Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

skkn dạy truyện trung đại việt nam theo phương pháp đọc hiểu ở chương trình ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.5 KB, 53 trang )

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Dạy truyện trung đại Việt Nam theo phương pháp
đọc- hiểu ở chương trình Ngữ Văn 9
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giải pháp tác nghiệp
3. Tác giả:
Họ và tên:

Nguyễn Thị Thúy Hồng

Nữ

Ngày tháng/năm sinh: 16 tháng 12 năm 1973
Trình độ chuyên môn: Đại học Ngữ Văn
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: Trường THCS Hồng Đức – Ninh Giang - Hải Dương
Điện thoại: 0979.431.822
4. Đồng tác giả (Không)
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:Trường THCS Hồng Đức, huyện Ninh
Giang, tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203.760.779
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Trường THCS Hồng Dụ
huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Điện thoại: 03203.767.341
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Giáo viên say mê, có lòng yêu nghề; Có tinh thần học hỏi, nâng cao
trình độ chuyên môn.
- Học sinh yêu thích môn học, có ý thức chuẩn bị bài.
- Có đủ các phương tiện dạy học cần thiết để phục vụ cho giảng dạy
8. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2013-2014
TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP DỤNG
SÁNG KIẾN




Nguyễn Thị Thúy Hồng

2


TÓM TẮT SÁNG KIẾN
1. Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển thì ngành giáo dục nói
chung và môn Ngữ Văn nói riêng lại có một vai trò và nhiệm vụ mới. Vai
trò và nhiệm vụ mới này đã được Luật Giáo dục, điều 24.2 ghi rõ: "Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo
của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương
pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh". Như vậy, chúng ta

có thể thấy rằng tiêu chí quan trọng hàng đầu của giáo dục hiện nay là đào
tạo học sinh trở thành những con người năng động, chủ động, biết vận
dụng và sáng tạo những gì đã học được trên ghế nhà trường vào trong đời
sống, góp phần phát triển xã hội. Để làm được điều này không phải là
chuyện dễ dàng bởi một thực trạng đáng buồn hiện nay là học sinh ngày càng
trở nên lạnh nhạt với môn Văn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng
trên nhưng nguyên nhân lớn nhất là do phương pháp giảng dạy của giáo viên
chưa thật sự cuốn hút. Do vậy, chúng ta cấp thiết phải thực hiện cuộc cách
mạng về phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học Văn nói
riêng.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến.
- Điều kiện áp dụng: Giáo viên say mê, có lòng yêu nghề; có tinh thần
học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn.

- Thời gian áp dụng: Năm học 2013-2014.
- Đối tượng áp dụng: Học sinh lớp 9
3. Nội dung sáng kiến
Tìm ra một phương pháp dạy học hữu hiệu là mong muốn của bất kì
giáo viên nào đứng trên bục giảng. Đó là con đường đầy gian nan và cực
nhọc. Trong muôn vàn phương pháp ấy, phương pháp đọc hiểu được các
nhà nghiên cứu giáo dục đánh giá cao, là “khâu đột phá của giảng dạy văn”.
3


Bởi phương pháp đọc- hiểu ngoài hình thành kĩ năng đọc- hiểu cho học sinh
còn giúp học sinh phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của mình.
Không những vậy phương pháp đọc- hiểu phát huy tính tự học ở học sinh.
Và để tổ chức hoạt động đọc- hiểu khi giảng dạy phần truyện trung đại,
giáo viên cần chú ý những đặc trưng của thể loại. Và trong chương trình lớp
9, phần văn học trung đại chủ yếu là truyện - truyện thơ. Nên khi giảng dạy
theo phương pháp đọc hiểu theo thể loại này, giáo viên cần thực hiện tốt các
giải pháp sau: Đọc và tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản; Tóm tắt tác phẩm;
Nhận ra chủ đề của văn bản; Phân tích nhân vật và các tình tiết quan trọng
trong tác phẩm để mở ra nội dung tác phẩm; Tìm hiểu hình thức nghệ thuật
trong tác phẩm. Ngoài ra để bài giảng được sâu sắc hơn, học sinh có những
kiến thức, kĩ năng toàn diện hơn thì trong quá trình giảng dạy giáo viên cần
vận dụng nguyên tắc tích hợp, liên môn trong giảng dạy để đạt hiệu quả cao.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến
Với việc sử dụng phương pháp đọc- hiểu để dạy các văn bản trung
đại, tôi dễ dàng nhận thấy: giờ học sôi nổi, các em mạnh dạn trình bày ý
kiến của mình. Học sinh có sự chuẩn bị tốt bài ở nhà nên khi đến lớp các
em bắt nhịp rất nhanh vào nội dung bài học. Hơn nữa với việc dạy đọc- hiểu
theo thể loại giúp các em biết phân tích tác phẩm theo đặc trưng của thể loại
đó và có thể đọc- hiểu được các văn bản cùng loại khác. Và còn củng cố thêm

kiến thức tập làm văn cho các em ( Văn tự sự ở lớp 9)
5. Đề xuất kiến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến.
Về phía nhà trường: Cần đầu tư các phương tiện dạy học hiện đại: máy
chiếu, máy quay, các trang thiết bị dạy học khác.
Về phía Phòng giáo dục: Tổ chức chuyên đề dạy học, bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ.

4


MÔ TẢ SÁNG KIẾN
1.Hoàn cảnh nảy sinh sáng kiến
Ngày nay, khi đất nước ngày càng phát triển thì ngành giáo dục nói
chung và môn Ngữ Văn nói riêng lại có một vai trò và nhiệm vụ mới. Vai trò
và nhiệm vụ mới này đã được.Luật Giáo dục, điều 24.2 cũng ghi rõ: "Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng
tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh".
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng tiêu chí quan trọng hàng đầu của
giáo dục hiện nay là đào tạo học sinh trở thành những con người năng động,
chủ động, biết vận vận dụng và sáng tạo những gì đã học được trên ghế
nhà trường vào trong đời sống, góp phần phát triển xã hội. Tiêu chí này đã
làm thay đổi không nhỏ đến hệ thống giáo dục nước ta trong những năm
gần đây. Đó là cải cách chương trình đặc biệt là thay đổi phương pháp
giảng dạy.
Bộ môn Ngữ Văn cũng chuyển mình để phù hợp với mục tiêu
chung đó. Theo đó, các văn bản được đưa vào nhà trường thường hướng
đến việc bồi dưỡng và nâng cao năng lực văn học cho học sinh, đặc biệt là
chú trọng đến việc đọc- hiểu của các em. Để làm được điều này không phải

là chuyện dễ dàng bởi một thực trạng đáng buồn hiện nay là học sinh ngày
càng trở nên lạnh nhạt với môn Văn. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình
trạng trên nhưng nguyên nhân lớn nhất là do phương pháp giảng dạy của
giáo viên chưa thật sự cuốn hút.
Qua những điều trên, một lần nữa ta có thể khẳng định rằng phương
pháp giảng dạy có một vai trò rất quan trọng trong quá trình dạy học, nó
quyết định sự thành bại của một tiết học. Do vậy, chúng ta cấp thiết phải
thực hiện cuộc cách mạng về phương pháp dạy học nói chung, phương pháp
dạy học văn nói riêng.
2. Thực trạng dạy và học các tác phẩm văn học trung đại .
5


2.1. Thực trạng giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại.
Văn học trung đại được đưa vào nhà trường một mặt giúp các em
hiểu được tiến trình phát triển của nền văn học nước nhà qua các thời kì
nhưng mong muốn hơn hết là giúp các em thấy được giá trị, cảm nhận và
yêu thích những hòn ngọc ngàn đời vẫn sáng này. Đó là mong muốn của bất
kì giáo viên nào. Thế nhưng trên thực tế giảng dạy, nhiều giáo viên vẫn
gặp phải một số khó khăn khiến cho điều ấy không thể trở thành hiện
thực được hoặc chỉ trở thành hiện thực một cách nửa vời.
2.1.1.Về mặt phương pháp:
Đổi mới phương pháp đã được đặt ra từ nhiều năm nay nhưng trong
dạy học văn, đặc biệt là trong dạy học văn trung đại giáo viên chủ yếu
dùng phương pháp thuyết giảng là chính. Trong giờ học, giáo viên dành
hầu hết thời gian của mình để nói, để truyền tải nội dung kiến thức còn học
sinh chỉ ngồi nghe và ghi chép lại, các em ít có cơ hội được cùng tham gia
hay đối thoại cùng với giáo viên về tác phẩm. Chính vì thế nên giờ học rất
nhàm chán, đơn điệu, chưa tạo được sự tập trung, hứng thú của học sinh.
Những năm gần đây, giáo viên có nhiều điều kiện để làm quen và ứng

dụng phương pháp mới, phương pháp hiện đại trong đó có phương pháp
đọc- hiểu. Tuy nhiên, qua khảo sát tại một số trường, tôi nhận thấy vẫn
còn một số giáo viên lúng túng khi áp dụng các phương pháp này do giáo
viên chưa thực sự hiểu đúng bản chất của việc đổi mới phương pháp dạy
học. Cho nên, việc thực hiện phương pháp mới vẫn chỉ mang tính chất
“thay tên đổi họ” còn quá trình dạy, giáo viên vẫn trở về với phương pháp
cũ trước đây. Cũng có trường hợp, giáo viên cũng cố gắng tạo nhiều thay
đổi trong lớp học như: tạo không khí sôi nổi trong lớp học bằng những câu
hỏi nêu vấn đề để học sinh thảo luận nhóm nhưng việc ấy cũng chưa đạt
kết quả khả quan bởi câu hỏi nhiều khi chưa đúng trọng tâm, hoặc quá
khó, hoặc quá dễ chưa phù hợp với tầm nhận thức của các em; hơn thế
nữa, giáo viên đôi khi cũng chưa chuẩn bị tâm lí với những tình huống đi
chệch với suy nghĩ của mình. Do vậy, lớp học có “ồn ào, náo nhiệt” hơn
6


trước nhưng “tính tích cực, chủ động, sáng tạo” của học sinh vẫn bị quên
lãng.
Thay đổi phương pháp mới không có nghĩa là chúng ta bác bỏ hoàn
toàn phương pháp cũ mà thay vào đó là lựa chọn, tìm ra những ưu điểm để từ
đó nâng cao chất lượng dạy- học văn. Qua thực trạng trên, tôi nhận thấy về
mặt phương pháp cũng như ứng dụng phương pháp vẫn còn nhiều bất cập,
chưa thực sự phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, cho nên, việc tìm
ra một phương pháp mới là một việc làm cấp thiết.
2.1.2. Về mặt nội dung giảng dạy:
Tác phẩm văn học là một chỉnh thể trong đó các yếu tố có liên quan
chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, theo cách dạy trước đây, giáo viên lại ít chú
ý đến đặc điểm này. Họ thường chỉ chú trọng phân tích nội dung mà ít
quan tâm đến hình thức nghệ thuật của văn bản. Điều này vô tình đã đánh
mất một phần nào giá trị tác phẩm.

Không chỉ vậy, do các tác phẩm văn học trung đại hầu hết đều sáng tác
bằng thứ ngôn ngữ cổ (chữ Hán và chữ Nôm). Các em chưa từng đươc làm
quen với loại chữ này trước đó, do vậy, nó là một rào cản mà các em không
dễ gì vượt qua. Để giúp các em hiểu đúng nội dung và đảm bảo đúng thời
lượng tiết học, con đường nhanh nhất mà nhiều giáo viên hay lựa chọn là
cảm thụ thay học sinh. Cũng có trường hợp, nhiều giáo viên lại không am
hiểu nhiều về nghĩa của các từ trong văn bản nên cách duy nhất để “vượt
qua” các văn bản này là tự suy diễn theo cảm tính hoặc xem phần dịch nghĩa và
dịch thơ là kim chỉ nam để giảng dạy.
Một nhược điểm nữa cũng thường thấy trong cách dạy là giáo viên
nhiều khi chỉ quan tâm đến tác phẩm mà bỏ qua những kiến thức về lịch
sử, lí luận văn học có liên quan đến tác phẩm. Đây là những kiến thức rất
cần thiết, là chìa khoá để học sinh giải mã tác phẩm một cách đúng đắn và
sâu sắc.
Bên cạnh kiến thức lịch sử, lí luận văn học cũng là vấn đề cần quan
tâm. Lí luận văn học sẽ giúp học sinh nắm được một số khái niệm thường
7


dùng trong văn học: nhân vật, đề tài, chủ đề, không gian, thời gian, ngôn
từ nghệ thuật, tác phẩm trữ tình, tác phẩm tự sự, hình thức, nội dung của tác
phẩm… Đây là những tri thức văn học mà bất kì học sinh học văn nào
cũng cần phải có. Từ những tri thức này, học sinh sẽ biết cách phân tích,
cảm thụ tác phẩm. Ví dụ khi học tác phẩm thuộc thể loại tự sự, sau khi đã
hiểu về thể loại này rồi, học sinh sẽ phân tích dựa theo đặc điểm của thể
loại này nghĩa là đi tìm hiểu đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật và các sự
kiện, hành động diễn ra trong tác phẩm để nhận ra giá trị tư tưởng mà nhà
văn muốn gửi gắm.Như vậy, việc không quan tâm đến những kiến thức lịch
sử và lí luận văn học sẽ là một thiếu sót rất lớn trong quá trình dạy Văn.
Ngoài ra, giáo viên vẫn chưa giảng dạy văn bản theo loại thể. Trên

thực tế, sau nhiều lần dự giờ của một số đồng nghiệp, tôi nhận thấy trong quá
trình giảng dạy, giáo viên cho học sinh tìm hiểu thể loại và phương thức
biểu đạt của văn bản nhưng khi đi vào đọc- hiểu, giáo viên lại chỉ chú trọng
đến nội dung mà quên mất kết hợp với thể loại của bài. Văn bản “Chị em
Thúy Kiều”, giáo viên xác định văn bản này thuộc loại truyện Nôm, phương
thức biểu đạt chính là miêu tả nhưng khi phân tích giáo viên chỉ chú trọng
đến cái Tài và Sắc có ảnh hưởng như thế nào đến cuộc đời của hai chị em.
Với cách giảng dạy này, không những làm cho bài giảng trở nên rời rạc
mà học sinh cũng không khắc sâu được đặc trưng của thể loại đó.
Từ thực trạng giảng dạy nêu trên, chúng ta thấy việc giảng dạy văn
học trung đại vẫn còn nhiều điểm bất cập, hoặc quá thiên về nội tại tác
phẩm mà quên mất những yếu tố bên ngoài tác động đến tác phẩm, hoặc
chỉ chú trọng đến nội dung, tách rời nội dung khỏi hình thức. Điều này đã
vô tình vừa làm giảm đi giá trị của tác phẩm, vừa ảnh hưởng đến quá trình
nhận thức của học sinh.Như vậy, việc giảng dạy văn học trung đại cho tới
hiện nay vẫn chưa thực sự đem lại hiệu quả và như thế có nghĩa là cần phải
có một cách giảng dạy mới hơn thay thế cho cách giảng dạy cũ.
2.2. Thực trạng của việc học các tác phẩm văn học trung đại.
Trong giáo dục, học sinh thường có tình trạng học lệch môn, nghĩa là
8


các em chuộng các môn tự nhiên hơn các môn xã hội. Cho nên việc dành
thời gian cho các môn xã hội nói chung và môn Ngữ Văn nói riêng hầu
như rất ít. Điều này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng lĩnh hội, tiếp
nhận của học sinh.
Thực tế hiện nay, một trong những nguyên nhân khiến giáo viên đau
đầu nhất là nhiều em học sinh cho đến nay vẫn chưa có thói quen chuẩn
bị bài trước ở nhà hoặc chỉ soạn bài một cách chiếu lệ, cho qua để khỏi bị
khiển trách. Cho nên, khi đến lớp, những gì giáo viên truyền đạt đều trở nên

khó hiểu, đặc biệt là các văn bản chữ Hán, hay những vản bản có sử dụng
nhiều điển cố, điển tích như Truyện Kiều, Hoàng Lê thống nhất chí. Với thời
lượng 45 phút mà giáo viên còn cho học sinh đọc hết các chú thích
và giải thích thì không thể thực hiện được trên lớp mà công việc này
học sinh phải làm ở nhà. Nếu học sinh không soạn thì chắc chắn những gì
giáo viên giảng đều không thể nắm bắt được.
Một thực trạng cũng phổ biến trong nhiều năm qua là không ít học sinh
lười đọc tác phẩm. Không đọc ở nhà đã đành, ngay cả ngồi trên lớp các em
cũng không chịu “ngó ngàng”, “để ý” đến văn bản mà mình đang học.
Nhiều em không biết bạn mình đọc đến đâu, học bài trang bao nhiêu. Qua
dự giờ khối 9, bài “Hoàng Lê nhất thống chí”, tôi thấy chỉ khoảng 20%30% là học sinh chú ý vào bài đọc, các em còn lại không tập trung hoặc
làm việc riêng trong giờ học. Việc đọc của học sinh cũng rơi vào tình trạng
đáng báo động. Học sinh đọc không đúng nhịp điệu câu văn, thậm chí còn
đọc sai từ. Với cách học như trên, dù cho giáo viên có tài giỏi đến mấy,
tác phẩm có hay đến mấy thì cũng không thể nào đi vào lòng của các em
được. Do vậy, thay đổi cách học cũng là một trong những mục tiêu của
giảng dạy Văn hiện nay.
Như vậy, xuất phát từ thực tiễn nêu trên, tôi đã chọn đề tài “ Dạy
truyện trung đại Việt Nam theo phương pháp đọc- hiểu ở chương trình
Ngữ Văn 9” Qua đây, tôi mong có thể đóng góp một phần nhỏ bé vào con
đường tìm kiếm phương pháp mới cho văn học trung đại Việt Nam ở bậc
9


THCS nói chung và văn học trung đại trong chương trình Ngữ Văn lớp 9 nói
riêng. Tuy nhiên, một con én không thể làm nên mùa xuân và đây cũng là
một đề tài rộng và khó nên trong quá trình nghiên cứu, đề tài sẽ có nhiều
thiếu sót. Do vậy, chúng tôi rất mong nhận được ý kiến đóng góp của quí
thầy cô để đề tài có thể được ứng dụng vào trong thực tiễn giảng dạy tốt
hơn.

3. Các giải pháp, biện pháp thực hiện.
3.1. Khái niệm phương pháp đọc- hiểu.
Có rất nhiều cách giải thích về khái niệm phương pháp đọc- hiểu.
Trần Đình Sử cũng chia sẻ quan điểm của mình qua bài “Đọc hiểu văn
bản- Khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy Văn hiện nay”.
Ông nhấn mạnh: Dạy văn là dạy cho học sinh năng lực đọc, kĩ năng đọc
để giúp các em có thể đọc hiểu bất cứ văn bản nào cùng loại. Từ đọc hiểu
văn mà trực tiếp tiếp nhận các giá trị văn học, trực tiếp thể nghiệm các tư
tưởng và cảm xúc được truyền đạt bằng nghệ thuật ngôn từ, hình thành
cách đọc riêng có cá tính. Đó là con đường duy nhất để bồi dưỡng cho
học sinh năng lực của chủ thể tiếp nhận thẩm mĩ.”[68]
Phương pháp đọc- hiểu ra đời đã chú trọng đến việc đọc của học sinh,
rèn luyện cho các em cách đọc văn bản để từ đó có thể hiểu được đầy đủ nội
dung, ý nghĩa mà tác giả gửi gắm vào trong tác phẩm. Không chỉ dừng lại ở
đó, theo phương pháp này học sinh còn có khả năng đọc- hiểu các văn bản
khác có cùng thể loại với văn bản đã được học trong nhà trường.
3.2. Phương pháp đọc- hiểu thay đổi cơ chế dạy học hiện nay.
3.2.1. Phương pháp đọc- hiểu hình thành kĩ năng đọc- hiểu cho học
sinh.
Một trong những hoạt động cơ bản trong cơ cấu dạy và học văn
hiện nay là giúp học sinh “biết đọc” tác phẩm, biết tái hiện hình tượng, nội
dung chứa đựng trong tác phẩm, để trên cơ sở đó giúp các em biết phân tích
cái hay, cái đẹp của nó. Để đáp ứng được yêu cầu trên, trong suốt quá trình
10


dạy, giáo viên luôn chú trọng, hướng dẫn học sinh những kĩ năng đọc- hiểu.
Đọc là một thao tác trực cảm ngôn từ. Ở đây, do tính phi vật thể của
ngôn ngữ văn học- việc đọc phải bằng hồi ức, liên tưởng, tưởng tượng làm rõ
dần các lớp nghĩa của văn bản. Hơn nữa, ngôn từ trong tác phẩm thường

không tồn tại ở dạng đơn nhất, ngẫu nhiên- mà tồn tại trong kết cấu nghệ
thuật- vì vậy nó có giai điệu tiết tấu hàm chứa giọng điệu của nhà văn. Đọc
đúng giai điệu, tiết tấu sẽ xác định được giọng điệu đó, xác định được tâm
thế và cảm hứng chiếm lĩnh bề sâu của hình tượng tác phẩm. Mặt khác,
đọc không chỉ là việc làm đầu tiên, đọc còn xuyên thấm trong toàn bộ quá
trình phân tích tìm hiểu giá trị nghệ thuật và nội dung tác phẩm, xuyên thấm
trong so sánh khái quát và cả việc làm cuối cùng của giờ học: đọc ngay cả khi
làm “luyện tập” để tái hiện một cách sâu sắc nhất, trọn vẹn nhất hình tượng
tác phẩm đã cảm nhận được từ các việc làm trên. Như vậy, việc đọc có vai
trò rất quan trọng trong giờ dạy học văn và giáo viên sẽ trang bị cho học sinh
những cách đọc để việc đọc- hiểu văn bản của các em hiệu quả hơn.
Bản thân việc đọc đã có nhiểu mức độ. Mức độ thứ nhất là đọc
thông, đọc thuộc, không vấp váp về ngữ âm, nghĩa từ, biết ngừng đọc
đúng chỗ là một trình độ. Mức độ thứ hai là đọc kĩ, đọc sâu, biết được
cách hành văn, sắp xếp ý, dụng ý trong dùng từ, ngắt câu, chơi chữ. Mức
thứ ba là đọc hiểu thông điệp mà văn bản gửi đến cho người đọc là một
mức độ rất cao. Nhưng đọc văn là để cảm, để sống, để thưởng thức, để
dùng, để tự phát triển bản thân, cho nên đọc sáng tạo và đọc sử dụng là
khâu cao nhất. Người đọc phải tìm được cái nghĩa mà người đọc trước
chưa thấy, thậm chí hiểu cái nghĩa ngoài tầm kiểm soát của tác giả. Đó là
đọc sáng tạo. Như vậy, theo phương pháp mới này, học sinh sẽ được rèn
luyện các kĩ năng đọc từ thấp đến cao.
Để việc đọc đem lại hiệu quả cao, khi đọc giáo viên hướng dẫn các em đọc
kết hợp với thể loại của tác phẩm đó nghĩa là đối với một bài thơ trữ tình, học
sinh sẽ có cách đọc khác với cách đọc của một tác phẩm tự sự hay nghị
luận.
11


Phương pháp đọc- hiểu không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện kĩ năng

đọc cho học sinh mà thông qua quá trình đọc như vậy còn giúp các em
biết cách giải mã tác phẩm. Do vậy, trong quá trình dạy học, thông qua hệ
thống các câu hỏi, giáo viên sẽ từng bước giúp học sinh cảm thụ tác phẩm
bằng cách khai thác từ hình thức nghệ thuật đến nội dung, bám sát vào câu
chữ để từ đó khái quát lên giá trị của tác phẩm.
Nói tóm lại, phương pháp đọc- hiểu sẽ hình thành cho học sinh những kĩ
năng đọc- hiểu để từ đó học sinh tự mình biết đọc, hiểu, nắm bắt được nội
dung và nghệ thuật của một tác phẩm. Đây là một trong những điểm mới mẻ
quan trọng mà phương pháp đọc- hiểu đã làm được. Nó phù hợp với yêu cầu
chung mà Bộ giáo dục đã đề ra khi giảng dạy môn Văn nói chung và văn
học trung đại nói riêng.
3.2.2.Phương pháp đọc- hiểu phát huy tính tích cực, năng động,
sáng tạo ở học sinh.
Sáng tạo là đặc tính chung của con người bởi vì đứng trước một vấn
đề mới lạ nào đó, bao giờ con người cũng có nhu cầu tìm hiểu, khám phá
và chiếm lĩnh nó. Trong văn chương, sự sáng tạo rất cần thiết, nó sẽ giúp nhà
văn tìm và định hướng cho mình một hướng đi mới, chưa có ai khám phá.
Do vậy mà mỗi nhà văn đều có một phong cách, một dấu ấn riêng. Sự sáng
tạo không chỉ cần với nhà văn mà còn cần cả với người đọc. Đặc điểm này
khiến cho tác phẩm có nội dung vô hạn. Vì vậy, đọc tác phẩm văn học cũng
là một việc làm cần tính sáng tạo.
Trong một tiết dạy Văn, giáo viên khơi gợi sự sáng tạo, chủ động, tích
cực của học sinh bằng rất nhiều cách. Bằng những phương pháp khơi gợi
hướng dẫn và để học sinh tiếp xúc trực tiếp, được khám phá và được thưởng
thức “chất văn”, nghĩa là được thể nghiệm, nếm trải và hiểu sâu thêm
những việc đời, việc người, việc mình chân thực là đã phát huy chủ thể sáng
tạo tích cực trong dạy văn. Đồng thời, luôn luôn tạo không khí cởi mở để các
em có thể thoải mái trao đổi, tranh luận với nhau về một vấn đề trong tác
phẩm. Dưới sự hướng dẫn của giáo viên, học sinh sẽ đi vào những cách
12



hiểu của riêng mình và tích cực chủ động bộc lộ những cách hiểu đó. Từ đó
học sinh sẽ rút ra được chân lý và tính tích cực chủ động sáng tạo của từng
học sinh được phát huy một cách tối đa.Về điều này, nhà thơ Tố Hữu của
chúng ta đã ví rằng: “Đừng tưởng học sinh không biết gì cả. Có những
điều các em cảm thụ khác thầy. Phải khác vì các em là thế hệ mới”
Như vậy, phát huy được tính năng động, tích cực, sáng tạo ở học sinh
sẽ giúp học sinh hiểu được tác phẩm một cách sâu sắc hơn, đồng thời, giúp
các em cởi mở, tự tin hơn đối với những cảm nhận của riêng mình về tác
phẩm.
3.2.3.Phương pháp đọc- hiểu phát huy tính tự học ở học sinh.
Tự học là một khái niệm không còn mới mẻ và xa lạ đối với mỗi
người. Theo từ điển tiếng Việt, tự học là quá trình tự thân vận động của mỗi
người để tích lũy tri thức, kĩ năng và kinh nghiệm lịch sử- xã hội mà nhân
loại tích lũy được trong quá trình phát triển, biến nó thành kinh nghiệm kĩ
năng riêng cho cá nhân mỗi người.
Tự học trong nhà trường khác như thế nào với tự học ở ngoài cuộc
sống? Tự học ở ngoài cuộc sống có phạm vi rất rộng, người ta có thể thu
nhận nhiều mảng kiến thức khác nhau tùy thuộc vào sự đòi hỏi của cuộc
sống, của nghề nghiệp, của bản thân. Còn tự học trong nhà trường chỉ qui
lại ở phạm vi nhỏ hẹp tức là những kiến thức, những bài học đã được chọn
sẵn và đó cũng không phải là con đường tự mày mò một mình mà luôn có sự
hướng dẫn, giúp đỡ của thầy cô. Như vậy, con đường tự học đối với học sinh
đơn giản hơn rất nhiều. Tự học ở đây được hiểu như là những vấn đề được đặt
ra trong bài học, học sinh dưới sự dẫn dắt của thầy mà tự lí giải vấn đề đó.
Đây cũng là điểm mới mẻ mà hầu hết các phương pháp hiện nay áp dụng.
Tự học trong nhà trường còn được thể hiện ở chỗ: các em không chỉ
dừng lại ở nội dung bài học trên lớp mà bên cạnh đó thầy cô sẽ đưa thêm cho
các em những tình huống có liên quan đến bài học để các em có thể nắm

chắc và hiểu sâu hơn kiến thức đã thu lượm được. Hoặc cũng có khi các em
thể hiện sự tự học của mình bằng cách tự mình đọc- hiểu những tác phẩm ở
13


ngoài chương trình.
Quan tâm đến vấn đề tự học của học sinh là một việc làm cần thiết bởi
những kiến thức trong SGK chỉ là những kiến thức cơ bản và có giới hạn,
trong khi đó, lượng thông tin từ bên ngoài cuộc sống lại vô cùng phong phú
và đa dạng. Do đó, học sinh cần có phương pháp tự học mới có thể nắm bắt
hết được những lượng thông tin ấy.
Từ thực trạng của các phương pháp dạy học cũng như việc nêu
lên những ưu điểm của phương pháp đọc- hiểu để một lần nữa khẳng định
rằng, phương pháp đọc- hiểu là một phương pháp hữu hiệu có thể đem lại
sự thay đổi đáng kể trong việc dạy văn nói chung và văn học trung đại nói
riêng trong giai đoạn hiện nay vì mục tiêu hướng đến của nó là học sinh.
Mọi hoạt động dạy và học của phương pháp này đều xoay quanh học sinh,
tạo mọi điều kiện để học sinh phát triển toàn diện về mọi mặt. Đồng thời,
giúp học sinh làm chủ được bản thân, tự tin, năng động trước cuộc sống
nhưng luôn luôn chủ động, tỉnh táo để sàng lọc và thu lượm được những gì
tinh tuý nhất của tri thức nhân loại.
3.3. Dạy học truyện trung đại theo đặc trưng thể loại
Trong ý đồ thiết kế và thực hiện chương trình dạy học Ngữ văn ở cấp
THCS, thể loại là một tiêu chí quan trọng. Một trong những yêu cầu quan
trọng của chương trình Ngữ văn THCS là hình thành ở HS những hiểu biết về
các kiểu văn bản và nắm được các phương thức biểu đạt chủ yếu (tự sự, miêu
tả, biểu cảm, thuyết minh, nghị luận). Hầu hết các văn bản được lựa chọn để
học là các tác phẩm văn học (hoặc đoạn trích tác phẩm), vì thế mỗi kiểu văn
bản trong chương trình Ngữ văn lại thuộc về một thể loại văn học nhất định.
Những hiểu biết về thể loại có một ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với

việc tiếp nhận, phân tích các tác phẩm có trong chương trình, mà còn cần
thiết cho HS để đọc hiểu được các tác phẩm khác ngoài chương trình. Như
vậy, việc đọc- hiểu các văn bản trung đại theo đặc trưng thể loại là việc làm
đúng đắn, mang tính khoa học.
Phương thức biểu đạt được nhà văn sử dụng chủ yếu trong truyện
14


chính là tự sự. Nhà văn kể lại, tái hiện lại hiện thực cuộc sống thông qua cái
nhìn chủ quan của mình. Do vậy, trong truyện bao giờ cũng có cốt truyện, có
các nhân vật tham gia vào trong truyện để tạo nên tình huống truyện, thể hiện
ý đồ của tác giả. Cho nên, khi hướng dẫn học sinh đọc- hiểu các văn bản
thuộc loại này, giáo viên cần giúp học sinh:
Thứ nhất: Đọc và tìm hiểu các yếu tố ngoài văn bản.
Cũng giống như những thể loại khác, muốn hiểu được đầy đủ nội
dung và ý nghĩa của tác phẩm, không có con đường nào khác là phải đọc kĩ
tác phẩm và tìm hiểu những yếu tố liên quan đến tác phẩm. Khi học bài
“Hoàng Lê thống nhất chí - Hồi thứ 14”, học sinh phải đọc văn bản; có những
kiến thức lịch sử nhất định thời Lê - Nguyễn và đặc điểm của thể loại tuyển
thuyết chương hồi, học sinh mới có thể cảm nhận hết được giá trị của văn
bản.
Vì đây là văn bản được trích trong nên khi dạy, giáo viên cũng cần
giúp học sinh đặt đoạn trích trong mối liên hệ với toàn tác phẩm để học
sinh có cái nhìn toàn diện hơn đối với văn bản đang học.
Thứ hai. Tóm tắt tác phẩm:
Một trong những nguyên nhân gây nên tình trạng “nhầm lẫn” giữa
nội dung của tác phẩm này với tác phẩm kia là do học sinh không biết tóm tắt
văn bản. Việc tóm tắt là việc làm không thể thiếu khi học các văn bản tự sự.
Tóm tắt sẽ làm cho văn bản trở nên ngắn gọn hơn, đồng thời giúp cho người
đọc nắm được đầy đủ các sự việc cũng như trình tự diễn ra các sự việc ấy

trong câu truyện và như thế học sinh sẽ dễ dàng nhớ được nội dung của
tác phẩm. Chẳng hạn khi dạy “Chuyện người con gái Nam Xương”, sau
khi học sinh tóm tắt xong văn bản, học sinh sẽ nhớ rõ được nhân vật chính
và những tình tiết, sự kiện quan trọng trong câu chuyện như nàng Vũ
Nương (tính tình hiền hậu, nết na, xinh đẹp, thuỷ chung), chồng của Vũ
Nương tên là Trương Sinh (tính tình đa nghi, gia trưởng). Khi chiến tranh
xảy ra, chồng nàng tham gia chiến trận, nàng ở nhà và ít lâu sau hạ sinh một
đứa con trai. Mâu thuẫn giữa nàng và người chồng xảy ra khi câu chuyện
15


xuất hiện them hình ảnh chiếc bóng do nàng tưởng tượng khi nàng nói với
đứa con. Và đây cũng là đỉnh điểm, nút thắt của câu chuyện. Sau đó, để chứng
minh sự trong sạch của mình, Vũ Nương đã trầm mình xuống sông tự vẫn.
Trương Sinh về sau hối hận đã lập đàn giải oan cho nàng nhưng nàng chỉ
xuất hiện trong giây lát rồi lại trở về thuỷ cung.
Công việc tóm tắt tuy chiếm thời gian rất ít trong thời lượng của một
tiết học nhưng nó cũng có thể đánh giá được phần nào mức độ đọc và hiểu
nội dung, tư tưởng tác phẩm (tuy còn mờ nhạt) của học sinh, đồng thời
cũng thể hiện ý thức chủ động tìm hiểu tác phẩm của học sinh. Điều này có
vai trò rất quan trọng cho những hoạt động về sau.
Gắn liền với tóm tắt tác phẩm là nhận ra chủ đề, đại ý của bài văn.
Thứ ba. Nhận ra chủ đề của văn bản:
Chủ đề của tác phẩm là vấn đề trung tâm, vấn đề bao quát được nhà
văn nêu lên, đặt ra qua nội dung cụ thể của tác phẩm. Khi phản ánh hiện thực,
nhà văn chẳng những xác định một phạm vi hiện tượng cuộc sống mà còn tập
trung soi rọi một số vấn đề có ý nghĩa hàng đầu trong phạm vi đó. Nhà thơ Tố
Hữu nói: “Vấn đề của nghệ thuật chính là chủ đề, nói nôm na cho dễ hiểu
là câu hỏi- câu hỏi của cuộc đời”. Như vậy, chủ đề hình thành từ trong ý
đồ và biểu hiện trong sáng tác. Chủ đề nói lên chiều sâu tư tưởng, khả năng

nắm bắt nhạy bén của nhà văn đối với những vấn đề của cuộc sống. Cùng viết
về xã hội phong kiến nhưng chủ đề trong Hoàng lê nhất thống chí, Thượng
kinh kí sự, Vũ trung tuỳ bút lại hoàn toàn khác. Hoàng Lê nhất thống chí đề
cao sự tài giỏi của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trong cuộc chiến
đấu chống triều đình nhà Thanh và bọn vua quan phản nước.
Tóm lại, việc xác định chủ đề tác phẩm sẽ giúp định hướng được rõ
ràng hơn những điều mà nhà văn viết trong tác phẩm.
Thứ tư. Phân tích nhân vật và các tình tiết quan trọng trong tác
phẩm để mở ra nội dung tác phẩm.
Như chúng ta đã biết, cốt truyện và nhân vật là hai yếu tố cơ bản để tạo
nên tác phẩm tự sự. Trong truyện có rất nhiều nhân vật và các nhân vật này
16


xoay quanh một vấn đề, một sự việc nào đó nhằm thể hiện tư tưởng, ý nghĩa
nhân sinh quan của nhà văn. Cho nên, khi tìm hiểu, bao giờ người phân tích
cũng chú ý đến nhân vật. Tuy nhiên, cần phân biệt nhân vật chính, nhân
vật trung tâm, nhân vật phụ. Nhân vật chính, nhân vật trung tâm là những
nhân vật được nhà văn ưu ái nhất bởi thông qua những nhân vật này, họ thể
hiện rõ quan điểm tư tưởng của mình. Chính bởi điều này nên cần phân tích
kĩ loại nhân vật này. Cần tìm hiểu về hoàn cảnh, phẩm chất, tính cách thông
qua lời kể, lời đối thoại giữa các nhân vật hoặc ngay cả lời bình của tác giả
trong tác phẩm. Chẳng hạn, khi tìm hiểu ““Chuyện người con gái Nam
Xương””, giáo viên cần giúp học sinh nhận ra nhân vật chính trong câu
chuyện này là một người phụ nữ có dung nhan, đức hạnh; là người vợ thủy
chung, người con hiếu thảo, người mẹ yêu thương con, người phụ nữ trọng
nhân phẩm nhưng lại có số phận bất hạnh. Sau khi học sinh nhận ra được
những hành động và việc làm của Vũ Nương, giáo viên cho học sinh nhận
xét chung về nhân vật và qua nhân vật này học sinh có thể dễ dàng nhận ra
được ý nghĩa của tác phẩm chính là: ca ngợi phẩm chất cao quí của người

phụ nữ đồng thời phê phán xã hội trọng nam kinh nữ, lên án cuộc chiến tranh
phi nghĩa…. Ngoài các nhân vật chính, trong truyện còn có các nhân vật
phụ. Các nhân vật phụ tham gia vào trong câu chuyện có tác dụng làm nổi
bật lên nhân vật chính hoặc đẩy câu chuyện lên cao trào tạo sự hấp dẫn thêm
cho câu truyện.
Bên cạnh nhân vật, các tình tiết quan trọng cũng góp phần soi sáng
nội dung tác phẩm. Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga là nhân vật chính
trong đoạn trích Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga của nhà thơ Nguyễn
Đình Chiểu. Đây là hai nhân vật lí tưởng mà Nguyễn Đình Chiểu muốn xây
dựng trong tác phẩm của mình. Lục Vân Tiên đại diện cho con người hào
hiệp, tài đức. Kiều Nguyệt Nga là người con gái vừa đẹp người, vừa đẹp nết.
Nhưng những đức tính tốt đẹp ấy chỉ thật sự toả sáng khi Nguyễn Đình
Chiểu tạo nên tình huống Kiều Nguyệt Nga bị bọn côn đồ bắt. Lục Vân
Tiên “thấy chuyện bất bình chẳng tha”, ra tay cứu thoát Nguyệt Nga.
17


Việc phân tích nhân vật và các tình tiết quan trọng trong câu chuyện sẽ
giúp học sinh không những nắm vững kết cấu của thể loại truyện mà còn có
thể hiểu được những quan điểm, tâm tư tình cảm của tác giả được thể hiện
trong tác phẩm.
Nội dung không thể tách rời hình thức. Cho nên, song song với việc
phát hiện nội dung, giáo viên đồng thời phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu
hình thức nghệ thuật có trong tác phẩm.
Thứ năm. -Tìm hiểu hình thức nghệ thuật trong tác phẩm.
Yếu tố cấu thành nên một tác phẩm văn chương chính là nội dung và
hình thức. nội dung hay nhưng hình thức không đạt thì cũng không thể làm
nên một tác phẩm có giá trị. Cho nên, hai yếu tố này luôn tồn tại song song và
thống nhất với nhau. Hình thức của một tác phẩm có thể được hiểu là ngôn
từ, các biện pháp nghệ thuật, kết cấu tác phẩm, giọng văn, lời kể,… được tác

giả sử dụng để làm sáng tỏ nội dung. Một trong những thành công nghệ thuật
của Hoàng Lê nhất thống chí được thể hiện ở hồi tư mười bốn là nghệ thuật
tái hiện sự thực lịch sử và nghệ thuật xây dựng nhân vật.Tác phẩm đã tái hiện
sự thực lịch sử vừa chính xác vừa sinh động. Ghi chép các sự kiện một cách
cụ thể, chính xác, các tác giả đã sử dụng bút pháp biên niên sử, kể theo trình
tự các biến cố, sự kiện, theo trình tự thời gian, có ngày tháng cụ thể, xác định.
Tuy nhiên khác với các nhà chép sử, tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí
không thuật lại các sự kiện một cách khô khan, lạnh lùng. Lời văn vừa đảm
bảo tính khách quan khoa học vừa thể hiện tình cảm chủ quan của người viết
khi mỉa mai, khi hào hứng phấn khởi, đôi chỗ xen nhận xét, bình luận,
….Ngoài ra, với ngôn ngữ kể, tả chân thực, nhà văn đã dựng lên được những
tính cách khá đậm nét. Đó là hình ảnh vua tôi Lê Chiêu Thống đớn hèn,
nhục nhã. Đó là hình ảnh người anh hung áo vải Nguyễn Huệ có lòng yêu
nước nồng nàn, có đức nhân, thông minh, tài trí tuyệt vời.
Như vậy, hình thức làm nổi bật nội dung, làm cho nội dung được thể
hiện một cách trọn vẹn hơn. Chính vì thế, khi tìm hiểu tác phẩm, giáo viên
cần chú ý tới đặc điểm này.
18


Có thể nói có rất nhiều con đường để cảm thụ một tác phẩm văn
chương tuỳ theo năng lực của mỗi người và đặc trưng của từng bài cụ thể
nhưng có lẽ đọc- hiểu tác phẩm theo thể loại sẽ giúp học sinh nắm rõ tác
phẩm mình đang học và có thể đọc- hiểu được những tác phẩm cùng thể
loại khác.
3.4. Dạy học Văn cần vận dụng nguyên tắc tích hợp trong
giảng dạy
Trong dạy học Ngữ Văn, tích hợp, hiểu một cách đơn giản là làm cho
ba phân môn (Văn,Tiếng Việt, Tập làm văn) hợp nhất vào nhau, hoà trộn
trong nhau, học cái này thông qua cái kia và ngược lại. Đây là một quan điểm

mới mẻ. Thông qua việc tích hợp giữa ba phân môn: Văn- Tiếng Việt- Tập
làm văn, trong đó lấy văn bản làm trục chính, bộ môn Ngữ Văn hướng tới
việc hình thành, rèn luyện và nâng cao bốn kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết cho
học sinh.
Văn bản hay nói chính xác hơn là tác phẩm văn chương được hình
thành từ một hệ thống ngôn ngữ. Tư tưởng, tình cảm của tác giả được ẩn
giấu đằng sau những con chữ này. Do vậy, để có thể nắm bắt được, người đọc
phải làm sao “bóc tách” cho được lớp nghĩa của chúng. Quá trình giải nghĩa
từ, phân tích chức năng cú pháp của câu sẽ liên quan đến phân môn Tiếng
Việt, còn nhận xét về lối viết của tác giả lại liên quan đến Tập làm văn. Như
vậy, tổ chức tốt phần đọc- hiểu có hiệu quả sẽ nâng cao trình độ tiếng Việt
chính xác, đa dạng, phong phú cho học sinh đồng thời bổ trợ tốt cho năng lực
tạo lập văn bản trong phân môn làm văn.
Có thể dễ dàng kiểm chứng điều này khi lấy văn bản “ Chuyện người
con gái Nam Xương” làm một ví dụ cụ thể. Từ việc đọc - hiểu, giáo viên giúp
học sinh củng cố lại kiến thức về tập làm văn khi học văn tự sự: chủ đề, cách
xây dựng nhân vật, sử dụng những lời độc thoại, đối thoại khi làm văn tự sự.
Tích hợp là một trong những mục tiêu quan trọng trong dạy văn hiện
nay. Bằng cách tích hợp, học sinh có thể liên kết những kiến thức trong cùng
một phân môn hoặc giữa các phân môn với nhau. Từ đó, các em sẽ nắm vững
19


kiến thức hơn
Một lần nữa chúng ta khẳng định rằng, việc nắm vững những yêu cầu
chung khi giảng dạy văn học trung đại sẽ giúp học sinh nắm rõ được đặc
trưng của từng thể loại đồng thời củng cố và phát triển được rất nhiều kĩ
năng thông qua con đường tích hợp.
3. 5. Mô hình thiết kế bài học theo phương pháp đọc-hiểu.
Như trên đã nói, giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại là một

công việc khó. Cho nên, giáo viên không thể tuỳ tiện dạy theo cảm hứng
hay chủ quan của mình mà cần có sự sắp xếp các khâu, các bước cho hợp lí.
Về trình tự xây dựng bài giảng, phương pháp đọc- hiểu cũng không khác
nhiều so với phương pháp cũ nhưng về bản chất thì phương pháp đọc- hiểu
đã đem lại nhiều đổi mới đáng kể.
A. Xác định mục tiêu bài học:
Công việc đầu tiên mà giáo viên phải làm trước khi soạn bài là xác
định mục tiêu bài học. Xác định mục tiêu bài học căn cứ vào chuẩn kiến
thức, kĩ năng và yêu cầu của chương trình. Đây là một khâu rất quan trọng,
không thể thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu vừa là cái đích vừa là yêu cầu
cần đạt của mỗi bài học. Nó giúp giáo viên xác định rõ các nhiệm vụ sẽ
phải làm. Hiện nay, mục tiêu của giáo dục là hướng đến sự phát triển toàn
diện cho học sinh và như vậy, mục tiêu của từng bài cũng không nằm ngoài
mục tiêu chung đó. Mỗi bài học thường chú trọng đến ba mặt sau: nhận thức,
tình cảm, kĩ năng. Về mặt nhận thức, cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản và trọng tâm. Về mặt tình cảm, bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức,
lối sống, làm cho học sinh biết yêu cái đẹp, cái thiện; ghét cái ác, cái xấu.
Về mặt kĩ năng, giúp học sinh rèn luyện kĩ năng vận dụng, thực hành.
Trước khi dạy đoạn trích “ Chị em Thúy Kiều” , giáo viên cần xác định
những mục tiêu sau:
- Kiến thức: Giúp học sinh nắm được tài năng nghệ thuật miêu tả nhân
vật của Nguyễn Du bằng bút pháp ước lệ tương trưng. Qua đó thể hiện cảm
hứng nhân đạo: trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, tài năng của con người qua một
20


đoạn trích cụ thể
- Kĩ năng: Học sinh rèn kĩ năng đọc hiểu một văn bản truyện thơ trong
văn học trung đại. Theo dõi diễn biến sự việc trong tác phẩm. Tìm hiểu và
phân tích ngoại hình nhân vật biểu hiện phần nào số phận và tính cách nhân vật

trong văn tự sự.
- Thái độ: Giáo dục học sinh có ý thức xây dựng nhân vật trong tạo lập
văn bản tự sự.
- Học sinh có thái độ yêu quí, trân trọng tài năng vẻ đẹp của con người.
B. Chuẩn bị
Như đã trình bày ở những phần trước, cơ chế dạy học hiện nay là sự
tương tác nhiều chiều giữa giáo viên, học sinh và nhà văn (tác phẩm). Tuy
nhiên, trong quá trình vận dụng vào công tác giảng dạy thì lại xuất hiện khá
nhiều điều bất ổn. Hoặc thiên về lao động của giáo viên mà xem nhẹ lao
động của học sinh. Hoặc coi trọng cảm thụ tác phẩm mà quên mất khâu tổ
chức học tập của học sinh. Chính những cách giảng dạy thiên lệch như vậy
đã vô hình trung rơi vào phương pháp giảng dạy cũ và như vậy học sinh
vẫn chưa “mê” văn cũng là điều dễ hiểu mặc dù giáo viên đã có nhiều cố
gắng. Một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do giáo viên
chưa xác định đúng vai trò của mình và của học sinh trong quá trình hoạt
động dạy học; giáo viên cũng chưa hình dung ra công việc của thầy và trò
một cách cụ thể, rõ ràng. Do vậy, trước khi tiến hành hoạt động dạy- học
trên lớp. Điều tối cần thiết là giáo viên cần có một sự chuẩn bị cho bài
giảng một cách chu đáo và vạch rõ được nhiệm vụ cho cả thầy lẫn trò.
Về phía giáo viên:
Quan điểm xem học sinh là chủ thể cảm thụ sáng tạo, coi học sinh là
khởi đầu, là xuất phát điểm cho mọi hoạt động của tiến trình dạy và học đã
đưa đến nhiều sự mới mẻ trong khâu chuẩn bị bài của giáo viên. Sau đây là
những công việc giáo viên cần chuẩn bị trước khi tiến hành thực hiện tiết
dạy trên lớp:
Nghiên cứu văn bản và các tài liệu liên quan để hiểu chính xác, đầy
21


đủ những nội dung của bài học.

Văn bản là phương tiện giao tiếp chính, là chủ đề chính trong giờ
dạy học Văn. Nếu giáo viên không đọc văn bản sẽ không biết mình giao
tiếp với học sinh về vấn đề gì. Do đó, giờ dạy học văn đương nhiên là thất
bại. Nói thế có nghĩa là đọc văn bản là điều không được phép bỏ qua đối
với bất kì một giáo viên dạy văn nào. Đọc để hiểu những gì được nói đến
trong tác phẩm. Đọc để biết mình sẽ truyền đạt, định hướng những gì cho
học sinh.
Tuy nhiên, nếu chỉ đọc văn bản thôi thì chưa đủ bởi để sáng tác
thành một văn bản, tác giả chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố xung quanh
(hoàn cảnh lịch sử xã hội, các tư tưởng, nhận thức thẩm mĩ). Chính vì vậy, để
việc giảng dạy chính xác và đem lại hiệu quả cao, giáo viên cần tìm hiểu thêm
các tư liệu, tài liệu có liên quan về tác phẩm. Trước khi dạy bài “Truyện
Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du, giáo viên nên tìm đọc các tư liệu về thời
đại lịch sử mà Nguyễn Du sống; tác phẩm Truyện Kiều; các tài liệu nói về
Truyện Kiều; so sánh Truyện Kiều với văn bản “Kim Vân Kiều Truyện” của
Thanh Tâm Tài Nhân. Việc đọc thêm như vậy, không những làm tăng vốn
kiến thức cho giáo viên mà còn làm cho bài học trở nên phong phú hơn.
Sau khi tìm kiếm đầy đủ những thông tin về văn bản, bước tiếp theo là
giáo viên sẽ chuẩn bị những phương tiện dạy học để giúp bài học sinh động
và ấn tượng hơn.
Phương tiện dạy học:
Tiết dạy thành công cũng một phần nhờ vào các phương tiện dạy học
mà giáo viên đã chuẩn bị trước khi đến lớp. Trước đây, điều này là rất hiếm.
Giáo viên chủ yếu chỉ dùng lời nói của mình để truyền đạt kiến thức tới các
em. Do vậy, giờ học kém sinh động và các em rất dễ quên những kiến thức
mà mình chỉ ngồi nghe và chép.
Phương tiện dạy học là những công cụ, thiết bị để phục vụ, phụ trợ
cho bài giảng. Đó có thể là những bức chân dung về tác giả, những bức tranh
phác họa những cảnh trong bài, cũng có thể là những đoạn phim, bài hát có
22



liên quan đến bài học. Những phương tiện này có sức tác động rất lớn vào
tâm trí các em. Đã từ rất lâu, các nhà giáo dục học đã chứng minh rằng, một
giờ dạy hiệu quả là giờ dạy tác động đến tối đa tất cả các giác quan của học
sinh: nghe, nhìn, cảm nhận. Chỉ bằng cách như thế mới tác động sâu sắc
đến trí não các em và chúng sẽ nhớ lâu hơn những gì mà mình đã nghe,
nhìn, cảm nhận. Hơn thế nữa, phương tiện dạy học còn có khả năng giới
thiệu kiến thức một cách sinh động, dễ hiểu, dễ nhớ. Điều đó giúp cho học
sinh nắm vững kiến thức một cách tự giác, nhanh, hứng thú và bền vững. Với
những lợi ích như thế giáo viên cần chuẩn bị kĩ công việc này.
Ngày nay, việc chuẩn bị các phương tiện dạy học không còn khó
khăn như trước nữa. Với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong giảng
dạy, giáo viên sẽ xây dựng được bài giảng sinh động và đa dạng hơn nhứ giáo
viên có thể kết hợp được rất nhiều phương tiện (như tranh ảnh, các bài hát
hoặc các khúc ngâm, các đoạn phim…) để xen kẽ vào bài giảng của mình.
Điều này đã thu hút được sự chú ý, hứng thú và tập trung của học sinh.
Bằng những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, hay bản đồ tư duy… trực
quan sinh động, các phương tiện hiện đại có thể tác động cùng một lúc vào
nhiều giác quan của học sinh, khiến các em phải chú ý, tạm gạt những mối
quan tâm cá nhân để tham gia vào bài học. Chẳng hạn, một khúc ngâm về
đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” kết hợp với những hình ảnh về Thúy Kiều,
Thúy Vân có thể tác động mạnh đến học sinh, đưa các em chuyển vùng
không gian riêng tư vào vùng không gian thẩm mĩ của bài học. Tác dụng
của biện pháp này không chỉ dừng lại ở việc hình thành tâm thế cho học
sinh mà còn tạo ra ngữ cảnh cho việc đọc hiểu, giúp các em nâng cao tầm đón
nhận chuẩn bị cho khâu tiếp nhận văn bản.
Bên cạnh đó, công nghệ thông tin cũng có thể giúp học sinh nắm bắt
bài học được dễ dàng hơn trong suốt quá trình học của mình. Bản đồ tư duy
là một trong những cách giáo viên hay dùng khi củng cố bài học, hay củng

cố một nhóm bài. Tuy nhiên, trước đây giáo viên thường dùng hai cách:
Hoặc là vẽ lên bảng hoặc là nói. Dù cách nào đi nữa cũng có những hạn chế
23


nhất định. Dùng lời nói thì học sinh khó hình dung còn vẽ lên bảng thì lại
khá tốn thời gian. Do vậy, việc áp dụng công nghệ thông tin đã khắc phục
được những mặt hạn chế trên. Khi dạy b ấ t c ứ m ộ t văn bản để tổng kết
bài học, giáo viên trình chiếu bản đồ tư duy lên màn hình. Bản đồ tư duy sẽ
giúp học sinh nắm chắc được chủ đề cũng như những nội dung chính của bài.
không chỉ có vậy, với việc thực hiện bài giảng trên máy tính, giáo viên có thể
điều khiển các hoạt động trên lớp dễ dàng hơn, thậm chí là nhàn nhã hơn
bởi giáo viên không còn hoạt động một mình như trước nữa mà giờ đây còn
có sự hợp tác của các em học sinh trong đó học sinh là người hoạt động
chính, phải tự tìm ra chìa khoá để mở ra thế giới tri thức, còn giáo viên
chỉ là người hướng dẫn, chỉ đường giúp các em trên con đường đó.
Như thế trong giáo dục điện tử, vai trò người thầy dần dần được
thay đổi. Nhờ sự trợ giúp của công nghệ thông tin, hoạt động của thầy và trò
trở nên dễ dàng và thoải mái hơn. Công nghệ thông tin đem lại nhiều tiện
ích trong quá trình dạy- học. Tuy nhiên, nếu giáo viên lạm dụng sẽ đưa
đến những tác dụng không mong muốn. Nếu bài đưa ra quá nhiều tranh ảnh,
hiệu ứng tuỳ tiện, nó sẽ làm học sinh phân tâm, làm giảm chất lượng của bài
học. Do vậy, giáo viên cần phải biết lựa chọn những hình ảnh, âm thanh phù
hợp với nội dung của từng bài, từng phần để đạt hiệu quả như mong muốn.
Cho nên, khi giảng dạy, giáo viên cần phải kết hợp uển chuyển và linh hoạt
giữa những phương tiện trực quan với lời giảng, lời bình của mình, có như
thế học sinh mới khắc sâu được những kiến thức mà mình đã học.
* Thiết kế giáo án:
Một khi giáo viên đã đảm bảo được các bước chuẩn bị chặt chẽ, giáo
viên sẽ tiếp tục thiết kế bài học theo hướng đọc- hiểu.

Thông thường, trên một giáo án thường tuân theo những bước sau:
A. Mục tiêu bài học.
1. Kiến thức
2. Kĩ năng
3. Thái độ
24


B.Chuẩn bị.
Kiến thức.
Phương tiện.
C. Các kĩ thuật và Phương pháp dạy học.
D. Tiến trình các hoạt động dạy học
1.Ổn định lớp.
2.Kiểm tra bài cũ.
3. Tiến trình bài dạy
- Lời vào bài.
- Bài giảng
4.Củng cố.
5.Dặn dò.
Đây là khung giáo án đã có từ rất lâu và đã ứng dụng vào thực tế giảng
dạy có hiệu quả. Giáo án phải thể hiện rõ các nhiệm vụ và cách thức tiến hành
của giáo viên và học sinh để chiếm lĩnh tác phẩm. Do vậy, khi xây dựng giáo
án, giáo viên cần phải hết sức cẩn trọng từ khâu đặt câu hỏi đến những dự
kiến làm việc của giáo viên và học sinh. Có như thế hoạt động ở trên lớp mới
đạt hiệu quả.
* Một số điểm cần chú ý khi xây dựng giáo án.
Thứ nhất là câu hỏi:
+ Các câu hỏi phải đảm bảo nội dung kiến thức yêu cầu của bài học.
Hệ thống câu hỏi phải bám sát mục đích yêu cầu, kiến thức trọng tâm bài

học.
+ Câu hỏi phải có tính hệ thống và theo trình tự hợp lí, khoa học.
+ Các câu hỏi phải phát huy khả năng tư duy sáng tạo, trí tưởng tượng,
liên tưởng của học sinh và đặc biệt là phù hợp với đối tượng của từng lớp
dạy. Nếu lớp yếu mà giáo viên đưa ra câu hỏi khó, các em sẽ dễ nản
lòng, ngược lại, đối với những lớp giỏi mà câu hỏi dễ thì các em lại nảy sinh
tâm lí ỳ.
+ Các câu hỏi giáo viên hỏi trên lớp và các câu hỏi giáo viên giáo
25


×