Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI NGỮ VĂN 9 PHẦN TRUYỆN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (306.57 KB, 26 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TAM ĐẢO
----------

CHUYÊN ĐỀ
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
NGỮ VĂN 9
PHẦN TRUYỆN TRUNG ĐẠI VIỆT NAM.

Họ và tên: TRẦN KIM TUYẾN
Chức vụ: Giáo viên.
Đơn vị: Trường THCS Yên Dương
Huyện Tam Đảo – Tỉnh Vĩnh Phúc.

NĂM HỌC 2015 – 2016

1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, việc nâng cao chất lượng học sinh mũi nhọn đang là một vấn đề được
mọi giáo viên đặc biệt quan tâm. Làm thế nào để công tác bồi dưỡng học sinh giỏi nói
chung và học sinh giỏi môn Ngữ Văn 9 nói riêng đạt được kết quả cao? Đây luôn là một
câu hỏi đặt ra cho mỗi giáo viên đứng đội tuyển. Thực tế cho thấy, các giáo viên khi
được phân công phụ trách bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi luôn lo lắng, trăn trở, tìm
tòi những hướng đi, những giải pháp cho công tác bồi dưỡng nhưng kết quả đạt được có
khi chưa cao, chất lượng đội tuyển vẫn còn hạn chế.
Bồi dưỡng học sinh giỏi văn ở cấp thcs đã khó, bồi dưỡng học sinh giỏi văn 9 lại
càng khó hơn, đặc biệt là mảng Văn học trung đại Việt Nam. Bởi lẽ, đây là mảng văn
học cổ, có sử dụng hệ thống đặc trưng thi pháp riêng, mang tư tưởng của con người
trung đại. Trong phần văn học trung đại chương trình Ngữ văn 9 có các tác phẩm nổi


tiếng như "Chuyện người con gái Nam Xương"; "Truyện Kiều"… Đây là các tác phẩm
hay nhưng khá khó, có nhiều kiến thức mở rộng, nâng cao cho đối tượng học sinh giỏi.
Vì vậy, trong khuôn khổ chuyên đề này, chúng tôi chọn một số kiến thức cơ bản của
văn bản trung đại để bồi dưỡng cho đội tuyển học sinh giỏi lớp 9 với mục đích:
- Giúp đội tuyển HSG Ngữ văn 9 có thể nắm được các kiến thức cơ bản, kiến thức
nâng cao cũng như các kiểu bài thường gặp có liên quan đến phần truyện trung đại Việt
Nam thuộc chương trình Ngữ văn 9.
- Giúp Đội tuyển HSG biết vận dụng kiến thức đã học vào giải quyết các bài tập
liên quan đến nội dung chuyên đề. Có kĩ năng giải quyết các bài tập ở các dạng khác
nhau.
- Giáo dục cho HS có ý thức học tập tốt, tìm hiểu tài liệu để mở rộng, nâng cao
kiến thức, có những hiểu biết sâu sắc hơn về phần truyện trung đại Việt Nam; vận dụng
tốt kiến thức đã học vào việc giải các bài tập.
Phần nội dung chuyên đề có cấu trúc như sau:
- Đối tượng học sinh bồi dưỡng, dự kiến số tiết bồi dưỡng.
- Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề.
- Hệ thống các dạng bài tập đặc trưng của chuyên đề.
- Hệ thống các phương pháp cơ bản, đặc trưng để giải các dạng bài tập trong
chuyên đề.
- Hệ thống các ví dụ, bài tập cụ thể cùng lời giải minh họa cho chuyên đề.
- Các bài tập tự giải.

2


B. NỘI DUNG
I - ĐỐI TƯỢNG, THỜI GIAN THỰC HIỆN.
1. Đối tượng bồi dưỡng: Đội tuyển HSG Ngữ Văn lớp 9.
2. Thời gian thực hiện: 20 tiết
- Lí thuyết: 4 tiết

- Bài tập minh họa: 16 tiết.
+ Kiểu bài phân tích tác phẩm Văn học: 5 tiết.
+ Kiểu bài phân tích nhân vật: 5 tiết.
+ Kiểu bài nghị luận tổng hợp về một vấn đề Văn học: 6 tiết.
II – HỆ THỐNG KIẾN THỨC SỬ DỤNG TRONG CHUYÊN ĐỀ.
1. Kiến thức cơ bản trong SGK.
Nắm được kiến thức cơ bản về nội dung, nghệ thuật của các tác phẩm (đoạn trích)
học trong chương trình.
- Chuyện người con gái Nam Xương.
- Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi 14) .
- Truyện Kiều của Nguyễn Du (các đoạn trích học).
- Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga.
2. Kiến thức nâng cao, mở rộng
a. Một số đặc điểm cơ bản của Văn học trung đại cần chú ý
- Văn học trung đại lấy văn học dân gian làm nền tảng.
Đây là đặc trưng cơ bản của văn học trung đại vì: văn học dân gian giữ vai trò
quan trong đối với việc hình thành văn xuôi tự sự và thơ trữ tình trung đại; suốt tiến
trình phát triển văn học, văn học dân gian luôn hỗ trợ, thúc đẩy văn học viết phát triển
và nâng cao. Và như vậy, sự phát triển của văn học trung đại chính là sự kế thừa về cốt
truyện, thi pháp thơ dân gian.
- Văn học dân gian là sự tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo tinh hoa từ nền văn
học Trung Hoa, Ấn Độ và các nước lân cận
Khi văn học viết Việt Nam ra đời thì nền văn học Trung Hoa đã phát triển đầy đủ
và rực rỡ. Trong điều kiện lân bang, phụ thuộc, văn học trung đại đã tiếp thu, cải biến
tinh hoa văn học của họ cho phù hợp với hoàn cảnh truyền thống và tâm lí, thẩm mĩ
Việt Nam.
Chúng ta tiếp thu các thể thơ theo quy định về niêm luật.., về văn xuôi tự sự thì
không có con đường nào khác ngoài việc biến đổi nội dung và cách diễn đạt.
Ngoài việc tiếp nhận các thể văn, thể thơ, các tác giả trung đại còn tiếp nhận cả
cách biểu hiện, hệ thống điển tích, điển cố, thi liệu, văn liệu trong nền văn học Trung

Hoa để làm giàu cho kho tàng văn học nghệ thuật Việt Nam.
Song song với việc tiếp thu các thể loại văn học Trung Hoa, người Việt còn tiếp
thu tinh hoa từ nền văn học Ấn Độ (với hệ tư tưởng Phật giáo, các loại hình văn học
Phật giáo) và cái hay, cái đẹp từ nền văn học các nước lân cận như Chăm- Pa, Lào, Căm
pu chia, Thái Lan…
- Văn học trung đại gắn bó với vận mệnh đât nước, với những số phận của
con người Việt Nam
Văn học trung đại là đứa con sinh ra từ lòng mẹ dân tộc, gắn bó máu thịt với vận
mệnh đất nước, phản ánh tất cả những hạnh phúc lớn lao cùng nỗi đau tột cùng của tổ
3


quốc (Việt điện u linh; Lĩnh nam chích quái liệt truyện; Bình Ngô đại cáo; Hoàng Lê
nhất thống chí…) và gắn bó với từng số phận của con người Việt Nam (Truyền kì mạn
lục; Đoạn trường tân thanh; thơ Hồ Xuân Hương…).
- Văn học trung đại luôn không ngừng đổi mới để đảm nhiệm ngày càng tốt
hơn trọng trách mà lịch sử giao phó
Cũng như văn học trung đại các nước khác trên thế giới, văn học trung đại Việt
Nam chịu sự tác động của thủ pháp sáng tác trung đại như:
+ Vay mượn đề tài có sẵn trong văn học dân gian hoặc trong văn học viết mà tái
tạo lại thành một tác phẩm mới để phản ánh thời đại mình (Thánh Tông di thảo, Truyền
kì mạn lục, Đoạn trường tân thanh…).
+ Sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng vừa là cách gọt đi những cái xù xì, thô
giáp của đời thường, thanh lọc những cái trần tục, vừa là cách diễn đạt tư tưởng tình
cảm và hiện thực của người trung đại trong văn chương (Đoạn trường tân thanh, Chinh
phụ ngâm khúc, Cung oán ngâm khúc…).
- Văn học trung đại chịu sự chi phối mạnh mẽ của các hệ tư tương kinh điển
Bất kì một thời đại nào cũng chịu ảnh hưởng của một hệ tư tưởng nào đó. Hệ tư
tưởng sẽ chi phối tư tưởng của toàn thể xã hội đó. Việt Nam cũng không phải là ngoại
lệ, chỉ xét riêng trong thời trung đại chúng ta chịu sự chi phối của ba hệ tư tưởng kinh

điển du nhập từ nước ngoài: Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo.
b. Một số bước cần thực hiện khi tìm hiểu các tác phẩm truyện trung đại Việt
Nam thuộc chương trình Ngữ văn 9 (dạng văn nghị luận).
Bước 1: Nắm vững nội dung kiến thức các tác phẩm Văn học.
Nắm chắc nội dung toàn tác phẩm bằng cách trả lời các câu hỏi sau:
- Tác phẩm do ai sáng tác?
- Sáng tác trong bối cảnh lịch sử như thế nào?
- Đề tài và chủ đề của tác phẩm?
- Giá trị của tác phẩm đó?
- Các biện pháp, thủ pháp nghệ thuật chủ đạo trong tác phẩm là gì?
Bước 2: Trước một bài văn cần xem xét các dạng đề đối với tác phẩm đó dạng đề ở đây được hiểu là về thể loại và nội dung. (VD: Với tác phẩm Chuyện người
con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ, có thể bắt gặp các dạng đề như: phân tích các
nhân vật trong tác phẩm, phân tích nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật, nghệ thuật xây
dựng chi tiết truyện, ý nghĩa của chi tiết kỳ ảo...). Ở mỗi dạng đề cần định hướng được
những ý chính cần triển khai.
Bước 3: Lập dàn bài chi tiết cho từng dạng đề ở mỗi tác phẩm.
- Với các dạng đề khác nhau học sinh cần lập ra mỗi dạng một dàn bài. Thông qua
việc làm này sẽ giúp các em lường hết mọi tình huống đề có thể bắt gặp và không phải
lúng túng khi làm bài.
- Khi lập dàn ý HS có thể tự đặt ra những câu hỏi và trả lời cho câu hỏi của chính
mình. Điều này sẽ giúp HS vạch được cho mình những ý chính thật đầy đủ. Sau khi có
được những ý chính mới triển khai các ý phụ. Thêm vào đó HS có thể tham khảo các
bài văn hay để bổ sung các ý cần thiết. Bằng cách sơ đồ hóa dàn bài bằng những gạch
đầu dòng và mũi tên sẽ giúp HS thấy rõ các ý mà mình định triển khai. Và như thế, việc
thiếu ý là một điều hiếm khi xảy ra khi làm bài.

4


Bước 4: Viết bài và sửa chữa.

Trong quá trình viết bài cần vận dụng đa dạng, phong phú các phép lập luận. Việc
sử dụng ngôn từ không chỉ đúng mà cần phải hay, biểu cảm. Khi viết chú ý vận dụng
các phép liên kết để bài văn được lôgic chặt chẽ, tự nhiên, thuyết phục được người đọc
người nghe... Trong quá trình triển khai các luận điểm, luận cứ cần thể hiện sự cảm thụ
và ý kiến riêng của người viết về tác phẩm. Viết xong bài văn cần đọc lại và sửa chữa
những lỗi sai có thể mắc phải.
III. HỆ THỐNG CÁC DẠNG BÀI TẬP ĐẶC TRƯNG CỦA CHUYÊN ĐỀ
- Kiểu bài phân tích tác phẩm.
- Kiểu bài phân tích nhân vật.
- Kiểu bài nghị luận tổng hợp về một vấn đề Văn học.
1. Kiểu bài phân tích tác phẩm Văn học: cần làm nổi bật được giá trị nội dung
và giá trị nghệ thuật chính của tác phẩm. Có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ
tiêu biểu và xác thực, căn cứ vào từng tác phẩm để có cách triển khai cụ thể. Cần liên hệ
với các tác phẩm cùng đề tài... cùng giai đoạn... để người đọc người nghe hiểu sâu sắc
hơn về tác phẩm đang nghị luận.
- Các dạng bài phân tích tác phẩm thường gặp:
a. Dạng bài phân tích một vấn đề nào đó của tác phẩm: Dạng bài này thường gặp
dưới hình thức phân tích một nhận định về tác phẩm. Nhận định đó có thể thuộc về nội
dung, thuộc về đề tài, thuộc về tính chất, thuộc về một khái niệm lí luận Văn học hoặc
tác dụng của tác phẩm.
Yêu cầu khi làm dạng bài này:
+ Xác định đúng vấn đề của tác phẩm cần phải phân tích.
+ Phát hiện xem lời nhận định có những khía cạnh nào nói, quan hệ giữa khía cạnh
đó, ý nghĩa tổng hợp lời nhận định? Những chi tiết của tác phẩm biểu hiện các khía
cạnh ấy.
+ Đánh giá được những ý nghĩa, giá trị và tác dụng của vấn đề.
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:
+ Đề bài yêu cầu phân tích nhận định của ai? Nhận định về tác phẩm nào? Tác giả
nào? Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm?

+ Lời nhận định thiên về nội dung tác phẩm, tác dụng của tác phẩm hay yêu cầu
dùng tác phẩm để minh họa cho một vấn đề của lí luận Văn học?
+ Lời nhận định đó có những khía cạnh nào cần tách bạch ra để làm rõ hơn?
Những chi tiết nào của tác phẩm biểu hiện từng khía cạnh của vấn đề?
+ Ý nghĩa giá trị của lời nhận định.
Dàn ý:
- Mở bài:
+ Giới thiệu tác giả tác phẩm, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm?
+ Trích dẫn nhận định.
- Thân bài:
+ Giải thích và chứng minh từng khía cạnh của nhận định.
+ Giải thích quan hệ giữa các khía cạnh.
- Kết bài: Ý nghĩa giá trị của lời nhận định.
b. Dạng bài phân tích đoạn trích.
5


Yêu cầu khi làm dạng bài này:
+ Nắm chắc nội dung của đoạn trích bằng cách liệt kê, theo dõi các chặng đường
phát triển của của tình tiết.
+ Xác định nhân vật trung tâm và những chi tiết tiêu biểu rồi sắp xếp các chi tiết ấy
theo một trình tự hợp lý. Bình xét các chi tiết ấy để giải thích tính cách nhân vật, giải
thích sự việc.
+ Hiểu lời kể của tác giả. Từ ngữ, điển cố, điển tích, nghệ thuật, lối kể của tác giả
trong đoạn trích đã làm hiển hiện được cảnh, việc, người như thế? Truyền đến cho
người đọc tư tưởng quan điểm gì?
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:
+ Những chặng đường phát triển chủ yếu của các sự việc, các biến cố trong đoạn
trích cần phân tích.

+ Những chi tiết biểu hiện tính cách nhân vật, tình tiết, sự việc trong từng chặng
đường? Quá trình biến đổi của nhân vật, sự việc qua các chặng đường?
+ Từ câu chuyện được sắp xếp có đầu cuối, từ nhân vật có suy nghĩ hành động
trong các tình huống, từ các sự việc, tình tiết... ấy gợi cho ta những cảm xúc, nhận định,
những liên hệ suy tưởng gì?
Dàn ý:
- Mở bài: Giới thiệu tác giả, hoàn cảnh ra đời của tác phẩm (đoạn trích), chủ đề tác
phẩm (đoạn trích), mục đích phân tích tác phẩm (đoạn trích) và nêu ý kiến đánh giá sơ
bộ của mình.
- Thân bài: Nêu các luận điểm chính về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
(đoạn trích), có phân tích, chứng minh bằng các luận cứ tiêu biểu và xác thực.
- Kết bài:
+ Nêu nhận định đánh giá chung của mình về tác phẩm truyện (hoặc đoạn trích)
+ Khẳng định vị trí của tác giả và đoạn trích trong tác phẩm, trong Văn học và
trong cuộc sống.
2. Kiểu bài phân tích nhân vật.
Yêu cầu khi làm dạng bài này:
- Xác định được những đặc điểm, tính cách, số phận... của nhân vật sau đó phân
tích nhận xét từ nhiều phía để làm sáng tỏ tính cách, số phận... của nhân vật:
+ Tính cách, số phận... nhân vật thể hiện qua những chi tiết cụ thể về diện mạo,
ngôn ngữ, suy nghĩ, tình cảm, hành động của nhân vật trong các hoàn cảnh cụ thể. Vì
vậy cần phát hiện và lựa chọn các chi tiết tiêu biểu, sắp xếp, phân loại chúng theo một
trình tự hợp lí.
+ Trên cơ sở sắp xếp, phân loại các chi tiết tiêu biểu mà phân tích nhận xét từ
nhiều phía để làm sáng tỏ tính cách, số phận... nhân vật.
+ Phân tích bình xét về tính cách, số phận, phẩm chất... nhân vật, tổng hợp các mặt
đã phân tích thành một nhận định khái quát, nêu bật ý nghĩa và tác dụng nhận thức, giáo
dục...
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:

+ Đề bài yêu cầu phân tích một hay một nhóm nhân vật của một hay một vài tác
phẩm nào?
6


+ Chọn trình tự nào để sắp xếp cho hợp lí? Những chi tiết nào biểu hiện tính cách,
phẩm chất, số phận... nhân vật?
+ Nhân vật đã góp phần thể hiện chủ đề như thế nào? Đã góp phần làm sáng tỏ vấn
đề gì đặt ra trong tác phẩm?
Lưu ý: Khi lập dàn ý ở dạng bài này phải vạch các ý chính: ngoại hình và tính
cách, số phận... của nhân vật. Bên cạnh đó một số yếu tố như: ngôn ngữ, hành động, cử
chỉ, nội tâm mối quan hệ với xã hội với các nhân vật khác. Tất cả các yếu tố này tựu
trung lại cũng bổ trợ và làm nổi bật tính cách của nhân vật. Song song với phân tích nội
dung cần lưu ý và nhấn mạnh đến các thủ pháp nghệ thuật, cách xây dựng nhân vật, việc
sử dụng điển cố điển tích...
Các nhân vật trong tác phẩm Văn học trung đại như Kiều, Vũ Nương, Từ Hải...
thường mang tính hình tượng, đại diện cho số phận, một mẫu người... nên sau quá trình
phân tích đặc điểm nhân vật cần rút ra được thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm qua
tác phẩm, qua nhân vật đó (Khái quát bình diện Văn học).
Trong mỗi một ý lớn sẽ có thêm nhiều ý nhỏ hơn, cần dùng một mũi tên cho một ý
để sơ đồ hóa dàn bài của mình. Và ở mỗi ý nhỏ, cần tìm ra những dẫn chứng phù hợp
minh chứng cho những đặc điểm đó. Dẫn chứng chính là những đoạn trích trong tác
phẩm, cần học thuộc một số câu văn, câu thơ tiêu biểu để minh chứng cho những ý kiến
đánh giá của mình trong bài viết. Qua phân tích những dẫn chứng đó nhân vật sẽ hiện
lên với đầy đủ tính cách, số phận, phẩm chất... chân thực và sống động.
3. Kiểu bài nghị luận tổng hợp về một vấn đề Văn học
(VD: Hình ảnh người phụ nữ trong XHPK được thể hiện như thế nào trong
chương trình Ngữ văn lớp 9), HS cần đi từ vấn đề bao quát nhất: Hình ảnh người phụ nữ
trong văn học trung đại nói chung và trong các tác phẩm văn học trung đại lớp 9 nói
riêng? Sau đó đi vào phân tích hình ảnh người phụ nữ trong các tác phẩm truyện trung

đại trong Ngữ văn 9: Những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ; Số phận bất hạnh
của người phụ nữ trong các tác phẩm trung đại được học.
Dàn ý: căn cứ vào từng đề bài để có cách triển khai cụ thể.
Các bước tiến hành:
Lần lượt trả lời các câu hỏi:
+ Đề bài yêu cầu nghị luận về vấn đề gì?
+ Vấn đề nghị luận ấy liên quan trực tiếp đề tác phẩm nào, nhân vật, sự việc nào...?
+ Chọn trình tự nghị luân nào để sắp xếp cho hợp lí?
+ Vấn đề nghị luân đã góp phần thể hiện chủ đề, tư tưởng nào? Đã góp phần làm
sáng tỏ vấn đề gì đặt ra?
IV- HỆ THỐNG CÁC PHƯƠNG PHÁP CƠ BẢN, ĐẶC TRƯNG ĐỂ GIẢI
CÁC DẠNG BÀI TẬP TRONG CHUYÊN ĐỀ.
- Thuyết trình, đàm thoại, nêu vấn đề, gợi tìm, đọc, nghiên cứu tài liệu, phân tích,
giảng bình, liên hệ, so sánh, thống kê, khái quát hoá.
- Cho HS tiếp cận VD mẫu để học sinh nhận biết cách làm từng dạng bài.
- Thực hành viết bài văn theo yêu cầu.

7


V- HỆ THỐNG CÁC VÍ DỤ, BÀI TẬP CỤ THỂ CÙNG LỜI GIẢI MINH
HỌA CHO CHUYÊN ĐỀ
1. Kiểu bài phân tích tác phẩm Văn học.
a. Dạng bài phân tích một vấn đề nào đó của tác phẩm.
VD: Về thiên nhiên trong Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê có viêt: "Có thể nói
thiên nhiên trong "Truyện Kiều"cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ
kín đáo nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn luôn thấm đượm tình
người".
Hãy phân tích hình ảnh thiên nhiên trong truyện Kiều để làm sáng rõ nhận
định trên.

Yêu cầu:
- Thể loại : Nghị luận về một tác phẩm (dạng nghị luận về một vấn đề của tác
phẩm).
- Nội dung: Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều để làm sáng rõ nhận
định của Đặng Thanh Lê.
Dàn ý sơ lược:
a. Mở bài:
- Giới thiệu tác phẩm: Truyện Kiều, tác giả: Nguyễn Du.
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận: Phân tích hình ảnh thiên nhiên trong Truyện
Kiều để làm sáng rõ nhận định của Đặng Thanh Lê.
b. Thân bài :
b1. Phân tích thiên nhiên cũng là một nhân vật lặng lẽ, kín đáo, xuất hiện, thấm
đượm tình người.
- Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội cho thiên nhiên xuất hiện khi cần
tạo nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi bộc lộ giúp những cảm nhận tâm
trạng của các nhân vật về thời gian, không gian, cảnh ngộ,...
+ Thiên nhiên ùa vào lòng người với những nét màu thật sáng đẹp và dồi dào sức
sống:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
+ Cảnh ở đây thật thơ mộng và thắm đượm tình người:
Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
+ Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng:
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
+ Thiên nhiên còn trở thành nhân vật thứ ba chứng kiến buổi thề non hẹn biển giữa
Kiều với chàng Kim:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
+ Là người bạn gần gũi, gắn bó với nàng trong mọi hoàn cảnh:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
8


Hay:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
+ Đó là nỗi buồn lẻ loi, cô đơn, lạc lỏng bơ vơ nơi chân trời góc bể của người con
gái không biết bấu víu vào đâu:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
b2. Liên hệ, so sánh:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
c. Kết bài :
- Đánh giá các ý đã phân tích :
- Rút ra bài học, nhận xét.
Có thể nói thiên nhiên luôn là hình ảnh thân gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó
không chỉ là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đời thường mà đã đi vào văn học, cụ
thể đi vào Truyện Kiều. Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng
biến thiên nhiên thành một nhân vật, mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ
của Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên. Thiên nhiên mãi
là hình ảnh, là nhân vật không thể thiếu trong Truyện Kiều. Truyện Kiều mãi mãi là viên
ngọc quý, là cuốn sách gối đầu giường của mõi chúng ta.

Nhà thơ Sông Lam, Núi Hồng đã ra đi, nhưng Truyện Kiều mãi mãi là dòng sông
mát lành chảy qua tâm hồn chúng ta để lại một lớp phù sa màu mỡ. Trên lớp phù sa màu
mỡ đó, ta luôn luôn gặp hình ảnh tươi đẹp, sống động, mang đậm tình người của thiên
nhiên.
Bài viết tham khảo:
Nhận xét về thiên nhiên trong Truyện Kiều, Đặng Thanh Lê từng nói: "Có thể nói
thiên nhiên trong Truyện Kiều cũng là một nhân vật, một nhân vật thường lặng lẽ, kín
đáo nhưng không mấy khi không xuất hiện và luôn luôn thấm đượm tình người".
Thiên nhiên vốn không phải là chủ đề riêng của Nguyễn Du mà nó là chủ đề chung
của thi sĩ muôn đời. Nhưng thiên nhiên đi vào Truyện Kiều, đi vào tâm hồn đại thi hào
Nguyễn Du lại có những nét rất riêng. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ tạo cơ hội
cho thiên nhiên xuất hiện khi cần tạo nền cảnh cho một cuộc gặp gỡ, hẹn hò hoặc khi
bộc lộ giúp những cảm nhận tâm trạng của các nhân vật về thời gian, không gian, cảnh
ngộ,...
Trong tiết thanh minh trong sáng, khắp nơi nô nức đi tảo mộ, du xuân, thiên nhiên
ùa vào lòng người với những nét màu thật sáng đẹp và dồi dào sức sống:
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa
Một mùa xuân với màu xanh rợn ngợp của cỏ non, với một vài bông lê điểm xuyết.
Chỉ với đôi nét chấm phá, qua ngòi bút tài hoa của nhà nghệ sĩ, cả một bức tranh xuân
bừng sáng hiện lên. Trong cái không gian bát ngát màu xanh của cỏ mùa xuân, điểm
vào một vài bông hoa lê trắng muốt, tinh khiết, đưa lòng người trong cảnh bay bay nhè
nhẹ, lâng lâng.
Cảnh như đang nâng nhẹ bước chân ba chị em Thuý Kiều:
9


Bước dần theo ngọn tiểu khê,
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
Nao nao dòng nước uốn quanh

Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Cảnh ở đây thật thơ mộng và thắm đượm tình người. Một dòng nước, một nhịp cầu
nho nhỏ cũng đủ gợi lên những nét thanh thanh của phong cảnh.
Thiên nhiên càng trở nên hữu tình, thơ mộng khi Kiều chia tay với Kim Trọng:
Dưới cầu nước chảy trong veo,
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
Nguyễn Du không cần giá vẽ nhưng đã dựng nên một bức tranh thiên nhiên thật
đẹp và hài hoà. Dưới cầu là dòng nước êm đềm chảy, bên cầu là hình ảnh "tơ liễu bóng
chiều thướt tha". Cảnh vật gắn bó nhau, tôn nhau lên, chiếc cầu nhỏ như làm đẹp cho
dòng nước và dòng nước làm cho chiếc cầu càng trở nên xinh xắn, đáng yêu hơn. Ở
đây, Nguyễn Du có nói đến hình ảnh "bóng chiều"nhưng bóng chiều không gợi nỗi
buồn mà đẹp một cách lạ thường. Phải chăng lúc này là lúc Kim Trọng chia tay với
Thuý Kiều, tâm hồn Kiều hồn nhiên trong sáng nên cảnh cũng mang những nét hồn
nhiên trong sáng của Kiều. Cảnh thiên nhiên thấm đượm hồn người, tình người, mang
nỗi niềm của con người. Thiên nhiên còn trở thành nhân vật thứ ba chứng kiến buổi thề
non hẹn biển giữa Kiều với chàng Kim:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
"Vầng trăng vằng vặc giữa trời" kia như là một nhân chứng cho mối tình trong
sáng, đẹp tươi của đôi trai tài, gái sắc. Trong Truyện Kiều, đã hơn bốn mươi lần Nguyễn
Du nhắc đến ánh trăng nhưng có lẽ ánh trăng trong đêm thề nguyền này đã đi vào tiềm
thức, đã trở nên gắn bó nhất với Thuý Kiều.
Trăng là người làm chứng cho mối tình của nàng với chàng Kim và cũng là người
bạn gần gũi, gắn bó với nàng trong mọi hoàn cảnh:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân,
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung.
Trước không gian rộng lớn, rợn ngợp của lầu Ngưng Bích, Kiều như một tấm thân
bơ vơ, lạc lõng. Nàng tìm đến với thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm bầu bạn. Dường như
Nguyễn Du đã kéo vầng trăng từ xa vời vợi kia gần nàng Kiều hơn. Trăng như người
bạn tri âm tri kỷ đang san sẻ cùng tâm trạng của nàng:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Một cánh buồm nhỏ bé trước mặt biển bao la trong cảnh hoàng hôn cũng đủ gợi
gợi lên trong lòng người đọc thấm thía nỗi buồn của nàng Kiều. Đó là nỗi buồn lẻ loi,
cô đơn, lạc lỏng bơ vơ nơi chân trời góc bể của người con gái không biết bấu víu vào
đâu:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nếu trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
10


Thì quả là không sai. Nỗi buồn trong Kiều thật mênh mang, rợn ngợp, một nỗi
buồn khiến cho lòng người khô héo. "Nội cỏ" ở đây cũng "dầu dầu" cũng mang tâm sự
nỗi lòng của Kiều. Đó là nỗi buồn vì cuộc đời đang bị xô đẩy, vùi dập. Nỗi buồn đó cứ
dấy lên mãi, ứ đọng mãi, khơi gợi nỗi niềm tủi nhục đau thương đến ứa nước mắt. Âm
thanh của tiếng sóng hay cũng chính là những tai hoạ, những khó khăn đang rình rập, có
nguy cơ ập xuống đầu Kiều, choáng ngợp khắp tâm trí Kiều. Cảnh ở đây vừa mênh
mang, rợn ngợp vừa mang tâm sự u hoài của lòng người.
Có thể nói thiên nhiên luôn là hình ảnh thân gần, gắn bó với mỗi chúng ta, nó
không chỉ là khung cảnh gần gũi trong cuộc sống đời thường mà đã đi vào văn học, cụ
thể đi vào Truyện Kiều. Nguyễn Du đã mượn thiên nhiên làm nền cho truyện và cũng
biến thiên nhiên thành một nhân vật, mang tâm sự, nỗi lòng của con người. Ngòi bút thơ
của Nguyễn Du tài hoa, điêu luyện khi dựng lên hình ảnh thiên nhiên.Thiên nhiên mãi là
hình ảnh, là nhân vật không thể thiếu trong Truyện Kiều. Truyện Kiều mãi mãi là viên
ngọc quý, là cuốn sách gối đầu giường của mỗi chúng ta.

Nhà thơ Sông Lam, Núi Hồng đã ra đi, nhưng Truyện Kiều mãi mãi là dòng sông
mát lành chảy qua tâm hồn chúng ta để lại một lớp phù sa màu mỡ. Trên lớp phù sa màu
mỡ đó, ta luôn luôn gặp hình ảnh tươi đẹp, sống động, mang đậm tình người của thiên
nhiên.
b. Dạng bài phân tích tác phẩm (đoạn trích)
VD: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều (Trích Truyện Kiều) của Nguyễn
Du.
Dàn ý
a.Mở bài:
- Truyện Kiều kiệt tác của ngòi bút thiên tài Nguyễn Du- tác phẩm hay về nhiều
mặt.
- Nghệ thuật tả người trong Truyện Kiều bộc lộ nhiều nét tinh hoa của thơ Nguyễn
Du.
- Đoạn thơ miêu tả 2 chị em Thúy Kiều xưa nay đều coi là mẫu mực của bút pháp
cổ điển.
b. Thân bài
b1. Nhận xét chung
- Nằm trong phần đầu của tác phẩm Truyện Kiều- Gặp gỡ và đính ước.
- Đoạn trích miêu tả bức chân dung của 2 chị em Thúy Kiều Thúy Vân. Qua đó dự
báo số phận của từng nhân vật.
- Đoạn thơ là bức chân dung hoàn chỉnh chặt chẽ, chứng tỏ bút pháp cổ điển điêu
luyện:
+ 4 câu đầu vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều.
+ 16 câu tiếp theo vẻ đẹp riêng của Thúy Vân và tài sắc Thúy Kiều
+ 4 câu cuối đức hạnh, phong thái của chị em Thúy Kiều.
* Đánh giá, nhận xét về nghệ thuật toàn đoạn:
b2 . Phân tích :
b2.1.Bốn câu đầu.
- Giới thiệu chung về hai chị em trong gia đình, lời giới thiệu cổ điển, trang trọng
rằng họ là “tố nga”, đẹp và trong sáng:

Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
11


- Tiếp đến, tác giả miêu tả chung vẻ đẹp của hai chị em trong một nhận xét mang
tính chất lí tưởng hóa, tuyệt đối hóa (đẹp một cách hoàn thiện):
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười
“Mai cốt cách”: là cốt cách của mai: hình mảnh mai, sắc rực rỡ, hương quý phái.
“Tuyết tinh thần”: là tuyết có tinh thần của tuyết: trắng trong, tinh khiết, thanh
sạch.
Bút pháp ước lệ, hình ảnh ẩn dụ, 2 vế đối nhau câu thơ trở nên tao nhã gợi cảm, âm
điệu nhịp nhàng. Nhấn mạnh sự đối xứng làm nổi bật vẻ đẹp cân đối hoàn hảo đã gợi tả
vẻ đẹp duyên dáng, thanh tao, trong trắng của người thiếu nữ ở hai chị em Thúy Kiều:
Vóc dáng mảnh mai, tao nhã như mai; tâm hồn trắng trong như tuyết. => Đó là vẻ đẹp
hài hòa đến độ hoàn mĩ cả hình thức lẫn tâm hồn, cả dung nhan và đức hạnh.
+ Hai chị em đều tuyệt đẹp, không tì vết “mười phân vẹn mười”, song mỗi người
lại mang nét đẹp riêng khác nhau “Mỗi người một vẻ”.
* Sơ kết: Cái tài của Nguyễn Du là ở chỗ “Mỗi người một vẻ...” – Nhân vật trong
tác phẩm cũng như ngoài đời, không ai giống ai. Điều này tạo nên những nét diện mạo,
tính cách riêng của từng nhân vật để làm nổi bật được vẻ đẹp riêng của từng người.
Ngòi bút của Nguyễn Du đã bộc lộ được tất cả sự tài hoa của nghệ thuật tả người mà
đây là một đoạn điêu luyện của nghệ thuật ấy.
b2.2. Phân tích 16 câu tiếp theo
Nội dung: vẻ đẹp của Thúy Vân và tài sắc của Thúy Kiều.
* 4 câu tả Thúy Vân.
- Câu thơ mở đầu: “Vân xem trang trọng khác vời” đã giới thiệu khái quát vẻ đẹp
của Thúy Vân: một vẻ đẹp cao sang, quí phái.
- Bút pháp ước lệ tượng trưng, phép ẩn dụ, nhân hoá: “khuôn trăng”, “nét ngài”,

“hoa cười ngọc thốt, “Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”.
-> Vẻ đẹp của Thúy Vân là vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu; tính cách thì đoan trang,
thùy mị: khuôn mặt đầy đặn, tươi sáng như trăng đêm rằm; lông mày sắc nét như mày
ngài; miệng cười tươi thắm như hoa; giọng nói trong trẻo thốt ra từ hàm răng ngọc ngà
là những lời đoan trang, thùy mị. Mái tóc của nàng đen mượt hơn mây, da trắng mịn
màng hơn tuyết.
T/g miêu tả Thúy Vân toàn vẹn, tinh tế từ khuôn mặt, nét mày, điệu cười giọng
nói, mái tóc làn da.
Dùng từ “xem” khéo léo giới thiệu trước một cách tế nhị thể hiện sự đánh giá chủ
quan của người miêu tả, sắc đẹp của Thúy Vân là sắc đẹp tương đối.
Miêu tả Vân bằng những nét ước lệ thích hợp, Vân đang nảy nở, tươi thắm đoan
trang mà hiền dịu, phúc hậu.
-> Vân đẹp hơn những gì mỹ lệ của thiên nhiên – một vẻ đẹp tạo sự hòa hợp, êm
đềm với xung quanh. -> Kì diệu hơn Nguyễn Du vừa miêu tả nhan sắc đã cho thấy ngay
số phận nhân vật: “Mây thua..; tuyết nhường...” tạo hóa “thua” và “nhường” người đẹp
này dễ sống lắm, con người này sinh ra là để được hưởng hạnh phúc. Dự báo về một
cuộc đời bình lặng, suôn sẻ.
* 12 câu tả Kiều
- Số lượng câu chứng tỏ Nguyễn Du dùng hết bút lực – lòng yêu mến vào nhân vật
này. Lấy Vân làm nền để làm nổi bật Kiều, Vân xinh đẹp là thế nhưng Kiều còn đẹp
hơn. Nếu Vân đẹp tươi thắm hiền dịu thì Thúy Kiều lại đẹp sắc sảo.
12


Nguyễn Du đã miêu tả Thúy Vân trước để làm nổi bật Thúy Kiều theo thủ pháp
nghệ thuật đòn bẩy song đôi. Tả kĩ, tả đẹp để Vân trở thành tuyệt thế giai nhân, để rồi
khẳng định Kiều còn hơn hẳn: “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Từ “càng”đứng trước hai
từ láy liên tiếp “sắc sảo”, “mặn mà” làm nổi bật vẻ đẹp của Kiều: sắc sảo về trí tuệ, mặn
mà về tâm hồn.
-> Nhan sắc: Làn thu thủy, nét xuân sơn

- Bằng bút pháp ước lệ, phép ẩn dụ tác gỉa điểm xuyết một đôi nét dung nhan khiến
Thúy Kiều hiện lên rạng rỡ:
+ “Làn thu thủy”: đôi mắt long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu gợn sóng.
+ “Nét xuân sơn”: nét mày thanh thản tươi xanh mơn mởn đẹp như dáng núi mùa
xuân tươi trẻ.
Bình: không miêu tả nhiều nhưng tất cả đều hoàn mĩ, tập trung tả nét chân dung
tiêu biểu của một con người, là “gương” soi là “cửa sổ tâm hồn”. Đôi mắt, không chỉ
mang vẻ đẹp bên ngoài mà ẩn chứa thế giới tâm hồn bên trong.
+ “Hoa ghen, liễu hờn” -> phép tu từ nhân hóa, từ ngữ chọn lọc thái độ của thiên
nhiên với Kiều. Với vẻ đẹp của Vân, thiên nhiên chẳng đố kị mà chịu thua, chịu nhường
còn với vẻ đẹp của Kiều “hoa ghen”, “liễu hờn” đố kị.
Tả vẻ đẹp lấy từ điển cố “Nhất cố khuynh thành, tái cố khuynh quốc” (Một lần
quay lại tướng giữ thành mất thành, quay lại lần nữa nhà vua mất nước) tạo sự súc tích,
có sức gợi lớn vẻ đẹp có sức hút mạnh mẽ (nhớ đến nụ cười của Ba Tơ, cái liếc mắt của
Điêu Thuyền, một chút nũng nịu của Dương Quý Phi, cái nhăn mặt của Tây Thi, nét sầu
não của Chiêu Quân- những người đẹp đã làm xiêu đổ thành trì của các vương triều
phong kiến TQ).
*Tóm lại: Vẻ đẹp của Kiều gây ấn tượng mạnh – một trang tuyệt sắc.
-> Tài năng: Không chỉ là giai nhân tuyệt thế mà Kiều còn có tài – rất đa tài .Sử
dụng hơn 6 dòng thơ để giới thiệu tài năng của nàng.
- Giới thiệu tố chất thông minh do trời phú, tài làm thơ, vẽ tranh, ca hát, đánh đàn
đều đến mức điêu luyện:
+ Tài đánh đàn: thể hiện qua từ ngữ “làu, ăn đứt” những từ ngữ biểu thị giá trị
tuyệt đối thể hiện tình cảm yêu mến, trân trọng của mình đối với nhân vật Thúy Kiều
Kiều thông minh và rất mực tài hoa.
+ Soạn nhạc: Soạn khúc: “bạc mệnh oán” Tâm hồn đa sầu, đa cảm, phong phú.
khúc nhạc dự đoán cho số phận đau khổ, bất hạnh của Kiều sau này.
- So với đoạn tả Thúy Vân, chức năng dự báo còn phong phú hơn.
- Những câu thơ miêu tả nhan săc, tài năng dự đoán số phận thể hiện quan niệm “thiên mệnh” của nho giáo, thuyết “tài mệnh tương đố” của N.Du (Đầu tác phẩm
Nguyễn Du viết: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”. Cuối tác phẩm “chữ tài đi

với chữ tai một vần”).
=> Kiều đẹp quá, tài hoa quá, hoàn hảo quá nên không thể tránh khỏi sự “hồng
nhan bạc mệnh”.
- Nét tài hoa của Nguyễn Du bộc lộ rõ nét trong nghệ thuật tả người ở đoạn thơ.
- Bút pháp nghệ thuật có tính truyền thống của thơ văn cổ nhưng ông đã vợt lên
được cái giới hạn đó. 16 câu tả vẻ đẹp của hai chị em Kiều gần như đầy đủ vẻ đẹp của
người phụ nữ theo quan niệm xưa: công – dung – ngôn – hạnh. Tài ấy thể hiện cả ở tả
tình, tâm hồn của nhân vật và dự báo số phận nhân vật.
b2.3, Đức hạnh và phong thái của hai chị em Kiều.
13


- Cuộc sống “êm đềm”, “phong lưu” khuôn phép, đức hạnh mẫu mực.
- Tác dụng đoạn cuối: khép lại bức chân dung của hai nàng Kiều đồng thời khép lại
toàn đoạn trích khiến nó thêm chặt chẽ với tác phẩm, với số phận từng nhân vật: Vân
êm ái, Kiều bạc mệnh.
- Cách miêu tả - giới thiệu chính xác số phận từng nhân vật.
Cuối đoạn miêu tả vẫn trong sáng, đằm thắm như chở che bao bọc cho chị em Kiều
– 2 bông hoa vẫn còn trong nhụy.
b2.4. Tổng hợp, đánh giá:
- Về NT:
+ Cách miêu tả khắc họa tính cách nhân vật của ND rất tinh tế (m.tả hai vẻ đẹp
khác nhau – thấy rõ sự khác biệt).
+ Dùng thủ pháp cổ điển miêu tả ước lệ tượng trưng (mai….khuôn trăng...ngọc
thốt…tuyết...hoa cười.).
+ Sử dụng điển cố ... nhưng mức độ cho từng nhân vật khác nhau, các chi tiết khác
nhau.
+ Sử dụng miêu tả khái quát cũng biến hóa, uyển chuyển tạo hứng thú với chân
dung từng nhân vật.
+ Nghệ thuật sử dụng ngôn từ độc đáo, đặc biệt là những từ có giá trị gợi tả cao:

(Ngọc thốt – không là ngọc nói ->tả người con gái đoan trang ít nói.
Nước tóc – không là màu mái tóc-> tả suối tóc óng mượt.
Nét xuân sơn – Không là dáng xuân sơn-> tả nét thanh tú xanh như sắc mùa xuân).
- Về ND
Giới thiệu tài sắc hai chị em Thúy Kiều- là khúc tráng tuyệt trong truyện Kiều bất
hủ của Nguyễn Du. Họ đều là tuyệt thế giai nhân: trẻ, ngây thơ, trong trắng, mỗi người
một vẻ hấp dẫn lạ lung (Vân đẹp đoan trang, trang trọng, Kiều đẹp sắc sảo mặn mà). Vẻ
đẹp của Vân là vẻ đẹp chinh phục thiên thiên còn vẻ đẹp của Kiều là vẻ đẹp khiến thiên
nhiên phải ghen hờn. Hay nhất là từ việc miêu tả nhân vật – 2 thiếu nữ - 2 vẻ đẹp riêng
để rồi dự báo đưược 2 số phận riêng.
C. Kết bài
- Đoạn trích là những vần thơ tuyệt tác trong Truyện Kiều bởi: Cái tài của Nguyễn
Du thật đáng kính nể. Hơn thế là cái tình đáng trọng hơn.
- Mỗi chữ mỗi lời trong đoạn thơ đều ẩn chứa niềm thương yêu tôn quý con
người.Tinh thần nhân văn cao quý khiến Truyện Kiều trở nên bất tử.
Bài viết tham khảo
Nguyễn Du là một thi hào dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm
Truyện Kiều - kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Truyện Kiều là một bài
ca lớn về giá trị nhân đạo, một bản cáo trạng nghiệm khắc về cái ác, cái phản nhân bản,
một tập đại thành của nghệ thuật văn chương. Chỉ xét riêng về nghệ thuật miêu tả nhận
vật, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ trích
đoạn Chị em Thúy Kiều đã thể hiện được trọn vẹn vè đẹp, tài năng va đức hạnh của hai
chị em nàng Thúy kiều. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc
và đức hạnh của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng
của nhà thơ.
Đoạn trích Chị em Thuý Kiều nằm trong phần Gặp gỡ và đính ước, sau phần giới
thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử
dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc
14



hoạ vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân. Trước hết, Nguyễn Du
cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.
Nhà thơ dùng từ Hán Việt "tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi
chung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao
như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều
đẹp một cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng
nghệ thuật ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là
vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu: Sau khi giới thiệu vẻ dẹp chung về hình thức lẫn
tâm hồn của hai chị em bằng bốn câu thơ, Nguyễn Du bắt đầu miêu tả vẻ đẹp riêng của
Thúy Vân:
Vân xem trang trong khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười ngóc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da,
Chỉ vài nét chấm phá, bức chân dung của Thúy Vân hiện lên thật nghiêm trang,
đứng đắn và phúc hậu. Gương mặt của nàng đầy đặn như mặt trăng tròn. chân mày của
nàng đẹp như mày của con bướm tằm. Đuôi mắt của nàng đẹp như mắt phượng, miệng
của nàng nở nụ cười tươi như đóa hoa đang khoe sắc, tỏa hương. Tiếng nói của nàng
trong như ngọc. Những làn mây trên không trung vẫn không đẹp bằng mái tóc mượt mà
của nàng. Tuyết là biểu tượng của màu trắng nhưng không nhường màu cho da mịn
màng, trắng trẻo của nàng.
Bằng cách phối hợp các biện pháp nghệ thuật ước lệ, tượng trưng, ẩn dụ, nhân hóa,
liệt kê, đối ngữ, thậm xưng và cách dùng các từ láy, từ Hán Việt một cách điệu luyện,
Nguyễn Du không những miêu tả được vẻ đẹp ưa nhìn của Thúy Vân mà còn dự báo
được tương lai của nàng. Đặc biệt, các từ "thua", "nhường" cho chúng ta thấy số phận

bình an, tốt lành của Thúy Vân trên những chặng đường đời.
Còn đây là bức chân dung của nàng kiều:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thủy tinh , nét xuân sơn
Cặp mắt của nàng trong trẻo và long lanh như làn nước mùa thu. Còn lông mày lại
thanh nhẹ, tương đẹp như nét núi mùa xuân nghiêng nghiêng, duyên dáng. Đây cũng là
vẻ đẹp ước lệ, tượg trưng thường gặp trong thơ văn cổ. Những nghệ thuật nhân hóa,
thậm xưng, so sánh, hoán dụ, ẩn dụ, điển cố, liệt kê, đối ngữ, tương hỗ đã tiếp tục đưa
sắc đẹp của Thúy kiều đến tuyệt điỉnh, khiến cho:
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
"Hoa" và "liễu" là những loài vô tri, vô giác, vậy là phải "ghen", "hờn", tức giận
trước vẻ đẹp "sắc sảo mạn mà", "mười phân vẹn mười" của nàng. Còn đối với con
người, nàng Kiều chỉ cần ngoảnh lại một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại cái
nữa thì nước người ta bị đổ. Chao ôi! Thúy Kiều đúng là một tuyệt thế giai nhân
Nhưng qua nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp lộng lẫy, đài các, kiêu sa, có sức cuốn hút mãnh
liệt của Thúy Kiều. Nhất là các từ "ghen", "hờn", Nguyễn Du đã hé mở cho chúng ta
15


thấy những cơn sóng gió bảo tố của cuộc đời như chờ trực để vùi dập thân phận của
nàng.
Nếu như ở Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ miêu tả sắc đẹp thì ở Thúy Kiều, nhà thơ vưa
miêu tả nhan sắc, vừa ca ngợi tài năng:
Sắc đành tài một, tại đành hoạ hai
Như vậy, về sắc thì đành chỉ có một mình Thúy Kiều về tài thì may ra, họa hoằn
lắm mới có người thứ hai. Thứ nhất là trí thông minh sẵn có do tạo hóa ban tặng:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương lầu bậc ngũ âm ,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương .
Khúc nhà tay lựa nên chương .
Xét riêng về tài đánh đàn thì Thúy kiều vượt xa những người khác. Những nốt
cung, thương, giốc, chũy, vũ trong âm giai của nhạc cổ trung Quốc và Việt Nam được
nàng phối hợp một cách nhuần nhuyễn, tinh thông, dạt dào cảm xúc. Đặt biệt, một bản
nhạc nhan đề là "Bạc mệnh" – đứa con tinh thần của Thúy Kiều - đã tác động vào cõi
sâu thẳm trong tâm hồn của con người, khiến ai thưởng thức cũng phải đau khổ, sầu não
đến rơi nước mắt, đến buốt nhói tim. Phải chăng "một thiên bạc mệnh lại càng não
nhân" ấy như muốn dư báo những đâu khổ, bất hạnh chồng chất trong suốt 15 năm ròng
của đời người con gái tài sắc vạn toàn?
Nhìn chung, Nguyễn Du có dụng ý rất rõ trong việc nhấn mạnh tài sắc của Thúy
Kiều, nhà thơ đã cực tả Thúy vân, tưởng như sắc đạp của Thúy Vân không ai hơn được
nữa, để rồi sau đó, Thúy Kiều xuất hiện thì Thúy Vân trở thành một cái nền làm tôn sắc
đẹp của Thúy Kiều là tuyệt đỉnh. Còn tài của nàng cũng là tuyệt đỉnh. (Giáo sư Nguyễn
Lộc)
Có thế nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ
nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn
du một cách say sưa, nồng nhiệt, tập trung và trân trọng nhất. Đó là một cái nhìn của
con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông như ngọn nước triều dâng. Nguyễn Du dã
mở đường cho tư tưởng của mình đi trước thời đại. Bởi lẽ, trong xã hôi phong kiền đầy
rẫy những bất công, ngang trái, hà khắc, phụ nữ luôn bị lép vế, bị ruồng rẫy, chà đạp, xô
đẩy đến bức đường cùng.
Một lần nữa ở bốn câu kết thúc của trích đoạn Chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du miêu
tả cuộc sống phong lưu, êm đềm, khuôn phép, mẫu mực và ngợi ca đức hạnh của cả hay
chị em:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cặp kê,
Em đềm trướng rủ màn che.
Tường đông ong bướm đi về mặc ai
Mặc dù đã đến tuổi búi tóc cài trâm, có thể lấy chồng nhưng Thúy Vân và Thúy

Kiều vẫn sống hòa thuận, vui vẻ trong cảnh trướng rủ màn che, không tơ tưởng đến
những kẻ đi tìm tình yêu, đi ve vãn con gái như ong bướm tìm hoa. Chính những nét
hồn nhiên, trong sang, thơ ngây đã nuôi dưỡng, bồi đắp cho sự hình thành - phát triển
nhân cách và ý thức làm người cao cả của hai chị em sau này, đặc biệt là Thúy Kiều.
Tóm lại, bằng một thế giới ngôn ngữ phong phú, tính tế, kỳ diệu, bằng một bút
pháp điêu luyện, bằng một thiên tài khám phá tuyệt vời kết hợp với lòng thương yêu của
16


con người, nhất là người phụ nữa, Nguyễn Du vẽ lên bức chân dung vừa điển nhã, vừa
có sức gợi cảm mãnh liệt của Thúy Vân và Thúy Kiều trong trích đoạn Chị em Thúy
Kiều. Có thế nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người phụ
nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài Nguyễn
du một cách say sưa, nồng nhiệt, tập trung và trân trọng nhất. Càng nâng niu, quý trọng
Truyện Kiều, chúng ta càng cảm phục tài năng và đức độ của đại thi hào dân tộc
Nguyễn Du.
Trong dòng văn học cổ Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm văn
học kiệt xuất. Tác phẩm không chỉ nổi tiếng vì cốt truyện hay, hấp dẫn, lời văn trau
chuốt, giá trị tố cáo đanh thép, giá trị nhân đạo cao cả mà còn vì các nhân vật trong
truyện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du miêu tả vô cùng đẹp đẻ, sinh động. Đặc
biệt là các nhân vật mà tác giả tâm đắc nhất như Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ngay phần đầu của Truyện Kiều Nguyễn Du đã khắc họa bức chân dung xinh đẹp
của hai chị em Thúy Kiều và Thúy Vân:
“Đầu lòng hai ả tố nga
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Nói đến mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao; nói đến tuyết là nói đến sự trong
trắng, tinh sạch. Cả mai và tuyết đều rất đẹp. Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao, trong trắng
của hai chị em như là mai là tuyết và đều đạt đến độ hoàn mĩ “Mười phân vẹn mười”.

Tiếp đó tác giả giới thiệu vẻ đẹp của Thúy Vân:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn ,nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Nhà thơ đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với ẩn dụ để miêu tả vẻ đẹp của Thúy
Vân. Nàng có một vẻ đẹp mà hiếm thiếu nữ nào có được với khuôn mặt đầy đặn như
trăng rằm, lông mày cong hình cánh cung như mày ngài. Miệng cười của nàng tươi như
hoa nở, giọng nói của nàng trong như ngọc. Lại nữa, da trắng mịn đến tuyết phải
nhường . Ôi, thật là một vẻ đệp đoan trang, phúc hậu ít ai có được! Nguyễn Du đã miêu
tả bức chân dung nàng Thúy Vân có thể nói là tuyệt đẹp. Đọc đoạn này ta thấy rung
động trước vẻ đệp tuyệt vời của Thúy Vân và thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du. Ông
đã vận dụng biện pháp tu từ của văn thơ cổ vừa đúng đắn vừa sáng tạo.
Nguyễn Du miêu tả Thuý Vân đã khiến ta rung động đến vậy, ông miêu tả Thuý
Kiều thì ta còn bất ngờ hơn nữa. Bất ngờ đến kinh ngạc. Bắt đầu từ câu:
“Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn”
Nàng Vân đã tuyệt diệu như vậy rồi, nàng Kiều còn đẹp hơn nữa ư? Có thể như
vậy được không? Ta hãy xem ngòi bút của Nguyễn du viết về nàng Kiều:
“Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kếm xanh
Một hai nghiên nước nghiên thành
Sắc đành đòi một tài đành hoạ hai”
Đến đây, chắc hẳn ta sẽ hài lòng và vô cùng thán phục. Nguyễn Du đã miêu tả vẻ
đẹp Thuý kiều không dài, chỉ vài cau thôi, vậy mà ta như thấy hiện ra trước mắt một
17


thiếu nữ “tuyệt thế gia nhân”. Mắt nàng thăm thẳm như làn nước mùa thu, lông mày
uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân; dung nhan đằm thắm đến hoa củng phải

ghen, dáng người tươi xinh mơn mởn đén mức liễu cũng phải hờn. Khi đọc đến đoạn
này ta không chỉ rung động, thán phục mà có một cảm giác xốn xang khó tả bởi nàng
Kiều Xinh đẹp quá. Thủ pháp ước lệ, nhân hoá là biện pháp tu từ phổ biến trong văn
học cổ được tác giả sử dụng xuất sắc, kết hợp với việc dùng điển cố “nghiêng nước
nghiêng thành” , tác giả đã làm cho ta không chỉ đọc, chỉ nghe, chỉ cảm nhận, mà như
thấy tận mắt nàng Kiều. Nàng quả là có một vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà”. Ta có thể nói là
“có một không hai” làm mê đắm lòng người. Đọc hết những câu trên, ta mới hiểu được
dụng ý của Nguyễn Du Khi miêu tả vẻ đẹp “đoan trang phúc hậu” của Thuý Vân trước
vẻ đẹp “sắc sảo mặn mà” của Thuý Kiều. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp đòn bẩy, dùng
vẻ đệp của Thúy Vân để làm để làm tôn thêm vẻ đẹp yêu kiều, quyến rũ của Thuý Kiều
rất có hiệu quả.
Sắc đã vậy còn tài của nàng Kiều thì sao? ta sẽ không cảm nhận được hết toàn bộ
vẻ đẹp hình thể củng như vẻ đẹp tâm hồn cua Thuý Kiều nếu như ta không biết đến tài
của nàng, mặc dù Nguyễn Du đã nói “Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”. Về sắc thì
chắc chắn chỉ có mình nàng là đẹp như vậy, về tài hoạ chăng có người thứ hai sánh kịp:
"Thông minh vốn sẳn tính trời
Pha mùi thi hoạ đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”
Nàng có cả tài thơ, tài hoạ, tài đàn, tài nào cũng xuất sắc, cũng thành “nghề” cả.
Riêng tài đàn nàng đã sáng tác một bản nhạc mang tiêu đề “Bạc mệnh” rất cuốn
hút lòng người.
Với hai nhân vật như Thuý Kiều và Thuý Vân, Nguyễn Du đã sử dụng các biện
pháp tu từ phổ biến trong văn thơ cổ như ước lệ, ẩn dụ, nhân hoá, dùng điển cố. Qua đó
ta thấy vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân Và vẻ đẹp “sắc sảo măn mà” của
Thuý Kiều. Đặc biệt là Thuý Kiều nhà thơ đã giành trọn tâm huyết, sức lực và tài năng
của mình để sáng tạo nên nàng. Bởi nàng là nhân vật chính của Truyện Kiều.
Như đã nói. Truyện Kiều thu hút người đọc phần lớn là nhờ nghệ thuật miêu tả

nhân vật của Nguyễn Du. Quả vậy, nghệ thuật tả người của Nguyễn Du có thể gọi là bậc
thầy trong nền văn học cổ Việt Nam. Tả hình dáng bên ngoài của nhân vật ông luôn làm
toát lên cái tính cách, tâm hồn bên trong của nhân vật đó.
Với Thuý Vân ông đã thực hiện biện pháp ước lệ để miêu tả vẻ đẹp:
“Khuôn trăng dầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da”
Tất cả các từ ngữ, hình ảnh được ông sử dụng trong các câu thơ trên đều tập trung
làm cho người đọc thấy được vẻ đẹp “đoan trang, thuỳ mị” của Thuý Vân. Không
những khắc hoạ vẻ đẹp hình thể bên ngoài Nguyễn Du còn như dự báo số phận bình
lặng, êm ả của nàng qua từ “thua” và từ “Nhường”. Mây và tuyết thua vẻ đẹp của Thuý
Vân nhưng cả hai đều chịu “thua” và chịu “nhường” một cách êm ả .
Với Thuý Kiều, Tác giả dùng nhiều biện pháp tu từ để miêu tả vẻ đẹp “sắc sảo,
mặn mà” của nàng. Những câu thơ miêu tả nàng có thể xem là tuyệt bút:
18


“Làn thu thuỷ nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liểu hờn kém xanh”
Trong hai câu thơ, Nguyễn Du như đã dự báo số phận bấp bênhchìm nổi của Kiều
qua các hình ảnh hoa và liễu thua vẻ đẹp của nàng nhưng không cam chịu thua mà còn
“ghen” còn “hờn” và khúc nhạc bạc mệnh nàng sáng tác cũng như dự báo điều đó.
Nói tóm lại, Nguyễn Du có nghệ thuật tả người rất đặc sắc và tiêu biểu. Mỗi nhân
vật ông miêu tả dù tốt hay xấu, dù chính diện hay phản diện cũng đề biểu hiện được bản
chất tâm hồn bên trong qua hình dáng bên ngoài. Nghệ thuật miêu tả, xây dựng nhân vật
của Nguyễn Du rất đáng để chúng ta trân trọng và học tập.
Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn. Với vốn
kiến thức sâu rộng về văn hoá dân tộc và cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều,
ông đã có một niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ cuả nhân dân. Truyện Kiềumột tác phẩm truyện thơ Nôm được xem là kiệt tác trong sự nghiệp văn chương cuả
ông. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều được trích trong phần đầu cuả tác phẩm thể hiện vẻ

đẹp và tài năng cuả chị em Thuý Kiều cùng cuộc sống êm ấm cuả họ. Qua đó còn cho
thấy Nguyễn Du là bậc thầy trong nghệ thuật tả người.
Qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều (trích Truyện Kiều) của Nguyễn Du, hình ảnh chị
em Thuý Kiều hiện lên rõ nét là hai con người vẻ đẹp và tài năng hơn người. Đồng thời,
còn thể hiện dự cảm về kiếp người tài hoa bạc mệnh của cảm hứng nhân văn ở Nguyễn
Du. Điều tạo nên sự thành công và độc đáo cuả đoạn trích là bút pháp ước lệ tượng
trưng và nghệ thuật miêu tả người.
2. Kiểu bài phân tích nhân vật.
VD: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái
Nam Xương của Nguyễn Dữ.
a. Mở bài:
‘Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương
Bóng đèn dù nhẫn đừng nghe trẻ
Cung nước chi cho lụy đến nàng”.
(Lê Thánh Tông)
- Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông sống ở thế kỉ 16, làm quan
một năm, sau đó chán cảnh triều đình thối nát xin cáo quan về ở ẩn.
- Truyền kì mạc lục là tác phẩm văn xuôi đầu tiên của Việt Nam được viết bằng
chữ Hán, trong đó truyện đã đề cập đến thân phận người phụ nữ sống trong XHPK mà
cụ thể là nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam xương.
b. Thân bài:
* Vũ Nương: Đẹp người, đẹp nết:
- Tên là Vũ Thị Thiết, quê ở Nam Xương, gia đình “kẻ khó” tính tình thùy mị nết
na, lại có thêm tư dung tốt đẹp.
- Lấy chồng con nhà hào phú không có học lại có tính đa nghi. Sau khi chồng bị
đánh bắt đi lính, nàng phải một mình phụng dưỡng mẹ chồng, nuôi dạ con thơ, hoàn
cảnh đó càng làm sáng lên những nét đẹp của nàng.
+ Là nàng dâu hiếu thảo: khi mẹ chồng bị ốm, nàng “hết sức thuốc thang”, “ngọt
ngào khôn khéo khuyên lơn” khi bà mất, nàng “hết lời thương sót”, lo ma chay lễ tế,

“như đối với cha mẹ đẻ mình”.
19


+ Là người vợ đảm đang, giữ gìn khuôn phép, hết mực thủy chung không màng
danh vọng: ngày chồng ra trận nàng chỉ mong “Ngày trở về mang theo hai chữ bình
yên, thế là đủ rồi” chứ không mong mang được ấn phong hầu mặc áo gấm trở về.
“Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”, “chỉ có cái thú vui nghi gia nghi thất” mong ngày
“hạnh phúc xum vầy”.
+ Là người mẹ hết mực thương con muốn con vui nên thường trỏ bóng mình vào
vách mà nói rằng đó là hình bóng của cha.
“Chỉ vì nghe lời trẻ em
Cho nên mất vợ rõ buồn chàng Trương”.
* Vũ Nương: Người phụ nữ dám phản kháng để bảo vệ nhân phẩm, giá trị của
mình:
- Chồng trở về, bị hàm oan, nàng đã kiên trì bảo vệ hạnh phúc gia đình, bảo vệ
nhân phẩm giá trị của mình qua những lời thoại đầy ý nghĩa.
- Khi chồng không thể minh oan, nàng quyết định dùng cái chết để khẳng định
lòng trinh bạch.
- Đòi giải oan, kiên quyết không trở lại với cái xã hội đã vùi dập nàng: “Đa tạ tình
chàng, thiết chẳng trở về nhân gian được nữa”.
* Vũ Nương: Bi kịch hạnh phúc gia đình bị tan vỡ và quyền sống bị chà đạp.
- Bi kịch này sinh ra khi con người không giải quyết được mâu thuẫn giữa mơ ước
khát vọng và hiện thực khắc nghiệt, mặc dù con người hết sức cố gắng để vượt qua, Vũ
Nương đẹp người đẹp nết đáng lẽ phải được hưởng hạnh phúc mà lại không được .Vũ
Nương đã hết sức cố gắng vun đắp cho hạnh phúc gia đình, hi vọng vào ngày xum vầy,
ngay cả khi nó sắp bị tan vỡ. Nhưng cuối cùng nàng đành phải chấp nhận số phận, hạnh
phúc gia đình tan vỡ không bao giờ có được, bản thân đau đớn, phải chết một cách oan
uổng.
“Trăm năm bia đá vẫn mòn

Ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
* Những tính cách trên được xây dựng qua nghệ thuật:
- Tạo tình huống tuyện đầy kịch tính.
- Những đoạn đối thoại và những lời tự bạch của nhân vật.
- Có yếu tố truyền kì và hiện thực vừa hoang đường.
c. Kết bài:
- Nguyễn Dữ thật xứng đáng với vị trí tiên phong trong nền văn xuôi Việt Nam.
- Càng văn minh, tiến bộ càng quý trọng những bà mẹ, những người chị “Giỏi việc
nước, đảm việc nhà”.
Trăm nghìn gửi lụy tình quân
“Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.
(Nguyễn Du- Truyện Kiều).
Bài tham khảo:
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương”.
Ngàn năm trôi qua, làn khói viếng “Miếu vợ chàng Trương” vẫn muôn đời lan tỏa,
vấn vương, như tiếc như thương cho số phận đầy bi kịch của Vũ Nương. Bằng ngòi bút
20


đầy trân trọng trong Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã tạc vào lịch sử
văn học Việt Nam hình ảnh một người phụ nữ thời phong kiến, một Vũ Nương, đại diện
cho cái đẹp hoàn mỹ. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời nàng lại chất chứa những trang
buồn đầy nước mắt.
Tên nàng là “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương”, đã đẹp người lại đẹp
nết. Trương Sinh, chồng nàng, là một người thất học lại thêm tính đa nghi. Khi binh đao
loạn lạc, Trương phải ra trận. Một tuần sau, nàng sinh con trai đầu lòng và một mình
chăm sóc mẹ chồng, lo tang ma khi mẹ chồng mất. Giặc tan, chàng Trương về, nghe lời

con trẻ mà nghi ngờ lòng thủy chung của vợ. Vũ Nương không minh oan được nên đành
trẫm mình, nhưng nàng được Linh Phi ở động Rùa cứu giúp. Sau đó, nàng gặp Phan
Lang, người hàng xóm đã cứu Linh Phi, nhờ Phan Lang gửi hộ lời với chàng Trương.
Trương Sinh hối cải, lập đàn giải oan theo lời Vũ Nương. Nàng hiện lên gặp chồng con
rồi lại quay về động Rùa vì hai người đã “âm dương đôi đường”. Nhưng hình ảnh Vũ
Nương không dừng lại ở đó mà còn mãi vấn vương trong lòng người đọc bởi nét đẹp
hoàn mỹ cũng như số phận oan khuất và cái chết đầy bi thảm của nàng.
Vũ Nương chính là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam
dưới chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp “nghiêng
nước nghiêng thành” của Thúy Kiều, Nguyễn Dữ chỉ điểm qua nhẹ nét đẹp của Vũ
Nương: “tư dung tốt đẹp”. Nhưng chỉ bằng một chi tiết nhỏ ấy, tác giả đã phần nào khắc
họa được hình ảnh một cô gái có nhan sắc xinh đẹp. Cũng bởi “mến vì dung hạnh” nên
chàng Trương đã lấy nàng làm vợ. Nhưng chữ “dung” ấy, vẻ đẹp hình thức ấy, chẳng
thể nào tỏa sáng ngàn đời như vẻ đẹp tâm hồn nàng. Vũ Nương “vốn con kẻ khó”, song
rất mực tuân theo “tam tòng tứ đức”, giữ trọn lề lối gia phong và phẩm hạnh của chính
mình. Thế nên, nàng rất “thùy mị, nết na”. Trong gia đình chồng, nàng luôn “giữ gìn
khuôn phép, không để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”. Thế là, “hạnh”, một trong
những tiêu chuẩn đánh giá con người, nàng đã vẹn tròn. Lễ nghĩa, nàng cũng thông
hiểu, am tường. Tuy chẳng phải tiểu thư khuê các, con nhà quyền quý nhưng lời nàng
nói ra dịu dàng như vàng như ngọc. Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: “Chàng
đi chuyến này, thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ,
chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từng lời, từng chữ
nàng thốt ra thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến “mọi người đều
ứa hai hàng lệ”. Phận làm vợ, ai chẳng mong phu quân mình được phong chức tước, áo
gấm về làng. Còn nàng thì không. Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về
được bình yên để có thể sum họp, đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào.
Nhưng mong ước của nàng đã không thực hiện được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ
Nương tìm mọi lời lẽ để chứng minh sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang,
đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải thích: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu.
Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm

giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng. Ngõ liễu tường hoa chưa hề bén
gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Xin chàng đừng một mực nghi oan
cho thiếp”. Lời nói của nàng luôn từ tốn, nhẹ nhàng, không quá hoa mỹ nhưng chất
chứa nghĩa tình. Chỉ qua những lời thoại, từ “ngôn” của Vũ Nương đã để lại một ấn
tượng khó phai trong lòng người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những
câu nói ấy, chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng con, gia đình.
Khi chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh
của nàng. Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi
21


của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu
tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi
chồng về. Không những thế, nàng còn hết lòng chăm lo cho mẹ chồng ốm nặng: “Nàng
hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Thời
xưa, quan hệ mẹ chồng – nàng dâu dường như chưa bao giờ êm đẹp và chứa đầy những
định kiến khắt khe.
“Mẹ anh nghiệt lắm anh ơi
Biết rằng có được ở đời với nhau
Hay là vào trước ra sau
Cho cực lòng thiếp, cho đau lòng chàng”.
Nhưng nàng đã yêu thương mẹ chồng như chính cha mẹ ruột của mình. Mọi việc
trong nhà đều được nàng chăm lo chu tất. Và lời trăn trối cuối cùng của mẹ chồng như
một lời nhận xét, đánh giá, một phần thưởng xứng đáng với những công lao và sự hy
sinh cao cả của nàng vì gia đình nhà chồng: “Xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như
con đã chẳng phụ mẹ”. Tác giả đã một lần nữa nhắc lại: “Nàng hết lời thương xót, phàm
việc ma chay tế lễ, lo liệu như với cha mẹ đẻ mình”, như tô đậm tình yêu thương của
nàng đối với mẹ chồng. Vũ Nương là một nàng dâu đảm đang, thảo hiền trong mắt tất
cả mọi người. Vậy là cả “công – dung – ngôn – hạnh” nàng đều vẹn toàn. Nàng chính là
đỉnh cao của sự hoàn mỹ về cả vẻ đẹp hình thức lẫn tâm hồn của người phụ nữ Việt

Nam xưa dưới chế độ phong kiến. Song, số phận chẳng hề mỉm cười với nàng.
Cuộc đời Vũ Nương tiêu biểu cho số phận oan trái của người phụ nữ Việt Nam
dưới chế độ phong kiến. Nàng gặp bao bất hạnh trên đường đời. Chiến tranh tàn khốc đã
khiến bao gia đình li tán. Trước cảnh đất nước binh đao loạn lạc, Trương Sinh phải đi
lính, giao phó cả giang san nhà chồng trên đôi vai bé nhỏ của người thiếu phụ.Tất cả
mọi việc trong nhà đều trông cậy vào nàng. “Khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một
đứa con trai, đặt tên là Đản”. Thiếu vắng sự quan tâm, săn sóc của người chồng, song
nàng vẫn nuôi nấng, dạy dỗ con thơ khôn lớn, trưởng thành. Vừa một mình chăm sóc,
thuốc thang cho mẹ chồng, Vũ Nương vừa sinh con trai, lại thầm lặng, tần tảo nuôi con
và cũng một mình lo ma chay, chôn cất mẹ chồng chu đáo. Từng ngày từng ngày trôi,
bấy giờ, trên đôi vai bé nhỏ của nàng khó khăn lại chồng chất khó khăn. Rồi chiến tranh
cũng qua, cứ ngỡ Vũ Nương lại được sum họp gia đình, đoàn viên cùng chàng Trương,
được sống trong hạnh phúc lứa đôi mà nàng hằng ao ước. Nàng đâu biết rằng bi kịch
cuộc đời nàng sắp bắt đầu. Những ngày xa chồng, nàng đã âm thầm nuôi con, và nàng
xót xa biết bao khi nhìn cảnh con thơ thiếu vắng sự chăm sóc, yêu thương của người
cha.Thế là nàng đã chỉ bóng mình trên tường mà bảo với con rằng ấy chính là cha Đản.
Hành động ấy chẳng phải vì nàng quá thương nhớ chồng mà xuất phát từ tấm lòng yêu
thương con vô bờ của một người mẹ. Nhưng nàng sẽ chẳng bao giờ ngờ được rằng nàng
chết chính bởi cái bóng của chính mình. Ngày Trương Sinh về, nghe lời con thơ dại mà
hàm oan vợ: “Trước đây có người đàn ông đêm nào cũng đến. Mẹ Đản đi cũng đi, mẹ
Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Trương Sinh vốn là tên thất học,
lại thêm “tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Lời nói ngây thơ của bé Đản
chứa đầy những chi tiết đáng ngờ, như đổ thêm dầu vào lửa. Tính đa nghi của Trương
Sinh đã dâng lên đến cao trào và một mực “đinh ninh là vợ hư”. Chàng không còn đủ
bình tĩnh để phán đoán, phân tích, bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, không tin cả
những nhân chứng bênh vực cho nàng, cũng nhất quyết không nói ra nguyên cớ để nàng
có cơ hội minh oan. Và Trương Sinh thoáng chốc hóa một kẻ vũ phu, thô bạo, “mắng
22



nhiếc nàng và đánh đuổi đi”. Vượt qua được mọi gian lao, vất vả trong chiến tranh để
vẹn tròn phận dâu thảo hiền nhưng Vũ Nương không thể vượt qua nổi bức tường của
chế độ nam quyền độc đoán, bất công, tàn bạo. Lời nói của nàng đầy thương tâm:
“Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Ngay từ đầu, cuộc hôn nhân giữa
nàng và chàng Trương đã có phần không bình đẳng và mang tính chất một cuộc trao
đổi, mua bán: Trương Sinh “xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Điều ấy khiến
chúng ta chạnh lòng nhớ đến tình cảnh một Thúy Kiều khi phải bán mình chuộc cha:
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.
Sự cách bức về địa vị xã hội như thế đã tạo cho Trương Sinh một cái thế bên cạnh
những uy quyền vốn có của người chồng, người đàn ông trong gia đình gia trưởng
phong kiến. Chính cái gia đình “chồng chúa vợ tôi”, “phu xướng phụ tùy” ấy đã khiến
nàng bị khinh rẻ, đối xử tệ bạc. Một người vợ vốn đức hạnh, ngoan hiền, vâng theo cả
“tam tòng tứ đức” lại phải mang tiếng xấu “hư thân mất nết”. Mọi lời mắng nhiếc của
Trương Sinh như chà đạp lên phẩm giá cao đẹp mà nàng đã gìn giữ cả một đời. Khi xa
chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết, nỗi buồn nhớ cứ dài theo
những “bướm lượn đầy vườn”, “mây che kín núi”. Thế mà khi vừa mới sum họp hạnh
phúc, nàng lại bị gán cho tội danh: “lừa chồng dối con”. Thật đau đớn, thật tủi nhục! Bi
kịch của cuộc đời Vũ Nương chính từ lễ giáo bất công và chế độ nam quyền. Người đàn
ông với những quyền hành về số phận, cuộc đời người phụ nữ đã đẩy Vũ Nương vào
đường cùng không lối thoát. Cái chết oan khuất, xót xa của Vũ Nương, ai có thể ngờ
người gây ra thảm kịch ấy chính là chồng và con nàng, những người thân mà nàng hết
mực yêu thương, chăm sóc. Nàng, một người con gái luôn khao khát hạnh phúc dù chỉ
nhỏ nhoi, bình dị nhưng cho đến khi trẫm mình xuống sông thì cuộc đời nàng đúng là
một chuỗi dài những bi kịch. Hạnh phúc đâu quá xa vời mà xã hội phong kiến ấy không
cho nàng chạm tay đến tận hưởng “thú vui nghi gia nghi thất” một lần duy nhất trong
đời. Nỗi oan của nàng thấu cả trời xanh. Ngày xưa, Quan Âm Thị Kính mắc oan giết
chồng bởi “tình ngay lý gian”. Nhưng nàng Thị Kính cũng còn hiểu ra nỗi oan khuất
của mình từ đâu mà thành. Còn khi đã chìm sâu dưới dòng nước, Vũ Nương vẫn không
hề biết rằng mình phải chết vì đâu. Bi kịch của Vũ Nương là một lời tố cáo xã hội

phong kiến xem trọng quyền uy của kẻ giàu và của người đàn ông trong gia đình, đồng
thời bày tỏ niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ. Người phụ
nữ đức hạnh không những không được bênh vực, che chở mà lại còn bị đối xử một cách
bất công, vô lý; chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ miệng còn hôi sữa và vì sự hồ đồ, vũ
phu của anh chồng ghen tuông mà đến nỗi phải kết liễu cuộc đời mình. Phải chăng đằng
sau nỗi oan của nàng còn bao nhiêu nỗi oan của những người phụ nữ khác trong chế độ
phong kiến bị rẻ rúng, suốt đời sống trong câm lặng.
Xót thương trước nỗi đau khổ vì bị chà đạp của những người phụ nữ, Nguyễn Dữ
như muốn minh oan và bù đắp cho những đức tính tốt đẹp của nàng bằng một cuộc sống
khác với dương gian. Nhưng ở chốn “làng mây cung nước”, Vũ Nương chẳng thể nào
nguôi nỗi nhớ về những oan ức, bĩ cực ở cõi trần. Sống giữa cõi tiên huyền ảo, đẹp diệu
kỳ nhưng nàng dường như không bao giờ dứt tình nghĩa gia đình, mãi khóc thương cảnh
gia đình tiêu điều xơ xác. Nàng xin lập đàn giải oan, khao khát được trả lại danh dự của
một người con gái đức hạnh. Và cuối cùng, nỗi oan của nàng đã được giải. Từ chốn
thủy cung, Vũ Nương “ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng, theo sau có đến
năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ sắc màu, lúc ẩn, lúc hiện”. Nhưng xót xa
23


thay, nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Nỗi oan tình của nàng đã được minh
oan, giải tỏa nhưng âm dương đôi đường cách trở, nàng chẳng bao giờ được làm vợ,
làm mẹ chốn cõi trần. Bé Đản mãi mãi là một đứa bé mồ côi mẹ. Nếu nàng được trở về
với cõi trần thì liệu xã hội phong kiến bất công không có nơi dành cho cái đẹp này có
dành cho nàng một cuộc sống ấm êm, bình yên, hay một lần nữa, nàng phải đau đớn,
buồn khổ. Dù quay về chốn tiên cảnh xinh đẹp, nhưng cuối cùng, mơ ước cả đời của
nàng, hạnh phúc “nghi gia nghi thất”, chỉ mãi là ước mơ hảo huyền.
Hình tượng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của lòng vị tha và vẻ đẹp người phụ
nữ. Song cuộc đời nàng gặp nỗi bi kịch lớn. Ấy chính là tấn bi kịch của người phụ nữ
Việt Nam trong chế độ phong kiến tàn ác, chế độ của sự lạc hậu và cả bóng đêm vĩnh
cửu. Điều đó khiến chúng ta phải chạnh lòng trước số phận của người phụ nữ.

“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
3. Kiểu bài nghị luận tổng hợp về một vấn đề Văn học.
VD: Truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam đã phát triển
thành hẳn một trào lưu mạnh mẽ với nhiều thành tựu rực rỡ vào nửa cuối thế kỉ
XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX.
Em hãy giải thích và chứng minh hiện tượng trên dựa vào những điều đã được học về thời đại và các tác phẩm văn học thuộc giai đoạn từ nửa cuối thế kỉ XVIII
đến nửa đầu thế kỉ XIX.
Với đề bài trên, cần đạt được các ý cơ bản sau:
1. Giải thích: Vì sao truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam vào
nửa cuối thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XI X đã đợc phát huy mạnh mẽ trở thành trào
lưu.
Dựa vào cơ sở lịch sử – xã hội để giải thích.
- Đấy là sự phản ánh một thời kì lịch sử đầy biến động của đất nước ta đã lay
chuyển đến tận gốc rễ chế độ phong kiến ở Việt Nam. Thời kì của những cuộc tranh
giành quyền lực đẫm máu và kéo dài của các tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh, Trịnh Nguyễn. Đây cũng là thời kì của những cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra liên tục ở khăp
nơi mà đỉnh cao là cuộc khởi nghĩa Tây Sơn đã quét sạch các tập đoàn phong kiến, đánh
tan quân Xiêm, quân Thanh. Triều đại Tây Sơn tồn tại không được bao lâu, nhà Nguyễn
giành được chính quyền, chúng muốn kéo đất nước ta trở lại chế độ phong kiến hủ bại.
- Những biến động trên dẫn đến sự khủng hoảng sâu sắc của ý thức hệ phong kiến.
Đây là thời kì kỉ cương và đạo lí phong kiến mất hết vẻ thiêng liêng, đạo vua tôi, thầy
trò, cha con, vợ chồng, anh em bị bán rẻ vì quyền lợi cá nhân (Hoàng Lê nhất thống chí,
Vũ trung tuỳ bút ..). Người ta nhận thấy cái gọi là tam cương, ngũ thường chỉ là giả dối.
Trong khi đó, những cuộc nổi dậy của nông dân chống áp bức bóc lột khiến người ta
thấy cần phải quan tâm tới số phận con người, đến quyền sống, hạnh phúc của họ và cần
phải đấu tranh giải phóng con người. Đó là nguồn gốc ý thức của trào lưu nhân đạo chủ
nghĩa chống phong kiến nổi lên như một trận gió lớn thổi mạnh vào đời sống văn học
nước ta cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.
2. Chứng minh
a. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học thời kì này thể hiện ở sự lên án mạnh mẽ chế

độ phong kiến thối nát và tàn bạo.
+ Chinh phụ ngâm khúc: bản án đầy ai oán kết tội chiến tranh phong kiến làm tan
vỡ hạnh phúc lứa đôi của biết bao chinh phụ.
24


+ Cung oán ngâm: tố cáo tội ác hoang dâm vô độ của bọn vua chúa.
+ Thơ Hồ Xuân Hương: phê phán chế độ đa thê, lên án quan niêm trọng nam khinh
nữ…
+ Truyện Kiều: lên án xã hội phong kiến đã giày xéo lên tài, sắc, đã phá tan hạnh
phúc lứa đôi của cặp giai nhân tài tử. Xã hội đồng tiền ngự trị, quan lại độc ác, lưu
manh, côn đồ… cả một lũ đầu trâu mặt ngựa đào hố, giăng bẫy đẩy cô Kiều vào “Hết
nạn nọ đến nạn kia”.
b. Chủ nghĩa nhân đạo thể hiện ở thái độ trân trọng con người.
+ Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du dành những vần thơ trân trọng nhất để ca ngợi
tài sắc của Thuý Kiều, cũng như khí phách ngang tàng của Từ Hải.
+ Hồ Xuân Hương vẽ nên hình ảnh đầy xuân tình, xuân sắc của ngời phụ nữ trong
các bài “Tranh tố nữ”.
c. Biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo là yêu cầu giải phóng con người,
đấu tranh cho quyền sống, nhân phẩm và hạnh phúc của con người.
+ Nguyễn Du ca ngợi mối tình tự do Kim- Kiều; ca ngợi Từ Hải – con người bất
chấp trật tự phong kiến, đường hoàng thực hiện công lí của nhân dân giữa thanh thiên
bạch nhật.
+ Hồ Xuân Hương đấu tranh cho quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của
người phụ nữ: đặt mình lên trên những đấng nam nhi, bênh vực người phụ nữ không
chồng mà chửa...
Tóm lại: Quan tâm tới số phận con người là nhiệm vụ trọng yếu và vinh quang nhất
của văn chương nghệ thuật. Đó là lí do vì sao trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa thời
kì này phát triển mạnh mẽ với những thành tựu phong phú và rực rỡ.
VI- CÁC BÀI TẬP HỌC SINH TỰ GIẢI

Đề 1. Nhận xét về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích, có ý kiến cho rằng:
"Mỗi câu thơ như giằng xé tâm can của nàng Kiều tài hoa bạc mệnh. Lời thơ bật khóc,
tiếng thơ ai oán vọng cả đất trời, nội cỏ chân mây".
Hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
Đề 2. Nhận xét về đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Truyện Kiều- Nguyễn Du),
có ý kiến cho rằng:
“Ngòi bút của Nguyễn Du hết sức tinh tế khi tả cảnh cũng như khi ngụ tình. Cảnh
không đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Mỗi biểu hiện
của cảnh phù hợp với từng trạng thái của tình”.
Bằng tám câu thơ cuối đoạn trích, em hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đề 3. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du có viết:
"Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài"
Em hiểu như thế nào về chữ "Tâm" mà Nguyễn Du nói đến trong câu thơ trên? Hãy
làm rõ cái "Tâm" của Nguyễn Du qua các đoạn trích trong Truyện Kiều mà em đã học.
Đề 4. Nhân vật Lục Vân Tiên là một trong những nhân vật thể hiện lí tưởng thẩm
mĩ về con người trong cuộc sống đương thời của Nguyễn Đình Chiểu.
Qua đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga, em cảm nhận được những điều
gì về mẫu lí tưởng đó?
Đề 5: Nói về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có ý
kiến cho rằng:
25


×