Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ thời kỳ đổi mới (1986 đến 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (621.7 KB, 65 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHSP Hà Nội 2,
các thầy cô trong khoa Lịch sử đã giúp đỡ em trong quá trình học tập tại
trường và tạo điều kiện cho em thực hiện khóa luận tốt nghiệp này. Đặc biệt
em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Khuất Thị Hoa – người đã trực
tiếp tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình.
Trong khuôn khổ có hạn của một khóa luận, do điều kiện thời gian, do
trình độ có hạn và cũng là lần đầu tiên nghiên cứu khoa học cho nên không
tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định. Vì vậy em kính mong nhận
được những góp ý của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 17

tháng 5 năm 2013

Sinh viên

Vũ Thị Hân


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận này là kết quả của bản thân em trong quá trình học tập và
nghiên cứu.Đặc biệt là sự hướng dẫn tận tình của TS. Khuất Thị Hoa.
Em xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng em.Những số
liệu và kết quả trong khoá luận là hoàn toàn trung thực.Đề tài chưa được công
bố trong bất cứ một công trình khoa học nào khác.

Hà Nội, ngày 17 tháng 5 năm 2013
Sinh viên


Vũ Thị Hân


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................. 4
4. Nguồn tư liệu vàphương pháp nghiên cứu ................................................ 4
5. Đóng góp của khóa luận ........................................................................... 5
6. Bố cục khóa luận ...................................................................................... 5
NỘI DUNG .................................................................................................... 6
Chương 1: CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA ĐẢNG .......................................... 6
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................. 6
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin ................................................... 6
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ ....................... 8
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN ............................................................................. 22
1.2.1. Vị trí và vai trò của phụ nữ trong lịch sử dân tộc ................................ 22
1.2.2. Đảng lãnh đạo thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trước năm
1986 ............................................................................................................. 25
Chương 2: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
QUYỀN BÌNH ĐẲNG CỦA PHỤ NỮ THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1986-2006). . 29
2.1. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM....................... 29
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ ............................................... 36
2.2.1. Thành tựu ........................................................................................... 36
2.2.2. Hạn chế .............................................................................................. 44
2.2.3. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy quyền bình đẳng của phụ nữ.... 49
KẾT LUẬN.................................................................................................. 58
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 60



1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quyền bình đẳng nam nữ là một bộ phận cấu thành quyền con người.
Xã hội không thể có tiến bộ và công bằng nếu như một bộ phận của xã hội
còn bị hạn chế hay bị loại ra khỏi những hoạt động chính của xã hội. Thế
nhưng từ khi xã hội phân chia giai cấp, xuất hiện áp bức bóc lột, nô dịch và
bất công thì sự bất bình đẳng giữa nam và nữ bắt đầu xuất hiện. Hậu quả của
sự áp bức đó không chỉ làm hạn chế sự phát triển của phụ nữ, mà còn cản trở
tiến trình phát triển của nhân loại. Tồn tại và kéo dài hàng mấy thế kỷ, sự bất
bình đẳng đã trở thành một trong những mục tiêu tiến công quan trọng của
các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, phụ nữ
luôn giữ vị trí quan trọng và có cống hiến to lớn, góp phần xây dựng truyền
thống vẻ vang của dân tộc.
Hồ Chí Minh là người nhận thức rõ vai trò và tầm quan trọng của phụ
nữ ngay từ buổi đầu hoạt động cách mạng. Người xem vấn đề quyền của phụ
nữ là bộ phận cấu thành quyền con người trong tổng thể các quyền cơ bản của
dân tộc và sớm có quan điểm về quyền bình đẳng giới.
Kếthừa, vận dụng, phát triển quan điểm của Hồ Chí Minh, ĐảngCSVN
có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đảm bảo việc thực hiện quyền bình
đẳng của phụ nữ từ khi ra đời. Kể từ đó đến nay, hướng tới thực hiện quyền
bình đẳng nam nữ là một nội dung trong đường lối chiến lược cách mạng của
Đảng với những thành tựu đáng kể, địa vị của phụ nữ Việt Nam ngày càng
được khẳng định và đề cao.
Tuy nhiên, do chưa nhận thức đầy đủ sự khác biệt về giới, chưa vận

dụng, tiếp thu đúng mức lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt chưa vận


2
dụng một cách triệt để, chưa tuyên truyền rộng rãi tư tưởng Hồ Chí Minh về
vấn đề giải phóng phụ nữ, nên sự nghiệp bình đẳng giới vẫn còn một số hạn
chế nhất định. Tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, nạn ngược đãi với phụ nữ, tác
phong gia trưởng chuyên quyền, độc đoán, sự thiếu bình đẳng vẫn tồn tại ở
nhiều gia đình, nhiều nơi trog xã hội.Mặt khác, xã hội và gia đình chưa quan
tâm, chia sẻ đúng mức, chưa chú ý bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt, tạo
điều kiện cho phụ nữ phát triển.Điều này đã làm chậm quá trình thực hiện
mục tiêu bình đẳng giới ở nước ta hiện nay.
Tình hình trên đã đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh hơn nữa công
tác nghiên cứu lý luận về bình đẳng giới, góp phần tìm ra những giải pháp chủ
yếu nhằm thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ.Đó là nhiệm vụ vừa cơ bản,
lâu dài, vừa có ý nghĩa thời sự cấp bách.Chính thực tế trên thôi thúc em chọn
đề tài “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền bình đẳng của
phụ nữ thời kì đổi mới(1986-2006)” làm khóa luận tốt nghiệpcủa mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về vấn đề phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh đến nay có
một số ấn phẩm của Nhà xuất bản phụ nữ: “HồChí Minh với vấn đề giải
phóng phụ nữ” (1970); “Bác Hồ với phong trào phụ nữ Việt Nam” (1982); “
Hồ ChíMinh với sự nghiệp giải phóng phụ nữ” (1990). Một số luận án thạc sĩ
Lịch sử Đảng, Triết học, Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giải
phóng phụ nữ: “Hồ Chí Minh với vấn đề giải phóng phụ nữ trong cách mạng
Việt Nam” của Đặng Thị Lương (1993); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng nữ” của Lê Minh Hà (1995). Một số luận văn cử nhân cao cấp đề cập
đến phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí Minh như : “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng phụ nữ” của Vũ Văn Vinh(2000); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải
phóng phụ nữ” của Vũ Thị Thúy Nhơn(2000) “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn

đề giải phóng phụ nữ” của Đào Tố Uyên (2003); “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí


3
Minh về giải phóng phụ nữ vào hoạt động thực tiễn của Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam trong thời kì đổi mới” của Trương Thị Thu Thủy(2006), v.v…Tất cả
các luận án, luận văn trên mới chỉ khai thác ở góc độ tư tưởng Hồ Chí Minh
về giải phóng phụ nữ nói chung chứ chưa nghiên cứu sâu về quyền bình đẳng
của phụ nữ trong tư tưởng của Người. Một số bài viết đăng trên tạp chí: “Chủ
tịch Hồ Chí Minh với công tác đào tạo, bồi dưỡng về đề bạt cán bộ nữ” của
Hoàng Thị Nữ, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6/1989; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
giải phóng phụ nữ và xây dựng đội ngũ cán bộ”của Nguyễn Thị Mão, Tạp chí
Xây dựng Đảng, số 10/1996; “Những quan điểm cơ bản về giải phóng phụ nữ
trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh” của PGS.TS Nguyễn Khánh Bật,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 3/2000; “Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc đào tạo,
bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nữ” của TS. Nguyễn Thị Kim Dung, Tạp chí Lịch
sử Đảng, số 11/2001…đã bước đầu đề cập đến quyền bình đẳng của phụ nữ
trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Còn viết về phụ nữ, về bình đẳng giới nói chung trong xã hội đến nay
đã có nhiều công trình nghiên cứu: “Phụ nữ giới và bình đẳng giới trong đổi
mới ở Việt Nam” (1998) của GS. Lê Thi; “Luận cứ về khoa học cho việc đổi
mới chính sách xã hội đối với phụ nữ và gia đình” do PGS. Trần Thị Vân Anh
làm chủ nhiệm. Một số bài viết trên tạp chí: “Quyền bình đẳng của phụ nữ
trong sự nghiệp và cuộc sống gia đình” của Nguyễn Thị Báo, Tạp chí Lý luận
chính trị số 10/2003…
Những công trình trên đã bước đầu đặt cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu phụ nữ nói chung và quyền bình đẳng của phụ nữ nói riêng, nêu kiến nghị
thay đổi, bổ sung những chính sách xã hội đối với phụ nữ để họ có điều kiện
phát triển, phát huy hết vai trò của mình trong sự nghiệp đổi mới.Kết quả của
những công trình đó là tài liệu quý giá để em hoàn thành khóa luận của mình.



4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
+ Mục đích.
Nghiên cứu quá trình Đảng lãnh đạo việc thực hiện quyền bình đẳng
của phụ nữ trong thời kỳ đổi mới từ việc định hướng ra đường lối chủ trương,
các giải pháp đến trực tiếp chỉ đạo thực hiện.
+ Nhiệm vụ
- Khái quát hóa những quan điểm của Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng
của phụ nữ.
- Làm rõ thực trạng việc thực hiện bình đẳng giới trong thời kỳ đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng, từ đó đề ra những giải pháp cho việc thực hiện
quyền bình đẳng của phụ nữ ở nước ta hiện nay.
+ Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu Đảng lãnh đao việc thực hiện quyền bình đẳng của
phụ nữ trong thời kỳ đổi mới giai đoạn từ 1986 đến 2006 trên phương diện
thực tiễn
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu được sử dụng chủ yếu trong khóa luận bao gồm:
- Các văn kiện của Đảng, Nghị quyết hội nghị BCH TƯ, các Nghị
quyết, Chỉ thị, Báo cáo của Trung ương Đảng.
- Các văn kiện Nhà nước như Hiến pháp, Pháp lệnh, Chỉ thị, Quyết định
của Chính phủ.
- Một số sách, báo, tạp chí viết về phụ nữ
- Các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này.
Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ, trong quá trình nghiên cứu em



5
có sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu: logic và lịch sử, phân tích
và tổng hợp các tư liệu thực tế để giải quyết nhiệm vụ đặt ra.
5. Đóng góp của khóa luận
- Làm rõ vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ trong tư tưởng Hồ Chí
Minh
- Thấy được thực trạng về bình đẳng giới trong xã hội hiện nay, những
thành tựu, hạn chế của việc thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ, từ đó đưa
ra những giải pháp phù hợp.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài còn
có 2 chương
Chương1: Cơ sở hình thành đường lối lãnh đạo thực hiện quyền bình
đẳng giới của Đảng
Chương 2: Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện quyền bình
đẳng của phụ nữ thời kỳ đổi mới (1986-2006)


6

Chương 1
CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
QUYỀN BÌNH ĐẲNG GIỚI CỦA ĐẢNG
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác -Lênin
Trong lịch sử nhân loại đã có nhiều nhà tư tưởng bàn đến vị trí, vai trò
của phụ nữ. Nhưng chỉ từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, vị trí, vai trò của phụ nữ
mới được nhận thức khoa học, đầy đủ, Mác đã chỉ rõ: “Trong lịch sử nhân

loại, không có một phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà lại
không có phụ nữ lao động tham gia, phụ nữ lao động là những người bị áp
bức nhất trong tất cả những người bị áp bức” [21, tr.60]. Theo đó ông khẳng
định, trong mỗi bước tiến của nhân loại đều có sự đóng góp quan trọng của
phụ nữ.Từ nhận thức khoa học đó, các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin coi việc thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ là một nội dung của
cách mạng xã hội. Đi sâu nghiên cứu nguyên nhân của sự bất bình đẳng, các
ông chỉ ra rằng chế độ tư hữu đã tạo ra sự phân chia giai cấp làm nảy sinh tình
trạng áp bức, bóc lột giai cấplà cội nguồn bất bình đẳng giữa nam và nữ trong
gia đình và xã hội.Người phụ nữ bị mất dần những quyền lợi về kinh tế và
chính trị, bị cô lập với xã hội, hoạt động của họ bị giới hạn trong công việc
nội trợ gia đình. Từ đó, các con đường tiến tới bình đẳng được chỉ ra:
Thứ nhất, cần xóa bỏ chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, xây
dựng chế độ công hữu.Việc làm này sẽ thủ tiêu sự lệ thuộc về kinh tế của phụ
nữ, tạo cơ sở xây dựng quyền bình đẳng của phụ nữ.
Thứ hai, không thể cột chặt người phụ nữ vào công việc gia đình, phải
đưa họ tham gia vào nền sản xuất của xã hội.


7
Thứ ba, phải xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ, hôn nhân
tự nguyện chứ không bị lợi ích kinh tế chi phối.
Quan điểm của các ông đã được V.I.Lênin kế thừa phát triển và hiện
thực hóa ở Nga.Lênin coi vấn đề giải phóng phụ nữ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của cách mạng. Lênin cho rằng: “Chừng nào mà phụ nữ không
những chưa được quyền tự do tham gia đời sống chính trị nói chung, mà cũng
chưa được quyền gánh vác một công vụ thường xuyên và chung cho hết thảy
mọi người, thì chừng ấy không những chưa có thể nói ngay đến chủ nghĩa xã
hội được mà cũng chưa thể nói đến ngay cả một chế độ dân chủ đầy đủ và bền
vững được [22, tr.201].
Sau khi cách mạng tháng Mười Nga thành công, Lênin đã hiện thực hóa

lý tưởng nam nữ bình đẳng bằng các chính sách cụ thể và thiết thực như:
Thứ nhất, luật pháp hóa quyền bình đẳng nam nữ.Hủy bỏ hoàn toàn
pháp luật tư sản, ban hành pháp luật mới tôn trọng quyền bình đẳng nam nữ.
Thứ hai, không chỉ giải phóng phụ nữ bằng luật pháp, để phụ nữ thực
sự được bình đẳng, có quyền tham gia quyết định vận mệnh đất nước của
mình mà còn phải đưa phụ nữ trực tiếp tham gia quản lý Nhà nước.
Thứ ba, không chỉ giải phóng phụ nữ ngoài xã hội mà phải giải phóng
họ ngay trong gia đình, vì chính nơi đây công việc đang đè nặng lên vai họ,
làm cho họ không thể phát triển như nam giới.Để giảm bớt gánh nặng này,
Lênin yêu cầu các cơ quan, các cơ sở sản xuất phải lập ra “một số cơ quan
kiểu mẫu như nhà ăn, nhà giữ trẻ, để giúp cho phụ nữ thoát khỏi công việc gia
đình” [23, tr.231].
Lênin quan niệm người phụ nữ phải được bình đẳng với nam giới về mọi
phương diện trong gia đình cũng như ngoài xã hội.Lênin đặc biệt quan tâm tới
gia đình, nơi phát sinh và duy trì sự bất bình đẳng hàng ngàn năm, nên đã đưa
ra một chính sách cụ thể, thiết thực giúp phụ nữ vươn lên bình đẳng cùng nam


8
giới.Có thể nói, cách mạng tháng Mười Nga không chỉ mở ra kỷ nguyên
giành độc lập cho các dân tộc bị áp bức mà còn mở đầu cho cuộc đấu tranh
giành quyền bình đẳng nam nữ. Tiếp theo nước Nga, một loạt các nước
XHCN ra đời và từng bước biến điều “không thể” (Bình đẳng nam nữ) thành
điều “có thể” và thành hiện thực, trong đó có Việt Nam.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đến với
chủ nghĩa Mác - Lênin và lĩnh hội đầy đủ những nguyên lý mà Mác - Lênin
đề ra, trong đó có tư tưởng giải phóng phụ nữ, thực hiện bình đẳng cho phụ
nữ.
Kế thừa những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò của phụ

nữ và quyền bình đẳng của phụ nữ; từ thực tiễn vai trò của phụ nữ thế giới;
của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử và hiện tại, Hồ Chí Minh đặt trọn niềm tin
của mình vào lực lượng phụ nữ Việt Nam: “An Nam cách mệnh cũng cần
phải có nữ giới mới thành công” [28, tr.289]. Và cũng từ đó, Hồ Chí Minh đã
hình thành quan điểm về giải phóng và thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ
bao gồm các nội dung:
*Giải phóng và thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ là mục tiêu của sự
nghiệp cách mạng vô sản; là sự nghiệp cách mạng lâu dài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
đặt vị thế, vai trò của phụ nữ ngang với nam giới và Người cũng là một trong
những lãnh tụ tiêu biểu của thế giới đề cao sự nghiệp giải phóng phụ nữ, thực
hiện quyền bình đẳng nam nữ.
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, đến đâu Nguyễn Ái Quốc
cũng thấy cảnh phụ nữ bị đối xử bất công, bị bóc lột, chà đạp nhân phẩm một
cách tàn nhẫn như phụ nữ Việt Nam. Vì thế, suốt cuộc đời hoạt động của


9
mình, Hồ Chí Minh luôn đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ và xem đó như
là một mục quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Hầu hết các tác phẩm, bài báo, bài phát biểu của mình, Hồ Chí Minh
luôn lưu ý đến vấn đề nữ giới. Trong tác phẩm nổi tiếng “Bản án chế độ thực
dân Pháp” viết năm 1925, Nguyễn Ái Quốc đã dành cả một chương để trình
bày cho toàn thế giới biết thân phận cũng như nỗi khổ nhục mà những phụ nữ
bản xứ phải gánh chịu, đó là:
- Người phụ nữ trở thành dâm bạo của thực dân.
- Người phụ nữ trở thành trọng điểm của “chính sách” bóc lột sức lao
động và cướp đoạt ruộng đất. Trong bài: “ Văn minh tư bản chủ nghĩa và phụ
nữ ở các nước thuộc địa” Nguyễn Ái Quốc đã mô tả:
Trong các nước bị chiếm đó, không có luật hay sự hạn chế nào để kiềm

chế bớt bọn bóc lột.Những người thợ bản xứ bị coi như súc vật.Người ta chỉ
cho họ những gì vừa đủ để khỏi chết đói.Người ta dùng roi để thúc họ đi.
Không có bảo hộ lao động không có bồi thường tai nạn. Người ta thấy lại
trong các thuộc địa đó tất cả hệ thống phong kiến trung cổ và dã man của chủ
nghĩa tư bản [29, tr.134].
Bằng những tư liệu cụ thể, Hồ Chí Minh đã phản ánh một cách tường
minh sự bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân không chỉ đối với phụ nữ Việt
Nam mà cả nhiều thuộc địa khác. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân
Pháp” nổi tiếng.
+ Phụ nữ Việt Nam là nạn nhân của chính sách nô dịch văn hóa và ngu
dân.
Đại bộ phận nhân dân ta bị thất học, và phụ nữ là người thiệt thòi
nhất.Trong 90% dân số nước ta thời Pháp thuộc bị mù chữ thì có tới 98% phụ
nữ là ở trong tình trạng tối tăm đó.Ở nông thôn, hầu hết phụ nữ không biết


10
chữ.Bọn thực dân muốn biến phụ nữ thành lớp người u mê, đần độn để dễ bề
sai khiến và tự do bóc lột áp bức hà hiếp họ.
Cùng với việc phơi bày những khổ nhục của phụ nữ, Hồ Chí Minh đã
chỉ ra cho nhân dân thế giới biết: mọi áp bức, nô dịch đối với phụ nữ và trẻ
em ở các nước thuộc địa chủ yếu là do chế độ áp bức dân tộc và bóc lột giai
cấp của chủ nghĩa thực dân.Vì vậy quyền lợi của người phụ nữ phải gắn liền
với quyền lợi của cả dân tộc. Do đó, muốn quyền lợi của phụ nữ được đảm
bảo thì trước tiên phải giành lại quyền lợi cho dân tộc, cho giai cấp.
Phân tích tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX,
Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc không còn con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản” [33, tr.314]. Đồng thời người
cũng xác định mục tiêu trước mắt và lâu dài là làm cách mạng giải phóng dân
tộc đem lại tự do cho dân tộc đồng thời với giải phóng phụ nữ đem lại quyền

bình đẳng cho phụ nữ, vì chỉ khi đánh đổ đế quốc, giành lại quyền tự quyết
cho dân tộc thì phụ nữ mới được bình đẳng.
Theo Hồ Chí Minh là một nước thuộc địa, phụ nữ muốn thoát khỏi áp
bức bóc lột và nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, thì phải cùng với toàn dân tộc
đứng lên làm cách mạng.
Trong tư tưởng giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh luôn có tư tưởng
về giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ, Người từng nói:
“Chúng ta làm cách mạng là để tranh lấy quyền bình đẳng trai gái đều ngang
quyền như nhau” [35, tr.195]. Trong một bài báo viết năm 1925, Hồ Chí Minh
đã viết: “Vì quyền lợi của đàn bà con gái An Nam mà chúng ta làm cách
mạng” [29, tr.443] và phân tích: “Đàn bà con gái cũng nằm trong nhân dân.
Nếu cả dân tộc được tự do, đương nhiên họ cũng được tự do. Ngược lại nếu
dân tộc còn trong cảnh nô lệ thì họ và con cái họ cũng sống trong cảnh nô lệ
mà thôi” [29, tr.443].


11
Với quan điểm nhất quán đó, Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc tập hợp,
đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp phụ nữ.Người luôn dùng gương xưa để cổ vũ
chị em phụ nữ. Trong bài Bà Trưng Trắc đăng trên báo Thanh niên số 73 ngày
12/12/1926 Người viết: “Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn bà con gái
còn biết kách mệnh. Huống chi bây giờ hai chữ “nữ quyền” đã rầm rầm khắp
thế giới chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên được! Chị
em ơi! Mau mau đoàn kết lại” [29, tr.457].
Năm 1930, trong Chính cương vắn tắt và lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng: “Thực hiện nam nữ bình quyền”. Sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945, với tư cách là Trưởng ban soạn thảo Hiến pháp, Hồ Chí Minh đề nghị
đưa vấn đề bình đẳng nam nữ vào Hiến pháp. Hiến pháp 1946 ghi rõ: “Đàn bà
ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Tuy nhiên thực tế việc thực
hiện sự ngang quyền giữa đàn bà và đàn ông là một việc vô cùng phức tạp.

Theo đó Người khẳng định: Thực hiện bình đẳng cho phụ nữ là một cuộc
cách mạng lâu dài và khó khăn, đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã hội.
Trước hết, cần có sự tiến bộ mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, cần
phát triển nhiều ngành nghề và áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để
giảm bớt các khâu lao động nặng nhọc từ đó cải thiện điều kiện lao động sinh
sống của phụ nữ.
Thứ hai, cần có sự tiến bộ về chính trị. Sự tiến bộ về mặt chính trị gắn
liền với quá trình thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội, lành mạnh hóa các
mối quan hệ giữa phụ nữ và các thành viên khác. Có như vậy quyền bình
đẳng, tự do của chị em mới được đảm bảo.
Thứ ba, cần có sự tiến bộ về pháp luật. Sự tiến bộ của pháp luật thể
hiện một cách rõ ràng, cụ thể, chính xác quyền lợi và nghĩa vụ của phụ nữ.
Thứ tư, cần có sự tiến bộ về văn hóa tư tưởng. Sự tiến bộ của văn hóa
tư tưởng nhằm xóa bỏ những trở ngại tinh thần và xã hội đang cố duy trì sự


12
bất bình đẳng giữa nam và nữ.Chỉ có sự phát triển giáo dục mới giúp phụ nữ
nâng cao trình độ học vấn, tạo điều kiện phát triển toàn diện và tham gia vào
các lĩnh vực hoạt động xã hội bình đẳng với nam giới.
Để đảm bảo quyền tự do dân chủ của chị em dưới chính quyền cách
mạng, Hồ Chí Minh chú ý đến cục diện mới của việc đấu tranh giành quyền
bình đẳng cho phụ nữ khi họ đã trở thành chủ nhân của đất nước. Người
khẳng định chính quyền cách mạng phải là công cụ đắc lực phục vụ cho sự
nghiệp giải phóng phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng cho phụ nữ.
Dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính quyền cách mạng đã
ban hành Hiến pháp và hàng loạt các luật bảo vệ quyền lợi của phụ nữ. Nhưng
muốn biến nó thành hiện thực thì phải đòi hỏi sự nỗ lực to lớn của toàn dân,
của tất cả các chị em phụ nữ, hay nói cách khác là của toàn xã hội. Đây quả
thật là một cuộc cách mạng đầy khó khăn “phải cách mạng từng người, từng

gia đình đến toàn dân”.
* Quyền bình đẳng của phụ nữ phải toàn diện trên các lĩnh vực của đời
sống xã hội
- Về chính trị:
Theo Hồ Chí Minh, để thực hiện bình đẳng trên lĩnh vực chính trị,
trước hết cần phải bắt đầu từ việc trang bị cho phụ nữ công cụ lý luận, tổ chức
họ tự giác tham gia tích cực cuộc đấu tranh giải phóng cho chính họ từ người
dân mất nước trở thành công dân của một nước tự do. Phụ nữ được bình đẳng
về chính trị thể hiện cụ thể ở quyền tham gia các hoạt động chính trị (quyền
bầu cử, ứng cử), trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý một cách bình đẳng với
nam giới. Có quyền tự do ngôn luận, đi lại, cư trú, và quyền bình đẳng trước
pháp luật…
Với cương vị là người đứng đầu đất nước, ngay trong phiên họp đầu
tiên của Chính phủ (3/9/1945) Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách,


13
trong đó có Tổng Tuyển cử, xây dựng Hiến pháp. Và phụ nữ Việt Nam lần
đầu tiên phụ nữ Việt Nam được thực hiện quyền công dân của mình trong
cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội ngày 6 - 1 - 1946. Sau đó, Hiến pháp năm
1946 đã được Quốc hội khóa I thông qua tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I.
Hồ Chí Minh vui mừng công bố: Hiến pháp đó đã tuyên bố với thế giới Phụ
nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung
mọi quyền tự do của công dân [31, tr.440].
Về quyền bình đẳng chính trị của phụ nữ, điều 18 Hiến pháp 1946 ghi
rõ: “Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên không phân biệt gái, trai,
đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người mất công dân”
[18, tr.11].
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam quyền bình đẳng của phụ nữ
được pháp luật của nhà nước công nhận. Người phụ nữ có cơ sở pháp lý để

đảm bảo tự do trong cuộc sống của mình. Nguyên tắc hiến định đó tiếp tục
được mở rộng, phát triển trong Hiến pháp sửa đổi năm 1959. Tại điều 24
chương III Hiến pháp ghi rõ: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có
quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa,
gia đình [18, tr.38]. Ngoài ra Hiến pháp còn quy định “Mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật” (Điều 55) và “Công dân có quyền tham gia quản lý
công việc của Nhà nước và hội” (Điều 56).
Những nguyên tắc trên được Hồ Chí Minh chỉ đạo hiện thực hóa trong
quá trình lãnh đạo cách mạng. Người nhiều lần nhắc nhở các sở ban ngành
phải chú ý chăm lo bồi dưỡng phát triển cán bộ nữ. Khi đến thăm lớp bồi
dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, quan sát chỉ vài cán bộ nữ, Bác phê bình:
“Cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót. Các đồng chí phụ trách lớp học chưa
quan tâm tới việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là thiếu sót chung của
Đảng” [35, tr.208]. Thực hiện quyền bình đẳng về chính trị, nhiều phụ nữ đã


14
có cơ hội tham gia công tác quản lý, kể cả phụ nữ miền núi như: các chị
Nguyễn Thị Khoa ở Hòa Bình, Vi Thị Hóa ở Nghĩa Lộ là làm Tỉnh ủy viên,
chị Bùi Thị Na là chủ nhiệm Hợp tác xã…
Dưới sự quan tâm của Hồ Chí Minh, có thể nói, phụ nữ đã được bình
đẳng với nam giới trong đời sống chính trị. Hầu hết phụ nữ đến tuổi trưởng
thành đều được tham gia sinh hoạt chính trị: được quyền bầu cử, ứng cử, được
tham gia sinh hoạt ở các đoàn thể, nhiều phụ nữ đã được tham gia vào bộ máy
Nhà nước. Số phụ nữ tham gia chính trị ngày càng tăng lên. Đó là kết quả của
quá trình nhận thức và tổ chức thực hiện tư tưởng bình đẳng nam nữ về chính
trị của Hồ Chí Minh.
- Về kinh tế:
Để phụ nữ thật sự bình đẳng về chính trị cần phải xóa bỏ sự lệ thuộc
của họ về kinh tế, thực hiện bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế.

Bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế tức là phụ nữ có việc làm, có thu nhập
như nam giới, bình đẳng với nam giới trong quan hệ tài sản… Điều này được
khẳng định trong Hiến pháp năm 1946: “Tất cả mọi công dân đều ngang
quyền về kinh tế (Điều 6) [18, tr.9] và “Quyền tư hữu tài sản được đảm bảo”
(Điều 12).
Ngay sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1954), Hồ Chí
Minh đã chủ trương tiến hành cải cách ruộng đất, xác định quyền bình đẳng
về sở hữu ruộng đất của phụ nữ. Người đã chỉ ra rằng: “Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội phải làm gì? Nhất định phải tăng gia cho sản xuất thật nhiều.
Muốn có nhiều sức lao động thì phải giải phóng sức lao động của phụ nữ”
[33, tr.523].
Để giải phóng sức lao động của phụ nữ, trước hết là đưa phụ nữ tham
gia vào nhiều ngành nghề mới phát triển như công thương nghiệp, văn hóa,
giáo dục, y tế, khoa học… Đồng thời gạt bỏ các trở ngại đang hạn chế việc


15
phát huy sức mạnh tiềm tàng về năng lực, trí tuệ, về phẩm chất đạo đức tốt
đẹp của người phụ nữ.
Trước hết, cần nói đến quyền phụ nữ có việc làm bình đẳng như nam
giới. Đó là quyền cơ bản đầu tiên của con người. Người công dân bất cứ nam
hay nữ đều được quyền xin vào làm việc ở bất cứ ngành nghề nào nếu họ đủ
trình độ và khả năng cần thiết và đáp ứng yêu cầu nhân lực của ngành nghề
đó. Hiến pháp sửa đổi năm 1959 quy định: “Công dân nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa có quyền làm việc” (Điều 30), đồng thời Hiến pháp còn quy
định “Cùng việc làm như nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với nam
giới” (Điều 24) [18, tr.39].
Tuy nhiên do tồn tại những tư tưởng coi thường khả năng làm việc của
phụ nữ, và sự hạn chế về trình độ văn hóa, trình độ nghề nghiệp của chị em
nên khó tránh khỏi sự phân biệt đối xử trong tuyển chọn lao động. Để khắc

phục tệ phân biệt đối xử đó, Hồ Chí Minh nhắc nhở các cấp lãnh đạo quan
tâm, tạo điều kiện giúp đỡ chị em phụ nữ nâng cao trình độ kiến thức, chuyên
môn kỹ thuật. Người yêu cầu phải lập nhà trẻ, vườn trẻ, nhà ăn để phụ nữ yên
tâm công tác, yên tâm lao động. Mặt khác Hồ Chí Minh đề nghị ban hành
những chế độ chính sách cần thiết để thúc đẩy sự phân bổ, sử dụng lao động
nữ một cách hợp lý. Nghị quyết 31- CP ban hành ngày 8 - 3 - 1967 về “Tăng
cường lực lượng lao động nữ trong các cơ quan xí nghiệp” đã đáp ứng yêu
cầu của Hồ Chí Minh. Nghị quyết nêu rõ:
“Các ngành công nghiệp nặng, giao thông, kiến trúc, thủy lợi, quốc
phòng cũng tăng thêm phụ nữ vào công việc thích hợp. Những công việc như
văn thư, đánh máy, điện thoại, kế toán , thống kê… thì kiên quyết để phụ nữ
đảm nhiệm”.
Chính sách trên đã tạo nên bước chuyển biến mới mẻ trong việc sử
dụng lao động nữ. Nhiều phụ nữ từ khu kinh tế nông nghiệp đã chuyển sang


16
làm việc ở nhiều ngành nghề sản xuất khác, xóa bỏ dần sự phân biệt đối xử
nam nữ trong việc tuyển chọn, sắp xếp lao động vào cơ quan Nhà nước.
Có thể nói, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quan tâm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, quyền bình đẳng của phụ nữ trong lĩnh vực kinh tế đã được xác
lập. Tỷ lệ lao động là phụ nữ ngày càng tăng lên trong các ngành nghề. Nhận
xét về khả năng làm kinh tế của phụ nữ, Hồ Chí Minh khẳng định: Phụ nữ là
lực lượng lao động quan trọng trong xã hội, là đội quân chủ lực tạo ra của cải
vật chất làm giàu cho đất nước.
- Về văn hóa:
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”
[31, tr.28]. Ngay từ đầu cách mạng, Người đã nhìn thấy rõ chỉ có tri thức mới
giải phóng con người, đưa con người tới mọi quyền bình đẳng.Để phụ nữ bình
đẳng với nam giới, chỉ có con đường là phụ nữ phải học tập, nâng cao nhận

thức và hiểu biết về mọi mặt để tham gia vào các hoạt động xã hội, khẳng
định vị trí của mình. Cho nên, ngay sau Cách mạng Tháng Tám 1945 thành
công, Hồ Chí Minh hết sức chú trọng đến việc phát động chiến dịch diệt “giặc
dốt” để xóa dần tình trạng dốt nát của nhân dân ta do chính sách ngu dân của
Pháp để lại.
Trong chiến dịch đó, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến nữ
giới.Người đã không ngừng khuyến khích chị em chịu khó học tập nâng cao
hiểu biết để có khả năng làm chủ đất nước, ngang hàng với nam giới. Người
đã nói:
“Mọi người Việt Nam phải hiểu biết về quyền lợi của mình, bổn phận
của mình, phải có kiến thức để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước
nhà.Phụ nữ lại càng cần phải học, đã lâu chị em bị kìm hãm.Đây là lúc các chị
em phải cố gắng để kịp nam giới, để xứng đáng mình là phần tử trong nước”
[30, tr.37].


17
Theo Hồ Chí Minh, học tập để nâng cao trình độ văn hóa sẽ giúp chị
em nhận thức đúng đắn, vươn lên làm chủ về mọi mặt một cách vững chắc,
thoát khỏi sự phụ thuộc bất công mà chế độ phong kiến và thực dân dùng để
trói buộc họ. Có văn hóa phụ nữ sẽ phát huy được tài năng, trí tuệ cho phép
họ có những cống hiến to lớn cho đất nước và nhân loại.
Mặt khác, chủ trương Hồ Chí Minh nâng cao trình độ văn hóa cho phụ
nữ cũng nhằm giải thoát phụ nữ khỏi ảnh hưởng của thần quyền, của những
thành kiến sai lầm, những phong tục tập quán hủ lậu mà các thế lực thống trị
đã lợi dụng để trói buộc và đè nén phụ nữ, khiến họ phải an phận, sống trong
cảnh tối tăm và bất công. Chính sự dốt nát đã làm cho người phụ nữ lâm vào
bước đường cùng khổ, và đó cũng chính là nguồn gốc sâu xa dẫn đến sự tồn
tại kéo dài của những thiên kiến sai lầm và những tín điều duy tâm.Chỉ khi
nào trình độ văn hóa của phụ nữ được nâng cao thì họ mới trút bỏ được những

tư tưởng lạc hậu và nhận thức sai lầm đó.
Với quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã đề nghị đưa vào Hiến pháp vấn đề
bình đẳng nam nữ trong lĩnh vực văn hóa để bảo vệ quyền lợi của phụ nữ
trong lĩnh vực này. Điều 6, Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm
1946 quy định: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương
diện: chính trị, kinh tế, văn hóa” [18, tr.9]. Vấn đề này được Hiến pháp năm
1959 bổ sung rõ hơn: “Phụ nữ nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa có quyền
bình đẳng với nam giới về sinh hoạt văn hóa” (Điều 24) [18, tr.38 - 39], “có
quyền học tập” (Điều 33);
“Quyền tự do nghiên cứu khoa học, sáng tác văn học, nghệ thuật và tiến
hành các hoạt động văn hóa khác” (Điều 23) [18, tr.41].
Không chỉ quan tâm tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền học tập nâng cao
trình độ của phụ nữ mà cả trong thực tế Hồ Chí Minh luôn quan tâm theo dõi
việc đào tạo, bồi dưỡng phụ nữ. Người rất bất bình với tình trạng bất bình


18
đẳng về địa vị giữa nam và nữ trong xã hội, mà nguyên nhân của nó là do
trình độ của phụ nữ thấp kém hơn nam giới. Người đã hết sức tuyên truyền
giác ngộ để mọi người nhận thức rõ hơn vai trò của phụ nữ và vận động mọi
người cùng nhau giúp đỡ để phụ nữ vươn lên khẳng định địa vị của mình. Bác
thường nhắc nhở cán bộ lãnh đạo các cấp rằng: Từ nay các cấp Đảng, chính
quyền địa phương khi giao công việc cho phụ nữ phải căn cứ vào trình độ của
từng người và cần phải tích cực giúp đỡ họ nhiều hơn nữa [34, tr.184].
Dưới sự quan tâm của Bác, của Đảng, phụ nữ Việt Nam đã thoát khỏi
kiếp sống tối tăm, u mê.Trẻ em trai cũng như gái đều được cắp sách đến
trường. Phụ nữ không phải chỉ biết trau dồi “công, dung, ngôn, hạnh”, mà họ
được học tập nâng cao hiểu biết, phát triển tài năng trí tuệ của mình, vươn lên
làm chủ đời mình, làm chủ đất nước ngang hàng với nam giới.
- Về gia đình-xã hội:

Gia đình là bức tranh thu nhỏ của xã hội, trong đó bộc lộ đầy đủ và rõ
ràng địa vị của người phụ nữ trong mối tương quan xã hội với nam giới.
Trong gia đình, phụ nữ là người đóng vai trò quan trọng nhất, trách
nhiệm của họ thật lớn lao. Thế nhưng trong gia đình Việt Nam trước đây, phụ
nữ thường bị coi khinh, bị ngược đãi. Mặc dù sau này pháp luật quy định rõ
quyền bình đẳng nam nữ nhưng do tàn tích của lịch sử để lại nên trong nhiều
gia đình phụ nữ vẫn chưa được bình đẳng hoàn toàn với nam giới. Nhiều nơi
vẫn còn xảy ra các tệ: đánh vợ, ép duyên con gái… Từ thực tế đó, Hồ Chí
Minh cho rằng muốn thực hiện bình đẳng nam nữ trước hết là phải giải phóng
phụ nữ ra khỏi sự trói buộc của tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, ra khỏi sự bất
công ngay trong gia đình.
Để bảo vệ quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình, Hồ Chí Minh
yêu cầu ban hành Luật hôn nhân và gia đình. Việc ban hành và thực hiện luật
hôn nhân gia đình là một cuộc cách mạng thật sự, bởi lẽ đạo luật này sẽ tham


19
gia xóa bỏ sự phân biệt giữa nam và nữ trong hôn nhân và gia đình. Người
yêu cầu các đoàn thể có trách nhiệm tuyên truyền cho từng gia đình và toàn
thể cộng đồng trong xã hội, đồng thời kêu gọi chị em phụ nữ phải tìm hiểu
nắm chắc luật để làm cơ sở đấu tranh bảo vệ quyền bình đẳng trong gia đình
của mình.
Được sự quan tâm của Hồ Chí Minh và sự điều tiết của pháp luật,
những tệ nạn cũ (gia trưởng: đánh vợ, chửi vợ, ép duyên…) dần được xóa bỏ.
Hầu hết các gia đình thực hiện nếp sống mới, công việc trong gia đình được
các thành viên quan tâm chia sẻ, không còn tình trạng trút hết lên đầu phụ nữ.
Hồ Chí Minh quan niệm vai trò của phụ nữ trong gia đình và ngoài xã
hội không hạn chế, triệt tiêu nhau, mà thống nhất bổ sung cho nhau. Vai trò
của phụ nữ trong xã hội được thể hiện chính từ vai trò của họ trong gia
đình.Bởi lẽ gia đình là hạt nhân của xã hội.Gia đình càng tốt thì xã hội mới

tốt.Mối quan hệ giữa gia đình và xã hội là mối quan hệ hữu cơ gắn bó chặt
chẽ.Được bình đẳng về mặt xã hội là điều kiện để phụ nữ xây dựng gia đình.
Vì vậy, để thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình phải gắn liền
với thực hiện bình đẳng của họ trong xã hội và nâng cao vị thế của phụ nữ
trong xã hội và ngược lại được bình đẳng trong gia đình sẽ tạo điều kiện cho
phụ nữ tham gia nhiều hơn công việc xã hội.
Quan tâm đến quyền bình đẳng của phụ nữ trong gia đình và xã hội, Hồ
Chí Minh còn rất quan tâm đến việc đề ra chính sách ưu đãi đối với phụ nữ để
phụ nữ có điều kiện tham gia hoạt động bình đẳng như nam giới. Hiến pháp
năm 1959 quy định rõ: “Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ công nhân và phụ nữ
viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên lương. Nhà
nước bảo hộ quyền lợi này của người mẹ và trẻ em, bảo đảm phát triển các
nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ” [18, tr.39].


20
Như vậy, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt
Nam, vấn đề thực hiện bình đẳng nam nữ đã được đề ra và thực hiện nghiêm
túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, trong những bước
đầu thực hiện sự nghiệp ấy đã gặp không ít khó khăn bởi những phong tục,
tập quán cổ hủ từ hàng ngàn năm nay. Theo Hồ Chí Minh, muốn xóa bỏ đòi
hỏi phải có thời gian và biện pháp cụ thể.
*Biện pháp thực hiện
Là nhà chính trị lỗi lạc, Hồ Chí Minh còn là nhà khoa học với tư duy
biện chứng, luôn gắn lý luận với thực tiễn. Để thực hiện nhiệm vụ cao cả
nhưng vô cùng khó khăn đó, cần phải có quyết tâm, đặc biệt phải có biện
pháp cụ thể. Theo Người, có những biện pháp sau:
+ Thực hiện bình đẳng cho phụ nữ phải gắn với chủ trương, chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước
Xuất phát từ nhận thức đúng đắn về vai trò của phụ nữ trong xã hội và

tầm quan trọng của lực lượng phụ nữ trong thực tiễn cách mạng Việt Nam,
Hồ Chí Minh đã xác định trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã
hội với sự nghiệp thực hiện bình đẳng nam nữ.
Theo Người, Đảng và Nhà nước phải quan tâm giúp đỡ phụ nữ, giải
thoát phụ nữ khỏi những bất công của xã hội bằng cách đề ra chủ trương
chính sách cụ thể để giáo dục toàn dân thực hiện. Trên cơ sở các nguyên tắc
Hiến pháp đã định, Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng và Nhà nước phải có kế hoạch
cụ thể hóa các nguyên tắc đó.
Tuy nhiên để quyền bình đẳng của phụ nữ được thực hiện không phải
chỉ đề ra chủ trương chính sách là đủ mà còn phải tạo điều kiện thuận lợi cho
phụ nữ tham gia lao động sản xuất, bảo hộ sức khỏe, giảm nhẹ gánh nặng gia
đình, có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng để phụ nữ thể hiện hết khả năng của
mình. Người nói: “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi


21
dưỡng cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công
việc kể cả công việc lãnh đạo” [35, tr.504].
Không chỉ quan tâm đến nâng cao vai trò, địa vị của phụ nữ mà Hồ Chí
Minh còn yêu cầu các cấp lãnh đạo phải có chủ trương, biện pháp bảo vệ sức
khỏe cho phụ nữ. Người thường nhắc nhở: “Phải đặc biệt chú ý đến sức khỏe
lao động phụ nữ. Phụ nữ là đội quân lao động rất đông phải giữ gìn sức khỏe
cho phụ nữ để chị em tham gia sản xuất được tốt” [35, tr.194]. Người đặc biệt
lưu ý các cấp lãnh đạo trong việc phân phối hợp lý công tác cho phụ nữ.
Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở các cấp lãnh đạo phải triển khai
chủ trương, đường lối và thực hiện chính sách một cách cụ thể, thiết thực, nói
đi đôi với làm, không được xa rời quần chúng phải bám sát các hoạt động của
phụ nữ, hướng dẫn, giúp đỡ họ tháo gỡ khó khăn. Người nói: “Các cấp lãnh
đạo đi sát hơn, thiết thực hơn thì phong trào phụ nữ chắc rộng hơn mạnh hơn
nữa” [32, tr.432].

Để phong trào phụ nữ mạnh hơn, rộng hơn, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ. Theo Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp
Phụ nữ phải là cầu nối giữa Đảng với các tầng lớp phụ nữ thông qua việc
tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Chính phủ, đặc biệt là các chủ
trương, chính sách có liên quan đến phụ nữ.
+ Thực hiện bình đẳng cho phụ nữ là sự nghiệp của bản thân phụ nữ
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện bình đẳng nam nữ là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước và toàn xã hội, nhưng để thực hiện thành công
nhanh chóng sự nghiệp đó thì trước hết bản thân nữ giới phải tự vươn lên.
Đây là một yếu tố mang tính quyết định. Chính vì vậy phụ nữ không nên
trông chờ vào việc thực thi các chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp
của Nhà nước, mà phải tự đấu tranh để khẳng định vị trí của mình.


22
Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến cuộc đấu tranh giúp phụ nữ vượt khỏi
tư tưởng an phận với cuộc sống gia đình, với hạnh phúc chật hẹp, động viên
họ mang những khả năng của mình tham gia và đóng góp cho các công việc
xã hội, phấn đấu học tập, xóa bỏ những mặc cảm tự ti.
Người luôn khơi dậy tính tự trọng, khả năng nỗ lực tự vươn lên của phụ
nữ, khuyến khích phụ nữ đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của mình.
Như vậy, cùng với việc khẳng định vai trò của Đảng và Nhà nước trong
công cuộc thực hiện bình đẳng nam nữ. Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh ý thức
trách nhiệm của phụ nữ trong công cuộc đó, tức phụ nữ phải tự ý thức về
quyền lợi và nghĩa vụ của mình (phải đem sức ta tự giải phóng cho ta), “phụ
nữ ta phải xóa bỏ cái tâm lý tự ti và ỷ lại, bảo thủ, phủ nhận, thủ tiêu đấu tranh
làm nhụt ý chí chiến đấu.
Theo Hồ Chí Minh để thực hiện cuộc cách mạng nam nữ bình quyền
thành công triệt để, đòi hỏi phải có sự quan tâm giúp đỡ của Đảng và Nhà
nước, sự kiên quyết đấu tranh để vươn lên khẳng định vị trí của mình của bản

thân phụ nữ và sự tham gia hưởng ứng của toàn xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền bình đẳng của phụ nữ là một cống
hiến to lớn của Người đối với sự phát triển của phụ nữ. Tư tưởng đó bắt
nguồn từ thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, những quan điểm, tư tưởng đó đã được
cuộc sống đón nhận, phụ nữ Việt Nam đã có quyền bình đẳng một cách căn
bản, nguyện vọng của chị em phụ nữ đã được thỏa mãn một phần đáng kể.
1.2.CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1.Vị trí và vai trò của phụ nữ Việt Nam trong lịch sử dân tộc
Để tồn tại và phát triển, dân tộc Việt Nam phảigồng mình lên chống lại
2 loại giặc: tự nhiên và xã hội, trong đó chống xâm lược bảo vệ độc lập, tự do
là nhiệm vụ thường trực và là điều kiện tiên quyết để dân tộc tồn tại và phát
triển. Từ đó hình thành nên quy luật “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” .Vậy


×