Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH YÊN BÁI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 113 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1

Chương 1. Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI HIỆN NAY .............................................. 9
1.1. Ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam ....................................... 9
1.1.1. Khái niệm ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam ........... 9
1.1.2. Nội dung biểu hiện ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay ................................................................................... 16
1.2. Sự cần thiết phải nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân Việt
Nam hiện nay ................................................................................... 27
1.2.1. Do yêu cầu thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và
yêu cầu của sự nghiệp đổi mới ......................................................... 28
1.2.2. Do yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp
công nghiêp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ......................... 29
1.2.3. Do yêu cầu tăng cường vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân
đối với khối liên minh công - nông - trí và các tầng lớp nhân dân
lao động ................................................................................................ 31
1.2.4. Xuất phát từ vai trò định hướng của ý thức chính trị đối với mọi
hoạt động của công nhân; từ vai trò của công tác lý luận đến
thực trạng yếu kém về ý thức chính trị của một bộ phận công
nhân Việt Nam ................................................................................. 32
Chương 2. THỰC TRẠNG Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ CÔNG
NHÂN TỈNH YÊN BÁI TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI HIỆN NAY ........ 35
2.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Yên Bái ........ 35
2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên........................................................ 35
2.1.2. Khái quát về kinh tế - xã hội ............................................................ 37
2.2. Ý thức chính trị của đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời kỳ đổi
mới: công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước .................................. 41
2.2.1. Vài nét về đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái ..................................... 41



2.2.2. Thực trạng ý thức chính trị của đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái
trong thời kỳ đổi mới hiện nay ......................................................... 48
2.2.3. Đánh giá thực trạng và nguyên nhân ................................................ 64
Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO Ý THỨC
CHÍNH TRỊ CHO ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH YÊN BÁI
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI HIỆN NAY ............................................ 71

3.1. Những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao ý thức chính trị cho đội
ngũ công nhân tỉnh Yên Bái ............................................................. 71
3.1.1. Xây dựng và phát triển toàn diện đội ngũ công nhân Yên Bái
trong đó nâng cao ý thức chính trị phải được coi là cấp bách,
hàng đầu ........................................................................................... 71
3.1.2. Nâng cao ý thức chính trị cho công nhân Yên Bái đặt dưới sự
lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Công đoàn, doanh
nghiệp và các tổ chức đoàn thể ........................................................ 72
3.1.3. Nâng cao ý thức chính trị cho công nhân Yên Bái phải tiến hành
thường xuyên liên tục, phát huy tính tự rèn luyện, tự phấn đấu
của công nhân ................................................................................... 75
3.2. Những nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức chính trị cho đội
ngũ công nhân tỉnh Yên Bái ............................................................. 76
3.2.1. Nhóm giải pháp về kinh tế nhằm nâng cao ý thức chính trị cho
đội ngũ công nhân Yên Bái .............................................................. 76
3.2.2. Nhóm giải pháp về chính trị, pháp luật nhằm nâng cao ý thức
chính trị cho đội ngũ công nhân Yên Bái ........................................ 83
3.2.3. Nhóm giải pháp về văn hóa - xã hội nhằm nâng cao ý thức chính
trị cho đội ngũ công nhân Yên Bái .................................................. 93
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 103
CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ..................... 108

PHỤ LỤC .......................................................................................................... 109


DANH MỤC CÁC CHỮ VIÊT TẮT

CNH, HĐH:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

CNXHKH:

Chủ nghĩa xã hội khoa học

CNCS:

Chủ nghĩa cộng sản

GCCN:

Giai cấp công nhân

TBCN:

Tư bản chủ nghĩa

XHCN:


Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH), hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Trong
quá trình đổi mới, Đảng ta luôn xác định: định hướng con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội (CNXH) sẽ không bao giờ là thay đổi; xây dựng và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) luôn là nhiệm vụ thiêng liêng của
mọi giai cấp, mọi tầng lớp nhân dân và của cả hệ thống chính trị, trong đó vai
trò của giai cấp công nhân Việt Nam là vô cùng to lớn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm
1991 Đảng ta đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng” [9,
tr.127]. Qua các kỳ đại hội VIII, IX, và X điều này liên tục được khẳng định
và làm rõ rằng: “Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng
Việt Nam thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam” [15, tr.43].
Qua thực tiễn hơn 25 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng khẳng định con đường chúng ta đang đi là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại tiến bộ. Giai
cấp công nhân Việt Nam ngày càng khẳng định được sứ mệnh lịch sử, vai trò,
vị trí của mình trong sự nghiệp đổi mới, điều này được thể hiện rất rõ trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội. Đặc biệt là
trên lĩnh vực kinh tế “Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất
lượng và tổ chức, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và
nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước” [13, tr.118].

Tại Hội nghị lần Sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X; Đảng ta
đã ban hành Nghị quyết số 20-NQ/TW “Về tiếp tục xây dựng giai cấp công
nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Nghị quyết đã một lần nữa khẳng định sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp

1


công nhân Việt Nam: “Giai cấp công nhân nước ta có sứ mệnh lịch sử to lớn:
là giai cấp lãnh đạo cách mạng ” [15, tr.43-44].
Thực tiễn những năm đổi mới vừa qua cho thấy Đảng ta liên tục khẳng
đinh vai trò, vị thế của giai cấp công nhân Việt Nam trong tiến trình phát triển
đất nước. Hơn bao giờ hết việc nâng cao trình độ mọi mặt cho giai cấp công
nhân Việt Nam hiện nay là điều hết sức cần thiết nó hoàn toàn phù hợp với lý
luận của Đảng và thực tiễn đất nước ta hiện nay.
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở phía Tây Bắc của Tổ quốc, có
nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, có vị trí chiến lược về chính trị, quốc
phòng, an ninh. Đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái đã có sự phát triển về nhiều
mặt góp phần quan trọng vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh
nhà. Tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan đội ngũ công
nhân tỉnh Yên Bái còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, trình độ chuyên
môn, tay nghề còn thấp làm việc chủ yếu trong các lĩnh vực nặng nhọc, độc
hại như công nghiệp chế biến, công nghiệp khai thác.
Công nghiệp tỉnh Yên Bái nhìn chung trong những năm qua đã có sự
phát triển nhưng còn nhỏ bé, yếu kém đa số là công nghiệp chế biến gỗ, khai
thác đá, khai thác quặng sắt. Các khu chế xuất, khu công nghiệp cao như công
nghệ điện tử, công nghệ thông tin hầu như chưa có. Vì vậy để đáp ứng yêu
cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như để tỉnh nhà phát
triển hơn trong tương lai, vấn đề xây dựng, phát triển đội ngũ công nhân có ý
nghĩa quan trọng đặc biệt. Trong đó nâng cao ý thức chính trị cho bản thân

đội ngũ công nhân là một việc làm rất quan trọng.
Việc xây dựng giai cấp công nhân và đội ngũ những người lao động
“có chất lượng cho phát triển kinh tế - xã hội” [55, tr.1] như Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ lần thứ XVII của tỉnh Yên Bái vạch ra trong thời gian vừa qua
không chỉ mang tính cấp bách trước mắt mà còn là vấn đề lâu dài.
Để phát triển, nâng cao chất lượng cho đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái
trong thời kỳ đổi mới hiện nay vấn đề giáo dục về tư tưởng, tình cảm, đạo
đức, lối sống, nghề nghiệp… đặc biệt là về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng

2


Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta là việc làm thiết thực và rất cần thiết. Vì vậy tôi đã chọn vấn đề:
“Nâng cao ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời
kỳ đổi mới hiện nay” làm luận văn thạc sỹ của mình. Hy vọng đóng góp được
một phần sức lực vào sự phát triển của đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái cũng
như góp phần vào sự phát triển chung về kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề giai cấp là vấn đề lớn, đặc biệt là vấn đề giai cấp công nhân - đã
có rất nhiều các văn kiện, nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như
luận văn, đề tài, hội thảo khoa học nghiên cứu tìm hiểu về về giai cấp công
nhân, giai cấp công nhân Việt Nam với những hướng nghiên cứu, tiếp cận
khác nhau:
Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam cũng đã có nhiều
văn kiện, nghị quyết về xây dựng GCCN Việt Nam như:
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
III “Về nhiệm vụ và phương hướng xây dựng và phát triển công nghiệp”.
Nghị quyết số 167/NQ-TƯ ngày 21/09/1967 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khóa III) về việc tăng cường công tác vận động công nhân và

hoạt động của Công đoàn trong tình hình mới.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII (1994): Về phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công
nhân trong giai đoạn mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X (2008): Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ
đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Cũng đã có nhiều công trình khoa học đã được in thành sách như:
“Giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” của
PGS.TS Dương Xuân Ngọc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Công trình
này đã trình bày khá toàn diện về thực trạng xu hướng biến đổi của giai cấp

3


công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
từ đó tác giả đưa ra quan điểm, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải
pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam.
“Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước” do TS. Đặng Ngọc Tùng (chủ biên), Nxb Lao
động. Tác giả đã bàn đến một số vấn đề lý luận về giai cấp công nhân, cho
người đọc cái nhìn chung nhất về giai cấp công nhân Việt Nam trong những
năm đổi mới, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
“Tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản Việt
Nam” do PGS. TS. Đỗ Ngọc Ninh, TS. Nguyễn Văn Giang (đồng chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008. Các tác giả đã bàn đến những vấn đề
chủ yếu về bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản, bản chất giai cấp công nhân
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới cũng như vấn đề tăng

cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng từ năm 1986 đến nay. Từ đó đề
ra phương hướng, giải pháp chủ yếu tăng cường bản chất giai cấp công nhân
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
“Về xu hướng công nhân hóa ở nước ta hiên nay” của TS. Nguyễn An
Ninh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2008. Tác giả đã bàn đến xu hướng công
nhân hóa ở nước ta, đưa ra một số nhận thức về giai cấp công nhân Việt Nam,
hiện tượng phân tầng trong công nhân, trạng thái tới hạn của nguồn lực công
nhân, những nghịch lý trong quá trình phát triển giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Hệ thống dạy nghề trước nhu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH và gắn với phát triển kinh tế tri thức. Từ đó tác giả chỉ ra cần làm
thế nào để hệ giá trị của giai cấp công nhân trở thành hệ giá trị của xã hội.
Một số luận văn, luận án thạc sĩ, tiến sĩ: “Sự phát triển của giai cấp
công nhân Việt Nam và vai trò của nó trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước”
- Trần Ngọc Sơn (2001), luận văn Tiến sĩ Triết học, chuyên ngành chủ nghĩa
xã hội khoa học. “Đội ngũ giai cấp công nhân tỉnh Hưng Yên trong sự nghiệp

4


CNH, HĐH” - Trần Thị Bích Ngọc (2008), Luận văn thạc sĩ Triết học, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đây đã mang lại những kết qủa nhất
định như: Đi sâu vào phân tích khái niệm giai cấp công nhân, những đặc
trưng vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam qua các
thời kỳ cách mạng, nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước. Thực trạng xu
hướng biến đổi cơ cấu giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội. Đưa ra một số chủ trương, biện pháp cơ bản và cấp bách để
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
Trong thời gian gần đây, có một số công trình nghiên cứu trực tiếp đến
vấn đề ý thức chính trị của GCCN như:

“Ý thức chính trị của công nhân trong một số doanh nghiệp ở Hà Nội
hiện nay” đây là cuốn sách do PGS.TS Phan Thanh Khôi làm chủ biên, xuất
bản năm 2003. Cuốn sách đã tập trung làm rõ một số vấn đề về GCCN nói
chung và đội ngũ công nhân Hà Nội nói riêng, những biểu hiện về ý thức
chính trị của GCCN, thực trạng ý thức chính trị của công nhân thành phố Hà
Nội, đưa ra những quan điểm và giải pháp để nâng cao ý thức chính trị cho
đội ngũ công nhân Hà Nội hiện nay.
Luận án tiến sĩ: “Ý thức chính trị của công nhân trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay” của tác giả Dương Thị
Thanh Xuân năm 2007. Luận án đã làm rõ thực trạng ý thức chính trị của
công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện
nay, đồng thời đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao ý thức
chính trị cho công nhân có vốn đầu tư nước ngoài.
Riêng với tỉnh Yên Bái, dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân
dân tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh cũng đã tiến hành khảo sát đưa ra những
đánh giá bước đầu nhằm xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh nhà vững mạnh,
tuy nhiên nhìn chung chưa có công trình khoa học nào thực sự đi sâu vào vấn
đề nâng cao ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời kỳ
đổi mới hiện nay.

5


Chính vì vậy việc triển khai và thực hiện đề tài “Nâng cao ý thức
chính trị cho đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời kỳ đổi mới hiện
nay” sẽ góp phần đóng góp quan trọng cho sự phát triển toàn diện của đội ngũ
công nhân tỉnh nhà.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn là: trên cơ sở phân tích thực trạng, đánh giá
đúng đắn tình hình ý thức chính trị của đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái đi tới

đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức chính trị cho đội ngũ công
nhân tỉnh Yên Bái hiện nay.
* Luận văn có đặt ra các nhiệm vụ sau:
Một là, phân tích và làm rõ được khái niệm, nội dung, đặc điểm và yêu
cầu của việc nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân Việt Nam và
đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Hai là, làm rõ thực trạng xây dựng và nâng cao ý thức chính trị của đội
ngũ công nhân Yên Bái trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Ba là, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức chính trị
cho đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến việc xây dựng và nâng
cao ý thức chính trị đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong quá trình đổi mới:
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn về nội dung: luận văn chỉ nghiên cứu thực trạng xây dựng và
nâng cao ý thức chính trị đội ngũ công nhân trong các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Yên Bái trong thời kỳ đổi mới gắn với bối cảnh CNH, HĐH và hội
nhập kinh tế quốc tế.
- Giới hạn về thời gian: từ năm 2001 (từ khi thực hiện Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, Nghị quyết của Đảng về giai cấp công

nhân, về CNH, HĐH. Đồng thời, luận văn có kế thừa và sử dụng kết quả
nghiên cứu của một số công trình khoa học có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
như là phương pháp luận chung. Phương pháp nghiên cứu đặc thù của
CNXHKH tiếp cận, giải quyết vấn đề từ góc độ chính trị - xã hội.
Ngoài ra, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp cụ thể khác như:
khảo sát, điều tra xã hội học, thống kê, phân tích - tổng hợp… để làm sáng tỏ
vấn đề đặt ra.
6. Cái mới và những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Nghiên cứu một cách khoa học có hệ thống về vấn đề ý thức chính trị,
thực trạng ý thức chính trị của đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái.
Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao ý thức chính trị cho
đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Kết qua nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu giảng dạy, học tập ở trường Chính trị, trường Trung cấp, Cao

7


đẳng Nghề, các cơ quan tổ chức làm công tác Công đoàn trong toàn tỉnh Yên
Bái. Đồng thời là cơ sở cho việc hoạch định chính sách, giải pháp nhằm nâng
cao ý thức chính trị cho đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái, góp phần phát triển
toàn diện đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái.
7. Kết cấu chính của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ
lục, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết:
Chương 1: Ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới hiện nay.
Chương 2: Thực trạng ý thức chính trị của đội ngũ công nhân tỉnh Yên

Bái trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao ý thức chính trị
cho đội ngũ công nhân tỉnh Yên Bái trong thời kỳ đổi mới hiện nay.

8


Chương 1
Ý THỨC CHÍNH TRỊ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI HIỆN NAY
1.1. Ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam
1.1.1. Khái niệm ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam
Khi nghiên cứu, tìm hiểu về ý thức chính trị của GCCN Việt Nam phải
xuất phát từ những khái niệm, những quan niệm của các nhà kinh điển, đứng
trên lập trường duy vật biện chứng, duy vật lịch sử để từ đó có cái nhìn đúng
đắn, khách quan, khoa học.
Muốn đi đến được khái niệm “ý thức chính trị” của GCCN trước hết
phải bắt đầu từ “ý thức chính trị” là gì, mà trước đó là vấn đề “ý thức xã hội”
bởi “ý thức chính trị” chính là một bộ phận cấu thành của ý thức xã hội.
Ý thức xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin là mặt tinh
thần của đời sống xã hội, bao gồm những quan điểm, tư tưởng, cũng như tình
cảm, tâm trạng, truyền thống… nảy sinh từ tồn tại xã hội phản ánh tồn tại xã
hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
Ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự khác nhau tương đối, ý thức cá
nhân là thế giới tinh thần của những cá nhân riêng biệt, cụ thể, phản ánh tồn
tại xã hội ở mức độ khác nhau. Vì vậy không phải bao giờ ý thức cá nhân
cũng thể hiện tư tưởng, tình cảm phổ biến của một cộng đồng, tập đoàn
người, và một thời đại nhất định. Ý thức cá nhân và ý thức xã hội có mối quan
hệ biện chứng với nhau, thâm nhập và làm phong phú nhau.
Ý thức xã hội có ý thức thông thường và ý thức lý luận. Ý thức thông

thường là những quan điểm, quan niệm, tri thức được hình thành trực tiếp qua
hoạt động thực tiễn được hệ thống lại, chưa được khái quát hóa. Ý thức lý
luận đã được hệ thống, khái quát hóa thành những khái niêm, phạm trù, quy
luật.
Ý thức xã hội mang tính giai cấp. Các giai cấp có những điều kiện sinh
hoạt vật chất khác nhau, những lợi ích khác nhau nên ý thức xã hội cũng

9


không giống nhau. Thậm chí là mâu thuẫn đối kháng trong đó ý thức xã hội
của giai cấp thống trị (giai cấp nắm tư liệu sản xuất) sẽ là tư tưởng chủ đạo
của thời đại đó, xã hội đó.
Ý thức xã hội và tồn tại xã hội có mối quan hệ biện chứng qua lại. Ý
thức xã hội phản ánh tồn tại xã hội và do tồn tại xã hội quyết định. “…không
thể nhận định được về một thời đại đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời
đại ấy”; “không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại,
tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [32, tr.15].
Ý thức xã hội do tồn tại xã hội quyết định song ý thức xã hội có sự độc
lập tương đối, thậm chí tác động trở lại tồn tại xã hội. Ý thức xã hội thường
lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội song ý thức xã hội cũng có thể vượt trước tồn
tại xã hội - dự báo được xu hướng vận động, phát triển của xã hội nhưng
không thể thoát ly tồn tại xã hội mà phải trên cơ sở tồn tại xã hội. Ý thức xã
hội cũng có tính kế thừa trong sự phát triển của mình và có sự tác động qua
lại giữa các hình thái ý thức xã hội.
Từ những quan điểm về ý thức xã hội ta có thể thấy ý thức chính trị là
một hình thái ý thức xã hội, phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội. Vì nó
phản ánh mọi mặt của đời sống chính trị, đời sống xã hội nên phải có sự nhìn
nhận đánh giá về mức độ dân chủ, về cơ chế hoạt động của nhà nước. Ý thức
chính trị cũng là sự nhìn nhận, thái độ, đánh giá cơ cấu, cơ chế hoạt động của

nhà nước, hoạt động của các giai cấp (nhà nước bao giờ cũng là của một giai
cấp nhất định, chựu sự chi phối của một Đảng phái nào đó).
Ý thức chính trị thể hiện một cách nhạy cảm nhất ở nhu cầu và lợi ích
chính trị. Nhu cầu, lợi ích chính trị đến đâu, cao hay thấp, chính đáng hay
không. Ý thức chính trị cũng thể hiện trong quan điểm giải quyết các mối
quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp, giữa các dân tộc, giữa các nhà nước…
Ý thức chính trị gắn trực tiếp và bị quyết định bởi kinh tế song ý thức
chính trị cũng có sự tác động ngược trở lại kinh tế một cách tích cực và nhiều
lúc rất quan trọng đối với kinh tế.

10


Vì là một hình thái ý thức xã hội nên ý thức chính trị có mối quan hệ
qua lại và chựu chi phối của những hình thái ý thức xã hội khác như: ý thức
pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo… nhưng khi xét tổng thể ý thức
xã hội thì ý thức chính trị có tầm quan trọng đặc biệt, nó quyết định đến xu
hướng và bản chất của các hình thái ý thức xã hội.
Hình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp, nhà nước.
Nó phản ánh các quan hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân
tộc, các quốc gia cũng như thái độ của các giai cấp, tầng lớp đối với quyền lực
nhà nước. Vì vậy giai cấp nào cũng có ý thức chính trị, xã hội có nhiều giai
cấp thì sẽ có nhiều loại ý thức chính trị. Nhưng chỉ giai cấp có khả năng đại
diện cho phương thức sản xuất mới, hình thái kinh tế - xã hội mới, mới có
điều kiện hình thành hệ tư tưởng chính trị dưới dạng học thuyết, các giai cấp
khác thì không.
Ý thức chính trị của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định phụ thuộc
vào ý thức chính trị của giai cấp nắm tư liệu sản xuất. Nó có thể tích cực, tiến bộ
khi mang hệ tư tưởng tiến bộ, ngược lại là bảo thủ, trì trệ, kìm hãm sự phát
triển.

Ý thức chính trị theo PGS.TS Phan Thanh khôi là “thái độ đối với các
thể chế chính trị (nhà nước, đảng phái…); là nhận thức về những nội dung
chính trị quan trọng (chế độ chính trị, đường lối chính sách… phát triển quốc
gia); là sự hiểu biết về mình với tư cách là một giai cấp, trong quan hệ với các
giai cấp, tầng lớp cơ bản (kẻ thù, bạn đồng minh…); dân tộc nảy sinh từ quá
trình xây dựng chế độ chính trị của một đất nước” [20, tr.14].
Tác giả Dương Thị Thanh Xuân trong luận án tiến sĩ của mình cho rằng
“Ý thức chính trị - một bộ phận của ý thức xã hội trong xã hội có giai cấp, là
hệ thống quan điểm, lý luận, thái độ của một giai cấp về địa vị lịch sử, nhiệm
vụ chính trị, sách lược của giai cấp mình trong tiến trình phát triển của lịch
sử” [53, tr.19].
Ý thức chính trị căn cứ vào trình độ phát triển gồm hai cấp độ là ý thức
chính trị thông thường và ý thức chính trị ở cấp độ lý luận.

11


Ý thức chính trị thông thường là các dạng tâm lý, cảm xúc, tình cảm,
ước mơ mong muốn… tự phát sinh ra trong hoạt động thực tiễn.
Ý thức chính trị lý luận được biểu hiện là những tư tưởng, quan điểm
chính trị đã được hệ thống hóa thành một chỉnh thể mang tính khoa học, hợp
lý phản ánh được các mối liên hệ bản chất, tất yếu, phổ biến trong đời sống
chính trị.
Ý thức chính trị thông thường và ý thức chính trị lý luận có mối quan
hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại nhau. Ý thức chính trị thông thường
là cơ sở, kho tàng để ý thức chính trị lý luận khai thác, khái quát nội dung của
mình giúp cho hệ tư tưởng, lý luận bớt sơ cứng, bớt sai lầm. Ngược lại ý thức
chính trị lý luận củng cố, định hướng tâm lý cho ý thức chính trị thông
thường.
Theo căn cứ vào chủ thể mang ý thức chính trị, thì ý thức chính trị gồm

ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân.
Ý thức chính trị cộng đồng là ý thức chính trị sinh ra từ nhu cầu, lợi ích
chính trị của cả cộng đồng xã hội hoặc của một nhóm xã hội, một giai cấp nào
đó trong cộng đồng.
Ý thức chính trị cá nhân là nhận thức, thái độ của từng cá nhân về
những vấn đề hiện thực của đời sống chính trị.
Ý thức chính trị cộng đồng và ý thức chính trị cá nhân có mối quan hệ
biện chứng qua lại nhau. Ý thức chính trị cộng đồng là ý thức chính trị của
một xã hội, một nhóm người, một tập đoàn người. Nó chỉ tồn tại, phát triển
thể hiện thông qua ý thức chính trị của mỗi cá nhân, nhóm người.
Ý thức chính trị có hai chức năng cơ bản là chức năng nhận thức và
chức năng thực tiễn:
Chức năng nhận thức được biểu hiện ở chỗ nó phản ánh những vấn đề
chính trị diễn ra trong xã hội có giai cấp, nhà nước. Nó phản ánh những quan
hệ chính trị, kinh tế, xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, thái
độ của các giai cấp với quyền lực nhà nước.

12


Chức năng thực tiễn biểu hiện ở chỗ là ý thức chính trị không phải nhận
thức chỉ để nhận thức mà nhằm cải tạo thực tiễn, cải tạo đời sống chính trị
xuất phát từ hiện thực đời sống chính trị.
Ý thức chính trị có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển của xã hội (đặc biệt ở cấp độ hệ tư tưởng chính trị). Không một ai có thể
đứng ngoài chính trị, mỗi giai cấp, tầng lớp, nhóm xã hội có nhận thức, thái
độ khác nhau về đời sống chính trị trên cơ sở nhu cầu, lợi ích của mình. Trong
xã hội có nhiều loại ý thức chính trị khác nhau, nhưng một lần nữa phải khẳng
định rằng chỉ có giai cấp tiến bộ có khả năng đại diện cho một phương thức
sản xuất mới, và do đó một hình thái kinh tế - xã hội mới, mới có thể hình

thành những tư tưởng chính trị một cách có hệ thống, có tính lý luận, khoa
học dưới dạng học thuyết.
Từ vấn đề ý thức chính trị để tìm hiểu ý thức chính trị của GCCN. Ta
phải đứng trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin về GCCN.
Sinh thời Mác, Ăngghen sử dụng rất nhiều thuật ngữ khác nhau để chỉ
GCCN như “Giai cấp vô sản”, “Giai cấp lao động làm thuê”, “Giai cấp lao
động làm thuê ở thế kỷ XIX”, “Giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán
sức lao động của mình”, “Giai cấp vô sản hiện đại”, “Giai cấp công nhân”,
“Giai cấp công nhân hiện đại”, “Công nhân công nghiệp”, “Công nhân khai
khoáng”, Công nhân đại công nghiệp”… Hai ông đã nghiên cứu sâu về GCCN,
vô sản để chỉ ra nguồn gốc, đặc trưng, thuộc tính cơ bản của giai cấp này.
“Giai cấp vô sản là một giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ sống dựa vào bán
sức lao động của mình, chứ không sống dựa vào lợi nhuận của bất cứ số tư
bản nào, đó là một giai cấp mà hạnh phúc và đau khổ, sống và chết, toàn bộ
sự sống còn của họ đều phụ thuộc vào yêu cầu về lao động, tức là vào tình
hình chuyển biến tốt hay xấu của công việc làm ăn, vào những biến động của
cuộc cạnh tranh không gì ngăn cản nổi. Nói tóm lại, giai cấp vô sản hay giai
cấp của những người vô sản là giai cấp lao động trong thế kỷ XIX. Giai cấp
vô sản do cuộc cách mạng công nghiệp sản sinh ra” [29, tr.456-457].

13


Lênin cũng đã bổ sung phát triển quan điểm của Mác, Ăngghen và chỉ
ra rằng GCCN “Là giai cấp thống trị về chính trị, giai cấp lãnh đạo toàn xã
hội trong cuộc đấu tranh lật đổ ách tư bản, trong sự nghiệp sáng tạo ra xã hội
mới, trong toàn bộ cuộc đấu tranh để thủ tiêu hoàn toàn các giai cấp. Xu
hướng phát triển của giai cấp vô sản là đi tới chỗ tự thủ tiêu mình với tư cách
là giai cấp vô sản” [40, tr.34].
Trên cơ sở những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về

GCCN, với thực tiễn của thời đại ngày nay, nhiều nhà khoa học Việt Nam
cũng đưa ra định nghĩa về GCCN, GCCN Việt Nam.
Giáo sư Văn Tạo cũng đã định nghĩa: “GCCN Việt Nam là một lực
lượng xã hội to lớn bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm
công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công
nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp, trong
đó công nhân công nghiệp hiện đại, công nhân tri thức (knowledge workers)
làm nòng cốt; là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của
mình là Đảng Cộng sản Việt Nam; đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến, đi đầu trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, đưa đất nước tiến nhanh
lên kinh tế tri thức; là nòng cốt trong liên minh công nhân, nông dân và đội
ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; hiện đang phát triển nhanh về số
lượng, nâng cao không ngừng về chất lượng, đa dạng về cơ cấu ngành nghề;
có những đóng góp tích cực vào phong trào công nhân quốc tế và vào tiến bộ
xã hội của toàn thể nhân loại” [46, tr.105-106].
Giáo sư Phạm Xuân Nam thì cho rằng: “GCCN là một tập đoàn rộng
lớn những người lao động là việc trong các ngành sản xuất kinh doanh, dịch
vụ công nghiệp có thu nhập chủ yếu bằng tiền lương hay tiền công, do trực
tiếp vận hành những tư liệu sản xuất, cơ sở vật chất - kỹ thuật ngày càng hiện
đại trong các ngành then chốt của nền kinh tế quốc dân, đại diện cho lực
lượng sản xuất tiên tiến, cho nên GCCN Việt Nam, thông qua Đảng tiên

14


phong của mình có vai trò đi đầu trong tiến trình lịch sử đương đại của dân
tộc” [37, tr.136].
Gần đây Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa X cùng việc đưa ra nghị quyết về GCCN cũng đồng thời đưa ra

quan điểm về GCCN Việt Nam như sau: “GCCN Việt Nam là một lực lượng
xã hội to lớn, đang phát triển bao gồm những người lao động chân tay và trí
óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”
[15, tr.43].
Đứng trên lập trường duy vật biện chứng về một loạt các vấn đề: ý thức
xã hội, ý thức chính trị, GCCN. Ta có thể chỉ ra được rằng ý thức chính trị
của GCCN chính là tư tưởng, thái độ chính trị của GCCN dựa trên cơ sở thế
giới quan, nhân sinh quan Mác xít, được hình thành và phát triển trong phong
trào đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giành chính quyền và
tiến hành xây dưng xã hội mới - XHXHCN.
Từ những nhận thức ở trên, tác giả mạnh dạn đưa ra quan niệm của
mình về ý thức chính trị của GCCN Việt Nam như sau:
Ý thức chính trị của GCCN Việt Nam là những tư tưởng, quan điểm, thái
độ chính trị của GCCN Việt Nam dựa trên học thuyết của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nó
được hình thành trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc
và trong thời kỳ đổi mới, CNH, HĐH quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
Ý thức chính trị của GCCN Việt Nam chính là sự giác ngộ và tự ý thức về giai
cấp mình, quyền và nghĩa vụ của GCCN, là sự nhận thức đối với các cơ quan
trong hệ thống chính trị, là thái độ đối với sự nghiệp đổi mới, với các giai cấp
tầng lớp và dân tộc Việt Nam. Đồng thời ý thức chính trị của GCCN Việt Nam
cũng là sự nhận thức về CNXH, con đường đi CNXH ở Việt Nam cũng như
trên phạm vi thế giới, có tinh thần quốc tế trong sáng, cao đẹp… nhằm thực
hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

15


1.1.2. Nội dung biểu hiện ý thức chính trị của giai cấp công nhân
Việt Nam hiện nay

GCCN Việt Nam là một bộ phận của GCCN quốc tế ngoài những đặc
điểm chung của GCCN quốc tế như: đại diện cho phương thức sản xuất mới,
tiên tiến trong lịch sử loài người; có ý thức tổ chức, kỷ luật cao; có tinh thần
cách mạng triệt để; mang bản chất quốc tế. GCCN Việt Nam cũng có những
đặc điểm riêng của giai cấp mình như trưởng thành trước giai cấp tư sản dân
tộc; đa số xuất thân từ nông dân nên họ rất hiểu tư tưởng, phong tục, tập quán,
tâm tư, nguyện vọng, mong muốn, ước mơ… của người nông dân, là cơ sở
của khối liên minh công - nông vững mạnh trong cách mạng; GCCN Việt
Nam bước lên vũ đài chính trị sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thành
công, đã nâng cao vị thế, uy tín cách mạng của GCCN trước toàn thể dân tộc;
GCCN Việt Nam sớm thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động, đoàn
kết, thống nhất ngay từ khi ra đời.
Hiện nay đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới; hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế thế giới; đẩy mạnh CNH, HĐH; phát triển kinh tế thị trường định
hướng XHCN, với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế…
Tất cả những điều này đã và sẽ quy định những biểu hiện ý thức chính
trị của GCCN Việt Nam. Có thể thấy ý thức chính trị của GCCN Việt Nam
được biểu hiện ra như sau:
Một là, sự giác ngộ về giai cấp, thấy được vai trò, vị trí của giai cấp
mình trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà
cũng như trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Giác ngộ về giai cấp là sự nhận thức về vị trí, vai trò của giai cấp mình
trong sự phát triển chung của xã hội. Trong mối quan hệ với các giai cấp, tầng
lớp khác trong xã hội.
GCCN Việt Nam có sự giác ngộ về giai cấp chính là thấy được vị trí, vai
trò trung kiên của giai cấp mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc;
chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ và tự hào với những chiến công vĩ đại đó.

16



Đồng thời GCCN Việt Nam cũng phải thấy được giai cấp mình là giai cấp nòng
cốt trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
Có giác ngộ giai cấp là GCCN Việt Nam thấy được thực chất giai cấp
mình là gì, tức là phải thấy được GCCN đại diện cho lực lượng sản xuất hiện
đại; gắn với nền sản xuất công nghiệp tạo ra phần lớn của cải cho xã hội; có
sứ mệnh lịch sử là xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất,
xây dựng thành công CNXH và cuối cùng là thực hiện lý tưởng CSCN. Trong
thời kỳ hiện nay sứ mệnh lịch sử của GCCN Việt Nam là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; tạo ra nhiều của cải cho xã hội; góp
phần thực hiện thành công mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.
GCCN Việt Nam phải thấy được rằng giai cấp mình hoàn toàn có thể
thực hiện được những điều này, vì có lý luận khoa học, cách mạng, nhân văn
nhân đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, chỉ lối.
Có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Biểu hiện ý thức chính trị của
GCCN Việt Nam phải thể hiện ra là sự tin tưởng tuyệt đối, hoàn toàn vào con
đường Đảng, Bác Hồ đã chọn. Và như vậy với những phẩm chất của mình (đã
trình bày ở trên) GCCN Việt Nam phải thể hiện được sự giác ngộ về giai cấp
cao nhất, rõ ràng nhất.
Giác ngộ về giai cấp của GCCN Việt Nam cũng biểu hiện ở sự hiểu
biết của giai cấp mình về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về
đường lối của Đảng. Bao gồm những vấn đề như ba bộ phận cấu thành chủ
nghĩa Mác-Lênin, vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp, nhà nước, dân tộc, tôn
giáo, đặc biệt nhận thức về CNXH, CNCS. Hiểu được tư tưởng và tấm gương
đạo đức của Hồ Chí Minh, tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tư
tưởng về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, tư tưởng về đạo
đức cách mạng, tấm gương cần - kiệm - liêm - chính, chí công vô tư của
người, hưởng hứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh” của Đảng ta… Luôn đi đầu gương mẫu thực hiện đường lối,

chủ trương, chính sách của Đảng. Đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc,

17


nói xấu, nói không đúng về chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về
Đảng ta.
Hai là, nhận thức của GCCN Việt Nam về các tổ chức trong hệ thống
chính trị và về sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay.
Trước hết là nhận thức của GCCN về các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hệ thống chính trị được hiểu là những tổ chức chính trị, xã hội tồn tại
trong một chế độ xã hội nhất định. Bao gồm các đảng phái, nhà nước, và các
tổ chức chính trị, xã hội khác.
Như vậy chiếu vào Viêt Nam thì hệ thống chính trị bao gồm: Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, Công đoàn…
Ý thức chính trị của GCCN Việt Nam chính là nhận thức của người
công nhân về các tổ chức này.
GCCN Việt Nam chỉ có thể có ý thức chính trị khi thấy được “Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành
lợi ích của GCCN, của nhân dân lao động và dân tộc” [17, tr.3-4]. Ngoài việc
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân Đảng không hề có lợi ích nào khác,
Đảng chiến đấu, đấu tranh là vì độc lập cho dân tộc và vì hạnh phúc của nhân
dân. GCCN Việt Nam có ý thức chính trị khi thấy được công lao to lớn, trời
biển của Đảng. Từ khi ra đời ngày 03/02/1930 Đảng đã lãnh đạo nhân dân
(trong đó có giai cấp công nhân) hoàn thành cuộc Cách mạng tháng 08/1945
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; nhà nước công - nông đầu
tiên ở Đông Nam Châu Á. Đánh đuổi thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Đất nước
ta được hòa bình, thống nhất như ngày hôm nay là công lao của Đảng.
GCCN Việt Nam hôm nay có ý thức chính trị khi nhận thức được rằng

Đảng trước hết là của GCCN Việt Nam, nhưng không phải người công nhân
nào cũng đứng trong hàng ngũ của Đảng mà phải là những người công nhân
ưu tú nhất. Vì vậy mỗi người công nhân hãy không ngừng rèn luyện, không
ngừng phấn đấu để được đứng trong hàng ngũ trung kiên, là người công nhân
trung kiên, là người Đảng viên mẫu mực. Cùng với đó người công nhân phải

18


nhận thức được rằng Đảng cũng là của nhân dân lao động và của cả dân tộc
Việt Nam. Ai đủ đức, đủ tài đều có thể phấn đấu vào Đảng không phân biệt
nam, nữ, dân tôc, tôn giáo… để cùng nhau thực hiện những lý tưởng cao đẹp.
Có ý thức chính trị cũng là khi người công nhân đấu tranh chống các
biểu hiện chống phá Đảng, nói xấu, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Xác
định rõ được Đảng ta là Đảng cầm quyền, Đảng ta nhất định sẽ lãnh đạo nhân
dân ta, dân tộc ta đi đến những thắng lợi cuối cùng.
GCCN Việt Nam chỉ có thể có ý thức chính trị khi có những hiểu biết
nhất định về nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thấy được nhà nước ta là
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thấy được nhà nước ta là nhà nước mang
bản chất của GCCN (người lao động), hoàn toàn khác bản chất của nhà nước
tư sản. Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, tập trung dân chủ là
nguyên tắc tổ chức cao nhất. Tổ chức của nhà nước là sự thống nhất của ba
quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp. Người công nhân có ý thức chính trị
còn là thấy được những ưu khuyết điểm, những thành tựu, hạn chế của nhà
nước ta, kiên quyết góp phần tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu
cực như tham nhũng, quan liêu…
Trong các tổ chức chính trị - xã hội của nhà nước Cộng hòa XHCN
Việt Nam, GCCN Việt Nam phải đặc biệt có nhận thức đúng đắn về tổ chức
Công đoàn (Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam), là cơ quan bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho người lao động, là “sợi chỉ đỏ” nối liền Đảng Cộng sản

Việt Nam với công nhân viên chức, người lao động. Công đoàn còn tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giám sát việc quản lý nhà nước, xã hội
nhằm bảo vệ lợi ích trước mắt và lâu dài cho người lao động. Người công
nhân có ý thức chính trị nên tích cực gia nhập và tham gia hoạt động Công
đoàn, xây dựng Công đoàn vững mạnh - tổ chức quan trọng trong hệ thống
chính trị, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng, là người cộng tác đắc lực
của Nhà nước và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Người công nhân cần đấu
tranh chống mọi biểu hiện thờ ơ, lãnh đạm, coi thường tổ chức Công đoàn,

19


cùng với đó người công nhân cần tích cực tham gia vào các tổ chức chính trị
xã hội khác như Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ…
GCCN Việt Nam có ý thức chính trị là có nhận thức và thái độ đúng
đắn với sự nghiệp đổi mới. Nghĩa là GCCN Việt Nam thấy được sự nghiệp
đổi mới được Đảng ta khởi xướng từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
(12-1986). Qua hơn 25 năm đổi mới đất nước ta đã đạt được những thành tựu
to lớn, có ý nghĩa quyết định đưa nước ta thoát khỏi khủng khoảng, tự đứng
vững, vững bước đi lên. Việt Nam đã bước vào nước có thu nhập trung bình,
dần dần thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu.
GCCN Việt Nam phải thấy được, đường lối đổi mới của Đảng ta là
toàn diện, trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội mà trước hết
là đổi mới tư duy về kinh tế. Từ bỏ tư duy tập trung, quan liêu bao cấp, kế
hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu,
thành phần kinh tế… Thấy được qua các kỳ đại hội Đảng, đường lối đổi mới
của Đảng thường xuyên được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với thực tiễn
Việt Nam và tình hình thế giới. Thành tựu của những năm đổi mới vừa qua đã
nói lên tất cả, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới
là bạn; là đối tác tin cậy của các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, vị thế

Việt Nam ngày càng được nâng cao. Thế giới biết nhiều hơn về Việt Nam, và
chúng ta có quyền tự hào là người Việt Nam, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, cũng như tin tưởng vào những thành công mà Đảng Cộng sản
Việt Nam đã và sẽ mang tới cho đất nước ta trong quá khứ, ở hiện tại và
tương lai.
Người công nhân có ý thức chính trị phải thấy được vai trò, trách
nhiệm của giai cấp mình đối với sự nghiệp đổi mới, đấu tranh chống các tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, phủ nhận đổi mới…
Ý thức chính trị của giai cấp công Việt Nam ở vấn đề này còn là thái độ
của GCCN với các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội.
Thực tế đây là những mặt trái của sự nghiệp đổi mới, mặt trái của nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Theo tác giả đây không phải là một vấn

20


đề nhỏ. Công nhân là người trực tiếp lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn,
đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH. Nếu không có thái độ đúng đối với những
hiện tượng, vấn đề này thì rất dễ lầm lạc, hư hỏng, mắc phải các tệ nạn xã hội
thậm trí dẫn đến tiêu cực, không tin tưởng vào chế độ.
Cùng với những thành tựu đã đạt được, đất nước ta cũng phải đối mặt
với không ít những khó khăn, thử thách có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn
vong của chế độ. Đó là những tiêu cực xã hội như: Tham nhũng - được coi là
một thứ giặc “nội xâm”, là một trong bốn nguy cơ gây chệch hướng CNXH;
nạn chuyên quyền, độc đoán, quan liêu, hách dịch, xa dân, coi thường dân…
của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tình trạng làm hàng giả, hàng nhái, buôn
lậu tràn lan bất chấp tính mạng con người. Sự gia tăng của các tệ nạn xã hội
như cờ bạc, trộm cắp, ma túy, mại dâm, sự phân hóa giàu nghèo, tai nạn giao
thông…
Trước những hiện tượng tiêu cực, những tệ nạn xã hội; người công

nhân có ý thức chính trị là có thái độ đúng đắn với những vấn đề trên. Tin
tưởng rằng những mặt trái, những tiêu cực, hạn chế đó sẽ dần được xóa bỏ
trong quá trình chúng ta xây dựng và hoàn thiện nhà nước Việt Nam pháp
quyền XHCN. Có thái độ đúng đắn với các hiện tượng tiêu cực như phát hiện,
tố cáo những hành vi tham nhũng, sách nhiễu dân, không tiêu thụ, sử dụng
hàng nhái, kém chất lượng; tránh xa các tệ nạn xã hội; đi đầu, nêu gương
trong việc chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách; pháp luật
của Nhà nước; biết kết hợp hài hòa giữa lợi ích vật chất và tinh thần. Các biểu
hiện nhút nhát, sợ sệt, không dám phát hiện, tố cáo những hành vi tiêu cực, sa
đà vào các tệ nạn xã hội là đều đi ngược lại ý thức chính trị của GCCN.
Ba là, sự nhận thức của GCCN Việt Nam về quyền lợi và nghĩa vụ
chính trị của giai cấp mình.
GCCN Việt Nam chỉ có thể có nhận thức, và thái độ đúng về quyền lợi
và nghĩa vụ của giai cấp mình khi không ngừng được học tập, nâng cao trình
độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp. Vì vậy mỗi người công nhân phải
không ngừng học tập, rèn luyện, tu dưỡng, phấn đấu, vươn lên.

21


Trong thực tế quyền và nghĩa vụ của công nhân nói riêng và công dân
nói chung, được quy định trong Hiến pháp và Pháp luật. Vì vậy có ý thức
chính trị là GCCN phải thấy được quyền và nghĩa vụ cơ bản của mình, biết
đấu tranh đòi và bảo vệ quyền lợi cho mình, đảm bảo thực hiện đúng pháp
luật của nhà nước, nội quy, quy định của đơn vị, ngành, địa phương mình.
Công nhân phải thấy được mình có quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền
bầu cử, ứng cử, tham gia vào quản lý nhà nước, quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, tín ngưỡng, lao động, sản xuất kinh doanh, bình đẳng nam, nữ… Có
nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và Pháp luật, lao động, nộp thuế, chăm sóc cha
mẹ, con cái… Qua đó người công nhân cũng phải thấy được mình phải tuân

thủ những quy định của tổ chức Công đoàn, ngành, địa phương nêu ra với tư
cách là một công dân. Có ý thức chính trị chính là người công nhân phải
không ngừng học tập, tìm hiểu Luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật Doanh
nghiệp… để từ đó thấy rõ hơn quyền và nghĩa vụ chính trị của giai cấp mình.
Bốn là, thái độ của GCCN Việt Nam đối với các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội và thái độ đối với người sử dụng lao động, giới chủ (doanh
nghiệp ngoài quốc doanh).
Người công nhân có ý thức chính trị, khi có thái độ đúng đắn đối với
các giai cấp, tầng lớp trong xã hội. Đặc biệt là đối với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức. Đây là một nội dung quan trọng, có nhận thức đúng mới có
hành động đúng, mới tạo thành khối liên minh công - nông - trí vững chắc,
góp phần tăng cường, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân.
Có ý thức chính trị khi GCCN thấy được rằng đất nước ta đang trong
thời kỳ quá độ, thời kỳ sẽ còn tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp… GCCN phải
là giai cấp giữ vai trò lãnh đạo, quyết định xu hướng phát triển của xã hội.
Nông dân, trí thức là những giai cấp, tầng lớp cơ bản là động lực của CNXH,
cùng với các giai cấp tầng lớp khác tạo thành khối thống nhất toàn dân tộc.
Người công nhân phải thấy được tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của
người nông dân, có tình cảm yêu quý người nông dân. Thấy được mối quan
hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp từ đó tăng cường sự gần gũi, tiếp xúc.

22


×