Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

BƯỚc đầu TÌM HIỂU QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH hát ví SÔNG LA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.3 KB, 10 trang )

BƯỚC ĐẦU TÌ M HIỂU QUÁ TRÌ NH HÌ NH THÀNH
HÁT VÍ SÔNG LA
Phạm Quang Ái
I. DẪN NHẬP
Dân tộc ta có một kho tàng dân ca vô cùng phong phú. Đó là mảnh đất màu mỡ
để văn học nghệ thuật bác học ươm mầm, phát triển; là cái nôi kì di ệu để nuôi lớn tâm
hồn người Việt chúng ta. Trong kho tàng đó, bộ phận dân ca của người Việt - Nghệ Tĩnh
phong phú và độc đáo nhất. Từ xưa đến nay, các tao nhân mặc khách, các nhà khảo cứu
âm nhạc và văn học đánh giá rất cao dân ca Nghệ Tĩnh cả về nhạc lẫn lời. Trên toàn cõi
đất nước, với sinh hoạt văn nghệ của 54 dân tộc anh em, chưa có một sinh hoạt dân ca
nào mà có sự tham gia tích cực - thậm chí có lúc, có nơi là chủ chốt - của các nhà Nho
như ví giặm Nghệ Tĩ nh . Từ các thầy đồ, ông tú bình dân cho đến các bậc khoa cử xu ất
thân như các ông cử, ông nghè ít nhiều đều có tơ duyên với lời giặm, câu ví. Hiện tượng
đó có nguyên nhân từ vị trí xã hội tại địa phương của tầng lớp trí thức này, nhưng sức
hấp dẫn của tiếng ca thôn dã vẫn là nguyên nhân quan trọng nhất. Chính Nguyễn Du, đại
thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, mà sự nghiệp trước tác vẻ vang nhất của
ông vẫn là thơ Nôm, đã xác nhận vai trò to lớn của dân ca đối với quá trình sáng tạo của
mình:
... Thôn ca sơ học tang ma ngữ,
Dã khốc thời văn, chiến phạt thanh..
(Thanh Minh ngẫu hứng)
(Tiếng ca nơi thôn dã là bài học vỡ lòng cho ta về ngôn ngữ của nghề trồng dâu, trồng gai; tiếng
khóc nơi đồng nội, làm cho ta như nghe lại âm thanh sát phạt của một thời chinh chiến)
Quả vậy, trong 3254 câu Kiều lung linh ánh ngọc, có không ít những câu ca tuyệt
diệu của quê hương, xứ sở. Ai dám bảo, những câu ví này hay hơn:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
Đường trần ai vẽ ngược xuôi hỡi chàng.
Đưa nhau một bước lên đàng,
Cỏ xanh hai dãy, đôi hàng châu sa.
Hay câu Kiều này hay hơn:
...Vầng trăng ai xẻ làm đôi,


Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường...
Và xác định cho ra: ai học ai, ai tiếp nhận của ai, thật không dễ gì.
Hơn thế, truyền thống sinh hoạt dân ca xứ Nghệ đã sản sinh ra hàng loạt nghệ
nhân dân gian hết sức độc đáo mà nhiều người gọi họ là "thi sĩ dân gian" (Võ Văn
Trực). Những O Uy, O Sạ (Trường Lưu, Can Lộc), O Nhẫn (Đan Du, Kỳ Anh) từng một
thời nổi danh "bẻ chuyện" trong hò hát làm cho các nhà Nho chữ nghĩa đầy mình cũng
phải bái phục. Ở đây, thi sĩ và nghệ nhân gắn kết với nhau theo kiểu hai trong một: vừa
ứng tác lời vừa ứng diễn. Hiện tượng này, trong âm nhạc hiện đại Việt Nam, cũng chỉ
thấy một trường hợp hi hữu là Trịnh Công Sơn.


Dân ca xứ Nghệ độc đáo, phong phú đến mức từ chất liệu nhạc và lời của nó,
nhiều nhạc sĩ hiện đại đã tiếp thu, phát triển để sáng tạo nên những nhạc phẩm nổi tiếng.
Thậm chí, có những nhạc sĩ mà sự nghiệp sáng tác tuy rất phong phú, nhưng những bản
nhạc "đi cùng năm tháng" của họ thì phần lớn là sáng tác từ nguồn gợi hứng và trên cái
nền chất liệu của dân ca ví giặm xứ Nghệ. Đó là các trường hợp nhạc sĩ Nguy ễn Văn
Tý, An Thuyên, Trần Hoàn,... Và một chính khách lịch lãm, am hiểu sâu sắc về văn hóa
- nghệ thuật như Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, sau khi nghe Đoàn dân ca Nghệ Tĩnh
biểu diễn năm 1986, đã có những cảm nhận rất hào hứng: " ...Tôi đã đi nhiều nơi ở trong
nước và trên thế giới, nghe nhiều dân ca, nhưng dân ca Nghệ Tĩnh là hay nhất, hay nhất
thế giới...".
Dân ca Nghệ Tĩnh ý đẹp lời hay, làn điệu đa dạng, phong phú độc đáo như vậy
nhưng việc sưu tầm, nghiên cứu, khai thác còn có nhiều hạn chế. Ngoài những công
trình sưu tầm, nghiên cứu phần lời ca và ít nhiều có đề cập đến không gian văn hóa của
sinh hoạt diễn xướng của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian tiên phong trên lĩnh vực
này như Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Chung Anh, Ninh Viết Giao, Trần Hữu Thung,
Thái Kim Đỉnh,... hoặc một số nhạc sỹ như Lê Quang Nghệ, Đào Việt Hưng, Lê Hàm,
Thanh Lưu, Vi Phong,... đã sưu tầm và ghi âm các bản phổ về các làn điệu. Đó là những
thành tựu đáng quý thể hiện sự nỗ lực của các bậc tiền bối. Tuy nhiên, việc khoanh vùng
để nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc một làn điệu nào đó từ nguồn gốc, quá trình

hình thành, phát triển; đặc điểm làn điệu và phương thức, không gian diễn xướng cũng
như tiềm năng khai thác, phát triển thì chưa từng được triển khai.
Để góp phần bù đắp vào những khiếm khuyết nói trên , bước đầu, chúng tôi mạnh
dạn tìm hiểu "Quá trình hình thành và phát triển của hát ví Sông La". Đây là một vấn
đề khó. Khó bởi vì hiện tại không có một tài liệu thành văn nào, một chứng tích văn hóa
vật thể hoặc phi vật thể nào khả dĩ chứng minh được quá trình hình thành, phát triển của
làn điệu này, tại khu vực này. Ngay cả khả năng phục hiện từ tình trạng diễn xướng hiện
tại cũng không thể. Vì hiện tại, không còn tồn tại truyền thống diễn xướng tự nhiên như
ngày xưa. Các thể điệu ví đã được cải biên và sân khấu hóa. Không chịu bó tay, chúng
tôi lần mò đi theo con đường vòng, thông qua điều tra điền dã, phỏng vấn những người
cao tuổi, thông qua nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ lời ca và thông qua các tư liệu của
các ngành khoa học khác, bước đầu phác ra một số nét về quá trình hình thành và phát
triển của hát ví sông La.
II. SỰ HÌ NH THÀNH
Một trong những câu ví nổi tiếng ở đất Đức Thọ:
Đức Thọ gạo trắng nước trong,
Ai về Đức Thọ thong dong con người.
Đã nói lên cái trù phú của một vùng quê và nếp sống của con người ở vùng quê
ấy. Người dân xứ này có được cuộc sống no đủ về vật chất và thích thảng về tinh thần
như vậy trước hết là nhờ có điều kiện tự nhiên. Nơi đây có những cánh đồng phù sa màu
mỡ được bồi đắp từ sông suối trong vùng. Xét về điều kiện tự nhiên, Đức Thọ là một
huyện được tạo hóa ưu đãi. Trước hết, so với các địa phương khác, Đức Thọ là một
huyện có nhiều sông. Các vùng trong huyện hệ thống sông ngòi chằng chịt. Nhiều sông


ngòi thì tất lại nhiều cầu, nhiều bến. Và Đức Thọ có cầu Thọ Tường, bến Tam Soa nổi
tiếng không chỉ vì đó là những nút giao thông quan trọng mà còn đó là những thắng
cảnh nên thơ. Trên địa bàn, con sông chính là sông La, dài 26 km, chảy xuyên qua hầu
hết các địa phương trong huyện Đức Thọ. Sông La thu nhận nguồn nước từ hai con sông
lớn là: Ngàn Sâu và Ngàn Phố, hợp lưu tại bến Tam Soa và đổ nước ra sông Lam tại

Ngã Ba Phủ. Ngoài sông La, trên địa phận của huyện còn có một đoạn sông Ngàn Sâu
chảy qua các xã Đức Lạng, Đức Đồng, Đức Lạc, Đức Hòa và Tùng Ảnh; và một đoạn
của sông Lam chảy từ Đức Châu đến Trung Lương. Ngoài ra, còn có thể kể thêm sông
Mênh (Minh Giang) nối với sông Lam ở cuối xã Đức Vịnh chảy qua các xã Yên Hồ,
Thái Yên (địa phận Đức Thọ) rồi chảy qua Trung Lương, Vân Chàng (trước là thuộc
Đức Thọ nay thuộc Thị xã Hồng Lĩnh) và Hói Trúc (Trúc Khê) chảy từ vùng Đức Dũng
xuống, qua các xã Đức Lâm, Trung Lễ, Đức Thủy đến Thái Yên thì đổ vào sông Mênh.
Sau này, người ta đào mương thông Hói Trúc với sông La (đoạn chảy qua Bùi Xã), đoạn
mương này còn được gọi là Hói Mới, sau được mở rộng ra thành kênh, gọi là kênh 19
tháng 5. Lưu khúc này khi qua Thái Yên dòng được mở rộng hơn (gọi là rào Trúc) có rất
nhiều bến (bến Nậy, bến Con, bến Cầu, bến Thánh, bến Cưa, bến Trộ Đăng, bến Trộ Vó,
bến Trộ Xe,…), thuyền bè lại qua tấp nập.
Sông La là con sông không nguồn, không cửa, từ xa xưa đã được sử sách ghi
nhận là một trong những con sông lớn, cùng với núi Hồng, nổi tiếng danh thắng một
vùng. Nó là biểu tượng của huyện Đức Thọ. Huyện này ngày xưa vốn tên là La Giang
(sông La), sau vì kiêng tên chúa Trịnh Giang mà đổi thành huyện La Sơn. Con sông La
không chỉ là danh thắng của La Giang - Đức Thọ mà còn là huyết mạch kinh tế của cả
vùng này.
Thủy chế sông La thay đổi theo mùa. Mùa khô nước sông thường ở cốt 0,33m;
mùa mưa lụt, mực nước có thường lên cao đến 8,9m. Mùa nước cạn lòng sông rộng bình
quân khoảng 100m, khi mưa lụt có chỗ lòng sông phình rộng đến khoảng 1000m. Thủy
chế sông La còn chịu ảnh hưởng của thủy triều, nước triều lên xuống khiến cho mực
nước chênh nhau khoảng 1,30m. Thuyền bè xuôi ngược phải nương theo con nước lên
xuống.
Khi không mưa lũ, dòng La trong vắt, hiền hòa êm ả như dải lụa vắt dọc theo
lãnh thổ huyện. Hẳn là do vẻ đẹp đó nên người xưa đặt tên nó là La Giang, dòng sông
lụa. Sách Nghệ An ký của Bùi Dương Lịch cho biết xưa kia nó là một trong ba dòng
nước mát ngọt, trong lành nhất xứ Nghệ. Không chỉ cung cấp nước ngọt nuôi người, cây
cỏ, súc vật trong vùng mà hàng năm sông hào phóng bồi đắp cho đồng ruộng vùng này
những lớp phù sa màu mỡ, tạo nên những cánh đồng phì nhiêu có năng suất cấy trồng

lúa và hoa màu nhất nhì tỉnh. Người dân nơi đây tự hào về cuộc sống của mình:
Ai về Đức Thọ thì về,
Nước trong gạo trắng, dễ bề làm ăn
Có nước sông La trong lành, mát ngọt, có mức sống vật chất khá phong lưu nên
con người nơi đây “thong dong”. Nhất là con gái xứ này, vóc đẹp, da trắng nổi tiếng
khắp vùng từ trước đến nay.


Tuy vậy, do địa hình của huyện bị kẹp giữa hai dãy núi lớn: bên này là Trà Sơn,
Thiên Nhẫn trùng trùng và bên kia là Ngàn Hống sừng sững, cho nên, nhìn chung sông
ngòi vùng này nhiều nhưng ngắn dốc, bờ sông cao, dòng chảy quanh co, lắm khúc nước
xiết. Do lưu vực thượng nguồn rộng lớn, thủy lượng dồi dào, nước từ hai nguồn Ngàn
Sâu, Ngàn Phố từ cao đổ xuống, độ dốc lòng sông lớn, dòng chảy lại ngắn, nên lưu tốc
rất lớn. Mỗi khi mưa lũ lớn, dòng chính chảy không đủ, khiến sông La luôn luôn phải
đổi dòng, phá dòng tạo ra những biến đổi lớn về địa hình, địa mạo ở hai bên bờ. Đó là
nguyên nhân tạo ra hàng loạt những bãi, cồn, bàu, hói, rào, ngòi,… nơi sông chảy qua.
Mặt khác sự biến thiên dòng chảy từ lâu đời cũng khiến cho sông La có nhiều nhánh.
Nếu cần thiết phải hình dung thì hệ thống sông La và các phụ lưu của nó trông như
mạng gân của một chiếc lá. Do đó mà địa hình Đức Thọ lắm cầu, nhiều bến.
Ai cũng biết đối với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vai trò của sông suối vô
cùng quan trọng. Sông là nguồn cấp nước để cấy trồng cây cối, hoa màu, chăn nuôi gia
súc, gia cầm. Sông là huyết mạch giao thông quan trọng, tạo ra thế song hành cho con
người trên mặt đất từ xa xưa, trên bộ dưới thuyền để vận tải, giao thương, buôn bán.
Người dân Đức Thọ, đặc biệt là các cụm tụ cư hai bên bờ sông La, có cuộc sống
trù phú lâu đời như thế là nhờ sông. Cuộc mưu sinh dễ dàng, ngoài thời gian lao động,
con người còn có thời gian dành cho các sinh hoạt văn hóa tinh thần. Vì thế đời sống
văn hóa vật thể và phi vật thể nơi đây từ xưa đã nổi tiếng là phong túc, văn vật.
2. Như trên đã đề cập, một trong những sinh hoạt đặc thù của vùng sông nước là
giàu tiềm năng vận tải, giao thông đường thủy. Đức Thọ từ xa xưa vốn là một huyện có
nền kinh tế phát triển nhất vùng. Trên một diện tích đất đai tự nhiên rộng lớn, chủ yếu là

đồng bằng, nền kinh tế nông nghiệp đất Việt Thường thời xưa đã phát triển. Nguồn nông
sản như lúa, ngô, khoai, sắn khá dồi dào, thủy sản phong phú, kinh tế trang trại cũng đã
có manh nha từ xưa. Bên cạnh đó tiểu thủ công nghiệp cũng rất phát đạt. Nghề thủ công
ở Đức Thọ hình thành khá sớm. Đó là nghề mộc Thái Yên, từ lâu đã nổi tiếng cả nước;
nghề gốm Cẩm Trang, rồi miến Bùi Xá, mật đường Chợ Trổ, lụa Việt Yên, vải Yên Hồ,
ép dầu Nghĩa Yên, đóng thuyền Trường Xuân, làm nón Yên Đồng,…Theo sử sách
truyền lại, khá nhiều nghề ở đây đã được hình thành và phát triển từ thế kỷ XIV - XV.
Những nghề thủ công này sớm đã được các sách phong thổ ký ghi nhận, đánh giá cao,
và trở thành niềm tự hào của người dân các địa phương này trong ca dao, tục ngữ,
truyện cổ, để lại rất nhiều dấu tích trong lời ăn tiếng nói hằng ngày. Khi sản xuất phát
triển, sản phẩm dồi dào lại thêm sản vật tự nhiên phong phú thì nhu cầu buôn bán, giao
thương càng phát triển. Cũng theo các tài liệu phong thổ, địa chí ghi chép lại, từ khoảng
thế kỷ XVII - XVIII, việc buôn bán, giao thương nội hạt đã rất phồn thịnh. Chợ búa
được lập nhiều, nhiều tuyến giao thương thủy bộ được mở mang. Đến trước 1945, cả
huyện La Sơn đã có 18 chợ lớn nhỏ, buôn bán sầm uất. Trong đó, có những chợ rất cổ,
quy mô lớn, buôn bán khá phồn thịnh, được cả xứ biết tiếng như chợ Hạ, chợ Cầu, chợ
Thượng, chợ Nướt, chợ Trổ. Các tuyến giao thương, không kể đường bộ và đường sắt
xuyên Việt (chạy qua địa phận 8 xã) có đến 6 tuyến đường thủy sau đây:
- Tuyến sông Lam: từ Đức Châu đi Đức Quang, Vịnh Đại;
- Tuyến sông La: từ Tùng Ảnh đi hai ngả:


+ Ngả phía trái đến Đức Châu;
+ Ngả phía phải đến Đức Quang;
- Tuyến sông Ngàn Sâu: từ Đức Lạng đến Tùng Ảnh;
- Tuyến Rào Trổ (một nhánh sông La): từ Bùi Xá đi Yên Hồ hữu ngạn và đi Đức
Vịnh tả ngạn;
- Tuyến sông Mênh: từ Yên Hồ đi Đức Thịnh;
- Tuyến Rào Trai: từ Đức Dũng qua Đức Thanh, Đức Lâm, Đức Thủy, Thái Yên
đến Đức Thịnh.

Sáu tuyến giao thương đường sông và 18 chợ của huyện Đức Thọ ngày xưa đã là
chứng tích của một thời buôn bán tấp nập, thịnh vượng. Bên cạnh buôn bán nội hạt, việc
giao thương với các vùng khác cũng được mở rộng. Nông sản thực phẩm, hàng thủ công
mỹ nghệ được các thương thuyền chở lên các huyện thượng du như Hương Khê, Hương
Sơn theo đường sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu để đổi lấy lâm thổ sản như gỗ, mây, tre, tro
rồi đóng bè xuôi về cung cấp nguyên vật liệu cho các làng nghề thủ công chế biến.
Ngoài thuyền buôn, còn có thuyền câu của dân đánh cá. Bè xuôi, thuyền ngược lũ lượt
ngày đêm. Ngoài thuyền, đò của dân bản xứ đi lại trong vùng cũng như ngược ngàn còn
có thuyền buôn của cư dân các nơi khác theo các hướng từ Nghi Xuân, Nam Đường
(Nam Đàn) theo sông Lam ngược lên miền thượng để buôn bán. Bên cạnh đò dọc còn có
đò ngang. Sông ngòi nhiều, đò ngang càng lắm. Những chỗ sông ngòi nông bao giờ
cũng có bến đò ngang chuyên chở khách. Các tuyến đò dọc, đò ngang chằng chịt đã tạo
nên một môi trường sinh hoạt sông nước nhộn nhịp, đông vui.
được gọi là hát ví. Theo các nhà nghiên cứu dân tộc nhạc học danh tiếng như GS. Trần
Văn Khê, Trần Quang Hải, nhạc sĩ Phạm Duy , PGS. Dương Viết Á, PGS.TS. Tú Ngọc,
GS.TSKH. Tô Ngọc Thanh,… thì các làn điệu dân ca còn tồn tại đến ngày nay chủ yếu
đều có nguồn gốc từ các bài ca lao động, được sinh ra để trợ lực cho người lao động.
Tiêu biểu cho dân ca lao động là các điệu hò: về mặt nhạc là để tăng cường nhịp điệu, có
tác dụng hợp lực cho các động tác lao động nặng có tính tập thể; về mặt lời thì chủ yếu
là những câu hát đùa vui hoặc thể hiện mong muốn đạt được năng suất, thành quả lớn
trong lao động. Về sau, ngoài chức năng tổ chức nhịp điệu lao động, chức năng giải trí
ra thì chức năng trữ tình càng trở nên quan trọng. Và các làn điệu dân ca trữ tình ra đời,
được ứng tác và diễn xướng trong những lúc nghỉ ngơi sau thời gian lao động mệt nhọc.
Như nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định, hát ví, hát giặm là những làn điệu dân
ca chủ yếu ở Nghệ Tĩnh. Và ví là điệu hát phổ biến của vùng sông nước La, Lam. Hiện
tại, chưa có một tư liệu nào đủ tin cậy để khẳng định một cách chính xác niên đại, nguồn
gốc ra đời của hát ví sông La. Nhưng căn cứ vào giai điệu chung của các điệu ví và đặc
điểm sinh hoạt của cư dân vùng này thì có thể ước đoán hát ví sông La ra đ ời vào thời
điểm phồn thịnh của sinh hoạt giao thương, buôn bán trên sông nước, tức là trong
khoảng cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX và phát triển đến đỉnh cao là cuối thế kỷ

XIX đến nửa đầu thế kỷ XX. Và có lẽ, thể điệu chủ chốt của sinh hoạt hát ví vùng này là
ví đò đưa. Trong sách Hát ví Nghệ Tĩnh (NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1959), Nguyễn
Chung Anh cho rằng hình thức dân ca này đã thịnh hành từ thời Tây Sơn (cuối thế kỷ
XVIII). Ý kiến này không phải là không có lý. Vì rằng trước đó mấy trăm năm, mảnh


đất này là bãi chiến trường của cuộc phân tranh Trịnh - Nguyễn, dân tình đói khổ, xiêu
dạt, điêu linh; không thể có cái cơ sở xã hội cho sự nảy sinh phong trào hát ví được. Các
làn điệu hát ví như ví phường vải phải có điều kiện kinh tế xã hội tương ứng mới hình
thành và phát triển được. Vả lại, xét về ngôn ngữ, thì những câu ca cổ nhất còn được lưu
lại với những dấu vết thổ âm cho phép ta khẳng định rằng, hát ví các vùng xứ Nghệ
không thể ra đời sớm hơn thời điểm mà chúng tôi đã đề cập trên.
Như vậy, có thể kết luận một cách chung nhất rằng: hát ví sông La ra đời từ nhu
cầu sáng tạo, thưởng thức của người dân lao động ven sông La.
3. Dân ca của người Việt xứ Nghệ nói chung, vùng núi Hồng sông La nói riêng,
chỉ có ba nhóm làn điệu chính là: hò, ví, giặm. Như trên đã nói, làn điệu dân ca xuất
hiện sớm nhất trong các cộng đồng quần cư là hò. Hò là thể điệu ca nhạc vốn có ở nhiều
nơi. Và ở xứ Nghệ, các điệu hò khá phong phú và độc đáo.
Như đã nói trên, hò thuộc loại hình các bài ca lao động. PGS.TS. Tú Ngọc cho
rằng: “Nếu những bài hát lao động nói chung là một trong những cội nguồn đầu tiên của
âm nhạc, thì những bài hát lao động đích thực chính là một trong những giai tầng cổ
nhất của dân ca Việt Nam”1.
Thật vậy, điều này đã được các nhà nghiên cứu về văn hóa, nghệ thuật cổ truyền
khẳng định từ lâu. Khi bàn về nguồn gốc và sự phát sinh của nghệ thuật, F. Ăng-ghen đã
nói: “Chỉ nhờ có lao động, nhờ thích ứng với những động tác luôn luôn mới, nhờ sự phát
triển đặc biệt đã được như thế đó của bắp thịt, của gân, và trải qua những thời gian lâu
dài hơn, của chính xương cốt, di truyền qua lại, và sau hết, nhờ việc áp dụng nhiều lần
và liên tục sự tinh luyện di truyền đó vào những động tác mới, ngày càng phức tạp hơn,
cho nên bàn tay con người mới đạt được trình độ hoàn thiện rất cao, có thể sáng tạo ra
cái tuyệt diệu trong những bức tranh của Raphaen, những pho tượng của Thovanxen,

những điệu nhạc của Paganini”2.
Ngoài ý kiến gián tiếp nói trên của Ăng-ghen nói về mối quan hệ giữa lao động
và sáng tạo nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng, ngày nay, nhiều công trình nghiên
cứu về nghệ thuật học, dân tộc học đã cho phép chúng ta có những kết luận chắc chắn về
nguồn gốc của âm nhạc có liên quan chặt chẽ với quá trình lao động sản xuất của con
người.
Trong một tài liệu nghiên cứu về văn hóa nguyên thủy, M.O.Cosven cho rằng:
“Vấn đề nguồn gốc của âm nhạc phải giải quyết cùng với vấn đề nguồn gốc của nghệ
thuật nói chung, nghĩa là suy cho cùng âm nhạc bắt nguồn từ lao động, thực tiễn lao
động của con người”3
Khi nghiên cứu quá trình phát sinh của âm nhạc, R.I. Grube cũng khẳng định
rằng: “Một trong những nguồn gốc của âm nhạc là những tiếng kêu, tiếng hò la của săn
bắt”…, “những mầm mống của nghệ thuật nguyên thủy (trong đó có âm nhạc) cũng

1

PGS.TS Tú Ngọc, Dân ca Người Việt, NXB Âm nhạc, Hà Nội, 1994, tr.24),
C.Mác và F.Anghen, Bàn về văn học và nghệ thuật, NXB sự thật, Hà Nội, tr.81
3
M.O.Cosven, Sơ yếu lịch sử văn hóa nguyên thủy, NXB Văn Sử Địa, Hà Nội, 1958, tr. 258
2


được tách ra (về mặt lãnh thổ và thời gian) khỏi chính quá trình sản xuất, mặc dù chúng
vẫn giữ mối liên hệ mật thiết của quá trình đó về mặt nội dung và tính chất biểu hiện”4
Như vậy, khi thừa nhận nguồn gốc chung của âm nhạc (cũng như nghệ thuật) nảy
sinh từ quá trình lao động sản xuất của con người, các nhà nghiên cứu nghệ thuật cũng
thừa nhận rằng có một bộ phận âm nhạc gắn liền với lao động sản xuất, trực tiếp phục
vụ quá trình sản xuất vật chất của con người, có mối liên hệ mật thiết với những hình
thái công việc lao động. Tiêu biểu cho bộ phận âm nhạc này là các bài ca lao động trong

nghệ thuật dân gian của các dân tộc khác nhau trên thế giới.
Cũng như các thể loại khác trong âm nhạc dân gian, những bài hát lao động có
đặc trưng về chức năng riêng của mình. Khi bàn về mỹ học folklore, nhà nghiên cứu
Xô-viết Guxep đã xếp những bài ca dao lao động vào lĩnh vực trữ tình bên cạnh những
bài ca phù chú, những bài vịnh ca, những bài anh hùng ca, những bài bi ca, những bài ca
trào phúng, những bài ca bông đùa,..Về những bài ca lao động, Guxep cho rằng: "Đó là
những bài ca biểu hiện thái độ của tập thể đối với các loại hoạt động lao động sản xuất,
những điều kiện hoặc những kết quả của hoạt động này bộc lộ thái độ cảm xúc của con
người đối với lao động. Hẳn đây là thể loại cổ nhất của ca hát trữ tình, ban đầu kèm theo
trực tiếp những công việc làm ăn tập thể của con người trong chế độ công xã nguyên
thủy"5
Những kết quả nghiên cứu trên cho phép ta rút một nguyên tắc có ý nghĩa
phương pháp luận: sự phân loại dân ca và việc xác định vị trí của chúng cũng như mối
tương quan giữa chúng với nhau cần xuất phát từ điều kiện tồn tại của chúng trên cơ sở
kinh tế - xã hội và đời sống văn hóa của mỗi dân tộc.
Những bài ca lao động xứ Nghệ xuất hiện trên cơ sở nền kinh tế nông nghiệp.
Trong nông nghiệp thì nghề trồng lúa nước đã trở thành kinh tế cơ bản của nước ta từ rất
lâu, khoảng hàng trăm năm trước công nguyên. Cơ sở kinh tế trồng trọt và sinh sống chủ
yếu dựa vào cây lúa đã đẻ ra hàng loạt công việc xung quanh nó mà các cư dân ở đây
phải tiến hành quanh năm suốt tháng: cày, bừa, gặt, đập, xay, giã,... Để phục vụ cho việc
canh tác, người nông dân Việt Nam còn phải tiến hành hàng loạt công việc thiết yếu
khác như đắp đập, đắp đê, đạp nước,... Những công việc lao động trên có khi được tiến
hành bằng sức lao động cá thể, nhưng do truyền thống cộng đồng làng xã hoặc do tính
chất công việc đòi hỏi, nhiều trường hợp phải tiến hành lao động tập thể.
Với những hình thức và điều kiện lao động nói trên, chúng ta hoàn toàn có cơ sở
kinh tế-xã hội để xác định sự hình thành và tồn tại của những bài hát lao động như các
điệu hò hụi, hò nện, hò giã gạo, hò xay lúa, hò đạp nước,...
Như phần trên đã trình bày, ngoài việc canh tác lúa nước, các sinh hoạt chài lưới,
việc giao thương, vận tải, buôn bán, các sinh hoạt hội hè trên sông nước đã sản sinh ra
các điệu hò gắn liền với các hoạt động này như hò đua, hò khoan, hò kéo lưới, hò chống

bè,...

4

R.I.Grube, Lịch sử âm nhạc tổng quát, NXB Âm nhạc quốc gia, Mascova, 1960, quyển 1 (Bản dịch lưu hành nội
bộ của Nhạc viện Hà Nội)
5
Guxep, Mỹ học folklore, Bản dịch tiếng Việt của Hội Văn nghệ dân gian


Phương thức sản xuất của xã hội không ngừng phát triển, từ đó những hình thức
lao động cũng không ngừng phát triển, ngày càng phong phú, đa dạng. Mỗi điệu hò vốn
thích ứng với mỗi loại công việc cụ thể cũng từ đó mà biến đổi, hoặc là tự tiêu biến hoặc
là phát triển theo trạng thái mới của công việc. Bởi vậy, nhìn nhận sự phát triển của các
làn điệu dân ca cũng cần phải căn cứ theo lịch sử phát triển của hoạt động kinh tế và văn
hóa của từng cộng đồng dân cư. Tất nhiên, ở đây cần phải tính đến các quy luật phát
triển nội tại của bản thân thể loại. Những quy luật đó thể hiện ở cách diễn xướng, ở kết
cấu các biến dạng âm điệu của chúng.
Những điệu hò lao động đích thực là những điệu hò gắn bó và thích ứng với công
việc lao động hoặc một quá trình sản xuất. Thường thì mỗi hình thức công việc đòi hỏi,
làm nảy sinh một điệu hò thích ứng với nó. Cho nên ngoài chức năng cổ vũ (tạo ra sự
hưng phấn về mặt cảm xúc đối với công việc) và tổ chức (tập hợp năng lực lao động của
mọi người vào một công việc nào đó và điều khiển những năng lực đó qua nhịp điệu và
kết cấu của bài ca), những bài hát lao động kiểu này cũng có một ý nghĩa thực dụng nhất
định - nó mang dáng dấp của một chuỗi hiệu lệnh - tín hiệu đối với công việc. Và đặc
điểm quan trọng nhất của những bài hát, điệu hò lao động đích thực là chúng được diễn
xướng ngay trên hiện trường lao động của con người.
Khảo sát các làn điệu hát ví xứ Nghệ nói chung và của cư dân hai bên bờ sông La
- Lam nói riêng, nhà nghiên cứu âm nhạc Đào Việt Hưng đã cho rằng: giai điệu của hát
ví xứ Nghệ có mối liên hệ qua lại với giai điệu của hò hái củi, cũng là một loại dân ca

của vùng này.6
Đó là một ý kiến được đề xuất không chỉ dựa trên việc nghiên cứu bản phổ cũng
như cách thức diễn xướng của các làn điệu dân ca này mà còn là sự loại suy rất logic từ
nguyên lý văn nghệ dân gian xuất phát từ lao động và phục vụ cuộc sống lao động của
quần chúng nhân dân. Và hiện tượng đó cũng nằm trong sự chi phối của quy luật biến
dạng, chuyển hóa giữa các thể loại theo nguyên lý biến đổi cấu trúc là do thay đổi chức
năng.
Điều đó được chứng minh bằng kết luận của các nhà nghiên cứu dân tộc nhạc
học. Trong tài liệu đã dẫn trên, PGS.TS. Tú Ngọc đã khẳng định: “Nghiên cứu một số
bài bản của Hát ví Nghệ Tĩnh được giới thiệu trong các tập dân ca đã xuất bản cho phép
chúng ta khẳng định rằng: ban đầu Hát ví có một làn điệu gốc, sau đó đư ợc phát triển
thành một số biến dạng. Giai điệu của hát ví dựa trên trục chính gồm ba nốt của một hợp
âm thứ. Ở dạng này hay dạng kia có thể mở rộng tầm âm ở phía trên. Đây là loại giai
điệu cổ với tiết tấu và cấu trúc đơn giản. Điều đó chứng tỏ rằng hát ví xuất hiện vào loại
sớm nhất trong kho tàng dân ca mà chúng ta biết được”7.
Nhà địa phương học Thái Kim Đỉnh, cũng cho rằng: “Hát ví là lối hát hoa tình,
giao duyên nam nữ rất thịnh hành vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Lời hát ví chỉ là
câu lục bát hoặc lục bát biến thể, được cất lên với điệu nhạc khoan thai, trong trẻo trên
sông nước. Tùy theo môi trường diễn xướng mà nhạc điệu có ít nhiều thay đổi trên cơ sở

6
7

Đào Việt Hưng, Hát ví Nghệ Tĩnh, Tạp chí Văn hóa số 16, 4-1972
PGS.TS Tú Ngọc, Dân ca Người Việt, NXB Âm nhạc, Hà Nội, 1994, tr.137


một điệu cơ bản, nên các nhà nghiên cứu âm nhạc gọi thành nhiều tên khác nhau: ví đò
đưa, ví phường cấy, ví phường buôn, ví phường vải, ví trèo non (khi đi củi, đi cỏ) v.v.
Có thể nghĩ rằng, ví là điệu hát của vùng sông nước La, Lam. Ví đò đưa lời hát

trữ tình, chải chuốt, đặc biệt không có tiếng và tích Hán Việt, trừ chữ “loan phượng”8.
Trong một tài liệu viết sớm hơn, tham luận Đôi điều về dân ca Nghệ Tĩnh đọc tại Hội
thảo về Dân ca Nghệ Tĩnh tổ chức tại Vinh năm 1981, ông còn cho rằng: ví đò đưa là
làn điệu có sớm nhất.
Ngoài ra khi nghiên cứu về dân ca người Việt, nhạc sĩ Phạm Duy cũng có ý kiến
tương tự. Ông khẳng định rằng: “Những bài hát làm việc của người Việt thường gọi là
hò. Chữ hò có nghĩa là hô lên. Người ta vừa làm việc, vừa hô to những câu hát để trợ
hứng cho động tác lao động. Nhưng ngay trong khi đang làm việc nặng nhọc như kéo
gỗ, đẩy xe, bơi thuyền,... cần có những câu hò để thúc đẩy việc làm, người Việt cũng đã
hát những lời ca rất trữ tình. Do đó, hò rất dễ dàng trở thành những khúc tình ca.
Rồi từ hình thức một bài hát giao duyên giữa hai người, hát lúc đang làm việc hay lúc
nghỉ ngơi giữa công việc, hò tiến lên địa vị hát đám, hát hội khi người ta hội họp nhau
lại chia ra hai phe nam nữ và hát đối đáp, hát thi ăn giải...”9
Kết hợp các ý kiến này và ý kiến đã dẫn nói trên của PGS.TS. Tú Ngọc, nhạc sĩ
Đào Việt Hưng, chúng ta có thể suy rộng ra rằng: các điệu ví xứ Nghệ nói chung đều
được hình thành, tiếp biến từ các điệu hò cổ xưa.
Sự biến dạng của hát ví không chỉ thể hiện ở mặt âm điệu, mà cả trong cấu trúc
lời ca. Khác với dân ca đồng bằng Bắc bộ hầu hết lời ca có cấu trúc của câu lục bát điển
thể thì ở dân ca Hát ví Nghệ Tĩnh người ta gặp rất nhiều câu, bài là lục bát biến thể.
Hoặc có bài mang dấu vết của thơ 4 chữ rồi sau đó là lục bát biến thể, song thất lục bát
hoặc song thất lục bát biến thể. Ví dụ:
Vì ai mà ăn cơm cũng nghẹn,
Uống nước cũng nghẹn.
Nghe lời bạn hẹn ra đứng bờ sông,
Bãi thời thấy bãi, người không thấy người
Và đây là lời của người con gái đố người con trai:
Này anh ơi!
Chữ chi anh chôn dưới đất,
Chữ chi anh cất trên đầu,
Chữ chi anh mang không nổi,

Chữ chi gió thổi không bay.
Anh mà giải được, thiếp trao tay lạng vàng.
Phỏng theo cấu trúc lời ca của người con gái, người con trai đáp lại:
Chữ hoàng thiên anh chôn dưới đất,
Chữ phụ mẫu anh cất trên đầu,
Chữ đá vàng anh mang không nổi,
Chữ duyên tình gió thổi không bay.
8
9

Thái Kim Đỉnh (chủ biên), Địa chí huyện Đức Thọ, NXB Lao động, Hà Nội 2004, tr.249-250
Phạm Duy, Đặc khảo về dân nhạc ở Việt nam, NXB Hiện đại, Sài Gòn, 1972, tr.94 (sách điện tử PRC)


Em trao chi cho anh thỏa dạ, chứ vàng bạc trao tay anh nỏ đành.
Sự biến đổi về giai điệu và lời ca cho thấy giữa các làn điệu dân ca xứ Nghệ có
cùng một gốc và giữa các làn điệu dù có được biến dạng, phái sinh đến đâu cũng vẫn có
quan hệ chặt chẽ với nhau, ảnh hưởng qua lại với nhau.
...Hiện tại, các làn điệu hát ví sông La vẫn đang tiếp tục được các nhạc sĩ nghiên
cứu khai thác để sáng tạo nên các nhạc phẩm, các tiết mục văn nghệ có sự kết hợp hài
hòa giữa dân gian và hiện đại phục vụ cho sự nghiệp xây dựng nếp sống văn hóa mới,
giữ gìn và phát huy bản sắc địa phương - dân tộc, phục vụ cho công cuộc công nghiệp
hóa, hiện đại hóa quê hương đất nước trong xu thế hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng
của đất nước.



×