TRƯỜNG §¹i häc sƯ ph¹m hµ néi 2
KHOA LỊCH SỬ
**************
CHU VĂN KIÊN
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
CĂN CỨ ĐỊA TẠI NAM BỘ
TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC THỜI KÌ 1954 - 1960
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TS. TRẦN THỊ VUI
HÀ NỘI – 2015
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới cô Trần Thị Vui - người đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo em để em có thể hoàn thành bài khóa luận này. Trong
thời gian làm bài khóa luận em đã gặp rất nhiều khó khăn, cô đã hết sức tạo
điều kiện, giúp đỡ em.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử, các
thầy cô trong bộ môn Lịch sử Đảng trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội 2, đã
tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành khóa luận của mình.
Tuy nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ các thầy cô nhưng đề tài nghiên
cứu khóa luận của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất
mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn sinh
viên để đề tài này được hoàn thiện hơn.
EM XIN CHÂN THÀNH CẢM ƠN !
Hà Nội, tháng 5 năm 2015
Sinh viên
Chu Văn Kiên
LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của cô
Trần Thị Vui. Em xin cam đoan rằng:
Đây là kết quả nghiên cứu của riêng em.
Nếu sai em xin chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 5 năm 2015.
Sinh viên
Chu Văn Kiên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.............................................................................. 3
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của bài khóa luận ...................................... 5
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 6
5. Đóng góp của khóa luận ................................................................................ 6
6. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 7
NỘI DUNG....................................................................................................... 8
Chương 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC, CỦNG CỐ VÀ PHÁT
TRỂN CÁC KHU CĂN CỨ CŨ Ở NAM BỘ (1954-1958).......................... 8
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CĂN CỨ ĐỊA ............................................................... 8
1.2. TÌNH THẾ CÁCH MẠNG NAM BỘ KHI BƯỚC VÀO CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (TỪ THÁNG 7-1954 ĐẾN
1958) ............................................................................................................... 12
1.3. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC TỪNG BƯỚC KHÔI PHỤC VÀ
CỦNG CÓ LẠI CÁC KHU CĂN CỨ CŨ (TỪ THÁNG 7-1954 ĐẾN 1958)
......................................................................................................................... 20
Chương 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC KHU CĂN CỨ TẠO
CHỖ ĐỨNG CHO LỰC LƯỢNG CÁCH MẠNG TIẾN LÊN ĐỒNG
KHỞI (TỪ 1958 ĐẾN 12-1960).................................................................... 33
2.1. MỸ-DIỆM TĂNG CƯỜNG “TỐ CỘNG, DIỆT CỘNG” TRÊN ĐỊA
BÀN MIỀN NAM ........................................................................................... 33
2.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG CÁC KHU CĂN CỨ ......................... 35
2.3. PHONG TRÀO ĐỒNG KHỞI CỦA NHÂN DÂN MIỀN NAM ........... 45
Chương 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM XÂY DỰNG
CĂN CỨ ĐỊA Ở NAM BỘ TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ,
CỨU NƯỚC (1954-1960) .............................................................................. 51
3.1. THÀNH TỰU VÀ HẠN CHẾ ................................................................. 51
3.1.1. Thành tựu .............................................................................................. 51
3.1.2. Hạn chế .................................................................................................. 53
3.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CĂN CỨ ĐỊA NAM BỘ NHỮNG NĂM 1954-1960
......................................................................................................................... 54
3.3. VAI TRÒ CỦA CÁC KHU CĂN CỨ ĐỊA TẠI NAM BỘ TRONG
NHỮNG NĂM 1954-1960 ............................................................................. 60
3.4. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ....................................................................... 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, có một nội dung quan trọng là vấn
đề căn cứ địa. Căn cứ địa là nơi đứng chân xây dựng, là nguồn cung cấp, tiếp
tế, là bàn đạp tiến công của các lực lượng vũ trang cách mạng trong khởi
nghĩa vũ trang.
Một trong những chìa khóa tạo nên sức mạnh của hậu phương chiến
tranh Việt Nam là vấn đề xây dựng căn cứ địa. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: "Muốn khởi nghĩa phải có căn cứ địa, muốn kháng chiến phải có hậu
phương" [23, tr.360]. Tư tưởng của Bác cũng xác định: "thắng lợi phải đi đôi
với trường kỳ, kháng chiến càng lâu dài và ác liệt, càng phải huy động cao
nhất sức người, sức của của căn cứ địa, hậu phương. Vì vậy, nhất thiết phải
xây dựng căn cứ, hậu phương vững mạnh, toàn diện về mọi mặt chính trị, quân
sự, kinh tế, văn hóa" [23, tr.138].
Tiếp thu học thuyết quân sự của chủ nghĩa Mác-Lênin và kế thừa truyền
thống đấu tranh chống ngoại xâm của cha ông ta trong lịch sử, Đảng ta luôn
đặt vấn đề xây dựng căn cứ địa và cao hơn là hậu phương lên hàng quan trọng
bậc nhất, vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nên đã nhân
lên gấp bội sức mạnh của một dân tộc nhỏ bé, kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu,
nhưng đủ sức đánh bại kẻ thù là một cường quốc.
Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta
giành thắng lợi rực rỡ năm 1975. Tuy nhiên thắng lợi huy hoàng đó bắt đầu
bằng những năm tháng đau thương, hy sinh, mất mát to lớn, khởi đầu có phần
chậm trễ, với những hạn chế, khiếm khuyết, nhưng càng về sau càng sáng rõ
bản lĩnh và trí tụê Việt Nam.
Những năm 1954-1959 là những năm cách mạng miền Nam nói chung
và cách mạng Nam Bộ nói riêng rơi vào thế thoái trào, là một trong những
1
giai đoạn khốc liệt nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (19541975). Nghiên cứu thấu đáo công tác xây dựng căn cứ địa, xây dựng Đảng tại
Nam Bộ - chiến trường chính của miền miền Nam trong giai đoạn này giúp
chúng ta sẽ hiểu rõ sức sống mãnh liệt của Đảng, của cách mạng, vùng lên từ
máu lửa để chiến đấu và chiến thắng, xoay chuyển tình thế, chuyển cách
mạng từ thế bị động sang thế tiến công.
Nam Bộ là một vùng đất có vị trí chiến lược quan trọng nhất của chiến
trường miền Nam trong kháng chiến. Kề từ khi Pháp xâm lược đã chú trọng
thiết lập bộ máy cai trị ở đây. Khi Mỹ can thiệp vào nước ta đã sử dụng Sài
Gòn làm “tiền đồn chống Cộng”, vùng đất Nam bộ nói riêng và toàn miền
Nam nói chung được Mỹ đặc biệt quan tâm, chúng xây dựng bộ máy chính
quyền tay sai, viện trợ kinh tế… để thực hiện chính sách “chống cộng, diệt
cộng” của mình.
Đối với ta, vùng đất Nam Bộ có ý nghĩa cực kì quan trọng. Vùng Tây
Nam Bộ có tiềm năng kinh tế to lớn, đáp ứng yêu cầu của mọi cuộc chiến
tranh, đặc biệt là khả năng tự cấp, tự túc trong chiến tranh. Đây lại là vùng
đấy giáp biển Đông và biên giới Camphchia, điều kiện địa lý chiến lược, cơ
sở chính trị vững chắc. Vũng Đông Nam Bộ có hành lang phía Tây Bắc lên
phía Bắc và phía Đông gắn liền với vùng núi cực Nam Trung Bộ, Nam Tây
Nguyên và Nam Campuchia, có vùng rừng rậm, núi cao… thuận lợi cho việc
đóng quân, che dấu lực lượng, xây dựng cơ sở Đảng, trong chiến tranh phòng
thủ vững chắc, tấn công dễ dàng. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên, địa lý, kinh
tế - chính trị ở Nam Bộ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và thuận lợi cho ta xây
dựng căn cứ địa tại vùng đất này.
Nghiên cứu công tác Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ địa trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở chiến trường Nam bộ góp phần làm sáng
tỏ thêm những vấn đề lịch sử, giáo dục truyền thống yêu nước chống giặc
2
ngoại xâm của dân tộc, rút ra những kinh nghiệm quý báu cho công tác xây
dựng Đảng, đặc biệt là sức mạnh bất diệt của Đảng và truyền thống đấu tranh
quang vinh của Đảng.
Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của vấn đề này em xin chọn vấn đề
“Đảng lãnh đạo xây dựng căn cứ địa tại Nam Bộ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước thời kì 1954-1960” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Do tầm quan trọng của vấn đề hậu phương - căn cứ địa trong chiến
tranh nên đề tài này đã được sự quan tâm nghiên cứu rộng rãi của các lãnh tụ,
tướng lĩnh, các cơ quan nghiên cứu khoa học, các nhà khoa học Những tác
phẩm, bài viết, luận án đề cập đến vấn đề căn cứ địa ngày càng nhiều hơn,
nội dung sâu sắc hơn.
Trong các tác phẩm "Mấy vấn đề về đường lối quân sự của Đảng ta",
(Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1970) và "Đường lối quân sự của Đảng là ngọn
cờ trăm trận trăm thắng của chiến tranh nhân dân ở nước ta" (Nhà xuất bản
Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1973), Đại tướng Võ Nguyên Giáp trình bày về
căn cứ địa dưới góc độ lý luận, giải quyết một số vấn đề: Khái niệm căn cứ địa,
các hình thức phát triển từ thấp đến cao của căn cứ địa, cơ sở để xây dựng và vai
trò của căn cứ địa trong chiến tranh giải phóng.
Sau năm 1975, do nhu cầu bảo vệ tổ quốc, đề tài căn cứ địa được tiếp tục
nghiên cứu trên cả hai bình diện: lý luận, tổng kết và viết lịch sử.
Về lý luận, xuất hiện nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài quân đội, đáng chú ý là các bài của nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng:
"Vài suy nghĩ về hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam" (Tạp chí lịch sử
quân sự số 3 năm 1993) và của nhà nghiên cứu Sử học Văn Tạo: "Căn cứ địa
cách mạng - truyền thống và hiện tại" (Tạp chí lịch sử quân sự số 4 năm 1995).
Các bài viết này tiếp tục làm rõ những vấn đề lý luận về căn cứ địa như: khái
3
niệm, nguồn gốc, tính chất, đặc điểm nêu bật những đặc trưng của căn cứ địa ở
Việt Nam nói chung và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ nói riêng.
Về tổng kết, có một số công trình quan trọng. Tổng kết chung của cả
nước có sách: "Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam” (1945 - 1975)
(Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Nhà xuất bản Quân đội
nhân dân, Hà Nội, 1997), sách "Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước” (1954 - 1975) (Nhà xuất bản Từ điển bách khoa,
Hà Nội, 2005) Bên cạnh đó, có sách "Tổng kết công tác hậu cần chiến trường Nam
Bộ - Cực Nam Trung Bộ (B2) trong kháng chiến chống Mỹ" (Tổng Cục hậu cần,
1986) có liên quan nhiều đến vấn đề căn cứ.
Ngoài các tổng kết chung, một số căn cứ địa trên địa bàn Nam Bộ cũng
được quan tâm, nghiên cứu trong các công trình tổng kết hoặc viết lịch sử như:
"Chiến khu Rừng Sác", "Lịch sử Chiến khu Đ", Riêng cuốn sách "Chiến khu ở
miền Đông Nam Bộ (1945 - 1954)" của tác giả Hồ Sơn Đài (Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh, 1996) và luận án tiến sĩ lịch sử "Căn cứ địa ở miền Đông
Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)" của Trần Thị Nhung
(năm 2001) đã nghiên cứu một cách khái quát và có hệ thống về toàn bộ căn cứ
địa miền Đông Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, đem lại
những kiến thức bổ ích và những bài học về phương pháp cho việc nghiên cứu.
Qua đó, có thể thấy đã có khá nhiều công trình nghiên cứu, tác phẩm
đề cập đến một số mặt lý luận và thực tiễn của việc xây dựng căn cứ địa ở các thời
kỳ và các địa phương cụ thể. Qua các nghiên cứu này, các tác giả đã lý giải về
khái niệm căn cứ địa, về chức năng hoạt động, nội dung xây dựng và vai trò của
căn cứ địa đối với sự nghiệp kháng chiến nói chung và kháng chiến chống Mỹ
nói riêng, đưa ra một số đặc trưng của căn cứ địa ở Việt Nam, các kiến thức về
một số căn cứ địa cụ thể.
4
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi của bài khóa luận
3.1. Mục đích nghiên cứu
Bài khóa luận làm rõ quá trình hình thành (tái lập), phát triển của các
căn cứ địa tại Nam Bộ trong những năm 1954 - 1960.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện yêu cầu trên bài khóa luận cần giải quyết hai nhiệm vụ đó là:
Dựng lại lịch sử vấn đề xây dựng căn cứ địa tại Nam Bộ trong những
năm 1954 - 1960, đây là giai đoạn cách mạng miền Nam rơi vào thế thoái
trào, vì vậy vấn đề xây dựng căn cứ địa làm nơi cho các lực lượng vũ trang rút
vào hoạt động là vấn đề mang tính sống còn đối với cách mạng.
- Bài khóa luận đưa ra những đánh giá, nhận xét về quá trình hình thành
và phát triển của các khu căn cứ tại Nam Bộ trong những năm 1954 - 1960.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về mặt thời gian: Bài khóa luận nghiên cứu tình hình Đảng lãnh đạo xây
dựng các khu căn cứ địa từ sau khi ký Hiệp định Giơnevơ (20-7-1954) đến khi
thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960).
Về mặt không gian: Bài khóa luận nghiên cứu các khu căn cứ địa tại
Nam Bộ (theo phân giới địa chính sau Hiệp định Giơnevơ), trong đó tập trung
chủ yếu và hai khu căn cứ điển hình đó là Chiến khu Đ (Đồng Nai) và U
Minh (Cà Mau).
Tại Hội nghị thành lập Xứ ủy Nam Bộ (10 - 1954), Xứ ủy Nam Bộ
quyết định chia Nam Bộ ra thành ba Liên tỉnh ủy và Khu ủy Sài Gòn - Chợ
Lớn. Như vậy, Nam Bộ thời kì này gồm ba Liên Tỉnh ủy là:
- Liên Tỉnh ủy miền Tây Nam Bộ gồm các tỉnh: Bạc Liêu, Long Châu
Hà, Vĩnh Trà, Rạch Gía, Sóc Trăng, Cần Thơ do đồng chí Phạm Thái Bường
làm Bí thư.
5
- Liên Tỉnh ủy miền Trung Nam Bộ gồm các tỉnh: Tân An, Mỹ Tho, Sa
Đéc, Bến Tre, Gò Công, Long Xuyên, Châu Đốc, Kiến Phong, Kiến Tường
do đồng chí Nguyễn Minh Đường làm Bí thư.
- Liên Tỉnh ủy miền Đông Nam Bộ gồm các tỉnh Gia Định, Tây Ninh,
Tây An, Thủ Biên, Bà Rịa do đồng chí Phan Đức làm Bí thư sau đó đồng chí
ra Bắc chữa bệnh, đồng chí Mai Chí Thọ lên làm Bí thư.
- Khu ủy Sài Gòn - Chợ Lớn do đồng chí Nguyễn Văn Linh làm Bí thư.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu: Trong quá trình hoàn thành khóa luận tốt nghiệp, chúng
tôi có sử dụng các nguồn tài liệu như các văn kiện Đảng trong giai đoạn 19541960, lịch sử Đảng bộ các tình Nam Bộ, Hồ Chí Minh toàn tập, các kỷ yếu
hội thảo khoa học xoay quanh vấn đề này, cùng các đầu sách viết về căn cứ
địa tại Nam Bộ cũng như miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
thời kì 1954-1960… nhằm làm sáng tỏ thêm về sự lãnh đạo của Đảng với
công tác xây dựng cứ địa tại Nam Bộ và đóng góp của nhân dân Nam Bộ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, người viết dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm chỉ đạo của
Đảng ta về nghiên cứu sử học.
Trong quá trình thực hiện đề tài khóa luận của mình, người viết đã sử
dụng phương pháp lịch sử phương pháp lôgic, và rất nhiều phương pháp như
phương pháp đối chiếu, so sánh, phân tích tư liệu …
5. Đóng góp của khóa luận
Làm rõ thêm giá trị lý luận và thực tiễn của công tác Đảng lãnh đạo xây
dựng căn cứ địa tại Nam Bộ trong những năm đầu của cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước.
6
Rút ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm có ý nghĩa thực tiễn và
lý luận nhất định trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, bài khóa
luận được kết cấu làm ba chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo khôi phục, củng cố và phát triển các khu căn cứ cũ
ở Nam Bộ (1954-1958)
Chương 2: Đảng lãnh đạo phát triển và mở rộng các khu căn cứ tạo chỗ đứng
vững chắc cho lực lượng kháng chiến (1958-1960)
Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm
7
NỘI DUNG
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO KHÔI PHỤC, CỦNG CỐ VÀ PHÁT TRỂN
CÁC KHU CĂN CỨ CŨ Ở NAM BỘ (1954-1958)
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CĂN CỨ ĐỊA
Về khái niệm căn cứ địa:
Từ điển bách khoa Việt Nam giải thích căn cứ địa cách mạng là "vùng
được chọn để làm bàn đạp xây dựng và phát triển phong trào cách mạng rộng
ra các vùng khác. Căn cứ địa cách mạng phải có khả năng tạo được những cơ
sở chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội và địa lý thuận lợi cho đấu tranh cách mạng
và chiến tranh cách mạng. Xây dựng căn cứ địa cách mạng phải bắt đầu từ xây
dựng cơ sở chính trị, cơ sở vũ trang, xây dựng chính quyền cách mạng để trên
cơ sở đó từng bước xây dựng kinh tế, xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển của
cách mạng Ở Việt Nam, trong cách mạng giải phóng dân tộc đã xây dựng
được một số căn cứ địa cách mạng làm chỗ dựa cho cách mạng phát triển ra cả
nước như các căn cứ địa Việt Bắc, Đồng Tháp Mười, U Minh" [55, tr.371].
Bàn về căn cứ địa, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:"Đội du kích trong lúc hoạt
động đánh quân thù cần có một vài nơi đứng chân làm cơ sở. Tại nơi ấy, đội
du kích tích trữ lương thực, thuốc đạn, lâu lâu về đó nghỉ ngơi, luyện tập. Nơi
ấy phải có địa thế hiểm yếu che chở và quần chúng cảm tình ủng hộ. Đội du kích
hoạt động phát triển nhiều thì chỗ cơ sở nhỏ đầu tiên ấy có thể trở nên căn cứ địa
vững vàng, nhất là sau khi đội du kích đánh đuổi được quân giặc và thành lập
chính quyền cách mạng trong địa phương. Chưa thành lập được chính quyền
địa phương thì căn cứ địa khó thành lập và không thể củng cố được. Có chính
quyền cách mạng của địa phương, có căn cứ địa vững vàng, đội du kích nhờ
đó mà phát triển lực lượng và hóa ra quân chính quy" [49, tr.504].
8
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong tác phẩm "Mấy vấn đề về đường lối
quân sự của Đảng ta" lý giải "căn cứ địa cách mạng là những vùng giải phóng
xuất hiện trong vòng vây của địch, cách mạng dựa vào đó để tích lũy và phát
triển lực lượng của mình về mọi mặt, tạo thành những trận địa vững chắc về
chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, lấy đó làm nơi xuất phát để mở rộng dần ra,
cuối cùng tiến lên đánh bại kẻ thù lớn mạnh, giải phóng hoàn toàn đất nước.
Căn cứ địa là chỗ đứng chân của cách mạng, đồng thời là chỗ dựa để xây dựng
và phát triển lực lượng vũ trang, đẩy mạnh đấu trang vũ trang cách mạng;
trên ý nghĩa đó, nó cũng là hậu phương của chiến tranh
cách mạng" [45, tr.90].
Trong chiến tranh cách mạng ở nước ta, ngoài các căn cứ địa cách
mạng, còn có một số vùng (xã, ấp) chưa được giải phóng hoàn toàn, cũng có
những khu vực cho du kích xã đứng chân trong các ấp đã được giải phóng. Những
khu vực này được gọi là các căn cứ lõm, tức là các căn cứ ăn sâu hay nằm lọt
giữa vùng tạm chiếm của địch, có khi còn được gọi là các căn cứ du kích hoặc
lõm du kích.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước hành
động khủng bố, trả thù của Mỹ - Diệm, cách mạng miền Nam bị tổn thất về
tổ chức và lực lượng ngày càng nặng. Quần chúng cách mạng bị kìm kẹp,
khống chế gắt gao. Nhiều nơi đảng viên phải rút vào hoạt động bí mật,
chuyển vùng Một số địa phương, cán bộ, đảng viên, quần chúng cách
mạng chuyển vào các căn cứ kháng chiến cũ ở rừng núi, bưng biền, tổ chức
sản xuất tự túc và tự vệ. Miền rừng núi Khu 5, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên
xuất hiện các "trại bí mật". Ở chiến khu Đ, Dương Minh Châu (miền Đông
Nam Bộ) hình thành "làng chiến đấu", "làng thoát ly". Vùng Đồng Tháp
Mười ra đời các "túi dân tản cư". Sâu trong miệt rừng U Minh thuộc Tây
Nam Bộ có các "làng rừng". Vùng đồng bào XTiêng có các "làng Độc
9
Lập" Đó là những hình thức khác nhau, là cơ sở ban đầu hình thành các
căn cứ địa trong giai đoạn đầu kháng chiến chống Mỹ [19, tr. 188].
Khi qui mô và cường độ cuộc chiến tranh tăng lên thì căn cứ địa cũng
phát triển rộng khắp. Tùy theo điều kiện tự nhiên, xã hội, địa hình mà căn cứ
địa được xây dựng dưới nhiều hình thức. Ở miền rừng núi Đông Nam Bộ, lợi
dụng địa hình có rừng rậm, hiểm trở, lực lượng cách mạng đã khôi phục 2 căn
cứ địa lớn đã có từ thời kháng chiến chống Pháp là Chiến khu Đ và chiến khu
Dương Minh Châu, phát triển thành căn cứ Đông Bắc và Tây Bắc Sài Gòn,
thành các căn cứ chiến lược của cả Nam Bộ.
Bên cạnh căn cứ vùng rừng núi, ở miền Trung và Tây Nam Bộ nước ta
còn có các căn cứ từ thời kháng chiến chống Pháp như căn cứ Đồng Tháp
Mười, là vùng đồng nước mênh mông vào mùa mưa hoặc dạng rừng tràm,
đước ngập nước như căn cứ U Minh.
Như vậy, căn cứ địa được hiểu là vùng tự do, vùng có phong trào du kích
phát triển mạnh mẽ. Căn cứ được lập ra thì phải hội tụ các điều kiện:
Cơ sở chính trị vững chắc
Vũ trang toàn dân
Đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, nuôi quân
để chiến đấu.
Địa thế hiểm trở cho tiến công - phòng ngự
- Lịch sử xây dựng căn cứ địa ở nước ta
Trong lịch sử nước ta, có các căn cứ như Mê Linh của Hai Bà Trưng,
Cửu Chân của Bà Triệu, Dạ Trạch của Triệu Quang Phục, Lam Sơn của Lê
Lợi và Thanh - Nghệ - Tĩnh của phong trào Cần Vương…
Thời kháng Pháp thì có các căn cứ như Gò Công của Trương Định,
Giao Long (Bình Thuận) của Trương Quyền; Đồng Tháp Mười (Sa Đéc, Kiến
Phong, một phần Tân An, một phần Tiền Giang) của Võ Duy Dương… Khi
10
Đảng ra đời thì Bác Hồ chỉ đạo xây dựng các căn cứ địa, đầu tiên là Bắc Sơn Võ Nhai, Cao Bằng, chiến khu Trần Hưng Đạo…
Riêng tại Nam Bộ, từ khi Pháp vào xâm lược nước ta vào giữa thế kỹ
XIX, các sĩ phu yêu nước đã cùng nhân dân đứng lên đánh đuổi Pháp, công
tác xây dựng các khu căn cứ làm nơi đứng chấn cho nghĩa quân cũng được
chú trọng. Như các căn cứ Hòn Chông (Rạch Gía), Cái Nước (U Minh) của
nghĩa quân Nguyên Trung Trực, căn cứ Long Điền (Trà Vinh) của Nguyễn
Minh Đường, căn cứ Lánh Linh (Bảy Núi) của Trần Văn Thành …
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng Việt Nam đã
bước sang một trang mới, Đảng được trang bị cả lý luận và thực tiễn cách
mạng để lãnh đạo nhân dân dành độc lập dân tộc. Đặc biệt, vấn đề xây dựng
căn cứ địa, hậu phương cực kì được chú trọng. Các an toàn khu được thiết lập
nhầm bảo vệ cơ quan đầu não của ta, điển hình là Việt Bắc. Riêng tại Nam bộ
thời kì kháng chiến chống Pháp mà đặc biệt sau khi khởi nghĩa Nam Kì
(1941) thất bại, các khu căn cứ được chú tâm xây dựng một cách có hệ thống
hơn. Điển hình là các căn cứ Đồng Tháp Mười, U Minh, Dương Minh Châu,
Chiến khu D, An Phú Đông…
Thời kháng Mỹ, lực lượng vũ trang được tổ chức thành trung đoàn, tiểu
đoàn, trung đội (huyện) và nhiều lực lượng khác đứng chân ở Nam Bộ. Muốn
đánh lớn thì ta phải mở nơi đứng chân càng rộng; do đó ta đã mở rộng các căn
cứ địa thành hệ thống các căn cứ liên hoàn với phân cấp đầu tiên là Miền,
Tỉnh (Tỉnh ủy). Căn cứ địa có nơi rất lớn như U Minh, Đồng Tháp Mười (như
An toàn khu - địch không bén mảng được). Các căn cứ địa lớn như Dương
Minh Châu (vùng Trà Vong, Bà Đen), Chiến khu Đ tiếp tục được phát triển
mạnh mẽ. Năm 1973 - 1975, Trung ương Cục và Mặt trận Bắc Tây Ninh, Bộ
tư lệnh chính phủ lâm thời liên tục di chuyển để tránh bị địch càn quét.
11
1.2. TÌNH THẾ CÁCH MẠNG NAM BỘ KHI BƯỚC VÀO CUỘC
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (TỪ THÁNG 7-1954
ĐẾN 1958)
Sau 9 năm chiến tranh, Hiệp định Giơnevơ được ký kết vào ngày 20-71954 đã đem lại việc đình chỉ chiến sự, đất nước ta bước vào một giai đoạn
mới với những đặc điểm sau:
- Từ chiến tranh chuyến sang hòa bình.
- Lãnh thổ Việt Nam tạm thời bị phân ra làm hai vùng tập kết quân đội,
lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời. Miền
Bắc dưới sự quản lý của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, miền Nam
do Pháp và chính quyền Sài Gòn kiểm soát.
- Mỹ bắt đầu có những hành động can thiệp vào nước ta, Pháp thì không
thể thoát khỏi lệ thuộc vì vậy đành chấp nhận mất Đông Dương vào tay Mỹ. Do
đó, đế quốc Mỹ trở thành kẻ thủ chính và trực tiếp của nhân dân Việt Nam.
Sau Hiệp định Giơnevơ, mặc dù toàn bộ lãnh thổ Nam Vĩ tuyến 17 nằm
dưới sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, nhưng người dân miền Nam
cũng như Nam Bộ đã được sống và hiểu được tính ưu việt của chế độ dân chủ
nhân dân, nên nhân dân một lòng ủng hộ cách mạng.
Trong lòng xã hội toàn miền Nam lúc này bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa
nhân dân với chính quyền do Mỹ dựng lên. Bên cạnh đó còn nổi lên mâu
thuẫn giữa Pháp - Mỹ trong việc giành dật miền Nam, giữa tướng tá, chính
khách thân Pháp với chế độ tay sai mà Mỹ thiết lập.
Để hiện thực hóa âm mưu của mình, Mỹ tiến hành một loạt các thủ
đoạn:
Đầu tiên là việc Mỹ từng bước loại thực dân Pháp và các thế lực thân
Pháp: Ngày 7-7-1954, Mỹ đưa Ngô Đình Diệm lên nắm chính quyền và cung
một lúc Ngô Đình Diệm giữ ba chức vụ chủ chốt là Thủ tướng, Tổng trưởng
12
quốc phòng, kiêm Tổng trưởng nội vụ. Chức Tổng trưởng ngoại giao được
giao cho Ngô Đình Nhu. Tiếp đó, một loạt các tướng tá thân Pháp bị loại ra
khỏi chính quyền, ngược lại những sĩ quan ngả theo Ngô Đình Diệm thì được
“thăng cấp, thăng chức”. Chỉ chưa đầu hai năm sau Hiệp định Giơnevơ, Mỹ
đã sử dụng Ngô Đình Diệm để hoàn toàn gạt Pháp ra khỏi miền Nam Việt
Nam, cả về chính trị lẫn quân sự
Tiếp đến là việc củng cố chế độ Ngô Đình Diệm: Mỹ đã giúp Ngô Đình
Diệm một cách toàn diện để dựng lên ở miền Nam Việt Nam một chính phủ
thân Mỹ và chống cộng. Mỹ cải tổ toàn diện quân đội miền Nam từ hình thức
đến nội dung, xóa hết mọi vết tích của thời Pháp. Từ 1955, việc huấn luyện
theo kiểu Mỹ bắt đầu. Bắt đầu từ đầu năm 1955, Ngô Đình Diệm bắt đầu thực
hiện cuộc cải cách điền địa trên toàn miền Nam, cùng với đó chính quyền
Diệm còn lập các khu dinh điền, chôt sâu vào các khu căn cứ kháng chiến cũ,
các tuyến chiến lược của ta.
Vấn đề mà Mỹ “không ưa” nhất đó là cuộc tổng tuyển cử mà ta dự kiến
sẽ tổ chức vào tháng 7-1956, vì vậy Mỹ chủ trương phá hoại Hiệp định
Giơnevơ, Ngô Đình Diệm khăng khăng cự tuyệt với tổng tuyển cử thống nhất
đất nước. Diệm mở những cuộc càn quét quy mô vào các căn cứ kháng chiến
cũ của ta cùng với chính sách “tố cộng, diệt cộng” trên khắp địa bàn miền
Nam mà tập trung chủ yếu ở các vùng Nam bộ.
Trong những năm 1954-1956, nhân dân Nam Bộ đã tuân thủ chặt chẽ
những điều lệ trong Hiệp định Giơnevơ, nhưng do ách kìm kẹp vô cùng tàn
bạo của chế độ Mỹ-Diệm nên nhân dân Nam bộ đã đứng lên đấu tranh dưới
hình thức đấu tranh chính trị với nhứng hình thức đa dạng:
Phong trào đấu tranh Bảo vệ hòa bình ở Sài Gòn - Chợ Lớn được thành
lập vào cuối tháng 7 - 1954. Phong trào đề ra mục đích đồi các bên tham dự
Hội nghị Giơnevơ phải thi hành nghiêm chỉnh hiệp định, ban hành quyền tự
13
do dân chủ, thả tù binh và tù chính trị, hiệp thương để đi đến tổng tuyển cử
thống nhất đất nước
Trong thời gian chuyển quân tập kết, nhiều cuộc đấu tranh chống chính
quyền Ngô Đình Diệm giết hại những người kháng chiến ở Mỏ Cày (Bến
Tre), Chợ Được (Quảng Nam), Vĩnh Xuân (Cần Thơ)… buộc Ủy hội quốc tế
và Ủy ban liên hiệp đình chiến phải cử phái đoàn đến điều tra, lập biên bản
buộc tội chính quyền Ngô Đình Diệm.
Trong hai năm 1955 - 1956, nhiều cuộc đấu tranh quy mô lớn diễn ra ở
Sài Gòn - Chợ Lớn và các thị xã, thị trấn trên toàn miền Nam, đặc biệt là khu
vực Nam Bộ:
Để chống cuộc bầu cử Quốc hội lập hiến riêng lẻ của chính quyền Ngô
Đình Diệm (ngày 4-3-1956) và đòi Hiệp thương tổng tuyển cử, toàn Nam bộ
đã phát động cuộc đấu tranh thống nhất từ ngày 20-10-1955 đến ngày 26-21956. Cuộc đấu tranh diễn ra dưới nhiếu hình thức phong phú như mít tinh,
biểu tình, bãi thị… và đã được đông đảo nhân dân hưởng ứng.
Từ giữa năm 1955, Ngô Đình Diệm bắt đầu thi hành chính sách “tố
cộng, diệt cộng” trên toàn miền Nam. Song song với các cuộc ruồng bớ, bắt
bớ người kháng chiến cũ đi tập kết, chúng tập kết dân theo xóm ấp hoặc khu
phố để tổ chức những buổi “học tập tố cộng”, bắt ép nhân dân xé ảnh Chủ tịch
Hồ Chí Minh, xé cờ đỏ sao vàng, cờ búa liềm, hô khẩu hiệu chống cộng …
Tuy nhiên, chúng vấp phải sự chống đối quyết liệt của nhân dân Nam bộ cũng
như toàn miền Nam. Cuộc cuộc đấu tranh chống tố cộng diễn ra ở khắp nơi.
Cách làm phổ biến của quần chúng là tẩy chay không tham gia, hoặc đưa trẻ
em đi thay, đến nơi tạo không khí ồn ào, mất trật tự…
Phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ gắn liền với các
phong trào đòi dân sinh dân chủ của các tầng lớp quần chúng. Ngoài ra còn
14
các phong trào đấu tranh giữ ruộng đất của nông dân, phong trào trên trận địa
báo chí, băn nghệ của các tầng lớp trí thức…
Từ tháng 7 năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm đẩy mạnh chiến
dịch “tố cộng, diệt cộng” trên toàn miền Nam, đánh phá có chiều sâu, hòng
quét sạch cơ sở của Đảng, bắt nhân dân phải theo Mỹ - Diệm. Thực hiện mục
đích đó, Mỹ tiến hành xây dựng chế độ thực dân mới bằng hai biện pháp: một
là, củng cố cơ sở chính trị và kinh tế của chính quyền; hai là, củng cố, xây
dựng quân đội làm chỗ dựa cho chính quyền…
Cùng với việc tăng cường xây dựng quân đội, Mỹ cũng không ngừng
đầu tư xây dựng lực lượng công an, cảnh sát, an ninh, mật vụ ngụy thông qua
phái đoàn Trường Đại học Michigân. Năm 1957, Mỹ cung cấp cho ngành an
ninh, cảnh sát Sài Gòn hàng chục xe zíp, đưa hàng trăm cố vấn công an, mật
vụ sang miền Nam.
Song song với việc xây dựng lực lượng vũ trang, kiện toàn bộ máy chỉ
huy quân đội từ trên xuống dưới, Mỹ - Diệm nhanh chóng đầu tư xây dựng hệ
thống đường chiến lược, mở rộng, nâng cấp hệ thống đường có sẵn và mở
nhiều đường mới, xây dựng và củng cố hệ thống kho dự trữ chiến lược ở Sài
Gòn, Biên Hòa, Nha Trang, Đà Nẵng và Quy Nhơn…
Cũng trong giai đoạn II “tố cộng, diệt cộng”, Mỹ - Diệm nhằm trọng
điểm đánh vào miền Đông Nam Bộ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long với
phương châm: tiêu diệt không thương tiếc… tiêu diệt như trong tình trạng
chiến tranh, thà giết nhằm còn hơn bỏ sót.
Sau những cuộc càn quét và khủng bố gắt gao, địch đưa một đoàn gồm
công an, cảnh sát, điều tra, mật vụ, cán bộ hương thôn, công dân vụ… xuống
các tỉnh, huyện rồi chia thành nhiều toán nhỏ về hoạt động ở một xã hay một
ấp để thẩm tra, nắm được từng gia đình có bao nhiêu người, ai tham gia kháng
chiến, ai tập kết, ai làm việc cho Pháp… Thông qua việc điều tra nắm bắt tình
15
hình, địch tiến hành chia làng, xã từng các ô và phân chia gia đình thành ba
loại A, B, C.
Chúng bắt mọi người trong lớp học tố cộng phải “sám hối”. Chúng sử
dụng những hình thức tra tấn dã man cán bộ và quần chúng như: đóng đinh
vào các khớp xương, treo người lên xà nhà, đổ nước xà phòng, cắt cổ, moi
gan, phanh thây những người đã chết… Trong các chiến dịch “tố cộng, diệt
cộng”, số lượng nhà tù, trại giam tăng lên nhanh chóng.
Tháng 4 năm 1957, chính quyền Ngô Đình Diệm triển khai kế hoạch
lập khu “dinh điền”, khu “trù mật” và coi đây là một bộ phận quan trọng góp
phần thực hiện kế hoạch “tố cộng, diệt cộng” ở miền Nam.
Từ giữa những năm 1957 đến cuối năm 1958, chúng đã dồn ép hàng
triệu dân ở vùng đồng bằng lên các vùng núi hẻo lánh để xây dựng các khu
dinh điền. Ở đồng bằng chúng xây dựng khu trù mật dầy đặc để kiểm soát
vùng chiến lược quan trọng, ven đô thị và các trục giao thông lớn.
Đi đôi với việc dồn dân, lập các khu dinh điền và khu trù mật, Diệm Nhu tiến hành chương trình “cải biến nông thôn” tương đối toàn diện, lấy việc
thực hiện chính sách “cải cách điền địa” làm khâu trung tâm để mua chuộc,
tiến tới nắm chặt nông dân. Năm 1957, Mỹ - Diệm còn áp dụng rộng rãi
chương trình này trên toàn miền Nam và coi đó là một trong những biện pháp
quan trọng để thiết lập chế độ thực dân mới.
Bên cạnh việc thực hiện “cải cách điền địa”, tháng 4 năm 1957, Mỹ Diệm đề ra chính sách “Tái định cư và cứu tế dân di cư” trong các “dinh điền”
nhằm mục đích an ninh nhiều hơn là kinh tế tạo nên những “vành đai sống” để
ngăn cách các trung tâm đông dân cư với những vùng căn cứ miền núi của ta.
Ngoài ra, để bù đắp phần nào ngân sách thâm hụt, tháng 3 năm 1957,
chính quyền Nam Việt Nam ban hành chính sách thuế mới đánh vào tất cả các
mặt hàng như: thuế sản xuất, thuế công quán, thuế giản thu… Ở địa phương,
16
chính quyền cơ sở địch cũng tự đặt ra nhiều thứ thuế như: thuế chợ, thuế ánh
sáng, thuế đường xá giao thông…
Những hành động khủng bố tàn bạo cùng các chính sách thâm độc về
kinh tế, chính trị, quân sự của Mỹ - Diệm đã gây ra những tổn thất to lớn về
mọi mặt cho nhân dân miền Nam, trong đó có Nam Bộ. Hàng nghìn người bị
chết trong khủng bố, hàng trăm người bị thảm sát trong các nhà tù, hàng vạn
công nhân thất nghiệp, nhà máy đóng cửa… Đảng bộ Nam Bộ bị tổn thất,
hàng loạt chi bộ, cơ sở đảng bị phá vỡ, đảng viên bị bắt và bị sát hại … Cách
mạng bị dìm trong biển máu, bị đẩy vào bước khó khăn chưa từng thấy, trải
qua một thời kỳ thoái trào tưởng chừng không gượng dẩy nổ.
Tháng 8 năm 1956, đồng chí Lê Duẩn, Ủy viên Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng, Bí thư Xứ ủy Nam Bộ hoàn thành bản Đề cương
cách mạng miền Nam.
Nội dung bản Đề cương nêu rõ nhiệm vụ chung của cả nước là tiến
hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội, nhiệm
vụ trước mắt là tiếp tục đấu tranh củng cố hòa bình, thực hiện nhiệm vụ thống
nhất, hoàn thành độc lập, dân chủ trong cả nước. Miền Nam tiến hành đấu
tranh đánh đổ đế quốc và phong kiến, thành lập chế độ dân chủ nhân dân, tiến
lên chủ nghĩa xã hội.
Bản Đề cương vạch rõ nhiệm vụ cách mạng miền Nam là chỉ có con
đường cứu nước và tự cứu mình, là con đường cách mạng. Ngoài con đường
cách mạng không còn một con đường nào khác.
Từ ngày 25 tháng 8 đến tháng 10 năm 1956, Ban Chấp hành Trung
ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 10 mở rộng. Hội nghị chủ trương đẩy mạnh
cuộc đấu tranh ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các nước anh em và
của nhân dân tiến bộ trên thế giới đối với cuộc đấu tranh của nhân dân ta đòi
phải thi hành Hiệp định Giơnevơ, thống nhất đất nước.
17
Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng, ngày 10 tháng 11 năm
1956, Xứ ủy Nam Bộ đề ra Chỉ thị “Về nhiệm vụ công tác trước mắt của
Đảng bộ miền Nam”. Chỉ thị nêu rõ, nhiệm vụ công tác trước mắt cho các cấp
bộ Đảng là đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, đấu tranh đòi thi hành quyền tự
do dân chủ.
Chỉ thị cũng nêu rõ những công tác phải làm trước mắt là tuyên truyền
giáo dục sâu rộng trong quần chúng nhân dân để mọi người nhận rõ âm mưu
thâm độc chia cắt đất nước, phá hoại hòa bình, phá hoại Hiệp định của Mỹ Diệm, tổ chức nhân dân vào các tổ chức công khai, hợp pháp; nửa hợp pháp,
đẩy mạnh công tác Mặt trận; ra sức xây dựng lực lượng ta, cô lập địch.
Nắm vững Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, Nghị quyết Hội nghị Xứ ủy cùng với sự lãnh đạo năng động, sáng tạo
của Xứ ủy Nam Bộ và tổ chức Đảng các địa phương, phong trào cách mạng
Nam Bộ từng bước phục hồi. Để bảo vệ cán bộ, cơ sở bí mật của Đảng và
phong trào cách mạng ở khắp các địa phương từ thành thị đến nông thôn
Đông Nam Bộ, Trung Nam Bộ, Tây Nam Bộ, Tây Nguyên đầu đẩy mạnh đấu
tranh chống địch khủng bố, đàn áp, đánh phá cách mạng của địch, trong đó
đấu tranh chống “tố cộng, diệt cộng” là điển hình.
Mở đầu cuộc đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ là cuộc biểu tình
ngày 1/5/1957 của 27 vạn công nhân, lao động và nhân dân Sài Gòn đòi tăng
lương cho công nhân viên chức, binh lính cảnh sát, chấm dứt nạn đuổi nhà,
chống sa thải, giải quyết nạn thất nghiệp.
Để chống lại âm mưu dồn dân lập khu trù mật, đầu năm 1957, thực
hiện chủ trương của Hội nghị Xứ ủy mở rọng, Xứ ủy Nam bộ chỉ đạo các địa
phương đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị địa phương của quần chúng,
cương quyết bám đất, không vào các khu tập trung của địch, chống lại “cải
cách điền địa” của Diệm, đòi các quyền tự do, cơm áo, dân sinh, dân chủ, tiến
tới hòa bình, thống nhất đất nước.
18
Dưới sự lãnh đạo của Xứ ủy, nông dân Phước Long (Thủ Đức - Gia
Định) nổi dậy chống tên chủ Thuận cướp đoạt ruộng đất. Cuộc đấu tranh nhận
được sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân Nam Bộ.
Ngày 31/3/1957, đại biểu các nghiệp đoàn công nông toàn tỉnh Gia
Định cùng với 300 đại biểu của nông dân 37 xã thuộc tỉnh Gò Công họp đại
hội, đồng tình với cuộc đấu tranh của nhân dân Phước Long. Cuộc đấu tranh
giành được thắng lợi bước đầu và có sức cổ vũ to lớn của nhân dân Nam Bộ
trong các cuộc đấu tranh sau này.
Cùng với “cải cách điền địa”, chính quyền Ngô Đình Diệm thực hiện
chủ trương “giải tỏa đô thành” Sài Gòn, buộc những người sống ở những khu
lao động Sài Gòn phải rời khỏi nơi cư trú.
Kiên quyết không chịu rời nhà, cuối năm 1956 đầu năm 1957, phong
trào chống “giải tỏa đô thành” của quần chúng lao động phát triển rầm rộ dưới
nhiều hình thức như: gửi thư, kiến nghị, tiến hành đại hội … Phong trào được
sự ủng hộ nhiệt tình của quần chúng nhân dân lao động các nơi, của học sinh sinh viên Sài Gòn - Chợ Lớn.
Tiếp đó, tháng 10 năm 1957, Nhân dân các xã Gia Lộc, An Tịnh, Lộc
Hưng, Gia Bình, Đôn Thuận, Thanh Phước, Phước Thanh, Hiệp Thạnh, Thanh
Đức tập hợp kéo lên dinh quận trưởng Trảng Bàng, Gò Dầu, đấu tranh đòi ngụy
quyền địa phương không cho binh lính càn quét, dồn dân, bắt dân tố cộng.
Trong quá trình lãnh đạo nhân dân Nam Bộ đấu tranh chống lại Mỹ Diệm, Xứ ủy Nam Bộ căn cứ vào tình hình thực tế của Nam Bộ là nơi có
nhiều giáo phái như Cao Đài, Hòa Hảo… các giáo phái này có ảnh hưởng
nhất định đối với đời sông của nhân dân nên chủ trương đẩy mạnh công tác
vận động phái Cao Đài Tây Ninh chống Mỹ - Diệm.
Trước những hành động khủng bố, tàn sát ngày càng điên cuồng của Mỹ Diệm, việc sử dụng đấu tranh vũ trang để hỗ trợ cho đấu tranh chính trị trở thành
19
nhu cầu bức thiết của cán bộ, đảng viên và quần chúng cơ sở. Xứ ủy và các Liên
tỉnh ủy miền Tây, miền Đông Nam Bộ chỉ đạo lực lượng vũ trang đánh địch,
trừng trị bọn ác ôn … Từ năm 1957, ở nhiều địa phương Nam Bộ, các hoạt động
vũ trang tuyên truyền, trừ gian, diệt ác xuất hiện ngày càng nhiều và bắt đầu có
các trận tập kích đồn bốt của giặc. Các đội vũ trang tuyên truyền ngày càng
trưởng thành, trở thành chỗ dựa tin cậy cho quần chúng nhân dân.
Cùng với việc lãnh đạo đấu tranh chính trị, tuyên truyền vũ trang, xây
dựng căn cứ cách mạng, Xứ ủy Nam Bộ chú ý đến công tác củng cố tổ chức
Đảng. Trong những năm 1956 - 1957, công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ
Nam bộ đạt được nhiều kết quả to lớn. Cán bộ, đảng viên vững vàng về tư
tưởng, tin vào đường lối của Đảng nhiệt tình công tác, dù bị liên lạc đứt vẫn
tự động công tác, bị địch đánh vẫn tìm mọi cách bám sát quần chúng cơ sở,
hướng dẫn phong trào, hòa mình vào quần chúng.
Mặc dù bị kẻ địch khủng bố, Xứ ủy Nam Bộ dưới sự lãnh đạo của
Đảng đã lãnh đạo nhân dân Nam Bộ vượt lên khó khăn, thử thách, chống lại
sự đàn áp của Mỹ - Diệm. Các phong trào hòa bình dân sinh, dân chủ chống
“tố cộng, diệt cộng” đã lôi cuốn hàng triệu lượt người tham gia. Lực lượng vũ
trang cách mạng dưới danh nghĩa các giáo phái ra đời ở các tỉnh miền Đông,
miền Tây và miền Trung Nam Bộ. Những căn cứ kháng chiến được củng cố,
giữ vững, căn cứ kháng chiến mới được thành lập…
1.3. ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC TỪNG BƯỚC KHÔI PHỤC VÀ
CỦNG CÓ LẠI CÁC KHU CĂN CỨ CŨ (TỪ THÁNG 7-1954 ĐẾN
1958)
Vấn đề xây dựng và củng cố lại các khu căn cứ địa sau kháng chiến đã
được Trung ương Đảng chú ý. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu
(khóa II) họp từ ngày 15-7 đến 18-7-1954 về chuyển hướng công tác ở miền
Nam đã đề ra các công tác cụ thể đó là: “củng cố vùng tự do cũ” [47, tr.24].
20