Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

LATS Đánh giá tác động của các yếu tố nội sinh đến kết quả hoạt động của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.5 KB, 12 trang )

CHƯƠNG I. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1. Sự cần thiết của đề tài
HTX nông nghiệp giúp tăng cường sức mạnh của xã viên, những người
nông dân (Hồ Văn Vĩnh, 2005). Xã viên có cơ hội tiếp cận các sản phẩm đầu vào
với giá hợp lý, được hưởng các dịch vụ với chất lượng cao và giá thành thấp hơn
so với thị trường. Mặt khác, các xã viên được HTX bao tiêu hoặc trợ giúp tiếp cận
thị trường, không bị tư thương ép giá.
HTX nông nghiệp còn là tác nhân có vai trò liên kết kinh tế theo cơ chế
vận hành của nền kinh tế thị trường. HTX là đầu mối liên kết giữa cơ quan quản
lý nhà nước, doanh nghiệp, khách hàng và người nông dân.
Các HTX nông nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn, chưa phát huy được
hết thế mạnh của HTX. Các hoạt động dịch vụ của các HTX nông nghiệp có quy
mô nhỏ, chưa đáp ứng được về đầu ra cho các xã viên. Hiệu quả kinh doanh của
HTX nông nghiệp thấp, các HTX nông nghiệp chưa đủ sức cạnh tranh trên thị
trường, chưa có sức lôi cuốn, hấp dẫn xã viên tham gia và đóng góp xây dựng
HTX.
Các nghiên cứu hiện nay về hoạt động của HTX nông nghiệp tại Việt
Nam tập trung nhiều ở việc phân tích tác động từ chính sách nhà nước, các nghiên
cứu mới dừng ở phương pháp định tính, chưa chỉ rõ được đâu là nguyên nhân cốt
lõi, mức độ quan trọng của các yếu tố. Do vậy, nguyên nhân và giải pháp có nhiều
nhưng chưa thật đúng và thật trúng (Bùi Văn Huyền, 2010).
Từ những lý do trên, đề tài: ‘‘Đánh giá tác động của các yếu tố nội sinh
đến kết quả hoạt động của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng
sông Hồng’’ có ý nghĩa lý luận và giá trị thực tiễn. Nghiên cứu nhằm kiểm định
các giả thuyết, tìm ra các nhân tố bên trong tác động đến kết quả hoạt động của
các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu tổng quát: Đánh giá tác động của các nhân tố nội sinh đến kết quả
hoạt động của HTX và đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao kết quả hoạt động
của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng
- Các mục tiêu cụ thể:


+ Luận giải cơ sở lý luận, thực tiễn về các nhân tố nội sinh và tác động của
chúng đến kết quả hoạt động của HTX trong lĩnh vực vực nông nghiệp ở đồng
bằng sông Hồng;
+ Nhận diện và đánh giá tác động của các nhân tố nội sinh đến kết quả hoạt
động của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng
+ Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao kết quả hoạt động của HTX thông
qua phát huy các nhân tố nội sinh có tác động đến HTX trong lĩnh vực nông
nghiệp ở đồng bằng sông Hồng
1

1.3. Câu hỏi nghiên cứu
- Kết quả hoạt động của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông
Hồng được thể hiện qua các tiêu chí đánh giá nào?
- Các yếu tố nội sinh tác động đến kết quả hoạt động của các HTX trong lĩnh
vực nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng như thế nào?
- Đánh giá mức độ quan trọng của mỗi yếu tố nội sinh nói trên đối với kết
quả hoạt động của từng loại hình HTX trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng
sông Hồng?
1.4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các yếu tố nội sinh
thuộc về con người trong HTX tác động đến kết quả hoạt động của HTX trong
lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm hai nhóm: Nhóm yếu tố về năng lực quản trị của
ban chủ nhiệm HTX và nhóm yếu tố về đến từ xã viên HTX. Kết quả hoạt động
của HTX bao gồm các kết quả về kinh tế của HTX và kết quả về kinh tế của xã
viên do HTX đem lại.
Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Đề tài có đối tượng nghiên cứu là
các tác động của biến số nội sinh đến kết quả hoạt động của các HTX trong lĩnh
vực nông nghiệp
Phạm vi về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện 4 tỉnh,
thành phố ở đồng bằng sông Hồng bao gồm: Hà Nội, Hà Nam, Nam Định và Thái

Bình.
1.5. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.5.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài.
Trường phái lý luận về vai trò của các yếu tố nội sinh của HTX tác
động đến hoạt động của các HTX nông nghiệp
Van Der Walt (2005) nghiên cứu về sự thất bại của các hợp tác xã đã đưa
ra các yếu tố nguyên nhân đó là sự quản lý yếu kém, mâu thuẫn giữa các thành
viên hợp tác xã về quyền lợi và nghĩa vụ và sự thiếu hụt về tài chính.
Daman Prakash (2000) đưa ra các yếu tố giúp cho các HTX nông nghiệp
có thể thành công đó là (1) Xã viên là những người chủ thực sự của HTX, thông
qua ban quản trị, ban chủ nhiệm, các xã viên điều hành hoạt động của HTX nhằm
phục vụ cho nhu cầu của chính xã viên, (2) Hợp tác xã được quản lý hiệu quả bởi
ban quản trị, ban kiểm soát và ban chủ nhiệm được bầu cử dân chủ, là những
người có kinh nghiệm, được đào tạo (3) Các HTX cần phải đối thoại về chính
sách với chính phủ.
Machethe (1990) khi nghiên cứu về những hợp tác xã không thành công
tại Nam Phi đã chỉ ra rằng nguyên nhân chính đó là các thành viên hợp tác xã
không hiểu rõ về mục đích của hợp tác xã, quyền và nghĩa vụ của các xã viên và
cách thức quản lý hoạt động kinh doanh của hợp tác xã. Xã viên không hiểu việc

2


tồn tại và phát triển của hợp tác xã là do những đóng góp của chính xã viên. Rất
nhiều xã viên chỉ quan tâm đến quyền lợi mà quên đi nghĩa vụ của họ với HTX.
Osterbeg và Nilson (2009) đã chỉ ra rằng sự tham gia của xã viên vào
hoạt động quản trị HTX có tác động tích cực đến kết quả hoạt động của các HTX.
Sự tham gia của xã viên trong HTX bao gồm việc tham gia các cuộc họp; làm
việc trong ủy ban; tham gia vào việc tuyển chọn các thành viên mới; và quyền bổ
nhiệm. Sự tham gia một cách bình đẳng của các thành viên trong việc quản trị của

HTX là điều tạo nên sự khác biệt của HTX với các tổ chức kinh tế khác, là một
nhân tố mang lại giá trị gia tăng cho HTX (Gray, Kraenzle, 1998).
Trường phái lý luận về vai trò của các yếu tố môi trường bên ngoài
HTX tác động đến kết quả hoạt động của các HTX nông nghiệp:
Daman Prakash (2000) chỉ ra rằng trong giai đoạn đầu phát triển các
HTX nông nghiệp, chính phủ cần có các chính sách về vốn, công nghệ cho các
HTX. Aimin Chen và Shunfeng Song (2006) đề cập về sự cần thiết hay vai trò
của chính quyền trong việc cung cấp tài chính cho khu vực nông thôn và các hợp
tác xã nông nghiệp, các chính sách hỗ trợ lãi suất cho khu vực này.
1.5.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.
Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái (2005) xây dựng mô hình phát triển
cho HTX nông nghiệp ở Việt Nam đến năm 2020 ở hai dạng (1) kinh doanh đơn
thuần dịch vụ nông nghiệp cho kinh tế hộ nông dân, (2) HTX nông nghiệp tổng
hợp bao gồm các hoạt động dịch vụ nông nghiệp, hoạt động sản xuất nông
nghiệp, công nghiệp chế biến và tiêu thụ nông sản. Để phát triển hai mô hình này
nghiên cứu chỉ ra rằng cần thực hiện 5 nhóm giải pháp bao gồm: (1) nhóm giải
pháp về nhận thức, (2) nhóm giải pháp thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển
theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển các ngành nghề phi nông nghiệp ở nông
thôn, (3) nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả công tác cán bộ HTX nông nghiệp,(4)
nhóm giải pháp lựa chọn mô hình HTX nông nghiệp phù hợp và (5) nhóm giải
pháp về kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước và nâng cao hiệu lực quản lý nhà
nước đối với các HTX nông nghiệp.
Chu Tiến Quang (2012) chỉ ra các nhân tố nội sinh và ngoại sinh tác
động đến hoạt động của từng loại HTX trong lĩnh vực nông nghiệp phân theo
ngành nghề, các yếu tố đó bao gồm năng lực quản trị, kinh doanh của ban chủ
nhiệm HTX, năng lực sản xuất của xã viên HTX, sự cam kết, sự đồng thuận của
xã viên, vốn và vốn xã hội của HTX.
1.5.3. Tổng quan về các phương pháp đánh giá tác động trong các nghiên
cứu về HTX trên thế giới và tại Việt Nam
Các nghiên cứu về HTX trên thế giới và Việt Nam đang sử dụng hai

phương pháp đánh giá tác động đó là: Phương pháp định tính; phương pháp định
lượng.

3

Phương pháp định tính nhằm phát hiện ra các quy luật thông qua việc
nghiên cứu sâu về một số mẫu nghiên cứu có đặc tính nổi trội. Chu Tiến Quang
(2012) sử dụng phương pháp quan sát, phỏng vấn và phân tích các số liệu về kết
quả hoạt động kinh doanh của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp có kết quả
hoạt động tốt để phát hiện ra yếu tố tác động đến sự thành công của các HTX này
như các yếu tố về năng lực của ban chủ nhiệm HTX, sự đồng thuận của xã viên.
Phương pháp nghiên cứu định lượng nhằm chứng minh các quy luật đã
được nghiên cứu định tính phát hiện trước đó trên cơ sở phân tích mẫu nghiên
cứu số lượng lớn, có tính ngẫu nhiến. Các quy luật tác động được chứng minh qua
việc kiểm định các giả thuyết nghiên cứu (hypothesis). Ví dụ như Azzeddine
M.Azzam và Michael Turner (1991) sử dụng các 58 biến quan sát để đo lường 10
chỉ tiêu về quản lý như quản lý nhân sự, quản lý marketing, quản lý chiến lược,
quản lý hoạt động,… và đo lường biến phụ thuộc kết quả hoạt động HTX thông
qua chỉ tiêu tài chính như doanh thu, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu.Tiếp theo,
nghiên cứu tiền hành sử dụng mô hình kinh tế lượng, hồi quy để đánh giá tác
động, kiểm nghiệm giả thuyết về năng lực quản lý có tác động như thế nào đến
kết quả hoạt động của HTX.
1.6. Mô hình nghiên cứu
Đề tài kiểm chứng hai nhóm yếu tố tác động đến kết quả hoạt động của
các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp thông qua hai mô hình nghiên cứu:
Bảng 1: Mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến “Kết quả kinh tế của HTX”
Các biến nội sinh độc lập:
(7 biến nghiên cứu- 35 biến quan sát )
1. Năng lực lập kế hoạch ( 4 biến quan sát)


Biến phụ thuộc:

2. Năng lực tổ chức (5 biến quan sát)
3. Kỹ năng lãnh đạo (6 biến quan sát)

Kết quả kinh tế của

4. Năng lực kiểm soát (4 biến quan sát)

HTX (8 biến quan

5. Sự cam kết cảm xúc của xã viên (6 biến quan sát)
6. Sự cam kết duy trì của xã viên (6 biến quan sát)
7. Sự tham gia vào hoạt động quản trị HTX của xã
viên (4 biến quan sát)

4

sát)


Bảng 2: Mô hình nghiên cứu các yếu tố tác động đến “Kết quả kinh tế của xã viên
do HTX đem lại”
Nhóm biến nội sinh độc lập
(7 biến nghiên cứu- 35 biến quan sát )
1. Năng lực lập kế hoạch ( 4 biến quan sát)

Biến phụ thuộc:

2. Năng lực tổ chức (5 biến quan sát)


Kết quả kinh tế

3. Kỹ năng lãnh đạo (6 biến quan sát)

của xã viên do

4. Năng lực kiểm soát (4 biến quan sát)

HTX đem lại (6

5. Sự cam kết cảm xúc của xã viên (6 biến quan sát)

biến quan sát)

6. Sự cam kết duy trì của xã viên (6 biến quan sát)
7. Sự tham gia vào hoạt động quản trị HTX của xã
viên (4 biến quan sát)
1.7. Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định
tính và phương pháp định lượng.
Phương pháp định tính: Một số HTX tiêu biểu được phỏng vấn sâu để
phát hiện các yếu tố nội sinh giúp các HTX hoạt động tốt. Phương pháp định tính
cũng được sử dụng để phát hiện các biểu hiện để đo lường các biến nghiên cứu.
Phương pháp định lượng: Nghiên cứu tiến hành điều tra mẫu gồm 180
HTX trong lĩnh vực nông nghiệp. Các biến nghiên cứu trong mô hình được đo
lường bằng các biến quan sát. Các biến quan sát được xây dựng dựa trên cơ sở lý
luận, các lý thuyết, các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước và nghiên cứu
định tính được thực hiện trước đó. Sau khi thu thập dữ liệu, hệ thống thang đo của
các biến nghiên cứu được đánh giá thông qua việc phân tích nhân tố khám phá

(Exploratory Factor Analysis - EFA). Biến nghiên cứu (biến tiềm ẩn) được tính
bằng trung bình cộng của các biến quan sát sau khi đã thực hiện phân tích nhân tố
khám phá. Sau đó, nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính với phương
pháp bình phương tối thiểu (OLS) để xem xét tác động của các yếu tố nội sinh tới
kết quả hoạt động của HTX.
Dữ liệu nghiên cứu:
Dữ liệu thứ cấp: Dữ liệu từ Bộ Kế hoạch đầu tư, Tổng cục thống kê, Liên
minh HTX Việt Nam và các nghiên cứu trước được sử dụng để minh họa cho sự
phát triển, thực trạng của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.

5

Dữ liệu sơ cấp: Nghiên cứu sinh hợp tác với Liên minh HTX Việt Nam
(VCA), Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tiến hành điều tra 180 HTX trong lĩnh
vực nông nghiệp tại đồng bằng sông Hồng trong đó có 60 HTX sản xuất nông
nghiệp, 60 HTX dịch vụ nông nghiệp và 60 HTX chế biến và tiêu thụ sản sản
phẩm. Các HTX được điều tra tại 4 tỉnh, thành phố bao gồm Hà Nội, Hà Nam,
Nam Định, Thái Bình (mỗi tỉnh lựa chọn 45 HTX trong lĩnh vực nông nghiệp).
Đối tượng được điều tra: Nghiên cứu sinh tiến hành phát bảng hỏi cho 2
nhóm đối tượng. Nhóm đối tượng 1: chủ nhiệm HTX hoặc thành viên ban chủ
nhiệm HTX (mỗi HTX một phiếu hỏi thuộc nhóm 1) và nhóm đối tượng 2: Xã
viên HTX (mỗi HTX phát 01 phiếu hỏi cho xã viên HTX), xã viên tham gia điều
tra không phải là thành viên ban quản trị, ban chủ nhiệm, ban kiểm soát hay kế
toán trưởng tại HTX.
1.8. Dự kiến những đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án dự kiến có những đóng góp mới về khoa học như sau:
- Nhận diện các nhân tố nội sinh tác động đến kết quả hoạt động của
HTX trong lĩnh vực nông nghiệp;
- Sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng để đánh giá
tác động, tìm ra nhân tố tác động mạnh của các nhân tố nội sinh đến kết quả hoạt

động của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp phát huy các yếu tố nội sinh có tác động
tới kết quả hoạt động của các HXT trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông
Hồng, từ đó thúc đẩy các HTX phát triển.
1.9. Kết cấu của luận án
Đề tài được chia làm 5 chương:
Chương I. Phần mở đầu
Chương II. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tác động của các yếu tố nội sinh đến kết
quả hoạt động của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp
Chương III. Tổng quan về quá trình phát triển HTX trong lĩnh vực nông nghiệp
tại Việt Nam
Chương IV. Thực trạng tác động của các yếu tố nội sinh đến hoạt động và kết quả
hoạt động của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp
Chương V. Một số giải pháp nâng cao kết quả hoạt động của các HTX trong lĩnh
vực nông nghiệp.
CHƯƠNG II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TÁC ĐỘNG CỦA
CÁC YẾU TỐ NỘI SINH ĐẾN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HỢP
TÁC XÃ TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
2.1. Hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp

6


2.1.1. Khái niệm hợp tác xã và hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
Luật hợp tác xã được ban hành năm 2012 ghi rõ: “Hợp tác xã là tổ chức
kinh tế tập thể, đồng sở hữu, có tư cách pháp nhân, do ít nhất 07 thành viên tự
nguyện thành lập và hợp tác tương trợ lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, tạo việc làm nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, trên cơ sở tự
chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý hợp tác xã”. HTX
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp là các HTX mà các hoạt động chính là sản

xuất, kinh doanh liên quan đến ngành nông nghiệp.
2.1.2. Đặc điểm của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
2.1.3. Vai trò của hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
Thứ nhất, HTX giúp người nông dân khắc phục các rào cản tiếp cận tài
sản, thông tin, dịch vụ, đầu vào, giảm chi phí giao dịch, tăng cường khả năng tiếp
cận thị trường (Holloway, 2000)
Thứ hai, HTX giúp người nông dân tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn
(Kirsten & Sartorius, 2002).
Thứ ba, HTX giúp tăng cường khả năng thương lượng của người nông
dân với đối tác (Onumah, 2007).
Thứ tư, HTX trong lĩnh vực nông nghiệp giúp người nông dân dù có
tham gia hay không tham gia HTX bán được hàng hóa với giá cả tốt hơn.
Thứ năm, HTX giúp giảm bất đối xứng thông tin trên thị trường thông
qua việc HTX kiểm soát hoạt động sản xuất của xã viên, đảm bảo chất lượng và
giá cả sản phẩm mà xã viên sản xuất ra.
Thứ sáu, HTX là tác nhân có vai trò liên kết giữa doanh nghiệp và người
nông dân.
Thứ bảy, HTX là tác nhân có vai trò liên kết giữa cơ quan quản lý nhà
nước và người nông dân.
2.1.4. Nguyên tắc hoạt động của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA) đã đưa ra 7 nguyên tắc hoạt động
của HTX, bao gồm: (1) Tham gia một cách tự nguyện và mở ; (2) Kiểm soát một
cách dân chủ bởi các thành viên; (3) Sự tham gia kinh tế của xã viên; (4) Tự chủ
và độc lập; (5) Giáo dục, huấn luyện và thông tin ; (6) Hợp tác giữa các HTX và
(7) Chăm lo cộng đồng.
2.2. Hoạt động và kết quả hoạt động của hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp
2.2.1. Hoạt động của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
Hoạt động của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp rất đa dạng có thể
khái quát những hoạt động này thành 4 loại: (1) Hoạt động kinh tế; (2) Hoạt động

xã hội; (3) Hoạt động môi trường và (4) Hoạt động tổ chức.

7

Hoạt động kinh tế: Hoạt động kinh tế của HTX là những hoạt động tạo ra giá trị
kinh tế cho HTX và cho xã viên, bao gồm: Hoạt động sản xuất nông nghiệp tập
trung, Hoạt động cung ứng dịch vụ nông nghiệp, Hoạt động chế biến và tiêu thụ
sản phẩm nông nghiệp, Hoạt động tín dụng và một số hoạt động khác
Hoạt động xã hội; HTX thực hiện các hoạt động xã hội nhằm giúp xã viên cải
thiện đời sống sinh hoạt, năng cao trình độ của mình.
Hoạt động môi trường: HTX thực hiện các hoạt động bảo vệ, duy trì những điều
kiện môi trường tự nhiên nhằm duy trì và phát triển sản xuất nông nghiệp.
Hoạt động tổ chức:Hoạt động tổ chức của HTX là những hoạt động nhằm mục
tiêu nâng cao năng lực quản lý của HTX từ đó giúp HTX đạt hiệu quả trong quá
trình thực hiện các hoạt động của mình.
2.2.2. Kết quả hoạt động của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
Kết quả hoạt động kinh tế của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp bao
gồm 2 chỉ tiêu: (1) Kết quả kinh tế của HTX và (2) kết quả kinh tế mà HTX đem
lại cho xã viên.
2.3. Phân loại hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
HTX trong lĩnh vực nông nghiệp được chia làm 3 loại:
(1) HTX sản xuất nông nghiệp tập trung;
(2) HTX dịch vụ nông nghiệp
(3) HTX chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
HTX sản xuất nông nghiệp tập trung là những HTX mà xã viên góp vốn,
góp đất để tiến hành sản xuất tập trung sản phẩm nông nghiệp.
HTX dịch vụ nông nghiệp là các HTX cung cấp các đầu vào sản xuất như
giống, phân bón hoặc các dịch vụ như làm đất, tưới tiêu v.v… cho xã viên.
HTX chế biến và tiêu thụ sản phẩm còn được gọi là HTX marketing là
các HTX nhập các sản phẩm của xã viên để chế biến và tiêu thụ sản phẩm.

2.4. Các yếu tố nội sinh ảnh hưởng tới kết quả hoạt động của các hợp tác xã
trong lĩnh vực nông nghiệp.
- Các yếu tố hữu hình: Còn được gọi là các yếu tố về quy mô hợp tác xã
như vốn, tài sản, máy móc trang thiết bị, đất đai của HTX có tác động tới kết quả
hoạt động của các HTX (Ariyaratne và cộng sự, 2000). Tuy nhiên Pretty (2000)
cũng cho thấy các yếu tố hữu hình của HTX như tài sản, vốn, máy móc trang thiết
bị có tác động không lớn nếu xét trên góc độ lợi nhuận trên tổng vốn.
- Năng lực quản lý của ban chủ nhiệm hợp tác xã
Stringfellow (1997) chỉ ra rằng sự hợp tác của nông dân không phải lúc
nào cũng dễ dàng mà nguyên nhân chính là trình độ tổ chức và năng lực quản lý
của các HTX hiện tại không phù hợp yêu cầu. Cook (1994) cho rằng ban chủ
nhiệm HTX cần phát triển những kỹ năng tổ chức, kỹ năng phân bổ nguồn lực và
các kỹ năng khác.

8


Các học giả hiện đại nghiên cứu về quản trị chia việc quản trị thành một
quá trình mà nhà quản trị thực hiện 4 chức năng (1) Lập kế hoạch; (2) Tổ chức;
(3) Lãnh đạo và (4) Kiểm soát. Các nhà quản trị cần có 4 năng lực tương ứng để
giải quyết các vấn đề mang tính chiến lược hay điều hành tổ chức (Mason
Carpenter, Talya Bauer, and Berrin Erdogan).
- Năng lực của xã viên có tác động đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh
của xã viên và từ đó đem lại lợi ích kinh tế cho xã viên. Hơn thế nữa, xã viên có
năng lực sản xuất tốt sẽ đáp ứng được các quy định về sản xuất của HTX, đem lại
kết quả hoạt động tốt cho HTX.
- Sự cam kết của xã viên: Fulton (1999) đã đưa ra định nghĩa “Sự cam
kết là sự ưu tiên của những thành viên về sử dụng dịch vụ được cung cấp bởi
HTX chứ không phải là một tổ chức kinh tế nào khác” và “cam kết thực hiện các
quy định của HTX”. Sự cam kết của xã viên giúp các HTX giải quyết được các

vấn đề khó khăn của HTX trong đó đặc biệt là vấn đề kẻ hưởng không (Free-rider
problem), vấn đề chi phí hoạt động của HTX (Cook, Illiopolous, 1999; Nilsson,
1999). Sự cam kết là một khái niệm đa hướng, bao gồm: cam kết cảm xúc, cam
kết duy trì, và cam kết đạo đức (John Meyer, Natalie Allen, 1990)
- Sự tham gia của các xã viên vào hoạt động quản trị hợp tác xã. Sự
tham gia của xã viên vào hoạt động quản trị HTX có tác động mạnh đến kết quả
hoạt động của HTX (Organ 1988; Organ, Podsakoff, Graham 1991). Xã viên
tham gia quản trị HTX trực tiếp khi tham gia ban quản trị, ban chủ nhiệm hoặc
ban kiểm soát HTX. Xã viên tham gia quản trị HTX một cách gián tiếp thông qua
việc tham gia các đại hội xã viên hàng năm (Annual General Meetings-AGM).
2.5. Các yếu tố ngoại sinh tác động đến kết quả hoạt động hợp tác xã
Các yếu tố ngoại sinh là một phần không thể thiếu trong sự phát triển bền
vững của hợp tác xã, bao gồm môi trường địa lý của HTX, thói quen tập quán của
khu vực, khung pháp lý của quốc gia (Nyoro & Ngugi, 2007; Fafchamps 1996),
các chính sách của chính phủ (Hill, 2007)
Đang có nhiều quan điểm về vai trò của các yếu tố ngoại sinh. Một số ý
kiến cho rằng, các HTX là các tổ chức đem lại lợi ích cho người yếu thế, do vậy
rất cần sự hỗ trợ từ chính phủ. Một số quan điểm khác lại cho rằng, các hỗ trợ của
bên ngoài gây ra các tác động xấu đến sự phát triển lành mạnh của các HTX như
hiện tượng ỷ lại, tạo sự cạnh tranh bất bình đẳng với các tổ chức không được hỗ
trợ, tạo ra các hiện tượng gian lận như việc một tổ chức tư nhân đăng ký thành lập
dưới hình thức HTX để được hưởng lợi.
2.6. Mô hình quản trị hợp tác xã theo truyền thống và theo kiểu mới
2.6.1. Hợp tác xã truyền thống và và những khó khăn tất yếu của hợp tác xã
truyền thống
Vấn đề kẻ hưởng không (Free-rider problem)

9

Vấn đề kẻ hưởng không là việc các thành viên trong tổ chức chỉ mong

hưởng lợi mà không phải đóng góp cho tổ chức.Vấn đề này xuất hiện khi quyền
sở hữu tài sản không được xác định một cách rõ ràng, quyền lợi, trách nhiệm của
một cá nhân không được phân công một cách rõ ràng, khoa học, không được
kiểm tra một cách nghiêm ngặt.
Vấn đề về quản trị hợp tác xã dưới góc nhìn của lý thuyết người đại diện
(Agency theory)
Bất kỳ tổ chức nào, khi có sự tách biệt trong đó quyền sở hữu và quyền
quản trị sẽ gặp phải các vấn đề về quản trị tổ chức vì mong muốn của chủ sở hữu
(Xã viên HTX) khác biệt với mong muốn, mục tiêu của nhà quản lý (ban chủ
nhiệm HTX) (Cook, 1995), từ đó dẫn tới động lực làm việc của ban điều hành
HTX không cao, do vậy kết quả hoạt động của HTX là không cao.
Vấn đề chi phí hoạt động (Transaction cost theory)
Chi phí hoạt động là những chi phí liên quan với quá trình hoạt động của
HTX. HTX thường có nhiều thành viên, nhu cầu và mong muốn của xã viên
thường rất đa dạng chứ không chỉ là lợi nhuận trên vốn đầu tư như đối với các cổ
đông của các công ty khác, do vậy chi phí hoạt động của các HTX thường lớn
hơn so với các hình thức tổ chức kinh doanh khác.
2.6.2. Mô hình hợp tác xã kiểu mới.
Cook (1995) đề xuất hình thành của một thế hệ hợp tác xã kiểu mới để
giải quyết vấn đề mà các HTX truyền thống gặp phải, tập trung vào các hoạt động
tạo giá trị gia tăng cho sản phẩm, dịch vụ của xã viên (Harris, 1999; Royer 1999).
Vốn chủ sở hữu, cổ phần và quyền giao hàng của xã viên trong các hợp tác xã
kiểu mới là có thể giao dịch được (tuân thủ theo điều lệ HTX). Các HTX kiểu
mới đòi hỏi ban chủ nhiệm HTX cần có những kỹ năng quản lý cần thiết trong
quá trình điều hành HTX.
2.7. Phương pháp đánh giá tác động của các yếu tố đến kết quả hoạt động
của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp.
2.7.1. Phương pháp định tính
Mục tiêu của phương pháp định tính là phát hiện mối quan hệ tác động
giữa các yếu tố nguyên nhân (biến độc lập) đến yếu tố kết quả (biến phụ thuộc).

Phương pháp định tính sẽ là bước đầu tiên nhằm phát hiện ra sự tác động, sau đó
phương pháp định lượng sẽ được sử dụng để chứng minh sự tác động đó. Phương
pháp định tính thường sử dụng các tình huống nhằm phát hiện tác động giữa các
khái niệm nghiên cứu (Eisenhardt, 1989).
2.7.2. Phương pháp định lượng.
Phương pháp định lượng nhằm mục đích kiểm định các giả thuyết về sự
tác động của các biến nghiên cứu thông qua việc sử dụng các công cụ thống kê.

10


Đầu tiên, các biến nghiên cứu cần phải được đo lường thông qua việc sử
dụng một tập hợp các biểu hiện (được gọi là biến quan sát) của biến nghiên cứu.
Các biến quan sát này sau đó sẽ được sử dụng để thu thập thông tin về mức độ
đồng ý của đối tượng được điều tra. Tiếp theo, tác động qua lại giữa các biến
nghiên cứu được chứng minh thông qua việc sử dụng các công cụ phân tích thống
kê với mẫu nghiên cứu lớn và được lựa chọn ngẫu nhiên.
CHƯƠNG III. TỔNG QUAN VỀ HỢP TÁC XÃ TRONG LĨNH VỰC
NÔNG NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
VÀ TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
3.1. Sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp tại Việt Nam qua các giai đoạn
3.1.1 Sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn trước đổi mới 1955-1988
3.1.2. Sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn 1988-1996
Năm 1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 10 “Đổi mới quản lý kinh tế
nông nghiệp” trong đó xác định phát huy tính tự chủ, tự nguyện của nông dân,
quan hệ HTX – xã viên tiến tới bình đẳng theo hợp đồng. Từ đó, số lượng HTX
giảm mạnh, tuy nhiên vẫn có những HTX tồn tại, hoạt động với chất lượng tốt

hơn và trình độ quản lý cao hơn, kinh doanh dịch vụ nông nghiệp thiết yếu cho xã
viên, một số HTX còn mở rộng sang các nghề mới, nghề truyền thống.
3.1.3. Sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn 1997 đến năm 2004
Ngày 1/1/1997, luật Hợp tác xã có hiệu lực đánh dấu cột mốc mới trong
quá trình phát triển HTX. Giai đoạn 1997-2004, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể mà nòng cốt là HTX được coi là nền tảng của nền kinh tế quốc dân trong
nền kinh tế nhiều thành phần. Giai đoạn này cũng là giai đoạn thực hiện chuyển
đổi hợp tác xã từ mô hình HTX kiểu cũ (mang nặng tính hành chính, bao cấp)
sang mô hình hợp tác xã kiểu mới (mang đặc tính tự chủ, hoạt động theo cơ chế
thị trường) Giai đoạn này chứng kiến sự chuyển đổi và thu hẹp của HTX, không
chỉ trong ngành nông nghiệp mà còn trên phạm vi mọi ngành kinh tế, phản ánh
quá trình chọn lọc của thị trường đối với hệ thống HTX và quá trình thực thi Luật
HTX (2003) theo hướng thực hiện đầy đủ hơn các nguyên tắc cơ bản của HTX.
3.1.4. Sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn 2004 đến năm 2013
Luật hợp tác xã năm 2003 đã được Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 11
năm 2003, chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2004
Giai đoạn này phong trào HTX trong lĩnh vực nông nghiệp thể hiện các
xu hướng phát triển như sau:
- Xu hướng phát triển tổ chức hợp tác xã phục vụ xã viên:

11

- Xu hướng phát triển hợp tác xã với bản chất của doanh nghiệp theo
Luật Doanh nghiệp
Từ hai xu hướng trên, có nhiều quan điểm gây tranh cãi về bản chất
HTX. HTX cần phải là một tổ chức phục vụ xã viên hay HTX là một doanh
nghiệp vì lợi nhuận.
3.1.5. Sự hình thành và phát triển của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông

nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn 2013 đến nay
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật HTX số
23/2012/QH13 (Luật Hợp tác xã 2012), có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 7 năm
2013, thay thế Luật HTX số 18/2003/QH12 (Luật Hợp tác xã 2003). Với mục tiêu
nhằm khuyến khích và phát triển mô hình HTX kiểu mới, đồng thời định hướng
phát triển các HTX hiện có hoạt động theo đúng bản chất HTX.
Giải quyết khúc mắc về vấn đề bản chất của HTX, Luật HTX 2012 được
xây dựng trên cơ sở coi các HTX là một hình tổ chức khá đặc biệt: vừa là một
doanh nghiệp, hoạt động có lợi nhuận, phục vụ khách hàng bao gồm cả xã viên và
không phải xã viên, mặc khác HTX là một tổ chức phục vụ xã viên
Hiện chưa có các đánh giá về sự phát triển của HTX trong lĩnh vực nông
nghiệp trong giai đoạn 2013 đến nay. Tuy nhiên theo quan điểm của nghiên cứu
sinh, cách tiếp cận của Luật HTX 2012 là chưa phù hợp ở việc hạn chế quyền độc
lập, tự chủ của HTX, giảm tính “doanh nghiệp” của HTX mà lại tăng quá lớn tính
phục vụ xã viên, đồng thời có những hỗ trợ lớn cho HTX, gây cạnh tranh không
lành mạnh với các loại hình kinh tế khác. Nếu hoạt động đúng theo quy luật thị
trường, nhà nước cần phải xác định HTX cũng giống như các loại hình doanh
nghiệp khác, hạn chế hỗ trợ, các hỗ trợ nếu có chỉ xoay xung quanh việc tăng
cường năng lực của HTX. Khi có năng lực, các HTX sẽ tự tìm ra điểm mạnh của
mình hoạt động trong môi trường cạnh tranh với các đối thủ khác.
3.2. Thực trạng các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp ở đồng bằng sông
Hồng
3.2.1. Thực trạng số lượng và lĩnh vực hoạt động các hợp tác xã trong lĩnh
vực nông nghiệp ở đồng bằng sông Hồng
Đồng bằng sông Hồng là vùng có số lượng HTX trong lĩnh vực nông
nghiệp lớn nhất trong cả nước. Tính đến thời điểm 2014, tại đồng bằng sông
Hồng có tới 3.585 HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, trong tổng số 10.154 HTX
trong lĩnh vực nông nghiệp trên cả nước. Trong số đó có tới 80% HTX thực hiện
dịch vụ thủy lợi, 53% dịch vụ cung ứng giống cây trồng, 30% HTX thực hiện
dịch vụ cung ứng vật tư, phân bón, 20% HTX thực hiện dịch vụ làm đất.


12


3.2.2. Thực trạng về tổ chức bộ máy quản lý và học vấn ban chủ nhiệm hợp
tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp tại đồng bằng sông Hồng
Các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp hoạt động theo mô hình 1 bộ máy,
ban quản trị HTX kiêm nhiệm ban chủ nhiệm HTX chiếm tới 99 % số lượng HTX
nông nghiệp, chỉ có 1% HTX nông nghiệp hoạt động theo mô hình 2 bộ máy.
Trình độ được đào tạo của ban chủ nhiệm xã còn chưa cao, phần lớn mới
chỉ tốt nghiệp trung cấp với tỷ lệ 51,7%, tổng số lượng người tốt nghiệp cấp II và
cấp III là 33,1%, tốt nghiệp cao đẳng, đại học chỉ chiếm 15,2% và không có ai tốt
nghiệp thạc sỹ hay tiến sỹ. Trình độ được đào tạo thấp là một nguyên nhân khiến
cho năng lực hoạt động của các chủ nhiệm HTX còn hạn chế.
3.2.3. Thực trạng về doanh thu của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp ở đồng bằng sông Hồng
HTX dịch vụ nông nghiệp có doanh thu khá cao ở mức 3,07 tỷ đồng/
năm, lợi nhuận tương ứng ở mức gần 241,1 triệu đồng/ năm. Điều này cho thấy
một xu hướng của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp là cung ứng sản phẩm đầu
vào phục vụ sản xuất cho khách hàng, bao gồm cả xã viên. Nếu xét về tỷ suất lợi
nhuận thì HTX chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp có tỷ suất lợi nhuận
thấp nhấp so với 2 loại hình HTX còn lại ở mức 5,89% doanh thu (bảng 3).
Bảng 3. Doanh thu, lợi nhuận HTX phân theo loại hình HTX
Đơn vị: Nghìn đồng
Loại hình HTX

Doanh Thu

Lợi nhuận
sau thuế

185.674

Tỷ suất lợi
nhuận sau
thuế trên
doanh thu

HTX sản xuất nông nghiệp

2.218.254

8,37%

HTX dịch vụ nông nghiệp

3.078.849

241.162

7,83%

HTX chế biến và tiêu thụ sản phẩm
nông nghiệp

1.734.879

102.247

5,89%


Trung bình toàn mẫu nghiên cứu

2.343.994

176.361

7,52%

Nguồn: Kết quả điều tra của luận án
3.2.4. Thực trạng về vốn của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp ở
đồng bằng sông Hồng
Về nguồn vốn, nhìn chung các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp được
điều tra có nguồn vốn lớn, trung bình đạt 3,056 tỷ đồng, trong đó vốn của các
HTX tại Thái Bình là cao nhất với trung bình đạt 3,83 tỷ đồng.
Bảng 4. Cơ cấu nguồn vốn của HTX ở đồng bằng sông Hồng năm 2012*
Đơn vị: 1.000 đ

13

Trung
bình

Hà Nam

Nam
Định

Thái
Bình


3.056.216

3.084.288

2.252.994

3.831.367

Vốn chuyển từ mô hình cũ

694.871

754.938

528.185

801.489

Vốn đóng góp của xã viên

840.246

822.942

660.934

1.036.862

Vốn tích lũy qua các năm


750.387

645.668

528.941

1.076.552

75.026

160.000

36.328

28.750

Vốn vay từ ưu đãi Nhà nước

226.090

331.250

133.333

213.687

Vốn vay từ NHTM

467.544


363.333

365.273

674.027

6.157

6.157

Chỉ tiêu
Trung bình tổng vốn

Vốn liên doanh, liên kết

Vốn vay từ tổ chức PCP

-

-

Nguồn: Kết quả điều tra của luận án
* Số liệu thu được từ các HTX tại Hà Nội về nguồn vốn không đầy đủ nên không
được thể hiện trong bảng.
CHƯƠNG IV. THỰC TRẠNG TÁC ĐỘNG CỦA CÁC YẾU TỐ NỘI SINH
ĐẾN HOẠT ĐỘNG VÀ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC HỢP TÁC XÃ
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP.
4.1. Nghiên cứu định tính về các yếu tố nội sinh tác động đến kết quả hoạt
động của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
4.1.1. Đối với các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp

Qua nghiên cứu HTX sản xuất nông nghiệp tập trung như HTX trồng nấm
Sáng Thiện, Sóc Sơn, Hà Nội cho thấy các yếu tố tác động tích cực đến hoạt động
sản xuất nông nghiệp của HTX này là:
Thứ nhất, ban quản trị, ban chủ nhiệm HTX phải có khả năng lựa chọn sản
phẩm đáp ứng nhu cầu khách hàng trên cơ sở những thế mạnh của HTX như vị trí
địa lý, thổ nhưỡng.
Thứ hai, HTX phải có khả năng về vốn tự có và có vốn xã hội. Ban quản
trị năng động, biết khai thác lợi thế của HTX, của địa phương về nguồn lực phát
triển, ngành nghề có lợi thế; có đội ngũ xã viên và lao động chuyên nghiệp trong
lĩnh vực này
4.1.2. Đối với các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
Dịch vụ vật tư nông nghiệp của HTX
Thứ nhất, ban chủ nhiệm HTX cần có khả năng, chủ động nắm bắt đúng nhu
cầu của xã viên trong HTX về sử dụng loại vật tư.
Thứ hai, HTX có khả năng tìm kiếm, đàm phán với các công ty, từ đó mua
được vật tư với giá cả, chất lượng và các điều kiện thanh toán khác là tốt nhất.

14


Thứ ba, HTX có một lượng vốn tiền mặt đủ lớn hoặc có khả năng huy động
tiền mặt để thanh toán theo yêu cầu của doanh nghiệp.
Thứ tư, HTX cần có bộ máy nhân sự thực hiện hoạt động dịch vụ vật tư. Các
HTX phải có được một bộ máy chuyên, đủ sức thực hiện các công việc
Dịch vụ làm đất
Từ nghiên cứu HTX nông nghiệp An Mỹ, Mỹ Đức, Hà Nội cho thấy yếu tố
nội sinh tác động đến hoạt động làm đất bao gồm:
Thứ nhất, nhân tố khả năng của HTX trong việc tổ chức, huy động xã viên trên
từng khu vực đồng ruộng cùng nhau tham gia dịch vụ làm đất do HTX tổ chức ra phù
hợp với yêu cầu của thời vụ sản xuất.

Thứ hai, ban chủ nhiệm HTX cần làm đầu mối xây dựng các quy định liên
quan đến hoạt động làm đất, các quy định này cần có sự tham gia dân chủ của xã viên,
xã viên xây dựng, xã viên thảo luận và đi đến quyết định cuối cùng.
Thứ ba, HTX cần có khả năng kiểm soát được các chi phí để có được giá dịch
vụ tốt nhất, rẻ nhất cho xã viên.
Thứ tư, HTX cần có khả năng quản lý, vận hành và bảo dưỡng máy móc, trang
thiết bị làm đất
Dịch vụ bảo vệ cây trồng vật nuôi
Từ nghiên cứu đối với dịch vụ bảo vệ cây trồng,vật nuôi của HTX cho xã viên
tại HTX Nghĩa Hồng, Nam Định cho thấy các yếu tố nội sinh sau tác động đến hoạt
động cung cấp dịch vụ bảo vệ cây trồng, vật nuôi của HTX:
Thứ nhất, sự đồng lòng của tất cả các xã viên tác động rất lớn đến công tác bảo
vệ cây trồng, vật nuôi. Chỉ cần một số hộ không tham gia, sâu bệnh, dịch bệnh sẽ tiếp
tục lây lan trong trang trại hoặc ruộng đồng của các xã viên khác.
Thứ hai, HTX cần có mối quan hệ chủ động, tích cự đối với các trạm bảo bảo
vệ thực vật huyện để được cung ứng vật tư, thuê máy phun thuốc, tập huấn cho xã viên
kiến thức bảo vệ thực vật, phòng trừ dịch hại.
4.1.3. Đối với các hợp tác xã chế biến và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp
Đối với hoạt động chế biến sản phẩm nông nghiệp
Kinh nghiệm đối với sự thành công của HTX Nghĩa Hồng, xã Nghĩa Hồng,
huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định cho thấy các HTX các yếu tố nội sinh tác động đến
hoạt động chế biến nông sản bao gồm:
Thứ nhất, HTX phải có đội ngũ cán bộ HTX có năng lực tổ chức, quản lý, điều
hành HTX.
Thứ hai, nhân tố “Sự đồng thuận của xã viên” tác động lớn đến hoạt động chế
biến nông sản của HTX Nghĩa Hồng. Các xã viên phải đồng thuận về tổ chức chế biến
nông sản tập thể do HTX tổ chức; về phương pháp chế biến, chất lượng, mẫu mã sản
phẩm chế biến và giá cả cho từng loại sản phẩm chế biến theo chất lượng và kiểu dáng.

15


Thứ ba, HTX phải có nguồn nhân lực đủ khả năng về chuyên môn và năng lực
tổ chức hoạt động chế biến tập trung trong HTX, hiểu rõ các kỹ thuật, quy trình chế biến
đảm bảo tạo ra sản phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu khách hàng đã lựa chọn.
Đối với hoạt động tiêu thụ nông sản
Kinh nghiệm từ HTX tiêu thụ thực phẩm nông sản Thái Bình, HTX tiêu thụ
rau sạch Lĩnh Nam, Hà Nội cho thấy các yếu tố nội sinh tạo nên sự thành công trong
việc tiêu thụ nông sản của HTX đó là:
Thứ nhất, Ban chủ nhiệm HTX có năng lực nắm bắt nhu cầu khách hàng, tiêu
thụ sản phẩm cho xã viên.
Thứ hai, HTX có có khả năng tập hợp năng lực sản xuất của xã viên, đảm
bảo xã viên tuân thủ các quy định đề ra, từ đó có được các đầu vào sản xuất có chất
lượng.
Thứ ba, HTX thường xuyên nâng cao năng lực sản xuất cho xã viên.
4.2. Nghiên cứu định lượng về các yếu tố nội sinh tác động đến kết quả hoạt
động của các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
4.2.1. Thống kê mô tả về biến nghiên cứu
4.2.2. Phân tích nhân tố khám phá với biến phụ thuộc
4.2.3. Phân tích tương quan giữa các biến nghiên cứu
4.2.4. Mô hình hồi quy tuyến tính với biến phục thuộc là kết quả kinh tế của
HTX
Kết quả đánh giá tác động của các biến năng lực của ban chủ nhiệm
HTX, cam kết và sự tham gia vào quản trị HTX của xã viên tới kết quả kinh tế
của HTX như sau
KQKT= 0,365*HTXSXNN +0,161* HTXDVNN + 0,249*KNKS + 0,352*CKCX
+ 0,238*CKDT + 0,208*TGQT
Trong đó:
KQKT: Biến số Kết quả kinh tế của HTX
LH_HTX: Biến số Loại hình HTX. Đây là biến định danh, nhận 3 giá trị (1) HTX
sản xuất nông nghiệp; (2) HTX dịch vụ nông nghiệp và (3) HTX chế biến và tiêu

thụ sản phẩm nông nghiệp.
KNLKH: Biến số Kỹ năng lập kế hoạch; KNTC: Biến số Kỹ năng tổ chức
KNLĐ: Biến số kỹ năng lãnh đạo;KNKS: Biến số kỹ năng kiểm soát
CKCX: Biến số Cam kết cảm xúc; CKDT: Biến số Cam kết duy trì
TGQT: Biến số Tham gia quản trị HTX
Kết quả nghiên cứu cho thấy
- Các biến số: Loại hình HTX, năng lực kiểm soát của ban chủ nhiệm HTX, cam
kết cảm xúc, cam kết duy trì và tham gia vào quản trị HTX của xã viên có tác
động thuận chiều đến kết quả kinh tế của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp. Các

16


biến số này có thể giải thích được 56,7% sự thay đổi của biến số Kết quả kinh tế
của HTX (R bình phương điều chỉnh bằng 0,560)
- Biến số cam kết cảm xúc của xã viên HTX có mức độ tác động lớn nhất đến kết
quả kinh tế của HTX trong lĩnh vực nông nghiệp, với hệ số tác động là 0,352. Các
biến số có mức độ tác động xếp theo thứ tự mức độ tác động giảm dần là biến số
năng lực kiểm soát của ban chủ nhiệm HTX, năng lực, cam kết duy trì và tham
gia vào quản trị HTX của xã viên với hệ số tác động lần lượt là 0,249; 0,238 và
0,208
- Biến số loại hình HTX có tác động đến kết quả kinh tế của HTX trong lĩnh vực
nông nghiệp, các HTX chế biến và tiêu thụ nông sản hiện đang có kết quả kinh tế
là thấp nhất trong 3 loại hình HTX. HTX dịch vụ nông nghiệp có kết quả kinh tế
lớn hơn HTX chế biến và tiêu thụ ở mức 0,161 đơn vị. HTX sản xuất nông nghiệp
có kết quả kinh tế lớn nhất trong 3 loại hình HTX, lớn hơn HTX chế biến và tiêu
thụ ở mức 0,365 đơn vị.
4.2.5. Hồi quy với biến phụ thuộc là “Kết quả kinh tế của xã viên do HTX đem lại”
Kết quả đánh giá tác động của các biến năng lực của ban chủ nhiệm
HTX, cam kết và sự tham gia vào quản trị HTX của xã viên tới kết quả kinh tế xã

xã viên do HTX đem lại, ta có mô hình phân tích như sau:
KQKTXV = 0.326*HTXDVNN + 0,111*KNLKH + 0,249*KNLĐ +
0,338*CKCX + 0,247*CKDT + 0,212*TGQT
KQKTXV: Kết quả kinh tế xã viên do HTX đem lại
Kết quả nghiên cứu cho thấy:
- Các biến số: Loại hình HTX nông nghiệp, năng lực lập kế hoạch, năng lực lãnh
đạo của ban chủ nhiệm HTX, cam kết cảm xúc, cam kết duy trì và tham gia vào
quản trị HTX của xã viên HTX có tác động thuận chiều đến kết quả kinh tế của xã
viên HTX. Các biến số này giải thích 53,8% sự thay đổi của biến phục thuộc (R
bình phương điều chỉnh bằng 53,8%).
- Biến số cam kết cảm xúc của xã viên HTX tiếp tục là biến số có mức độ tác
động lớn nhất đến kết quả kinh tế xã viên do HTX đem lại, với hệ số tác động là
0,338. Các biến số có mức độ tác động xếp theo thứ tự mức độ tác động giảm dần
là biến số năng lực lãnh đạo của ban chủ nhiệm HTX, cam kết duy trì, tham gia
vào quản trị HTX của xã viên HTX và cuối cùng là năng lực lập kế hoạch của ban
chủ nhiệm HTX, hệ số tác động của các biến nói trên lần lượt là 0,249; 0,247;
0,212 và 0,111
- Biến số loại hình HTX có tác động đến kết quả kinh tế của xã viên mà HTX
đem lại, các HTX dịch vụ nông nghiệp hiện đem lại lợi ích về kinh tế cho xã viên
lớn hơn HTX sản xuất và HTX chế biến và tiêu thụ nông sản, mức độ lớn hơn là
0,326 đơn vị. Kết quả này cùng với nhận định của xã viên về lợi ích mà HTX đem

17

lại cho họ ở mức thấp cho thấy vai trò của các HTX sản xuất và HTX chế biến
tiêu thụ trong việc đem lại lợi ích kinh tế cho xã viên còn khá hạn chế.
Từ kết quả nghiên cứu định lượng của hai mô hình có thể thấy rằng:
- Yếu tố cam kết của xã viên là rất quan trọng tới kết quả hoạt động của HTX, lý
giải điều này từ lý thuyết đến thực tế cho thấy sự cam kết của xã viên giúp HTX
giảm được các chi phí hoạt động (VD: chi phí kiểm tra, giám sát), giúp HTX dễ

dàng có được khách hàng và sau cùng là dễ dàng huy động được nguồn lực.
Trong bối cảnh hiện nay yếu tố cam kết cảm xúc của xã viên đóng vai trò rất quan
trọng tới kết quả hoạt động của HTX. Cam kết duy trì của xã viên có tác động tuy
nhiên mức độ tác động còn ở mức trung bình, điều này cho thấy lợi ích mà HTX
đem lại cho xã viên còn chưa cao, khiến cho mức độ cam kết duy trì của xã viên
còn chưa lớn.
- Các biến số đến từ phía xã viên HTX như sự cam kết, sự tham gia vào quản trị
có tác động lớn, thuận chiều đến kết quả kinh tế của HTX và của xã viên. Các yếu
tố đến từ năng lực quản trị của ban chủ nhiệm có mức tác động nhỏ hơn và theo
từng năng lực khác nhau đối với từng yếu tố kết quả kinh tế cho HTX hay cho xã
viên. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận vai trò của các yếu tố từ năng lực quản
trị của ban chủ nhiệm, vì ngoài tác động trực tiếp như trong mô hình nghiên cứu,
năng lực quản trị còn có tác động gián tiếp tới kết quả kinh tế của HTX và của xã
viên thông qua việc tác động vào các yếu tố đến từ xã viên.
4.2.6. Phân tích tương quan giữa biến số “Kết quả kinh tế của hợp tác xã” và
“Kết quả kinh tế hợp tác xã đem lại cho xã viên”
CHƯƠNG V
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HTX
TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP
TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
5.1. Quan điểm tiếp cận trong phát triển các hợp tác xã trong lĩnh vực nông
nghiệp ở Việt Nam
Thứ nhất, HTX nông nghiệp là một tổ chức kinh tế đặc biệt, không mâu
thuẫn với cơ chế kinh tế thị trường, có thể phát huy lợi thế và tiềm năng của xã
viên và bổ khuyết cho cơ chế thị trường.
Thứ hai, HTX mang lại nhiều lợi ích cho xã viên bao gồm lợi ích về kinh tế,
lợi ích xã hội, văn hóa thông qua hiện thực hóa các giá trị và nguyên tắc hợp tác cao
đẹp.
Thứ ba, HTX nông nghiệp là sự kết hợp giữa người sở hữu và người sử dụng
sản phẩm, dịch vụ của HTX, giữa người chủ và người làm công, giữa người bán và

người mua trong nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc “HTX là nhà, xã viên là chủ”.

18


Thứ tư, HTX nông nghiệp là tổ chức phù hợp kết hợp hài hòa giữa sự tự lực
của người nông dân với sự trợ giúp của nhà nước, kết hợp giữa nhà nước và thị
trường
5.2.2. Một số giải pháp tác động vào các nhân tố tác động đến kết quả hoạt
động của hợp tác xã
Để khắc phục được vấn đề này, nghiên cứu sinh đưa ra các giải pháp sau:
5.2.2.1. Giải pháp về công tác tuyển dụng cán bộ
Các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp có thể tuyển dụng ban chủ nhiệm
có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực quản lý kinh doanh tốt, được sự tín nhiệm
của xã viên để điều hành HTX. Tuy nhiên phần lớn các HTX khó có thể thực hiện
được giải pháp tuyển dụng cán bộ có đầy đủ các yêu cầu, đây có thể là một giải
pháp mang tính chất định hướng, lâu dài cho HTX.
Nguyên nhân khiến các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp gặp khó khăn
trong việc tuyển dụng cán bộ đạt yêu cầu là do hợp tác xã không có đủ nguồn lực
chi trả một mức đãi ngộ tốt, phù hợp với năng lực và đóng góp của ban chủ
nhiệm. Mặt khác cơ chế đãi ngộ không rõ ràng, không được sự đồng ý của xã
viên cũng khiến cho những ứng viên có năng lực không tha thiết với các vị trí
quản lý cấp cao của HTX.
5.2.2.2. Giải pháp về công tác đào tạo nâng cao năng lực quản trị cho chủ
nhiệm HTX, năng lực, nhận thức của xã viên
Giải pháp thứ hai mà các HTX có thể thực hiện được ngay, đồng thời đây
là giải pháp đem lại hiệu quả cao đó là giải pháp về đào tạo nâng cao năng lực cán
bộ. Với những cán bộ hiện có, được sự hỗ trợ của liên minh HTX Việt Nam, các
tổ chức phi chính phủ, các HTX nông nghiệp có thể tăng cường năng lực cán bộ
của mình thông qua các khóa đào tạo với chi phí rất thấp hoặc thậm chí không

mất phí
Dựa trên nghiên cứu của luận án, có thể đưa ra các nội dung tập huấn để
nâng cao năng lực của ban chủ nhiệm HTX như sau:
Nâng cao năng lực lập kế hoạch của ban chủ nhiệm Hợp tác xã
Ban chủ nhiệm HTX cần xác định được điểm mạnh, điểm yếu của HTX,
cơ hội và thách thức từ môi trường bên ngoài. Từ đó, trong bản chiến lược của
HTX cần trả lời được 3 câu hỏi chiến lược:
- Hợp tác xã sẽ sản xuất, kinh doanh sản phẩm gì?
- Hợp tác xã sẽ nhắm tới đối tượng khách hàng nào: Khách hàng cá nhân,
hay khách hàng tổ chức, khách hàng tiêu dùng hay các công ty sản xuất và thương
mại, khách hàng thu nhập cao hay khách hàng bình dân?
- Sản phẩm,dịch vụ của HTX sẽ có những đặc tính chất lượng, giá cả như
thế nào: Sản phẩm chất lượng tốt, giá cả tương xứng hay sản phẩm chất lượng
bình dân, giá cả hợp lý?

19

Bảng 5.1. Phân tích SWOT đối với các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp
Điểm mạnh
- So với hộ kinh doanh cá thể, HTX có đông đảo xã
viên, từ đó có nguồn nhân lực lớn phục vụ cho sản
xuất
- So với hộ kinh doanh cá thể, HTX, xã viên sở hữu
số lượng lớn đất nông nghiệp phục vụ sản xuất
- So với các công ty kinh doanh, HTX có mối quan
hệ gần gũi, sâu sát giữa HTX và xã viên
- Là tổ chức của xã viên, bảo vệ xã viên, do vậy
được xã viên “ưu tiên” khi giao dịch.

Điểm yếu

- So với các đối thủ cạnh tranh,
HTX có số lượng xã viên lớn,
quản lý dân chủ do vậy việc ra
quyết định sẽ khó khăn và mất
thời gian hơn.
- So với các hộ kinh doanh cá
thể, HTX gặp khó khăn trong
việc duy trì chất lượng sản
phẩm từ nhiều xã viên sản
xuất khác nhau
Cơ hội
Thách thức
- Nhu cầu thị trường về sản phẩm, dịch vụ nông - Cạnh tranh trực tiếp các công
nghiệp lớn: Các công ty sản xuất, thương mại, ty sản xuất, thương mại:
khách hàng tiêu dùng, xã viên
- Cạnh tranh trực tiếp với các
- Được sự hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức quốc tế, hộ kinh doanh cá thể
tổ chức phi chính phủ
Gợi ý lựa chọn chiến lược kinh doanh
- Đảm nhận công tác sản xuất cho các công ty sản xuất, thương mại sản phẩm nông
nghiệp
- Xem xét khả năng kinh doanh trực tiếp sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng tiêu dùng
- Sản xuất sản phẩm nông nghiệp có chất lượng tốt trên thị trường hướng tới phục vụ
khách hàng có khả năng chi trả
Nguồn: Đề xuất của nghiên cứu sinh
Nâng cao năng lực lãnh đạo của ban chủ nhiệm Hợp tác xã
Năng lực lãnh đạo của ban chủ nhiệm HTX được thể hiện qua các thành
tố chính như khả năng tạo động lực cho xã viên trong việc thực hiện công việc và
đặc biệt là khả năng giải quyết mâu thuẫn của xã viên. Luận án đã chỉ ra rằng các
thành tố này của các HTX nông nghiệp tại VN còn khá hạn chế. Chính vì vậy ban

chủ nhiệm HTX cần tích cực học hỏi, rèn luyện để tăng cường năng lực lãnh đạo.
Trong các hợp tác xã, với nhu cầu đa dạng của xã viên, ban chủ nhiệm
HTX cần tăng cường khả năng thuyết phục các xã viên đạt tới sự đồng thuận và
sau đó thông qua quyết định của cả hợp tác xã. Hơn nữa, các chủ nhiệm HTX cần
tăng cường khả năng thuyết phục xã viên, lắng nghe và chỉ ra những điểm chưa
đúng trong hoạt động của xã viên, thuyết phục xã viên tuân thủ các quy định

20


trong quá trình sản xuất, hòa giải cácc mâu thuẫn giữa các xã viên trong quá trình
hợp tác xã mua hàng của hợp tác xã.
Nâng cao năng lực kiểm soát của ban chủ
c nhiệm Hợp tác xã
Ban chủ nhiệm HTX có thể xây dự
ựng mô hình kiểm soát dựa trên quá trình
sản xuất của xã viên như sau:

Hình 1. Mô hình kiểm soát chấ
ất lượng sản phẩm của xã viên
Nguồn: Đề xuấ
ất của nghiên cứu sinh
Nâng cao sự cam kết cảm xúc của xã viên
viê hợp tác xã
Ban chủ nhiệm HTX cần cho xãã viên cảm thấy HTX như một phần gia
đình hoặc HTX có ý nghĩa lớn lao với xãã viên, thông qua những buổi sinh hoạt, buổi
họp hay các buổi đào tạo, ban chủ nhiệm HTX
H
cần nâng cao nhận thức của xã viên về
các giá trị tốt đẹp của HTX.

Các giá trị của HTX cần được thể hiện
h bằng các hoạt động như giúp đỡ, tương
thân tương ái, hoạt động xã hội đối vớii xã viên.
viê HTX cần trở thành người bạn, chỗ dựa
về tinh thần với xã viên, từ đó xã viên sẽ coi HTX như là một mái nhà thứ hai, nơi các
thành viên quan tâm, chăm sóc lẫn nhau.
Mặc khác, ban chủ nhiệm HTX
X cần nêu cao vai trò đạo đức, phẩm chất trong
sạch, tuân thủ đúng điều lệ HTX để làm tấm
m gương sáng cho xã viên.
Nâng cao sự cam kết duy trì của xã
ã viên hợp tác xã
Ban chủ nhiệm HTX phải xây dựng
d
được cơ chế quản lý xã viên khiến
người nông dân thấy có lợi ích khi làm xã
x viên HTX. Cơ chế này phải khoa học,

21
2

công bằng và minh bạch, nếu không sẽ chỉ thu hút được những xã viên “cơ hội”
hoặc những xã viên “đánh trống ghi tên” để hưởng lợi ích.
Cơ chế quản lý nhằm tăng cường sự cam kết duy trì của xã viên bao
gồm:
- Xã viên được tham gia một cách đầy đủ, nghiêm túc trong hoạt động
của HTX, bao gồm hoạt động quản trị HTX
- Xã viên có thể phải đóng phí hàng năm cho HTX, có như vậy xã viên
mới nhận thấy HTX là của chính bản thân xã viên, có trách nhiệm với HTX.
- Xã viên HTX có thể được hưởng ưu đãi về giá so với những khách

hàng không phải xã viên HTX trong việc sử dụng các sản phẩm và dịch vụ do
HTX, hoặc cung cấp sản phẩm dịch vụ cho HTX.
- Xã viên được phân phối lãi của HTX theo tỷ lệ vốn góp và mức độ sử
dụng hoặc cung cấp sản phẩm cho HTX; được hưởng các phúc lợi xã hội của
HTX.
- Xã viên được tham gia các buổi đào tạo, sinh hoạt nhóm nhằm nâng cao
năng lực về hoạt động sản xuất.
- Các xã viên không tuân thủ các quy định của HTX, vi phạm điều lệ
hoạt động của HTX cần phải bị xem xét kỷ luật ở các mức độ khác nhau, ở mức
nặng HTX có thể tước quyền xã viên, yêu cầu đền bù các thiết hại gây ra cho
HTX
Nâng cao sự tham gia vào quản trị hợp tác xã của xã viên
Để nâng cao sự tham gia vào quản trị HTX của xã viên, có một số nội
dung mà HTX cần phải thực hiện, bao gồm:
Thứ nhất, việc lựa chọn ban quản trị, ban chủ nhiệm, ban kiểm soát HTX
cần phải thật sự dân chủ. Tất cả các xã viên đều có quyền ứng cử hoặc đề cử xã
viên nắm giữ các trọng trách trên. Việc quyết định lựa chọn phải thông qua bầu
cử, dựa trên nguyên tắc “mỗi xã viên một phiếu bầu”.
Thứ hai, các HTX cần củng cố và duy trì tính nghiêm túc, dân chủ và
quyền lực tối cao của Đại hội xã viên. HTX cần tổ chức đều đặn các cuộc đại hội
hoặc họp thường niên, trước khi tham gia cuộc họp, các xã viên cần được cung
cấp đầy đủ tài liệu liên quan đến nội dung cuộc họp. Trong các cuộc họp, ý kiến
của xã viên cần được tôn trọng, lắng nghe, ban quản trị, ban chủ nhiệm HTX có
thể phân tích sự đúng, sai trong các ý kiến của xã viên nhưng không được sử dụng
quyền lực để áp đặt ý muốn chủ quan của mình. Trong các trường hợp không
thống nhất được với xã viên, cần có biểu quyết để lấy ý kiến của tập thể xã viên
trước khi ra quyết định cuối cùng.
Thứ ba, các HTX có thể cân nhắc việc tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm giữa
nhiệm kỳ với các thành viên BQT và có thể miễn nhiệm (trước nhiệm kỳ) đối với
các thành viên BQT kém năng lực, thiếu gương mẫu hoặc vi phạm Điều lệ HTX


22


5.2.4. Điều kiện thực hiện các giải pháp
5.2.4.1. Đối với các xã viên hợp tác xã
Các xã viên cần phải thay đổi nhận thức về HTX, xã viên cần phải hiểu
rằng sự thành công hay thất bại của HTX một phần đến từ chính bản thân xã viên.
Xã viên không cam kết, cung cấp hàng hóa dịch vụ đúng chất lượng, gây mất uy
tín cho HTX, khiến cho HTX hoạt động không tốt. Xã viên không chủ động, tích
cực tham gia vào quản trị HTX, bầu chọn ra người có uy tín, trách nhiệm, trình độ
để quản lý HTX thì HTX cũng không thể hoạt động tốt.
Xã viên cũng cần có ý thức tự giác nâng cao năng lực của bản thân trong
quá trình sản xuất kinh doanh, tích cực chủ động học hỏi, tham gia các khóa đào
tạo do liên minh HTX, HTX tổ chức, có như vậy, xã viên mới có thể lĩnh hội
được các kiến thức cần thiết cho quá trình sản xuất, kinh doanh của họ.
5.2.4.2. Đối với các hợp tác xã trong lĩnh vực nông nghiệp
Thứ nhất, HTX cần phải xác định HTX kinh doanh phải có lợi nhuận,
Thứ hai, HTX cần xác định rõ vai trò của mình đối với xã viên, bao gồm
hai vai trò chính có quan hệ tác động qua lại: Vai trò đem lại lợi ích kinh tế cho
xã viên và vai trò đoàn kết xã viên từ đó bảo vệ quyền lợi, đem lại sức mạnh cho
xã viên.
Thứ ba, các HTX cần độc lập, tự chủ, đặc biệt là độc lập với nhà nước.
Thứ tư, HTX cần chủ động trong việc trao đổi về công tác hỗ trợ của nhà
nước, các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ, trong đó đặc biệt chú trọng đến
công tác đào tạo, tăng cường năng lực.
5.2.4.3. Đối với Nhà nước
Hoàn thiện hệ thống pháp lý đối với HTX
Thứ nhất, hệ thống luật pháp cần phải được xây dựng trên một nhận thức
đầu tiên và quan trọng nhất đó là HTX là một hình thức doanh nghiệp giống như

các loại hình doanh nghiệp khác. Từ đó, xây dựng hệ thống pháp lý đảm bảo rằng
các HTX có sự tự chủ trong hoạt động để tồn tại và phát triển, tồn tại trong một
môi trường với những sự cạnh tranh và hợp tác với các đối tác, đối thủ khác.
Theo quan điểm của nghiên cứu sinh, Luật HTX 2012 đang có quan điểm
hỗ trợ lớn cho HTX và từ đó cần phải quản lý chặt HTX. Tuy nhiên đứng trên góc
độ kinh tế thị trường, nghiên cứu sinh cho rằng nhà nước cần tiếp cận theo hướng
hỗ trợ HTX ở mức độ vừa phải, nếu có tập trung vào công tác đào tạo, về luật
pháp thì coi các HTX cũng giống như các loại hình doanh nghiêp khác
Thứ hai, hệ thống luật pháp cần được xây dựng trên cơ sở nhận thức về
đặc điểm riêng của HTX – đó là cơ chế hoạt động một phần giống doanh nghiệp
kinh doanh, một phần giống hiệp hội với nhiều thành viên tham gia. Từ đó luật về
HTX phải nêu rõ các nội dung về quyền lực của xã viên, quyền lực của ban quản
trị, việc hình thành vốn của HTX, phân chia lợi nhuận HTX.

23

Đổi mới mạnh mẽ chính sách hỗ trợ cho HTX
Theo quan điểm của nghiên cứu sinh, Nhà nước chỉ nên tập trung hỗ trợ sự
phát triển các HTX thông qua chính sách đào tạo cho HTX. Các chính sách khác rất dễ
tạo môi trường cạnh tranh không hoàn hảo giữa HTX và các loại hình kinh doanh khác.
PHẦN KẾT LUẬN
Nghiên cứu đã cho thấy nhiều HTX nếu biết sử dụng tốt nguồn lực về xã viên
của mình, thu hút được sự cam kết của xã viên, lôi cuốn xã viên vào hoạt động quản trị
HTX lúc đó các HTX sẽ có cơ hội thành công. Để làm được điều đó, ban chủ nhiệm
HTX cần phải có những năng lực quản trị phù hợp với từng loại hình HTX để có thể
đưa HTX phát triển.
Nghiên cứu định tính cho thấy với mỗi hoạt động khác nhau của HTX,
các nhân tố nội sinh tác động đến kết quả hoạt động của HTX là khác nhau. Tuy
nhiên có một số nhân tố chung tác động, đó là năng lực định hướng kinh doanh,
năng lực quản lý bao gồm các năng lực lập kế hoạch, năng lực tổ chức, năng lực

lãnh đạo và năng lực kiểm soát của ban chủ nhiệm HTX, các xã viên HTX phải
có sự đồng lòng, nhất trí trong hoạt động của HTX.
Nghiên cứu định lượng từ 2 mô hình nghiên cứu cho thấy việc cam kết
của xã viên tác động rất lớn tới kết quả hoạt động của HTX. Trong bối cảnh hiện
nay yếu tố cam kết cảm xúc của xã viên đóng vai trò rất quan trọng tới kết quả
hoạt động của HTX. Các yếu tố đến từ năng lực quản trị của ban chủ nhiệm có
mức tác động nhỏ hơn và theo từng năng lực khác nhau đối với từng yếu tố kết
quả kinh tế cho HTX hay cho xã viên. Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận vai trò
của các yếu tố từ năng lực quản trị của ban chủ nhiệm, vì ngoài tác động trực tiếp
như trong mô hình nghiên cứu, năng lực quản trị còn có tác động gián tiếp tới kết
quả kinh tế của HTX và của xã viên thông qua việc tác động vào các yếu tố đến
từ xã viên.
Từ kết quả nghiên cứu này, giải pháp đào tạo trong đó nhấn mạnh đến
các nội dung đào tạo được nghiên cứu sinh phân tích sâu nhằm tăng cường năng
lực cho ban chủ nhiệm HTX. Đây là giải pháp quan trọng nhất, phù hợp nhất
trong bối cảnh của các HTX trong lĩnh vực nông nghiệp tại Việt Nam hiện nay.

24



×