Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Hoàn thiện kiếm soát chỉ ngân sách nhà nước qua kho bạc nhà nước trên địa bàn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.88 KB, 109 trang )

21

ĐẦU
cao hiệu quả chi NSNNMỞ
thông
qua hệ thống KBNN trên địa bàn Tỉnh Phú
Thọ.1. Tính cấp thiết của Đe tài
2. Mục
đích
nghiên
cúnkhoản chi Ngân sách Nhà nước(NSNN) luôn là
Kiếm
soát
chặt
chẽ các

mối quan tâm lớn của Đảng, Nhà nước và của các cấp, các ngành, góp phần
Trên cơ sở lý luận về kiểm soát, hệ thống hoá những vấn đề cơ bản về
quan trọng trong việc giám sát sự phân phối và sử dụng nguồn lực Tài chính
quản lý chi NSNN và kiểm soát chi NSNN qua KBNN, Luận văn đi sâu phân
một cách đúng mục đích, có hiệu quả; đồng thời là một biện pháp hữu hiệu đế
tích, đánh giá thực trạng và những hạn chế của công tác kiếm soát chi NSNN
thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Từ năm 2004, thực hiện Luật NSNN (sửa
qua KBNN Phú Thọ trong thời gian qua; Từ đó, rút ra những nguyên nhân và
đối), công tác quản lý, kiếm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà nuớc(KBNN)
đề xuất phương hướng, giải pháp chủ yếu cùng các điều kiện thực hiện nhằm
đã có những chuyển biến tích cực; công tác lập, duyệt, phân bố dự toán được
tăng cường kiểm soát chi NSNN trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
chú trọng hơn về chất lượng và thời gian; Việc quản lý điều hành NSNN cũng
đã có những thay đối lớn và đạt được thành tựu quan trọng, góp phần thúc đấy
3. Đối tượng, phạm vi


nền kinh tế phát triển, giải quyết những vấn đề xã hội.
Tuy vậy, ngoài những vấn đề thực hiện nhiệm vụ chung của toàn hệ thống,
Đối tượng nghiên cứu là, Kiểm soát chi NSNN, bao gồm các khoản chi
việc quản lý và kiểm soát chi NSNN qua KBNN trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ
thường xuyên NSNN và chi Đầu tư qua KBNN trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
còn có những vấn đề chưa phù hợp. Cơ chế quản lý chi NSNN trên địa bàn
Phạm vi nghiên cứu là, Hoạt động kiểm soát chi NSNN của hệ thống
trong nhiều trường họp còn bị động và chậm chạp; nhiều vấn đề cấp bách
KBNN Tỉnh Phú Thọ gồm 13 đơn vị KBNN gồm: Văn phòng Kho bạc tỉnh
không được đáp ứng kịp thời hoặc chưa có quan điểm xử lý thích hợp, lúng
và 12 Kho bạc huyện, thị xã trục thuộc. Với số liệu chi NSNN tù' năm 2004
túng, công tác điều hành NSNN của các cấp chính quyền trên địa bàn Tỉnh
đến 2007. Ngoài ra Đe tài nghiên cứu hoạt động kiểm soát chi NSNN trong
đôi lúc còn bất cập; vai trò quản lý quỹ NSNN của KBNN trên địa bàn chưa
mối quan hệ với các nhân tố bên trong và bên ngoài tác động đến kiểm soát
coi trọng đúng mức; năng lực kiểm soát chi NSNN của KBNN trên địa bàn
chi NSNN qua KBNN trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
còn chưa đáp ứng với xu thế đối mới. Vì vậy, kiếm soát chi NSNN qua
KBNN
trên địa pháp
bàn Tỉnh
Phọcún
cần được hoàn thiện một cách khoa học, có hệ
4. Phương
nghiên
thống.
Đe tàiphát
nghiên
cứu hình
dựa thực

trên phương
pháp
Xuất
tù' tình
tế đó, Tác
giảluận
chọncủa
ĐeChủ
tài: nghĩa
“HoànMác-Lênin:
thiện kiếm
Phương
vậtNhà
biệnnước
chứng
duy bạc
vật lịch
soát
chỉ pháp
Ngânduy
sách
quavàKho
Nhàsử.
nước trên địa bàn Tỉnh Phú
Các
phápnhằm
nghiên
thế:
tài quản
đã sửlý,dụng

các
Thọ
” đếphương
nghiên cứu
gópcứu
phầncụlàm
rõ Đe
cơ chế
kiểmtống
soát họp
và nâng
hoá...


3

5. Nhũng đóng góp của Luận văn

Qua nghiên cún lý luận chung và thực trạng công tác kiểm soát chi
NSNN qua KBNN trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ từ năm 2004 đến 2007. Luận
văn chỉ ra những kết quả, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế; Trên
cơ sở đó Luận văn đề xuất phương hướng và các giải pháp hoàn thiện công
tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ.
6. Ket cấu Luận văn

Ngoài Mở đầu và Ket luận, Luận văn gồm ba chương:
Ch ươn g I: Lý luận chung về kiểm soát chi Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc
Nhà nước;
Chuơns II: Thực trạng kiếm soát chi Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà
nước trên địa bàn Tỉnh Phú Thọ;

Chưcntữ III: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện kiếm soát chi Ngân sách


4

Chương I
LÝ LUẬN CHUNG VÈ KIẾM SOÁT CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
QUA KHO BẠC NHÀ NƯỚC
1.1. Kiếm soát và các loại hình kiếm soát trong quản lý

/. /. /. Khải niệm kiêm soát
Theo từ điến Tiếng Việt do viện ngôn ngữ học biên soạn, kiếm soát là
“xem xét đế phát hiện, ngăn chặn những gì trái với quy định”(27,253). Theo
Đại từ điến Tiếng Việt do Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam biên
soạn, kiểm soát là “kiểm tra, xem xét nhằm ngăn ngừa những sai phạm các
quy định”( 164,386). Theo tù' điển Luật học, kiểm soát là “xem xét để phát
hiện, ngăn ngừa kịp thời việc làm sai trái với thỏa thuận, với quy
định”(54,264).
Như vậy, kiếm soát là công việc nhằm soát xét lại những quy định,
những quá trình thực thi các quyết định quản lí được thể hiện trên các nghiệp
vụ (những thao tác cụ thế) nhằm nắm bắt và điều hành được những nghiệp vụ
đó.
Kiểm soát là một chức năng của quản lý, do vậy, đế hiểu được khái
niệm về kiểm soát cần phải xuất phát từ việc nghiên cứu quản lý nói chung và
quản lý nhà nước nói riêng.
Hoạt động quản lý là cực kỳ cần thiết trong mọi tổ chức, quản lý không
chỉ đảm bảo cho hoạt động của một tố chức được tiến hành với hiệu xuất cao
mà còn đảm bảo cho các đối tượng đó theo hướng các mục tiêu đề ra, theo
chức năng được quy định và nhiệm vụ được giao.
Một cách chung nhất, quản lý là một quá trình định hướng và tô chức

thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt


5

Hoạt động quản lý của một tổ chức có thế được chia ra thành nhiều
pha, song có thể tóm gọn lại bao gồm bốn chức năng: Hoạch định; Tổ chức;
điều hành và kiểm tra kiểm soát. Trong khi tiến hành hoạch định, tổ chức,
điều hành quá trình tác nghiệp tại đơn vị vẫn có thế có nhiều sự cố sảy ra do
những nguyên nhân chủ quan cũng như khách quan. Điều này dẫn tới khả
năng xa rời mục tiêu đã đặt ra hoặc có thể xảy ra những hậu quả trái ngược
với dự kiến ban đầu. Vì vậy hoạt động kiếm soát được thực hiện nhằm đảm
bảo kịp thời cho quá trình tác nghiệp được tiến hành theo như kế hoạch ban
đầu, điều chỉnh kịp thời các sai lệch trong quá trình hoạt động. Như vậy, kiếm
soát là một hoạt động vô cùng quan trọng trong công tác quản lý.
Kiểm soát không phải một giai đoạn hay một pha của quản lý mà nó
được thế hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này. Do đó kiếm soát được
quan niệm là một chức năng của quản lý. Tuy nhiên chức năng này được thể
hiện khác nhau tùy thuộc vào cơ chế kinh tế, cấp quản lý và loại hình cụ thế.
về cấp quản lý có nhiều mô hình khác nhau, song chung nhất thường là
quản lý vĩ mô và quản lý vi mô, tuy nhiên trong nhiều trường hợp, giữa hai
cấp quản lý cơ bản còn có cấp quản lý trung gian vừa chịu sự quản lý vĩ mô,
vừa quản lý đổi với các đơn vị cấp dưới. Trong mọi trường hợp, đế đảm bảo
hiệu quả hoạt động, tất yếu mỗi đơn vị cơ sở đều tự kiếm tra hoạt động của
mình trong tất cả các khâu: rà soát các tiềm năng, xem xét lại các dự báo, các
mục tiêu và định mức, đối chiếu và truy tìm các thông số về sự kết hợp, soát
xét lại các thông tin thực hiện đế điều chỉnh kịp thời trên quan điếm bảo đảm
hiệu năng của mọi nguồn lực và hiệu quả kinh tế cuối cùng của các hoạt động.
Công việc này gọi là kiểm soát.
Kiếm soát được hiếu là tống hợp những phương sách đế nắm lấy và

điều hành đối tượng hoặc khách thế quản lý.


6

Với ý nghĩa đó, kiểm soát có thế được hiểu theo nhiều cách: cấp trên
kiểm soát cấp dưới thông qua chính sách hoặc các biện pháp cụ thể; đơn vị
này kiểm soát đơn vị khác thông qua chi phối đáng kể quyền sở hữu và lợi ích
tương ứng; nội bộ đơn vị kiếm soát lẫn nhau thống qua quy chế và các thủ tục
quản lý.
Trong quản lý, kiếm soát là công việc nhằm soát xét lại những qui
định,
những quá trình thực thi các quyết định quản lý được thế hiện trên các nghiệp
vụ (những thao tác cụ thể) nhằm nắm bắt và điều hành những nghiệp vụ đó.
1.1.2. Các loại hình kiêm soát

Hoạt động kiểm soát có thể được phân thành nhiều loại khác nhau dựa
trên các tiêu thức khác nhau như: mục tiêu kiếm soát; nội dung tác nghiệp;
phương thức thực hiện; thời điếm thực hiện. Theo quan hệ với quá trình tác
nghiệp, hoạt động kiểm soát có thể chia ra hoạt động kiểm soát trực tiếp và
kiếm soát gián tiếp. Theo thời điếm thực hiện trong quá trình tác nghiệp, hoạt
động kiểm soát được chia ra làm ba loại: Kiểm soát trước; kiểm soát hiện
hành và kiếm soát sau. Căn cứ vào nội dung của kiểm soát có thế chia ra
thành kiếm soát hành chính và kiếm soát kế toán. Căn cứ vào mục tiêu của
kiểm soát có thể chia ra thành kiểm soát ngăn ngừa, kiểm soát phát hiện và
kiểm soát điều chỉnh.
1.1.2.1. Kiêm soát quản lỷ và kiêm soát kế toán

Theo chuẩn mực Kiểm toán của Viện kế toán viên công chứng
Mỹ(AICPA), phần thực hành kiểm toán (32009) thì:

Kiếm soát quản lý (trong doanh nghiệp được cụ thế hóa là kiểm soát
quản trị- Administrative) bao gồm (nhưng không hạn chế): lập kế hoạch, tố
chức và thực hiện các trình tự' cần cho quá trình ra quyết định đế cho phép
tiến hành các nghiệp vụ. Kiểm soát quản lý gắn liền với trách nhiệm thực hiện
các mục tiêu của tô chức và là điếm xuất phát đế thiết lập kiếm soát kế toán.


7

Hoạt động kiểm soát hành chính tập trung vào các thể thức kiểm tra
nhằm đảm bảo cho việc điều hành công tác ở đơn vị có nề nếp, nghiêm minh
và hiệu quả. Các thao tác kiểm soát hành chính được thực hiện trên lĩnh vực
tố chức và hành chính ở mọi cấp độ như: tuyển chọn nhân viên, xây dựng tác
phong, quy trình làm việc, tổ chức thực hiện công việc cùng với các thao tác
kiểm soát quá trình chấp hành mệnh lệnh ở đơn vị.
Kiếm soát kể toán bao gồm lập kế hoạch tô chức và thực hiện các trình
tự cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ sách Tài chính kế toán
và do đó phải đảm bảo hợp lý rằng:
Một là, các nghiệp vụ được tiến hành theo sự chỉ đạo chung hoặc cụ thế
của quản lý.
Hai là, các nghiệp vụ được ghi số là cần thiết đế(l) giúp chuấn bị các
báo cáo Tài chính đúng với nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận hoặc
các tieu chuấn có thế áp dụng cho các báo cáo này; (2) duy trì khả năng hạch
toán của tài sản.
Ba là, chỉ khi được phép của nhà quản lý mới động đến tài sản.
Bốn là, các hoạt động nếu được ghi nhận vào các thời điếm thích họp,
giúp cho việc thiết lập các thông tin kinh tế Tài chính phù hợp với các chuẩn
mực kế toán và thế hiện chính xác, toàn diện hiện trạng tài nguyên của đơn vị
hoặc đơn vị có nhiệm vụ quản lý và phải có sự điều chỉnh phù hợp khi có
những chênh lệch.

Năm là, cung cấp căn cứ đế đè ra quyết định sử lý các sai lệch, rủi ro có
thể gặp phải.
Như vậy, kiểm soát kế toán chỉ quan tâm đến hoạt động Tài chính của
doanh nghiệp được phản ánh trên các tài liệu kế toán. Trong khi đó, kiếm soát
quản lý yêu cầu một phạm vi rộng hơn của các đối tượng kiểm soát theo mục
tiêu quản lý của toàn bộ tố chức. Tuy nhiên, kiếm soát kế toán lại có vai trò là


cơ sở cho kiếm soát quản lý. Các chứng từ kế toán không chỉ là sự thông tin
mà còn là minh chứng pháp lý cho sự hình thành các nghiệp vụ kinh tế. Từ
đó, kiểm soát kế toán có thẻ hình thành phương pháp tự kiểm soát: đối ứng tài
khoản không chỉ là phương pháp phân loại, phản ánh sự vận động của tài sản
mà còn là phương pháp kiểm tra những quan hệ cân đối cụ thể, tổng hợp cân
đối kế toán không chỉ cung cấp những thong tin tổng hợp mà còn là phương
pháp kiếm tra kết quả cân đối tống quát trong thông tin kế toán.
1.1.2.2. Kiêm soát ngăn ngừa, kiêm soát phát hiện và kiêm soát điêu

chỉnh
Mục tiêu của hoạt động kiểm soát trong tác nghiệp là đảm bảo cho quá
trình tác nghiệp được thành công, đạt được mục tiêu đề ra, ngăn ngừa và phát
hiện các sai lầm, gian lận, sai sót và rủi ro trong quá trình tác nghiệp làm giảm
thiểu các khả năng xảy ra các hiện tượng này và còn cung cấp những thông tin
cần thiết cho việc ra quyết định điều chỉnh.
Hoạt động kiêm soát ngăn ngừa tập trung chủ yếu vào việc quản lý
nhân sự, xây dựng qui trình, qui phạm thực hiện các thao tác tác nghiệp.
Hoạt động kiếm soát phát hiện tập trung vào việc phát hiện các gian
lận, sai sót, sai lầm và rủi ro trong quá trình tác nghiệp một cách nhanh chóng,
nhằm giúp các cấp lãnh đạo có những quyết định xử lý kịp thời, hạn chế tới
mức thấp nhất những thiệt hại có thế xảy ra.
Hoạt động kiểm soát điều chỉnh hướng tới việc cung cấp những thông

tin cần thiết cho việc ra quyết định điều chỉnh các sai sót được phát hiện.
ỉ. 1.2.3. Kiềm soát trước, kiêm soát hiện hành và kiêm soát sau
Kiếm soát trước hay còn gọi là kiểm soát lường trước, kiểm soát hướng
về tương lai, nhằm khắc phục độ trễ thời gian trong kiếm soát thực hiện. Đó là
sự tiên liệu những diễn biến có thể xảy ra trong quá trình tác nghiệp, đề phòng
các rủi ro và khó khăn tiềm ấn. Đó là hoạt động kiếm soát đặc biệt quan trọng.


9

Tuy nhiên loại hoạt động kiếm soát này chưa phố biến về mặt kỹ thuật và còn
rất hạn chế. Sự tiên liệu trong các hoạt động này đòi hỏi phải là những người
thực sự có trình độ và có nhiều kinh nghiệm thực tế, do vậy hiện nay sự tiên
liệu còn có khoảng cách khá xa so với thực tế, mặt khác, chi phí cho các hoạt
động này khá lớn.
Kiểm soát tác nghiệp là hoạt động kiếm soát được tiến hành ngay trong
quá trình tác nghiệp nhằm ngăn ngừa, phát hiện sai lầm, kiếm tra việc thi
hành các quyết định trong khi thực hiện các thao tác tác nghiệp. Như vậy,
nếu làm tốt công tác kiểm soát tác nghiệp thì mức độ rủi rỏ trong quá trình tác
nghiệp sẽ giảm đi, đảm bảo được hiệu quả công việc ở mức tốt nhất.
Kiếm soát sau khi tác nghiệp hay kiếm soát thông tin phản hồi (hay
còn
gọi là kiếm soát thông tin trở về trước) là hoạt động kiếm soát thông dụng
nhất hiện nay, mặc dù bị độ trễ về thời gian, song bù lại kiểm soát sau khi tác
nghiệp lại có đầy đủ căn cứ đế đánh giá, đo lường kết quả tác nghiệp.
1.1.2.4. Kiêm soát nội bộ
Kiếm soát nội bộ là một hệ thống gồm các chính sách, thủ tục được
thiết lập tại đơn vị nhằm đảm bảo cho các nhà quản lý đạt được bốn mục đích:
Một là, bảo vệ tài sản.
Hai là, bảo đảm tin cậy của hệ thống thông tin.

Ba là, duy trì và kiểm tra tuân thủ các chính sách có liên quan đến hoạt
động của đơn vị
Bốn là, bảo đảm hiệu quả hoạt động và hiệu năng quản lý.
Kiểm soát nội bộ là một chức năng quản lý, trong phạm vi một đơn vị
cơ sở, kiếm soát nội bộ là việc tự kiếm tra và giám sát mọi hoạt động trong tất
cả các khâu của quá trình quản lý nhằm bảo đảm các hoạt động đúng pháp
luật và đạt được các kế hoạch, mục tiêu đề ra với hiệu quả kinh tế cao nhất và


10

đảm bảo độ tin cậy của các báo cáo Tài chính. Thực tế đã chứng minh, đơn vị
nào có hệ thống Kiếm soát nội bộ hoạt động tốt và có độ tin cậy cao thì có thế
cung cấp cho các cấp Lãnh đạo cũng như các cơ quan bên ngoài muốn tìm
hiểu hoạt động của đơn vị.
Hệ thống kiểm soát nội bộ của một đơn vị là toàn bộ các chính sách và
phương pháp qua đó góp phần bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo đảm tính chính
xác của các thông tin lưu hành trong đơn vị. Kiếm soát nội bộ bao gồm các
phần hành kiểm soát tạo hiệu quả cho hoạt động đúng với các chính sách,
chiến lược đã đề ra.
Hệ thống kiểm soát nội bộ trước hết là một cơ cấu tổ chức với sự phân
công phân cấp, phân quyền một cách hợp lý và chặt chẽ trong điều hành và
tác nghiệp, sự phân công và phân cấp này tự’ nó đã hình thành một phương
thức giám sát. Hệ thống kiểm soát nội bộ còn là các quy phạm, nguyên tắc và
chuấn mực hình thành các mạng lưới kiếm soát theo nhiều giác độ hành
chính, nghiệp vụ và kế toán, quy định cách thức làm việc, chế độ khai thác cả
về luồng thông tin, kinh phí và các tài nguyên khác.
1.2. Ngân sách Nhà nưóc, quản lý chi Ngân sách Nhà nưóc và kiếm

soát chi Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước

1.2.1. Ngân sách Nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước

NSNN ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước và sự phát triển của
các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ. Nhà nước ra đời và ban hành các luật thuế
đế lấy tiền chi tiêu cho việc thực hiện các chức năng của Nhà nước. Từ thời
phong kiến trở về trước, việc thu, chi Ngân sách phụ thuộc chủ yếu vào quyết
định của Nhà Vua, mọi khoản thu, chi chưa có luật lệ điều chỉnh. Chỉ đến khi
Chủ nghĩa Tư bản ra đời, giai cấp tư sản đấu tranh đòi Nhà nước phải hỗ trợ


11

Tài chính cho lĩnh vực kinh tế, đòi thiết lập trình tự lập kế hoạch chi tiêu và
cơ chế kiểm tra, giám sát đối với việc chi tiêu của Nhà nuớc thì các nhân tố
của NSNN mới được quy tụ đầy đủ và NSNN mới được hình thành với các
đặc trưng của nó, đó là kế hoạch, tính cân đối thu, chi và tính theo niên độ.
về bản chất NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước
và Xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nuớc huy động và sử dụng các nguồn
Tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng quản lý và điều
hành nền kinh tế - xã hội của mình.
NSNN có 2 chức năng cơ bản:
“ỉ - Huy động nguồn Tài chính và đảm bảo các nhu cầu chi tiêu theo
dự toán của Nhà nước.
2- Thực hiện cân đoi giữa các khoản thu và các khoản chi (bang tiền)
của Nhà nước.
Từ các nội dung trên đây, hình thành khái niệm: NSNN là toàn bộ các
khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan Nhà nước có
thấm quyền quyết định và dược thực hiện trong 1 năm đê đảm bảo thực hiện
các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước ”.

1.2.1.2. Phân cấp Ngân sách Nhà nước

Hệ thống NSNN ở nước ta được tô chức gắn liền với cơ cấu tố chức bộ
máy nhà nước. Theo quy định của pháp luật, mỗi cấp chính quyền có Ngân
sách riêng. Do đó, gắn với bốn cấp chính quyền Ngân sách cũng được tố chức
thành bốn cấp tương ứng, bao gồm: Ngân sách trung ương, Ngân sách tỉnh,
Thành phố trực thuộc trung ương; Ngân sách huyện, quận, thị xã; Ngân sách
xã,(phường, thị trấn).
Ngân sách trung ương quản lý thu, chi theo ngành kinh tế. Nó luôn giữ
vai trò chủ đạo trong hệ thống NSNN. Ngân sách trung ương cấp phát kinh


12

phí cho yêu cầu thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nuớc trung uơng
(sự nghiệp văn-xã; sự nghiệp kinh tế; an ninh-quốc phòng; trật tụ’ an toàn xã
hội; đầu tư xay dựng các công trình kết cấu hạ tầng v.v..). Trên thực tế Ngân
sách trung ương là Ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn thu và
đảm bảo các nhu cầu chỉ mang tính quốc gia.
Ngân sách địa phương quản lý thu NSNN trên địa bàn và chi NSNN địa
phương. HĐND Tỉnh, Thành phổ trục thuộc Trung ương (gọi chung là NSNN
cấp tỉnh) quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi giữa các cấp
chính quyền địa phương phù họp với phân cấp quản lý kinh tế-xã hội, quốc
phòng, an ninh và trình độ quản lý của mỗi cấp trên địa bàn. Chính quyến cấp
tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động viên khai thác thế mạnh trên địa
bàn địa phương đế tăng nguồn thu, bảo đảm chi và thực hiện cân đối Ngân
sách cấp mình.
Quan hệ giữa các cấp Ngân sách trong hệ thống NSNN được thực hiện
theo các nguyên tắc sau:
Ngân sách trung ương và Ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương

được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thế;
Thực hiện việc bố xung từ Ngân sách của chính quyền nhà nước cấp
trên cho Ngân sách của chính quyền nhà nước cấp dưới nhằm đảm bảo sự
công bằng, phát triến cân đối giữa các vùng lãnh thố, các địa phương, số bố
xung này là khoản thu của Ngân sách cấp dưới;
Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan
quản lý nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình
thì phải chuyền kinh phí từ Ngân sách cấp trên cho Ngân sách cấp dưới đế
thực hiện nhiệm vụ chi đó (kinh phí uỷ quyền)
Không được dùng Ngân sách của cấp này chi cho nhiệm vụ của Ngân
sách cấp khác, trừ trường họp đặc biệt theo quy định của Chính phủ.


13

1.2.1.3. Chu trình Ngân sách Nhà nước

Chu trình NSNN được hiểu là một vòng tròn khép kín lặp đi lặp lại
(Lập dự toán - chấp hành - quyết toán), liên quan đến nhiều chủ thế và khách
thế quản lý từ khi lập dự toán, chấp hành NSNN cho đến khi quyết toán
NSNN.
a) Lập dự toán NSNN

Lập dự toán là việc các co quan, đon vị có trách nhiệm thu-chi Ngân
sách phải tố chức lập dự toán thu, chi Ngân sách trong nhiệm vụ đuợc giao và
gửi cơ quan Tài chính cùng cấp, cơ quan Tài chính xem xét tổng hợp, lập dự
toán trình UBND cùng cấp, UBND có trách nhiệm kiếm tra, xem xét dự toán
Ngân sách của cấp mình trình HĐND cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan
Tài chính cấp trên trực tiếp...
Dự toán NSNN sau khi được Quốc hội phê chuấn trở thành các chỉ tiêu

pháp lệnh, các cơ quan nhà nước, các đơn vị dự toán ngân sách các cấp khi
nhận được số phân bố về Ngân sách có trách nhiệm giao nhiệm vụ cho các
đơn vị dự toán trực thuộc bảo đảm đúng với dự toán Ngân sách được phê
duyệt, không một tổ chức, cá nhân nào được thay đối nhiệm vụ Ngân sách đã
được phân bổ khi chưa có sự đồng ý của cơ quan có thẩm quyền.
Lập dự toán là công việc ban đầu rất quan trọng, đặt cơ sở nền tảng và
có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của toàn bộ các khâu trong
chu trình NSNN. Một dự toán NSNN đúng đắn, có cơ sở khoa học và cơ sở
thực tiễn sẽ có tác dụng quan trọng đối với việc phát triển kinh tế- xã hội, đối
với việc đảm bảo cân đối về tài chính, ngân sách; đồng thời cũng tạo điều
kiện thuận lợi rất lớn cho các khâu tiếp theo, đặc biệt là khâu chấp hành
NSNN.
b) Chấp hành NSNN


14

Sau khi được giao kế hoạch Ngân sách, các co quan nhà nước ở trung
ương và địa phương có trách nhiệm phân bố dự toán Ngân sách được giao cho
các đơn vị sử dụng Ngân sách đúng với dự toán được giao kể cả về tổng mức
chi và chi tiết, đồng thời thông báo cho cơ quan Tài chính cùng cấp và KBNN
nơi giao dịch để theo dõi, cấp phát và quản lý.
Thu NSNN do ngành thuế, hải quan, Tài chính và cơ quan khác được
Bộ Tài chính uỷ quyền thu.
Căn cứ vào nhiệm vụ thu cả năm được giao và các nguồn thu dự kiến
phát sinh trong quý, cơ quan thu lập dự toán thu Ngân sách từng quý, phải
chia theo từng khu vực kinh tế, địa bàn và các đối tượng thu chủ yếu và hình
thức thu gửi cơ quan Tài chính đồng cấp.
Chi NSNN : Căn cứ vào dự toán chi NSNN năm được giao và dự toán
Ngân sách quý, căn cứ vào yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chi, KBNN tiến hành

thanh toán, chi trả cho các đơn vị dự toán.
Đơn vị dự toán các cấp lập dự toán chi Ngân sách gửi cơ quan cấp trên
, cơ quan quản lý tống họp gửi cơ quan Tài chính. Căn cứ vào dự toán Ngân
sách quý, tháng KBNN xem xét kế hoạch chi và khả năng Ngân sách đế bố trí
mức chi.
Chủ tài khoản căn cứ vào dự toán chi được duyệt ra lệnh chuẩn chi
kèm
theo hồ sơ thanh toán gửi KBNN nơi giao dịch. KBNN kiếm tra hồ sơ và lệnh
chuẩn chi của chủ tài khoản thực hiện việc thanh toán, chi trả.
Như vậy, chấp hành NSNN là quá trình sử dụng tống họp các biện pháp
kinh tế- tài chính và hành chính nhằm hiện thực hoá các chỉ tiêu ghi trong dự
toán NSNN năm. Nội dung của quá trình này là việc bố trí NSNN cho các nhu
cầu đã được phê chuấn. Việc chấp hành NSNN thuộc về tất cả các pháp nhân
và thể nhân dưới sự điều hành của Chính phủ và Uỷ ban Nhân dân các cấp,
trong đó cơ quan Tài chính có vai trò quan trọng. Cũng trong quá trình này,


15

những cơ quan quản lý Nhà nuớc đuợc pháp luật quy định có trách nhiệm
kiểm soát mọi khoản chi NSNN đảm bảo đúng dự toán, đúng chế độ hiện
hành của Nhà nước. Thực chất của quá trình chấp hành NSNN trong chu trình
NSNN là tổ chức thu NSNN và cấp phát và sử dụng kinh phí NSNN sao cho
đúng mục đích và có hiệu quả.
b) Quyết toán NSNN
Là khâu cuối cùng trong chu trình quản lý NSNN. Nó bao gồm các
công việc lập, tống hợp báo cáo quyết toán NSNN, phân tích, đánh giá các
khoản thu, chi NSNN đã thực hiện trong năm. Quyết toán thu, chi NSNN
đuợc thực hiện theo phuơng pháp từ cơ sở, tổng hợp từ dưới lên trên và phải
được Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phê chuẩn. Đó cũng chính là sự

tống kết tình hình thực hiện các khoản thu, chi của năm trước, thông qua đó
chúng ta có thể thấy được hoạt động kinh tế- xã hội của Nhà nước trong năm
ngân sách, thấy được hoạt động NSNN với tư cách là công cụ quản lý vĩ mô
của Nhà nước. Từ đó, rút ra được những kinh nghiệm cần thiết cho việc điều
hành chi N SNN trong những năm sau.
1.2.1.4. Kiêm tra, kiếm soát Ngân sách Nhà nước

Kiểm tra NSNN trong đó có kiểm soát chi NSNN qua KBNN không
phải là một giai đoạn hay một pha của chu trình quản lý NSNN mà nó được
thực hiện ở tất cả các giai đoạn của quá trình này.
Đối với khâu lập dự toán, kiếm tra NSNN là việc xem xét lại các dự
báo, đánh giá số liệu dự toán của các đơn vị lập đảm bảo phù hợp với thực tế
phát sinh, với chức năng, nhiệm vụ của đơn vị hoặc của ngành.
Đối với khâu chấp hành NSNN, là việc kiếm tra, giám sát việc thực
hiện thu, chi và sử dụng NSNN, đối chiếu việc chấp hành NSNN với các tiêu
chuấn định mức của cấp có thấm quyền phê duyệt, phải có trong dự toán


16

NSNN, đảm bảo đúng chế độ, với luật NSNN, trường hợp không đúng chính
sách, chế độ , tiêu chuẩn định mức thì yêu cầu cơ quan phân bố NSNN điều
chỉnh lại.
Đối với khâu quyết toán NSNN, kiểm tra là việc xem xét đánh giá sự
đúng đắn, tính chính xác của các loại báo cáo tổng hợp, từ đó đưa ra các kết
luận
Như vậy, kiếm tra kiếm soát NSNN (trong đó có kiếm soát chi NSNN
qua KBNN) là một chức năng của quản lý NSNN, gắn liền với quản lý
NSNN, đồng thời gắn liền với mọi hoạt động của NSNN.
1.2.2. Quán lý chi Ngân sách Nhà nước

1.2.2.1. Khái niệm quản lý chi Ngân sách Nhà nước

Quản lý chi NSNN là quá trình Nhà nước vận dụng các quy luật khách
quan, sử dụng hệ thong các phương pháp tác động đến các hoạt động chi
NSNN nhằm phục vụ tốt nhất cho việc thực hiện các chức năng mà Nhà nước
đảm nhận.
Đối tượng của quản lý chi NSNN là toàn bộ các khoản chi của NSNN
được bổ trí đế phục vụ cho việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà
nước trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.
Quản lý chi NSNN là sự liên kết hữu cơ giữa Nhà nước với tư cách là
chủ thể quản lý với khách thể quản lý là các đơn vị sử dụng NSNN.
Tác động của quản lý chi NSNN mang tính tống hợp, hệ thống bao
gồm nhiều biện pháp khác nhau, được biểu hiện dưới dạng cơ chế quản lý.
Cơ sở của quản lý chi NSNN là sự vận dụng các qui luật kinh tế- xã hội
phù họp với thực tiễn khách quan.
Mục tiêu của quản lý chi NSNN là với một số tiền nhất định được sử
dụng sẽ đem lại hiệu quả cao nhất về kinh tế- xã hội. Đồng thời giải quyết hài


17

hoà mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa một bên là Nhà nước và một bên là
các chủ thể khác trong xã hội.
1.2.2.2. Nội dung và phân ỉoại chi NSNN

Cơ cấu chi NSNN được hiểu là hệ thống các khoản chi NSNN bao gồm
các khoản chi và tỷ trọng của nó trong tổng số chi NSNN. Nhằm phân tích,
đánh giá, định hướng chi và đáp ứng các yêu cầu của công tác quản lý đã
được xác định trước, người ta tiến hành phân loại chi theo nhiều tiêu thức
khác nhau.

Phân loại chi NSNN là việc xắp xếp các khoản chi NSNN theo những
tiêu thức nhất định vào các nhóm, các loại chi.
Việc phân loại chi NSNN có ý nghĩa rất quan trong trong công tác quản
lý chi NSNN. Qua việc phân loại chi NSNN sẽ có biện pháp quản lý hiệu quả,
phù họp với đặc điểm, tính chất của từng khoản chi. Mục đích của việc phân
loại chi NSNN là nhằm: Thực hiện kế toán chi NSNN; thống kê tình hình chi
NSNN, giúp cho việc xây dựng dự toán NSNN, giúp cho cơ quan có thẩm
quyền đề ra những chính sách thích hợp nhất trong việc quản lý và điều hành
chính sách chi tiêu NSNN theo kế hoạch hàng năm, trung hạn và dài hạn; tạo
điều kiện cho các cơ quan quản lý Nhà nước về Ngân sách, các đơn vị sử
dụng Ngân sách, nhân dân... theo dõi, kiểm tra, giám sát, kiếm toán tình hình
quản lý và sử dụng nguồn lực Tài chính công, thực hiện công khai, dân chủ
về Tài chính ở các cấp; xác định trách nhiệm của các đối tượng có liên quan
đến phân bổ và sử dụng nguồn lực Tài chính công.
Thông thường, việc phân loại chi NSNN gắn liền với tiêu thức phân loại và
có một số tiêu thức phân loại chủ yếu sau:
Theo mục đích kinh tế- xã hội của các khoản chi, thì chi NSNN được
chia thành chi cho đầu tư phát triển và chi cho tiêu dùng.


18

Chi cho đầu tư phát triển là quá trình Nhà nước sử dụng một phần vốn
tiền tệ đã được tạo lập thông qua hoạt động thu NSNN đế đầu tư xây dựng co
sở hạ tầng kinh tế- xã hội, đầu tư phát triển sản xuất nhằm đảm bảo mục tiêu
ốn định và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Các khoản chi này phần lớn sẽ tạo ra
sản phẩm tiêu dùng trong tương lai, làm cho nền kinh tế tăng trưởng. Do vậy,
người ta còn gọi các khoản chi này là chi tích luỹ.
Chi cho tiêu dùng là những khoản chi dùng đế mua sắm hàng hoá, dịch
vụ tiêu dùng ngay trong hiện tại đế đảm bảo hoạt động của các cơ quan Nhà

nước, các cá nhân và tố chức.
Phân loại chi NSNN theo mục đích kinh tế xã hội cho ta biết một cách
toàn diện và ảnh hưởng lâu dài của việc chi NSNN đến sự phát triển kinh tếxã hội, thấy rõ những mục tiêu mà Chính phủ đang theo đuối. Đồng thời còn
cho dân chúng biết được chính sách đầu tư phát triển kinh tế của Chính phủ
khi sử dụng các nguồn lực quốc gia. Mặt khác, cách phân loại này còn cho ta
thấy tính chất và đặc điểm của chi đầu tư phát triển và chi tiêu dùng có những
khác biệt cơ bản. Từ đó nguyên tắc quản lý, quy trình quản lý và tổ chức
kiếm soát, thanh toán các loại chi này cũng phải khác nhau.
Theo tính chất của các khoản chi, thì chi NSNN được chia thành: Chi
cho y tế; chi cho giáo dục; chi quản lý Nhà nước; chi phúc lợi xã hội; chi đầu
tư phát triến kinh tế- xã hội.
Cách phân loại này cho ta biết cụ thể chi của NSNN cho từng lĩnh vực
và các hoạt động của Chính phủ hướng về lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội.
Theo yếu tổ, thì chi NSNN được chia thành: Chi đầu tư; chi thường
xuyên; chi khác.
Theo đổi tượng trực tiếp của moi khoản chi, thì chi NSNN có thế chia
thành: Chi cho con người (bao gồm chi trả lương, các khoản có tính chất
lương...); chi mua sắm vật liệu, dụng cụ (mua sắm vật liệu, dụng cụ... cho các


19

cơ quan Nhà nước); chi xây dựng, sửa chữa; chi trợ cấp, tài trợ, hoàn trả nợ
vay.
Cách phân loại này cho phép thiết lập qui chế của từng đối tượng chi

chế độ kiểm soát riêng biệt, đồng thời có thể qui định rõ trách nhiệm về quản
lý và sử dụng công quỹ của từng loại viên chức Nhà nước có liên quan.
Theo tiêu thức thong kê Tài chỉnh của Chính phủ, thì người ta chia các
khoản chi NSNN theo Mục lục Ngân sách Nhà nước. Đây là cách phân loại

thông dụng, theo chuẩn mực của Quỹ tiền tệ quốc tế (phân loại GFS) và được
sử dụng nhiều nhất đế phục vụ cho công tác lập, chấp hành, kế toán và quyết
toán quỹ NSNN. Mồi nước có một hệ thống mục lục NSNN riêng, tuy nhiên
trong xu thế toàn cầu hoá thì kết cấu mục lục NSNN cũng có xu hướng đồng
nhất.
1.2.2.3. Đặc điềm quản lý chi Ngân sách Nhà nước

Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh mà ở mỗi quốc gia có một cơ chế quản
lý chi NSNN riêng. Nhưng có the nhận thấy cơ chế quản lý chi có một số đặc
điểm chủ yếu sau:
Một là, chi NSNN được quản lý bằng pháp luật. Mọi Nhà nước đều
quản lý chi NSNN bằng luật. Đây là đặc điểm quan trọng. Nhìn nhận và đánh
giá đúng đặc điểm này sẽ giúp Nhà nước và các cơ quan chức năng đưa ra các
cơ chế, chính sách quản lý và điều hành chi đúng luật, đảm bảo tính hiệu quả
và công khai.
Hai là, quản lý chi NSNN sử dụng tổng hợp các biện pháp, nhưng
quan trọng nhất là biện pháp hành chính- tổ chức. Biện pháp này tác động vào
đối tượng quản lý theo 2 hướng:
- Thứ nhất, Nhà nước tác động trực tiếp đổi với các chủ thế sử dụng
nguồn lực NSNN bằng việc ra các mệnh lệnh hành chính bắt buộc đảm bảo sự
tuân thủ một cách vô điều kiện.


20

- Thứ hai, cơ quan quyền lực Nhà nuớc ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật quy định biện pháp tố chức, sắp xếp, bố trí các hoạt động chi
NSNN vào những khuôn mẫu đã được định hình.
Biện pháp hành chính- tố chức đảm bảo tính thống nhất, tính chỉ huy,
quyền lực của Nhà nước trong quản lý chi NSNN. Đặc điểm này thế hiện rõ

nét trong cơ chế quản lý chi NSNN ở Việt Nam. NSNN Việt Nam là Ngân
sách được quản lý tập trung thống nhất, đảm bảo quyền quyết định của Quốc
hội và sự điều hành thống nhất của Chính phủ đối với NSNN; đồng thời có
phân công, phân cấp quản lý, tăng cuờng trách nhiệm của chính quyền địa
phương.
Hiệu quả của công tác quản lý chi NSNN khó đo được bằng các chỉ
tiêu
định lượng. Trong nhiều trường hợp kết quả của các khoản chi NSNN đem lại
có thế lượng hoá được. Nhưng đối với kết quả của công tác quản lý chi
NSNN lại rất trừu tượng và khó định lượng. Ví dụ, chất lượng của dự toán
NSNN, chất lượng của công tác kiểm soát chi... Tuy nhiên, hiệu quả công tác
quản lý chi NSNN sẽ góp phần quyết định đến hiệu quả của các khoản chi
NSNN. Vì vậy, khi xem xét hiệu quả công tác quản lý chi NSNN đòi hỏi
chúng ta phải có quan điểm biện chứng, quan điểm toàn diện.
1.2.3. Kiếm soát chi Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà nước
1.2.3.1. Vai trò của kiếm soát chi Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc

Nhà nước
Kiểm soát chi NSNN là việc các cơ quan Nhà nuớc có thẩm quyền thực
hiện thẩm định, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN diễn ra tại các khâu
của quá trình chi NSNN, từ lập dự toán, chấp hành dự toán, đến duyệt quyết
toán NSNN, nhằm đảm bảo mỗi khoản chi NSNN đều được dự toán tù' trước,
được thực hiện đúng dự toán được duyệt, đúng chế độ, định mức, tiêu chuẩn


21

qui định và có hiệu quả kinh tế- xã hội. Vì vậy, kiếm soát chi NSNN có các
vai trò quan trọng sau:
Một là, quản lý các khoản chi NSNN đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả

vừa là nguyên tắc, vừa là yêu cầu của quản lý kinh tế Tài chính. Đồng thời,
còn là mối quan tâm lớn hiện nay của các cấp từ Quốc hội, Chính phủ, đến
các bộ, ngành và các địa phương. Kiếm soát chặt chẽ các khoản chi NSNN có
ý nghĩa quan trọng trong việc tập trung nguồn lực Tài chính đế phát triến kinh
tế- xã hội; thực hành tiết kiệm, chống các hiện tượng tiêu cực, chi tiêu lãng
phí; góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ và làm lành mạnh hoá nền
Tài chính Quốc gia. Bên cạnh đó, nó còn góp phần nâng cao trách nhiệm cũng
như phát huy đuợc vai trò của các ngành, các cấp, các cơ quan, đơn vị có liên
quan đến việc quản lý và sử dụng NSNN.
Hai là, các khoản chi NSNN thường mang tính không hoàn trả trực
tiếp. Tính không hoàn trả trục tiếp thế hiện ở chỗ các đơn vị được NSNN cấp
phát kinh phí sẽ không phải hoàn trả lại trực tiếp cho Nhà nước số kinh phí đó
sau một thời gian sử dụng, mà phải “hoàn trả” cho Nhà nước bằng chính kết
quả công việc đã được Nhà nước giao cho. Tuy nhiên, việc lượng hoá các kết
quả của các khoản chi NSNN thường rất khó khăn và nhiều khi không toàn
diện. Mặt khác, lợi ích của các khoản chi NSNN mang lại thường ít gắn với
lợi ích cụ thế, cục bộ. Vì thế, sự quan tâm của người sử dụng NSNN phần nào
bị hạn chế. Do vậy, cần thiết phải có các cơ quan chức năng có thẩm quyền
thực hiện kiếm tra, kiếm soát các khoản chi của NSNN đế đảm bảo cho việc
Nhà nước sẽ nhận được những kết quả tương xứng với số tiền mà Nhà nước
đã bỏ ra.
Ba là, xuất phát tù’ tính chất, đặc điếm của các khoản chi NSNN là diễn
ra trên phạm vi rộng, liên quan đến nhiều đối tượng trong xã hội. Trong khi
đó, cơ chế quản lý chi NSNN thì chỉ quy định được những vấn đề chung nhất,


22

mang tính nguyên tắc, không thể bao quát hết tất cả các vấn đề nảy sinh trong
quá trình thực hiện chi NSNN. Hơn nữa, cùng với sự phát triển kinh tế- xã

hội, hoạt động chi NSNN cũng ngày càng đa dạng hơn, phức tạp hơn. Điều
này làm cho cơ chế quản lý chi nhiều khi không theo kịp với sự biến động của
hoạt động chi NSNN. Ví dụ nhu: cấp phát nhưng thực chất chỉ mang tính chất
xuất quỹ NSNN, cho đơn vị rút về chi tiêu; phân bố dự toán không chính xác;
hệ thống tiêu chuẩn, định mức không đồng bộ, xa rời thực tế; cơ chế quản lý
chi một số lĩnh vực đặc biệt như chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi chương trình
mục tiêu, chi Ngân sách xã chưa phù họp; công tác kế toán, quyết toán chưa
nghiêm túc, chặt chẽ... Tình trạng này đã tạo ra những kẽ hở trong cơ chế
quản lý chi NSNN, tạo môi trường cho tham nhũng, lãng phí nảy sinh. Vì vậy,
phải có cơ quan có thấm quyền thực hiện kiếm tra, giám sát quá trình chi tiêu
để phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hiện tượng tiêu cực; đồng thời phát
hiện những kẽ hở trong cơ chế quản lý. Từ đó, có những kiến nghị nhằm sửa
đối, bố sung hay kịp thời ban hành những cơ chế quản lý phù hợp, chặt chẽ
hơn.
Bốn là, hội nhập kinh tế khu vục và quốc tế là xu thế tất yếu và là một
yêu cầu khách quan đối với một quốc gia trên con đường phát triển. Một nền
kinh tế hướng tới mở cửa và hội nhập hết sức năng động và đầy những thách
thức gay gắt cũng đã và đang đặt ra yêu cầu về sự hoàn thiện chức năng của
Tài chính. Tài chính không chỉ đảm nhận chức năng phân phối, giám đốc
bằng đồng tiền, mà tòng bước phải tạo dựng, duy trì, kiểm soát có hiệu quả
thị trường Tài chính và các luồng vốn cho sự tăng trưởng kinh tế. Mặt khác,
hội nhập là sự thừa nhận và vận hành nền kinh tế Tài chính tuân thủ các
nguyên tắc, thông lệ, các chuẩn mực quốc tế. Trong đó, tụ1 do hoá, minh
bạch,
công khai... là những nguyên tắc cơ bản của hội nhập. Chính vì vậy, vai trò
của kiếm soát chi lại càng cần thiết, nhằm quản lý chặt chẽ ngân quỹ quốc gia,


23


đảm bảo vốn được sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả. Từ đó, tăng năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, đồng thời góp phần xây dựng một nền Tài chính
công khai, minh bạch, đáp ứng được các yêu cầu của hội nhập.
1.2.3.2. Tô chức kiêm soát chi Ngân sách Nhà nước qua Kho bạc Nhà

nước
a) Quy trình kiêm soát chi Ngân sách Nhà nước

Lập kế hoạch kiếm soát căn cứ vào kế hoạch phát triến kinh tế-xã hôi
của các cấp chính quyền, trong đó có nhu cầu chi tiêu NSNN trong giai đoạn
nhất định(thường là kế hoạch 5 năm), căn cứ vào các văn bản pháp lý của
Chính phủ, của Bộ Tài chính. KBNN lập kế hoạch chi tiêu NSNN phù hợp
với kế hoạch phát triển Kinh tế-xã hội, chuẩn bị nguồn thu và huy động các
nguồn Tài chính đáp ứng cho nhu cầu chi NSNN trong giai đoạn đó.
Giao nhiệm vụ kiếm soát là bước phân công nhiệm vụ kiếm soát chi
NSNN qua KBNN cho tùng bộ phận chức năng của ngành KBNN, mỗi bộ
phận chức năng khác nhau kiểm soát theo đặc thù của nguồn vốn NSNN
Soát xét lại quy trình kiểm soát là việc thông qua số liệu kiếm soát,
tống họp, đánh giá kết quả và thực trạng hoạt động kiếm soát chi NSNN qua
KBNN, tình hình huy động vốn cho NSNN, tổng hợp, khai thác sự biến động
của NSNN tù’ đó đề xuất các biện pháp phù hợp thể tham mưu cho các cấp
Chính quyền nâng cao hiệu quả trong chỉ đạo, quản lý, điều hành NSNN. Các
số liệu dùng đế tổng họp phải đảm bảo đầy đủ, kịp thời, chính xác, trung thực.
b) Phương thức kiêm soát chi Ngân sách Nhà nước

Tương ứng với chu trình quản lý NSNN, có các phương thức kiểm soát
chi NSNN là: phương thức kiếm soát lập dự toán chi NSNN; phương thức
kiểm soát chấp hành chi NSNN; phương thức kiểm soát quyết toán chi
NSNN.



24

bỉ. Phương thức kiếm soát Lập dự toán
Đối với các đơn vị thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính Phủ quy định chế độ tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với
các cơ quan nhà nước. Hàng năm, căn cứ vào các văn bản hướng dẫn lập dự
toán của Bộ Tài chính và hướng dẫn của cơ quan quản lý cấp trên, căn cứ vào
tình hình thực hiện nhiệm vụ của năm trước và dự kiến cho năm kế hoạch,
KBNN tiến hành kiểm soát việc đơn vị tự chủ lập dự toán ngân sách theo
đúng quy định, trong đó xác định phần dự toán chi ngân sách nhà nước giao
thực hiện chế độ tự chủ và phần dự toán chi ngân sách nhà nước giao không
thực hiện chế độ tự’ chủ; kiểm soát việc phân bố dự toán cho các đơn vị trực
thuộc (nếu là đơn vị dự toán cấp trên có các đơn vị trực thuộc).
Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện chế độ tự chủ theo
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và Tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập. Việc kiểm soát căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của đơn vị
được cấp có thấm quyền giao, nhiệm vụ của năm kế hoạch, chế độ chi tiêu tài
chính hiện hành; căn cứ kết quả hoạt động sự nghiệp, tình hình thu, chi tài
chính của năm trước liền kề, kiểm soát số kinh phí của đơn vị đề nghị ngân
sách nhà nước bảo đảm hoạt động thường xuyên (đổi với đơn vị sự nghiệp tự
bảo đảm một phần chi phí hoạt động và đơn vị sự nghiệp do ngân sách nhà
nước bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động); và kiểm soát phần dự toán kinh phí
chi không thường xuyên theo quy định hiện hành.
Đối với các đơn vị quản lý hành chính thuần tuý, không thuộc hai loại
đơn vị như trên, việc kiếm soát dự toán của đơn vị căn cứ các quyết định giao
và phân bổ dự toán theo đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức của của các cơ
quan có thấm quyền quyết định.



25

b2. Phương thức kiếm soát Chấp hành chi NSNN
Đối vói các đon vị thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị định số
130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 của Chính Phủ quy định chế độ tự chủ, tự
chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với
các cơ quan nhà nước. Kiểm soát chi các khoản chi thực hiện chế độ tự chủ
bao gồm: Tiền lương; tiền công; phụ cấp lương; tiền thưởng; phúc lợi tập thể;
các khoản đóng góp; các khoản thanh toán cho cá nhân; chi thanh toán dịch
vụ công cộng; vật tư văn phòng; thông tin, tuyên truyền, liên lạc; hội nghị;
công tác phí; chi phí thuê mướn; chi sửa chữa thường xuyên tài sản cố định;
chi phí nghiệp vụ chuyên môn; chi khác.
Kiếm soát các khoản chi không thực hiện chế độ tự chủ bao gồm: Chi sửa
chữa lớn, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới trụ sở, nhà công vụ, trang thiết bị,
phương tiện làm việc; chi mua sắm tài sản có định; chi đoàn ra, đoàn vào; chi
đào tạo cán bộ, công chức.
Việc kiểm soát đối với các khoản kinh phí thực hiện tự chủ căn cứ vào
các điều kiện: Quyết định của cơ quan có thấm quyền cho phép đơn vị thực
hiện tự’ chủ chi và nguồn kinh phí được giao tự’ chủ; dự toán được duyệt
trong
phạm vi kinh phí được giao tự chủ theo mục lục ngân sách; còn đủ kinh phí
đế thanh toán; đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng NSNN hoặc người uỷ
quyền chuấn chi; có đủ hồ sơ chứng tù’ liên quan tuỳ theo tính chất của tùng
khoản chi.
Ngoài ra, trên cơ sở đề án tự chủ chi đã được cấp có thấm quyền phê
duyệt, đơn vị phải xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và quy chế trả lương
thông qua Hội nghị cán bộ công chức trong đơn vị quyết định làm cơ sở pháp
lý cho việc kiếm soát chi.

Đối với các khoản không thực hiện tự chủ, căn cứ vào dự toán kinh phí
của đơn vị được duyệt, KBNN thực hiện kiếm soát, thanh toán đối với khoản


26

chi này cho đơn vị theo quy định hiện hành về kiểm soát chi thường xuyên
của NSNN và chi đầu tư xây dựng cơ bản.
Với việc sử dụng các khoản kinh phí tiết kiệm KBNN thực hiện thanh
toán cho đơn vị theo quy chế sử dụng kinh phí tiết kiệm do đơn vị xây dựng
phù hợp với các quy định của Nhà nước. Het năm ngân sách, đơn vị phải thực
hiện quyết toán kinh phí tự’ chủ chi theo đúng các mục chi của mục lục
NSNN, có xác nhận số thực chi của KBNN, kèm theo bản thuyết minh quyết
toán năm gồm cả việc phân tích tình hình, nội dung sử dụng kinh phí tiết kiệm
được trong năm gửi cơ quan Tài chính.
Đối vói đơn vị sự nghiệp công lập, thực hiện chế độ tự chủ theo Nghị
định số 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự’ chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tố chức bộ máy, biên chế và Tài chính đối với đơn vị sự
nghiệp công lập. Việc kiếm soát, thanh toán đơn vị sự nghiệp có thu gồm có 2
loại: Đơn vị sự nghiệp tự’ bảo đảm toàn bộ chi phí hoạt động và đơn vị sự
nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động. Đơn vị sự nghiệp được mở 2
tài khoản tại KBNN: Tài khoản dự toán đế nhận kinh phí cấp theo dự toán từ
NSNN; Tài khoản tiền gửi đế thực hiện thu, chi các khoản phí, lệ phí thuộc
NSNN nhưng đơn vị được phép giữ lại đế chi theo quy định. Ngoài ra, đối với
các khoản thu, chi của hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ đơn vị được mở
tài khoản tại KBNN hoặc Ngân hàng.
Việc kiếm soát căn cứ váo điều kiện cấp phát, thanh toán theo quy định
KBNN thực hiện cấp phát, thanh toán cho đơn vị khi có đủ các điều kiện sau:
Đã có trong dự toán được cơ quan có thẩm quyền duyệt: Đối với năm đầu
tiên, đơn vị phân bố dự toán đã được Bộ chủ quản duyệt (đối với các đơn vị

sự nghiệp trung ương), Chủ tịch UBND các cấp duyệt (đối với các đơn vị sự
nghiệp địa phương) chi tiết theo mục lục NSNN và một số nội dung chi chủ
yếu gửi cơ quan quản lý cấp trên, cơ quan Tài chính và KBNN nơi giao dịch.


×