thu ngân sách dưới 100
tỷ đồng.
Trong những năm qua, nhờ có định hướng phát triển đúng đắn và các
cơ chế, chính sách phù hợp với thực tế, kinh tế của tỉnh phát triển mạnh và
luôn duy trì ở mức tăng trưởng cao; năm 2006 tốc độ tăng trưởng giá trị tăng
thêm GDP theo giá so sánh (1994) tăng 19,76% và năm 2007 ước tăng 20,4%.
Tổng thu ngân sách trên địa bàn tăng nhanh, từ 114 tỷ đồng (1997) lên
5.642 tỷ đồng (2007). Tỷ lệ huy động vốn vào ngân sách tăng từ 5,1% (năm 1997)
lên 31% (năm 2007), chi ngân sách năm 2007 là 4.356 tỷ đồng. Từ năm 2004 tỉnh
đã cân đối được thu - chi và đóng góp đáng kể cho ngân sách Trung ương.
Thu hút đầu tư tăng mạnh: Trong hơn 10 năm, tỉnh đã thu hút được trên
600 dự án đầu tư, với tổng số vốn đăng ký gần 4 tỷ USD, trong đó có 170 dự
14
án vốn đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký 2,8 tỷ USD, 465 dự án vốn đầu tư
trong nước với số vốn đăng ký 30.700 tỷ đồng.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2007 đạt 343,8 triệu USD, tăng 25 lần, kim
ngạch nhập khẩu đạt 945,5 triệu USD, tăng 163 lần so với năm 1997.
Riêng năm 2008, mặc dù trong điều kiện kinh tế thế giới và trong nước
có nhiều biến động phức tạp, thiên tai, lũ lụt ảnh hưởng lớn đến sản xuất và
đời sống nhân dân... nhưng kinh tế vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao.
Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 17,77%, trong đó: Công nghiệp - xây
dựng tăng 20,02%; dịch vụ tăng 18,99%; nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng
6,89%. GDP bình quân đầu người đạt 21,8 triệu đồng, tăng 38,9% so cùng kỳ
(tương đương 1.323 USD). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, công nghiệp,
dịch vụ chiếm gần 82%, nông nghiệp chiếm hơn 18%. Thu ngân sách đạt kết
quả cao nhất từ trước đến nay, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 9.147,3 tỷ
đồng, tăng 55,86% so cùng kỳ, thu nội địa đạt 7.187,7 tỷ đồng (chiếm 78,6%
tổng thu). Tổng chi ngân sách địa phương đạt 6.609,5 tỷ đồng, tăng 42,3% so
cùng kỳ, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 44,4%. Thu hút đầu tư ước đạt
535,3 triệu USD và gần 6.00 tỷ đồng, nâng tổng số vốn đầu tư nước ngoài
trên địa bàn lên gần 2 tỷ USD, tổng vốn đầu tư trong nước lên 15,5 nghìn tỷ
đồng. Huy động vốn đầu tư phát triển đạt 10.287 tỷ đồng, tăng 32% so cùng
kỳ.
Hiện nay cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng nhanh tỷ
trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp.
Cụ thể cơ cấu (%) các nhóm ngành kinh tế như sau:
Bảng 1.1. Cơ cấu các nhóm ngành kinh tế của tỉnh Vĩnh Phúc qua các năm
Đơn vị tính: %
Năm
2001
2005
2006
2007
2008
Nông - Lâm - Thuỷ sản
29,9
20,48
16,86
14,37
17,71
Công nghiệp - Xây dựng
40,0
52,44
57,12
59,93
58,34
Nhóm ngành
15
Dịch vụ
30,1
27,08
26,02
25,70
23,95
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001, 2005, 2006, 2007, 2008 của Tỉnh
ủy Vĩnh Phúc.
Dân số của tỉnh đến năm 2008 là 1.014.488 người, là tỉnh có mật độ
dân số cao trong cả nước (khoảng 824 người/km2, gấp 3,2 lần mật độ dân số
chung của cả nước), tỷ lệ nữ chiếm 51,5% dân số.
Sự tăng trưởng về kinh tế, cải thiện về đời sống vật chất của nhân dân
trong những năm qua đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phát triển giáo
dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thể thao và thực hiện các chính sách xã hội. Giáo
dục Vĩnh Phúc đạt được nhiều kết quả trên cả 3 mục tiêu: Nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; tỉnh sớm đạt được những chuẩn cập
giáo dục TH đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS (từ năm 2002) và hiện
đang tích cực thực hiện phổ cập giáo dục trung học. Công tác chăm sóc sức
khoẻ của nhân dân được quan tâm, các dịch vụ y tế ngày càng được nâng lên,
tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm dần. Các giá trị truyền thống văn
hoá được phát huy, phong trào xây dựng gia đình, làng xã, cơ quan văn hoá
được đẩy mạnh, có 80% số gia đình, có 57% số làng đạt tiêu chuẩn văn hoá.
Hoạt động thể thao quần chúng diễn ra ngày càng thường xuyên, thể thao
thành tích cao có kết quả bước đầu. Các chính sách xã hội được tỉnh quan tâm
thực hiện, hàng năm giải quyết việc làm khoảng 21,2 ngàn lao động. Tỷ lệ lao
động qua đào tạo đạt 42,9%, tăng 5,3% so năm 2007. Tỷ lệ hộ nghèo giảm
dần, năm 2008 chỉ còn 10,4%. Triển khai các chính sách như bồi dưỡng, nâng
cao kiến thức, huấn luyện nghề ngắn hạn cho nông dân; tăng cường công tác
đào tạo nghề, ưu tiên các khu vực nhà nước thu hồi đất nông nghiệp; đầu tư
xây dựng nhà đại đoàn kết... Công tác dân tộc, tôn giáo, an ninh, quốc phòng
được tăng cường, chính trị xã hội ổn định.
16
Những kết quả đạt được trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội là điều kiện
thuận lợi để thực hiện nhiệm vụ phát triển NNL trong thời gian tới.
- Vị trí, vai trò nguồn nhân lực đối với sự phát triển của tỉnh Vĩnh Phúc
Những nhận thức chung về vị trí, vai trò NNL: Một quốc gia muốn phát
triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển kinh tế như: Tài nguyên
thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người… Trong các nguồn lực đó
thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định trong sự
tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay. Một nước
cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ thuật hiện đại
nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai thác các
nguồn lực đó thì khó có thể đạt được sự phát triển như mong muốn. Quá trình
CNH - HĐH đất nước và ngày nay trong công cuộc hội nhập và phát triển
nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”,
Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con người Việt Nam có
truyền thống yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có
khả năng nắm bắt nhanh KH&CN là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng
lực nội sinh.
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về NNL: Theo Liên hợp quốc
NNL là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng
tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất
nước. Ngân hàng thế giới cho rằng: NNL là toàn bộ vốn con người bao gồm
thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân. Như vậy, ở đây
nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật
chất khác: Vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Theo tổ chức lao
động quốc tế NNL của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có
khả năng tham gia lao động.
17
Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, NNL là
nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con
người cho sự phát triển, do đó, NNL bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển
bình thường. Theo nghĩa hẹp, NNL là khả năng lao động của xã hội, là nguồn
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi
lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ
các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về
thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Trong lĩnh vực kinh tế phát triển cho rằng: NNL là một bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. NNL được biểu hiện
trên hai mặt: Về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động
làm việc theo quy định của Nhà nước và thời gian lao động có thể huy động
được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức
và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những
người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích
cực tìm kiếm việc làm.
Từ những quan niệm trên, tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế chính trị có
thể hiểu: NNL là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao
động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao
động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc
biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy việc phát triển con
người, phát triển NNL trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống
phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm
chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho
18
con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát
triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có
nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển NNL. Theo quan niệm của
Liên hiệp quốc, phát triển NNL bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm
năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất
lượng cuộc sống.
Một số quan điểm khác cho rằng: Phát triển NNL là gia tăng giá trị cho
con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ
năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những
năng lực và phẩm chất mới cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu to lớn và
ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt, thể
lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu
quả nhất NNL thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm
để phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy từ những quan điểm khác nhau nêu trên đều khảng định vị trí,
vai trò NNL giữ vai trò quyết định trong toàn bộ quá trình phát triển, trong
những năm gần đây Vĩnh Phúc nhờ có sự vận dụng đúng đắn những quan
điểm về việc phát triển NNL, do vậy đã có sự chuyển dịch nhanh về cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
Trong quan điểm phát triển, Vĩnh Phúc phát triển không chỉ dựa vào tài
nguyên, vị trí địa lý thuận lợi, mà sự phát triển của Vĩnh Phúc cần hội tụ đủ
bốn điều kiện:
Một là, biết đề ra đường lối kinh tế đúng đắn.
Hai là, biết tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối đó.
19
Ba là, có đội ngũ cán bộ quản lý giỏi; công nhân kỹ thuật tay nghề cao
và đông đảo.
Bốn là, có các nhà doanh nghiệp tài ba.
Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của
sự nghiệp CNH - HĐH; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động
sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công là phổ biến sang sử
dụng sức lao động được đào tạo cùng với công nghệ tiên tiến, phương tiện và
phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối
với Vĩnh Phúc đó là một quá trình tất yếu để phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Khi Vĩnh Phúc đang bước vào giai đoạn CNH - HĐH, tiếp cận kinh tế tri
thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn thấp, do đó yêu cầu nâng
cao chất lượng NNL, nhất là trí lực có ý nghĩa quyết định tới sự thành công của
sự nghiệp CNH - HĐH của Vĩnh Phúc và phát triển bền vững. Đảng bộ tỉnh
Vĩnh Phúc xác định phải lấy việc phát huy chất lượng NNL làm yếu tố cơ bản
cho sự phát triển nhanh và bền vững.
- Thực trạng nguồn nhân lực của tỉnh Vĩnh Phúc trước năm 2001.
Trong những năm qua, kinh tế - xã hội của Vĩnh Phúc phát triển nhanh,
cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch
vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp, có sự thay đổi quan trọng trong cơ cấu và chất
lượng NNL. Tuy nhiên, chất lượng NNL từ trước năm 2001 ở Vĩnh Phúc nhìn
chung chưa đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH - HĐH và hội nhập kinh tế quốc
tế. Thiếu đội ngũ có trình độ chuyên môn giỏi trong các lĩnh vực, thiếu cán bộ
quản lý giỏi, công nhân lành nghề; khả năng tự tìm kiếm việc làm, chuyển đổi
nghề nghiệp của người lao động còn nhiều hạn chế. Đội ngũ cán bộ, công
chức chưa đồng bộ, số cán bộ có trình độ sau ĐH còn ít; trình độ ngoại ngữ,
tin học của hầu hết đội ngũ cán bộ, công chức và người lao động còn rất thấp;
20
đạo đức, tác phong, kỷ luật của một bộ phận cán bộ quản lý, công chức và
người lao động còn bất cập so với yêu cầu nhiệm vụ. Cụ thể như sau:
+ Nguồn nhân lực từ nông dân:
Tính đến năm 2001, số dân của Vĩnh Phúc là 1.117.652 người, trong
đó, nông dân chiếm khoảng 990.282 người, bằng khoảng 88,6% dân số của
toàn tỉnh. Số liệu trên đây phản ánh một thực tế là nông dân chiếm tỷ lệ cao
về lực lượng lao động xã hội. Theo các nguồn số liệu mà chúng tôi thống kê
được, hiện toàn tỉnh tổng sản phẩm trên địa bàn theo giá trị thực tế theo thành
phần và ngành kinh tế là 3.739.627 triệu đồng trong đó giá trị sản phẩm ngành
nông lâm và thủy sản là 1.161.968 triệu đồng. Như vậy, so với trước đây nông
thôn Vĩnh Phúc đã có những chuyển biến tích cực [4, tr.40].
Tuy nhiên, NNL trong nông dân ở Vĩnh Phúc vẫn chưa được khai thác, tổ
chức, chưa có những chính sách cụ thể cho nên dẫn đến sản xuất tự phát, manh
mún, họ chỉ độc canh bằng cây lúa theo kiểu truyền thống. Có người nói rằng,
nghề trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được.
Ở các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy, mọi người dân trong làng đều
được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa trước khi lội xuống ruộng. Nhìn chung,
hiện tại phần lớn lao động nông, lâm, ngư nghiệp và những cán bộ quản lý nông
thôn chưa được đào tạo. Điều này phản ánh chất lượng NNL trong nông dân còn
rất yếu kém. Sự yếu kém này đã dẫn đến sản xuất nông nghiệp Vĩnh Phúc vẫn
còn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún, theo kiểu truyền thống, hiệu
quả sản xuất thấp. Việc liên kết “bốn nhà” (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học,
nhà doanh nghiệp) chỉ là hình thức.
Tính đến năm 2000 diện tích đất nông nghiệp của tỉnh chỉ còn
66.780,85 ha trong tổng số đất tự nhiên là 137.136,18 ha, tình trạng đất nông
nghiệp ngày càng thu hẹp, do hàng năm tỉnh thu hồi đất nông nghiệp để phát
triển công nghiệp, xây dựng đô thị. Vì thế một bộ phận lao động ở nông thôn
dôi ra, không có việc làm.. nhưng chưa có chính sách hợp lý đối với người
nông dân.
21
Chính vì NNL trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo, nên một
bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công nghiệp,
công trường thấp. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm
trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư
thừa rất nhiều.
Vấn đề lao động và việc làm ở nông thôn Vĩnh Phúc đang rất đáng lo
ngại. Nông dân ở những nơi bị thu hồi đất thiếu việc làm, chất lượng lao
động thấp, qua tìm hiểu, chúng tôi thấy vẫn chưa khắc phục có hiệu
quả. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là chính sách đối với nông dân,
nông thôn, nông nghiệp chưa rõ ràng.
+ Nguồn nhân lực từ công nhân:
Về số lượng cơ cấu lao động của Vĩnh Phúc tính đến trước năm 2001
có khoảng 360.988 người trong đó lao động trong công nghiệp là 94.105
người chiếm 22%, nông - lâm - ngư nghiệp là 204.564 người chiếm 51,17%,
thương mại - dịch vụ là 62.319 người chiếm 20,53%, nhìn chung số công
nhân lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp là phần lớn. Trong khi đó
Vĩnh Phúc ngày càng có sự chênh lệch công nhân giữa các doanh nghiệp nhà
nước và ngoài nhà nước, lực lượng công nhân trong các doanh nghiệp nhà
nước ngày càng ít đi, lực lượng công nhân của khu vực ngoài nhà nước ngày
càng tăng lên. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ rất thấp so với đội ngũ
công nhân nói chung, trình độ văn hóa, tay nghề, kỹ thuật của công nhân còn
thấp. Số công nhân có trình độ CĐ, ĐH ở Vĩnh Phúc chiếm số lượng rất nhỏ
so với đội ngũ công nhân nói chung.
Bảng 1.2. Trình độ của đội ngũ công nhân tỉnh Vĩnh Phúc
Đơn vị tính: Người
Năm
Trình độ
Số công nhân có bằng cấp
22
1997
2000
58.88
73.35
Trên ĐH
14
738
1.65
9.75
Trung học
12.328
23.337
Sơ cấp
21.125
24.473
Đại học, cao đẳng
Nguồn: Số liệu do tác giả khảo sát, thống kê.
Trong thực tế vì đồng lương rẻ mạt, công nhân không thể sống trọn đời với
nghề, mà phải kiêm thêm nghề phụ khác làm trong ngày nghỉ, cho nên đã dẫn
đến tình trạng nhiều người vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân. Trong
các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công nghiệp nặng còn
rất thấp so với tổng số công nhân của toàn tỉnh, mặt khác công nhân trong các
ngành nông - lâm - ngư nghiệp lại chiếm tỷ lệ cao. Với tình hình này, công nhân
khó có thể đóng vai trò chủ yếu trong sự nghiệp CNH - HĐH của tỉnh.
Về mặt chính trị, thực chất công nhân Vĩnh Phúc chưa có địa vị bằng trí
thức, công chức, viên chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội
và trong sản xuất, kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do sự
quan tâm chưa đầy đủ và chưa có chính sách có hiệu quả trong việc xây dựng
giai cấp công nhân.
+ Nguồn nhân lực từ công chức, viên chức:
Ngay sau khi tỉnh Vĩnh Phúc được tái lập và đi vào hoạt động còn gặp
rất nhiều khó khăn và thử thách, xuất phát điểm kinh tế thấp, đội ngũ cán bộ
còn nhiều bất cập thiếu về số lượng (chỉ có 30% số cán bộ của tỉnh Vĩnh Phú
chuyển về tỉnh Vĩnh Phúc), cơ cấu chưa đồng bộ. Tuy nhiên nhìn chung cán
bộ các cấp, các ngành trong tỉnh đã được rèn luyện, thử thách qua thực tiễn;
có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân đã lựa chọn; hăng hái thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; phấn khởi, nêu cao tinh thần trách
nhiệm, vượt mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Đa số cán bộ giữ gìn
23
được phẩm chất đạo đức, có lối sống lành mạnh, giản dị, gắn bó với quần
chúng, được quần chúng tín nhiệm.
Bên cạnh những mặt mạnh vào thời điểm đó đội ngũ cán bộ của tỉnh
còn có một số những hạn chế, yếu kém:
Nhiều cán bộ chưa được đào tạo chính quy có hệ thống, hạn chế về kiến
thức quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, quản lý pháp luật. Cán bộ xã, phường,
thị trấn phần đông văn hoá chưa hết phổ thông, đào tạo về nghiệp vụ chuyên
môn còn ít, trình độ lý luận Trung cấp trở lên chỉ đạt 50%. So với yêu cầu
nhiệm vụ trong thời kỳ mới, không ít nơi cán bộ chưa đủ tầm, nhưng nguồn bổ
sung khó khăn. Khi chuyển sang cơ chế mới, một số cán bộ không giữ gìn
được phẩm chất, thoái hoá biến chất, vun vén cá nhân, cục bộ bản vị, phát ngôn
tuỳ tiện, quan liêu, lãng phí của công, mất đoàn kết, lười học tập nghiên cứu,
thực hiện nhiệm vụ hiệu quả thấp. Nhiều cán bộ không nghiêm túc trong đấu
tranh tự phê bình và phê bình, nể nang, né tránh, đoàn kết xuôi chiều.
Đội ngũ cán bộ chưa đồng bộ, thiếu cán bộ kinh tế tổng hợp, cán bộ
chuyên môn về công nghiệp, về quản trị sản xuất kinh doanh, ít cán bộ có
trình độ cao và các chuyên gia đầu ngành, trình độ ngoại ngữ và tin học còn
hạn chế.
Nhìn chung, xét về mặt số lượng, chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ
của tỉnh trước năm 2001 còn chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Bảng 1.3. Bảng tổng hợp chất lƣợng Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh
Trình độ
chuyên môn
Độ tuổi
TT
Nhiệm kỳ
Khóa XII
1
TS
Nữ
Bình
quân
Dƣới
40
Từ
40 55
43
3
47, 77
2
41
(1998-2000)
24
Trên
55
ĐH,
Trên
ĐH
TC
36
7
Trình độ lý
luận chính trị
Cử
nhân
TC
Cao
cấp
32
11
Tỷ lệ (%)
Khóa XIII
2
6,97
47
95,35
83,72
16,28
74,42
25,58
2
38
7
42
5
41
6
4,26
80,85
14,89
89,36
10,64
87,23
12,77
1
44
4
49
49
2,04
89,80
8,16
100
100
53,43
(2000-2005)
Tỷ lệ (%)
Khoá XIV
3
4
4,65
8,51
49
4
50,29
(2005-2010)
Tỷ lệ (%)
8,16
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ban Tổ chức tỉnh ủy năm 2009.
Bảng 1.4. Tổng hợp chất lƣợng đội ngũ cán bộ tỉnh
Trình độ chuyên môn
T
Danh mục
T
Tổng
số
1 Giai đoạn: 1998 – 2000
Khối Đảng, ĐT:
Khối QLNN
1.066
Khối sự nghiệp
12.999
Khối CQ cơ sở
600
2 Giai đoạn: 2001 – 2005
Khối Đảng, ĐT:
936
Khối QLNN
Khối sự nghiệp
Khối CQ cơ sở
3 Giai đoạn: 2006 – 2008
Khối Đảng, ĐT:
831
Khối QLNN
1.660
Khối sự nghiệp
15.756
Khối CQ cơ sở
2.874
Tiến Thạc
sỹ
sỹ
2
3
0
2
15
75
ĐH
CĐ
CĐ
TC
672
4.604
53
210
5
394
16
48
313
586
1.254
5.701
282
54
57
4.693
Còn
lại
Trình độ
LLCT
ĐH
TC
CC
168
173
53
14
75
1.443
281
209
119
209
173
176
4.680
1.231
416
125
369
1.361
Nguồn: Báo cáo tổng kết của Ban Tổ chức tỉnh ủy năm 2009.
Nói tóm lại, NNL từ nông dân, công nhân và cán bộ công chức,
viên chức ở Vĩnh Phúc nhìn chung còn nhiều bất cập, điều đó đã ảnh
hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế. Trong những năm sau khi tách tỉnh,
kinh tế Vĩnh Phúc tuy có tăng trưởng cao nhưng so với kinh tế một số tỉnh
trong nước và thế giới thì cần cố gắng nhiều.
Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng NNL ở Vĩnh Phúc:
25
NNL ở Vĩnh Phúc khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm đúng
mức, chưa được quy hoạch, khai thác, nhiều người chưa được đào tạo.
Chất lượng NNL chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa lượng và
chất.
Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa NNL từ nông dân, công nhân, trí
thức chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện mục tiêu
chung xây dựng Vĩnh Phúc trở thành tỉnh giàu có như Bác Hồ Nói khi về
thăm tỉnh:“Phải làm cho Vĩnh Phúc thành một trong những tỉnh giàu có,
phồn vinh nhất ở miền Bắc nước ta”.
- Yêu cầu đòi hỏi xây dựng nguồn nhân lực thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
NNL (hay chính là vấn đề con người) giữ vai trò quan trọng trong quá
trình phát triển, vì vậy trong sự nghiệp CNH - HĐH, NNL là vấn đề quan
trọng bậc nhất trong “kết cấu hạ tầng xã hội, kinh tế” tức là một trong những
tiền đề cơ bản để phát triển xã hội, đi vào CNH - HĐH. Mục tiêu của CNH ở
Vĩnh Phúc là phát triển hài hoà giữa sản xuất và xã hội, lấy con người làm
trọng tâm. Để phát triển CNH - HĐH, phải có nguồn lực cần thiết như nguồn
lực con người, vốn tài nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật... trong đó nguồn lực
con người, tài nguyên chất xám là một nguồn lực quan trọng nhất cho tiến
trình phát triển của Vĩnh Phúc. NNL phải đủ về số lượng, mạnh về chất lượng
mới có thể trở thành động lực phát triển. Do đó, phát triển NNL phục vụ sự
nghiệp CNH - HĐH ở Vĩnh Phúc không chỉ do yêu cầu phát triển kinh tế
(mặc dù đây là yêu cầu quan trọng và bức xúc) mà còn hướng vào đáp ứng
các yêu cầu phát triển con người và tiến bộ xã hội, xây dựng xã hội tiến bộ,
công bằng, dân chủ, văn minh, dân giàu nước mạnh.
NNL đóng vai trò quan trọng đối với sự nghiệp CNH - HĐH vì trước hết
các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý... tự nó chỉ tồn
26
tại dưới dạng tiềm năng, chịu sự tác động của con người. Nếu con người biết sử
dụng, khai thác chúng thì những nguồn lực này mới phát huy được tác dụng,
phục vụ nhu cầu lợi ích của con người, tham gia tích cực vào quá trình CNH HĐH. Vì thế trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, con người là yếu tố
quan trọng nhất.
Hơn nữa, các nguồn lực khác là có hạn, có thể bị cạn kiệt khi khai
thác, trong khi đó NNL mà cốt lõi là trí tuệ lại là nguồn lực vô tận. Tính vô
tận của trí tuệ con người biểu hiện ở chỗ nó có khả năng không chỉ tái sinh,
tự sản sinh về mặt sinh học mà còn đổi mới, không ngừng phát triển về
chất nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý, đó là cơ sở làm cho
năng lực và nhận thức hoạt động thực tiễn của con người phát triển như
một quá trình vô tận. Như vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên,
khám phá ra những tài nguyên mới và sáng tạo ra những tài nguyên vốn
không có sẵn trong tự nhiên, tạo ra những hệ thống công cụ sản xuất mới.
Chính sự phát triển không ngừng của công cụ sản xuất từ thủ công đến cơ
khí và ngày nay là tự động hoá mà xã hội loài người đã chuyển qua các nền
văn minh từ thấp đến cao, điều đó nói lên trình độ vô tận của con người,
của sức mạnh nguồn nhân lực.
Ngoài ra, kinh nghiệm của các nước và thực tiễn của chính nước ta và
các địa phương trong cả nước cho thấy sự thành công của CNH - HĐH phụ
thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối, chính sách cũng như tổ chức
thực hiện, tức là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn của
con người, của NNL.
Nói tóm lại, yếu tố con người là yếu tố quyết định về chất của quá trình
CNH - HĐH, đồng thời đó cũng là mục tiêu hướng tới của quá trình này. Để
thực hiện hiệu quả CNH - HĐH ở Vĩnh Phúc, phải lấy việc phát huy nguồn
lực con làm yếu tố cơ bản cho việc phát triển nhanh, bền vững, NNL là yêu tố
27
nền tảng, chủ thể tham gia vào quá trình CNH - HĐH. Trong quá trình CNH HĐH không chỉ cần sự cần cù, trung thành, nhiệt tình, quyết tâm mà điều
quan trọng hơn là có trí tuệ khoa học, ý chí chiến thắng nghèo nàn lạc hậu,
tính năng động luôn thích ứng với hoàn cảnh, ý thức, kỷ luật... Do vậy, để giữ
đúng mục tiêu đến năm 2015, Vĩnh Phúc trở thành tỉnh công nghiệp thì việc
xây dựng NNL có ý nghĩa quyết định.
1.1.2. Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc chủ trương về xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực
1.1.2.1. Chủ trương của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng, phát
triển nguồn nhân lực
* Một số quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng, phát
triển nguồn nhân lực.
Đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Đảng ta luôn xác định
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, thực hiện công nghiệp hoá
XHCN là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Để hoàn thành mục
tiêu đó, Đại hội VIII (1996) khẳng định: Ngày nay, công nghiệp hóa luôn gắn
liền với hiện đại hoá, với việc ứng dụng rộng rãi những thành tựu KH&CN
tiên tiến của thời đại, KH&CN trở thành nền tảng của CNH - HĐH. Trong
những phương thức để tiến hành sự nghiệp CNH, yếu tố giữ vai trò nền tảng,
trung tâm của sự phát triển ổn định, bền vững đó là: “Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát triển NNL to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc CNH - HĐH” [15, tr.21]. Chăm lo phát triển
NNL con người, thực hiện công bằng xã hội là chính sách xã hội đúng đắn vì
hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của
nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH; phát triển con người một cách
toàn diện cũng chính là nhằm nâng cao đời sống dân trí, tạo được sự đồng
thuận trong toàn xã hội, vì mục tiêu phát triển một xã hội bền vững.
28
Trong thời kỳ quá độ, hàng loạt vấn đề xã hội đang được đặt ra, hoặc
do hậu quả nặng nề của nhiều năm chiến tranh, của nền kinh tế kém phát
triển, hoặc mới nảy sinh trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường và mở
rộng giao lưu quốc tế, không thể cùng một lúc giải quyết mọi vấn đề trong lúc
năng suất lao động xã hội còn thấp, nguồn thu ngân sách còn hạn hẹp, phải
tích luỹ cho CNH - HĐH đất nước. Để bảo đảm được sự ổn định, phát huy
tiềm năng, thế mạnh mũi nhọn của CNH - HĐH, Đảng ta chỉ rõ: Nguồn lực
lao động dồi dào, con người Việt Nam có truyền thống yêu nước, cần cù, sáng
tạo, có nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh KH&CN… đó
là nguồn lực quan trọng nhất. Điều đó khẳng định chất lượng NNL giữ vai trò
quyết định trong sự nghiệp CNH - HĐH. Do vậy để nâng cao chất lượng
NNL, giáo dục giữ vị trí quyết định sự phát triển NNL, điều này đã được Đại
hội VIII của Đảng (1996) chỉ rõ: “cùng với khoa học công nghệ, giáo dục đào
tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài” [15, tr.107]. Đảng ta xác định phát triển khoa học, công
nghệ, giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; đề ra nhiệm vụ nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đào tạo, xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu
nước, tự hào dân tộc, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ cao, có tâm huyết với khả năng thực hiện thắng lợi
đường lối của Đảng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, đây
chính là việc coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và
phát huy hiệu quả.
Trong thời kỳ CNH - HĐH để giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở
rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại, việc dựa
vào nguồn lực trong nước là chính, đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên
ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng
mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong
29
nước sản xuất có hiệu quả, trước hết phải lấy việc phát huy NNL con người là
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững.
Đại hội IX của Đảng cộng sản Việt Nam (năm 2001) đã chỉ rõ: Mọi chủ
trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải xuất phát từ mục đích vì con
người, chăm sóc, bồi dưỡng, phát triển con người, phát huy nhân tố quan
trọng là nhân tố con người trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Trong khi
đó với vai trò là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh
CNH - HĐH, văn hóa và giáo dục, KH&CN có khả năng to lớn. Nó khơi dậy,
nhân lên mọi tiềm năng, phát triển sức sáng tạo của con người Việt Nam, tạo
ra nguồn lực nội sinh quyết định sự phát triển cưa sự nghiệp CNH - HĐH.
Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nước ta, khi nguồn tài chính
và nguồn lực vật chất cho cuộc sống CNH - HĐH còn hạn hẹp, trong khi đó
tiềm lực, nguồn lực con người Việt Nam lại vô cùng phong phú, nếu biết nuôi
dưỡng, phát huy, khai thác và sử dụng một cách hợp lý nhất, tiết kiệm nhất.
Trong thời đại ngày nay, tư tưởng trên càng có ý nghĩa to lớn khi mà nguồn
gốc của sự giàu có và phát triển toàn diện của đất nước không chỉ là tài
nguyên, vốn, kỹ thuật, mà yếu tố ngày càng trở nên quyết định chính là nguồn
lực con người, là tiềm năng sáng tạo của con người. Nền kinh tế tri thức thời
kỳ mới của sự phát triển xã hội hiện nay bắt nguồn từ chính đặc điểm này. Do
vậy, để giữ vững mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
yếu tố cơ bản, chìa khóa vạn năng chính là con người.
Với quan điểm coi con người, trước hết là tiềm năng và sức mạnh trí
tuệ, tinh thần và đạo đức là nhân tố quyết định sự phát triển, là vốn quý nhất
của chúng ta trên con đường xây dựng CNXH. Để phát triển con người toàn
diện, cần phải coi phát triển văn hóa, GD&ĐT, KH&CN là lĩnh vực cực kỳ
quan trọng của chiến lược con người, còn chiến lược con người lại nằm ở vị
trí trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong sự nghiệp CNH HĐH. Điều đó cũng có nghĩa là phải đặt văn hóa, GD&ĐT, KH&CN vào
30