TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình:
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY
XUẤT KHẨU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và Quản lý 2 (KD2)
HÀ NỘI, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình:
NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY
XUẤT KHẨU KHI VIỆT NAM GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và Quản lý 2 (KD2)
Họ và tên sinh viên (nhóm sinh viên):
Lê Vân Anh
Nam/nữ
Nguyễn Thị Giang
Nam/nữ
Bùi Thị Lam
Nam/nữ
Trần Thị Mai
Nam/nữ
Lớp: QTKD TM 53A Viện:
Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Năm thứ: 3
Ngành học: Kinh tế
Người hướng dẫn: PGS.TS. Ngô Thị Tuyết Mai
HÀ NỘI, 2014
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................3
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ...............................................................6
Biểu đồ..............................................................................................................6
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu................................................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu..........................................................3
CHƯƠNG 1......................................................................................................4
TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
(TPP).................................................................................................................4
1.1. Bối cảnh ra đời......................................................................................4
1.2. Mục tiêu và nguyên tắc........................................................................7
1.2.1. Mục tiêu...........................................................................................7
1.2.2.Nguyên tắc........................................................................................8
1.3. Các nội dung đàm phán chính của TPP.............................................8
1.4. Quá trình và kết quả đàm phán của TPP........................................11
1.5. Kết quả đàm phán đối với hàng dệt may trong TPP......................17
CHƯƠNG 2....................................................................................................19
PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC...............................19
ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU KHI VIỆT NAM THAM
GIA TPP.........................................................................................................19
2.1. Tầm quan trọng của thị trường các nước thành viên TPP đối với
hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam...................................................19
2.1.1. TPP là thị trường xuất khẩu rộng lớn đối với hàng dệt may Việt
Nam 19
2.1.2. Các nước TPP chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của dệt may Việt Nam.............................................................................20
2.1.3. Tham gia TPP, Việt Nam sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với
các nước xuất khẩu dệt may khác............................................................21
2.1.4. Tham gia TPP giúp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI vào
Việt Nam.................................................................................................21
2.2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với phát triển kinh tế Việt Nam
.....................................................................................................................22
2.2.1.Thực trạng phát triển ngành dệt may Việt Nam.............................22
2.2.2.Đối với phát triển kinh tế...............................................................23
2.3. Cơ hội đối với các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam khi
tham gia hiệp định TPP............................................................................26
2.3.1. Tăng quy mô và mở rộng thị trường xuất khẩu.............................26
2.3.2.Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài........................................28
2.3.3. Tạo điều kiện phát triển những ngành công nghiệp phụ trợ cho dệt
may 30
2.3.4. Tiếp thu, học hỏi được những kinh nghiệm, công nghệ hiện đại. .31
2.3.5. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu..................32
2.3.6.Tạo điều kiện và động lực khách quan để nước ta hoàn thiện hệ
thống luật pháp, chính sách, cơ chế,…....................................................33
2.4. Những thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu khi Việt Nam
tham gia TPP.............................................................................................35
2.4.1. Phụ thuộc nguyên phụ liệu nhập khẩu..........................................35
2.4.2. Sức ép cạnh tranh với các nước.....................................................37
2.4.3 Khả năng đáp ứng các tiêu chuẩn lao động, môi trường, công
đoàn ...còn hạn chế..................................................................................38
2.4.4. Đội ngũ nhân lực còn hạn chế.......................................................40
CHƯƠNG 3....................................................................................................42
QUAN ĐIỂM VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM TRANH THỦ NHỮNG CƠ
HỘI VÀ GIẢM THIỂU NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI DỆT MAY
XUẤT KHẨU VIỆT NAM...........................................................................42
3.1. Quan điểm của Chính phủ Việt Nam về tham gia đàm phán TPP42
3.1.1. Xác định rõ lộ trình tham gia........................................................42
3.1.2. Tham gia phải phù hợp với điều kiện Việt Nam...........................42
3.1.3. Chủ động, tích cực tham gia..........................................................43
3.2. Một số khuyến nghị đối với nhà nước nhằm tranh thủ những cơ
hội và giảm thiểu những thách thức khi Việt Nam tham gia đàm phán
TPP.............................................................................................................44
3.2.1. Khuyến nghị về quá trình đàm phán.............................................45
3.2.2. Chuẩn bị tốt quá trình cải cách thể chế.........................................47
3.2.3. Tăng cường phổ biến thông tin về TPP.........................................47
3.2.4. Hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may tham gia chuỗi giá trị toàn cầu 48
3.3. Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp dệt may nhằm tranh thủ
những cơ hội và giảm thiểu những thách thức khi Việt Nam tham gia
TPP.............................................................................................................50
3.3.1. Theo dõi và nắm bắt thông tin về TPP..........................................50
3.3.2. Tích cực góp ý khi chính phủ tham vấn........................................51
3.3.3. Cải thiện từng bước các chuẩn mực trong hoạt động kinh doanh.51
3.3.4. Xây dựng tầm nhìn và chiến lược kinh doanh dài hạn..................51
3.3.5. Tăng cường tham gia các hoạt động của Hiệp hội dệt may..........52
KẾT LUẬN....................................................................................................53
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................55
DANH MỤC BẢNG VÀ BIỂU ĐỒ
Bảng
Bảng 2.1 : Kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may tại một số quốc gia, vùng
lãnh thổ...........................................................................................................24
Bảng 2.2: Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam..............................27
Biểu đồ
Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các năm 2009-2013
.........................................................................................................................19
Biểu đồ 2.2: Xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường chính.............20
năm 2011 và 2012.........................................................................................20
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) có nguồn gốc từ Hiệp
định hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific
Strategic Economic Partnership Agreement – còn gọi là P4), được ký kết giữa
4 nước Xinh-ga-po, Chi lê, Niu-Di lân và Bru-nây ngày 03/6/2005 tại Hàn
Quốc, có hiệu lực từ 28/5/2006. Hiện nay có 12 nước đang tham gia đàm
phán hình thành nội dung Hiệp định: Xinh-ga-po, Chi lê, Niu-Di lân, Bru-nây,
Hoa Kỳ, Pê-ru, Australia, Malaysia, Việt Nam và 3 nước mới tuyên bố tham
gia từ tháng 11/2011 là Nhật Bản, Canada, Mexico.
TPP là một mô hình khu vực thương mại tự do (FTA) mở ở trình độ
cao để giải quyết những lo ngại về việc thế giới bị chia cắt thành những khối
thương mại riêng biệt. Chính vì vậy các thành viên tham gia đàm phán TPP
coi đây là “Hiệp định của thế kỷ 21”, TPP sẽ đi xa hơn các thỏa thuận tự do
thông thường để trở thành một mô thức mới cho hội nhập kinh tế quốc tế.
Việt Nam có vị trí khá quan trọng trong TPP và các nước rất kỳ vọng
vào sự tham gia của Việt Nam. Ngay từ năm 2006, Xinh-ga-po đã tích cực
mời Việt Nam tham gia TPP. Tuy nhiên, Việt Nam chưa nhận lời vì vào thời
điểm đó, lợi ích của Việt Nam thu được từ TPP là chưa rõ ràng do các nước
TPP đã có FTA với Việt Nam. Ngay sau khi Hoa Kỳ quyết định tham gia đàm
phán TPP năm 2008, họ đã đặt vấn đề mời Việt Nam tham gia và Việt Nam
đã tham gia với tư cách là quan sát viên.
Sau khi dự 3 phiên đàm phán đầu của TPP với tư cách là quan sát viên,
Việt Nam đã bày tỏ quyết tâm tham gia TPP để hội nhập sâu hơn với thế giới
và giải quyết những vấn đề khó khăn trong quan hệ thương mại với các nước,
nhất là Hoa Kỳ. Tham gia TPP, Việt Nam sẽ có được FTA với Hoa Kỳ, một
nền kinh tế lớn nhất thế giới để thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, thu hút đầu
tư, nhận được sự trợ giúp kỹ thuật, được công nhận là kinh tế thị trường…
Bên cạnh đó, tham gia TPP cũng là cách thức để Việt Nam “nâng cấp” quan
hệ hợp tác với Hoa Kỳ, cân bằng chiến lược với các đối tác chiến lược lớn.
2
Ngày 13/11/2010, nhân Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại Nhật Bản, Chủ tịch
nước Nguyễn Minh Triết đã thông báo quyết định của Việt Nam tham gia
đàm phán TPP với tư cách là thành viên chính thức.
Tuy nhiên, tham gia đàm phán TPP, Việt Nam vẫn còn nguy cơ bị phân
biệt đối xử ngay cả khi đã chính thức là thành viên của Tổ chức Thương mại
thế giới (WTO). Mặt khác, Việt Nam vẫn là một nền kinh tế đang chuyển đổi
sang kinh tế thị trường, đang nỗ lực để hội nhập kinh tế quốc tế, trong khi đó
Hiệp định TPP là một Hiệp định thương mại tự do hóa toàn diện, ở trình độ
cao, có phạm vi điều chỉnh rộng và đi xa hơn so với các thỏa thuận thương
mại tự do thông thường. Do đó, trong điều kiện Việt Nam hiện nay, vấn đề
xác định ảnh hưởng của việc tham gia Hiệp định TPP đối với Việt Nam và
chuẩn bị các điều kiện tham gia, thực hiện nội dung Hiệp định TPP sau khi
Hiệp định được ký kết là một vấn đề khó khăn. Để đảm bảo Việt Nam tham
gia TPP thành công, cần phân tích, đánh giá được những ảnh hưởng của việc
tham gia TPP đối với nền kinh tế Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp để
tham gia có hiệu quả vào TPP của Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu
đề tài “Những cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu khi
Việt Nam gia nhập Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương” là cần thiết
và có ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh tự do hóa thương mại hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống và làm rõ quá trình hình thành của Hiệp định TPP và ảnh
hưởng đến phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam.
- Chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu khi Việt
Nam tham gia TPP.
- Đề xuất quan điểm và khuyến nghị nhằm tranh thủ những cơ hội và
giảm thiểu những thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu khi Việt Nam
tham gia TPP.
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
TPP.
Phạm vi nghiên cứu:
- Nghiên cứu những cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may xuất
khẩu khi Việt Nam tham gia TPP.
- Thời gian nghiên cứu thực trạng từ năm 2005 đến nay.
- Đề xuất giải pháp, kiến nghị cho đến 2020.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu khoa học sử dụng các phương pháp nghiên cứu
truyền thống, đặc biệt là các phương pháp phân tích, thống kê, so sánh và
tổng hợp để đạt được mục tiêu đề ra.
5. Kết cấu đề tài nghiên cứu khoa học
Bài nghiên cứu khoa học được kết cấu thành 3 chương (ngoài phần mở
đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo):
Chương 1: Tổng quan về Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
Chương 2: Phân tích những cơ hội và thách thức đối với hàng dệt may xuất
khẩu khi Việt Nam tham gia TPP.
Chương 3: Quan điểm và khuyến nghị nhằm tranh thủ những cơ hội và
giảm thiểu những thách thức đối với hàng dệt may xuất khẩu khi Việt Nam
tham gia TPP.
4
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH
DƯƠNG (TPP)
1.1. Bối cảnh ra đời
Nền kinh tế thế giới tồn tại sự phát triển song song của hai xu thế hội nhập là
đa phương hoá quan hệ kinh tế thương mại toàn cầu trong khung khổ
GATT/WTO và khu vực hoá giữa các nền kinh tế hay nhóm quốc gia với nhau.
Hoạt động ngoại thương giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ đã phát
triển từ thế kỷ XVI, sau đó bùng nổ trên quy mô toàn cầu vào thế kỷ XIX và
thế kỷ XX. Nếu tính từ khi kết thúc Thế chiến II (1945), nhìn chung liên kết
kinh tế và thương mại toàn cầu hoạt động đã dựa trên các khung khổ thể chế
và tổ chức quốc tế đa phương như Liên Hợp Quốc; Hiệp định chung về
thương mại và thuế quan mà sau này là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO);
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) hay Ngân hàng Thế giới (WB) với vai trò chủ đạo
của Mỹ và Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, các khung khổ đa phương này
không phải là duy nhất vì các quốc gia châu Âu đã nhanh chóng chọn cho
mình con đường liên kết kinh tế khu vực vì một châu Âu thống nhất về
thương mại, kinh tế và chính trị trong tương lai. Hệ quả là cuối những năm
1950 trở đi, hàng loạt thỏa thuận liên kết kinh tế khu vực dựa trên nguyên tắc
tự do hóa thương mại đã được thành lập. Đầu tiên ở châu Âu với Liên minh
thuế quan Benelux (1948), Cộng đồng Than Thép châu Âu (1950), Cộng
đồng kinh tế châu Âu (1958), Hiệp hội thương mại tự do châu Âu - EFTA
(1960). Sau đó ở châu Mỹ La tinh và châu Phi, nhiều thỏa thuận mậu dịch khu
vực cũng lần lượt ra đời, đáng lưu ý là Thị trường chung Trung Mỹ (1962),
Cộng đồng Ca-ri-bê và thị trường chung (1973), Khu vực Mậu dịch tự do Mỹ
Latinh, Khu vực Mậu dịch tự do Mỹ - Canada (1988), Cộng đồng kinh tế Tây
Phi (1966), Liên minh kinh tế và thuế quan Trung Phi (1966), Thị trường
chung Ả rập (1965).
Làn sóng liên kết kinh tế khu vực song song tồn tại với các khung khổ
liên kết kinh tế đa phương với tám vòng đàm phán trong khung khổ Hiệp định
chung về Thương mại và Thuế quan (GATT). Kể từ thập kỷ 1980 và đặc biệt
là sau khi Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ra đời năm 1995, với một số
5
quy định ngoại lệ cho phép hình thành các hiệp định thương mại khu vực
(GATT/Điều khoản XXIV; GATS/Điều khoản V …) chủ yếu dưới hình thức
khu vực như Hiệp định thương mại tự do hay Liên minh thuế quan. Tuy
nhiên, khung khổ GATT/WTO cũng không ngăn cấm việc hai hay một số
nước thoả thuận với nhau về mức độ tự do hoá sâu hơn và rộng hơn những
cam kết trong GATT/WTO. Do đó, hơn một nửa số Hiệp định thương mại
khu vực ra đời sau khi thành lập WTO.
Các chương trình hợp tác trong khuôn khổ đa phương gặp nhiều trục
trặc với thất bại của hai kỳ hội nghị bộ trưởng WTO tại Seattle (Hoa Kỳ) và
Can cun (Mexico). Vòng đàm phán thiên niên kỷ Đô-ha của WTO không thể
kết thúc đúng lộ trình. Những bế tắc của các vòng đàm phán đa phương là do
những nội dung đàm phán đã được mở rộng sang những lĩnh vực phi thuế
quan và ngoài phạm vi thương mại thuần tuý. Các nước phát triển và đang
phát triển không nhất trí được với nhau vấn đề trợ cấp nông sản, tiêu chuẩn
lao động và môi trường. Trong nhóm các nền kinh tế phát triển, mà tiêu biểu
là Hoa Kỳ và EU, cũng bất đồng với nhau về Chương trình Nghị sự của Vòng
đàm phán Đô-ha về phát triển, đặc biệt trong các vấn đề về minh bạch trong
mua sắm chính phủ, thuận lợi hoá thương mại, chính sách đầu tư và chính
sách cạnh tranh…
Trong bối cảnh đàm phán tự do hóa thương mại toàn cầu trong khuôn khổ
Vòng Đô-ha gặp bế tắc, nhiều quốc gia đã chọn giải pháp thúc đẩy thương mại
thông qua đàm phán các thỏa thuận tự do hóa thương mại khu vực. Trước xu thế
đó, nhân dịp Hội nghị cấp cao trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á
– Thái Bình Dương APEC tổ chức tại Mexico năm 2002, ba nước Chi-lê, NiuDilân và Xinh-ga-po, sau đó là Bru-nây đã khởi xướng đàm phán và ký kết
Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (P4). Hiệp định
này được mở rộng thành phần số nước tham gia và đàm phán thêm các lĩnh
vực khác, phát triển thành Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
TPP chính thức đàm phán phiên thứ nhất vào đầu năm 2010.
Nhân dịp Hội nghị cấp cao APEC 2002 tổ chức tại Mexico, nguyên thủ
3 nước Chi-lê, Niu-Dilân và Xinh-ga-po phát động đàm phán một Hiệp định
đối tác kinh tế chặt chẽ hơn. Tháng 4/2005, Bru-nây xin gia nhập nhóm này
với tư cách thành viên sáng lập trước khi vòng đàm phán cuối cùng kết thúc,
6
hình thành Hiệp định hợp tác Kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương
(P4). Đến năm 2007, các nước thành viên P4 quyết định mở rộng phạm vi
đàm phán của Hiệp định này ra các vấn đề dịch vụ tài chính và đầu tư và trao
đổi với Hoa Kỳ về khả năng nước này tham gia vào đàm phán mở rộng của
P4. Phía Hoa Kỳ cũng bắt đầu tiến hành nghiên cứu vấn đề, tham vấn nội bộ
với các nhóm lợi ích và Nghị viện về vấn đề này.
Tháng 9/2008, Cơ quan đại diện thương mại Hoa Kỳ thông báo
quyết .Kể từ khi có sự tham gia của Hoa Kỳ, P4 mở rộng đã thu hút được sự
quan tâm của nhiều nước. Vào tháng 11/2008, nhân dịp Hội nghị cấp cao
APEC tại Pêru, Australia và Pêru cũng tuyên bố sẽ tham gia TPP. Tháng
10/2009, tại Bru-nây, Malaysia chính thức tham gia đàm phán TPP. Cũng từ
thời điểm này, đàm phán mở rộng P4 được đặt tên lại là đàm phán Hiệp định
đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP. Tuy nhiên đàm phán TPP mới đã bị trì
hoãn đến cuối năm 2009 do phải chờ đợi Hoa Kỳ hoàn thành kỳ bầu cử Tổng
thống và Chính quyền mới của Tổng thống Obama tham vấn và xem xét lại
việc tham gia đàm phán TPP. Tháng 12/2009 Cơ quan đại diện thương mại
Hoa Kỳ mới thông báo quyết định của Tổng thống Obama về việc Hoa Kỳ
tiếp tục tham gia TPP. Chỉ lúc này đàm phán TPP mới được chính thức khởi
động.
Việt Nam tham gia TPP với tư cách thành viên liên kết từ đầu năm
2009 và chính thức tham gia tháng 11/2010. Tháng 11/2011, Nhật Bản,
Canada và Mexico tuyên bố chính thức tham gia đàm phán TPP, nâng tổng số
đối tác tham gia đàm phán TPP lên 12 nước. Các nước khác như In-đô-nê-xia, Phi-lip-pin, Hàn Quốc, Đài Loan... đang xem xét, cân nhắc tham gia đàm
phán hiệp định này.
Việc tham gia của Hoa Kỳ và những kỳ vọng của nước này đã làm thay
đổi một số vấn đề đã được đàm phán trong Hiệp định TPP. Có thể nói rằng,
Hoa Kỳ là tâm điểm của TPP hiện nay và đàm phán TPP là đàm phán theo
các tiêu chuẩn của Hoa Kỳ và chủ yếu với Hoa Kỳ. Nhiều nhận định cho
rằng, ý tưởng TPP mới gắn chặt với quyền lợi chính trị và kinh tế của Hoa
Kỳ. Thể hiện:
Thứ nhất, đàm phán TPP thành công, Hoa Kỳ sẽ thực hiện được mong
muốn mở rộng tự do hóa thương mại theo tiêu chuẩn của họ.
7
Thứ hai, Hoa Kỳ hy vọng TPP mới sẽ mang lại một cách thức để thúc
đẩy tự do hóa thương mại sâu rộng hơn khi vòng đàm phán Đô-ha đang lâm
vào bế tắc, tức là chuyển trọng tâm từ tiến trình đa phương sang khu vực và
trong chừng mực nào đó, sử dụng tiến triển trong đàm phán khu vực để tác
động trở lại đàm phán đa phương.
Thứ ba, TPP có thể là phương thức để Hoa Kỳ tìm kiếm những lợi ích gia
tăng trong hội nhập kinh tế khi mà nền kinh tế nước này đang gặp nhiều khó khăn.
(Chính quyền Obama có ý định tăng gấp đôi xuất khẩu trong 5 năm tới).
Thứ tư, tham gia TPP là sự trở lại châu Á của Hoa Kỳ với quyền lợi kinh tế
và chính trị của nước này tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cân bằng lợi ích
chiến lược, đặc biệt là kiềm chế sự cạnh tranh từ phía Trung Quốc.
1.2. Mục tiêu và nguyên tắc
Mặc dù nội dung Hiệp định TPP đang được bàn thảo và thiết kế, tuy
nhiên, qua các phiên đàm phán vừa qua có thể khái quát một số mục tiêu và
nguyên tắc của Hiệp định TPP như sau:
1.2.1. Mục tiêu
- Mục tiêu của Hiệp định TPP là nhằm mở rộng quan hệ giữa các nước
thông qua tự do hóa thương mại, đầu tư và khuyến khích hợp tác, tạo ra một
đối tác chiến lược trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nâng cao sức
cạnh tranh và minh bạch hóa chính sách các nước thành viên TPP. Thúc đẩy
hàng hóa của các nước thành viên được tiếp cận thị trường của nhau một cách
toàn diện và miễn thuế cũng như các hạn chế về dịch vụ được đồng loạt xóa
bỏ nhằm tạo ra những cơ hội mới cho người lao động và doanh nghiệp cũng
như những lợi ích trực tiếp cho người tiêu dùng; tạo việc làm và nâng cao
mức sống và cải thiện phúc lợi tại các nước thành viên.
- TPP là một hiệp định thương mại tự do tiêu chuẩn cao với phạm vi
điều chỉnh rộng, bao gồm hầu như tất cả các lĩnh vực quan trọng của nền kinh
tế như thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao
động, môi trường… Ngoài ra, Hiệp định TPP cũng sẽ quan tâm xử lý các vấn
đề khác như liên kết khu vực, hợp tác kinh tế, hợp tác phát triển, hỗ trợ doanh
nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao sức cạnh tranh… Các thành viên sáng lập TPP
kỳ vọng rằng, với mẫu hiệp định chất lượng cao, TPP sẽ mang lại lợi ích to
lớn và bền vững cho các nước tham gia, thúc đẩy nhanh hơn quá trình tự do
8
hóa thương mại toàn cầu, mang lại một cách thức để vượt qua khó khăn hiện
nay giữa các quốc gia đang tìm kiếm sự hội nhập sâu rộng hơn khi vòng đàm
phán Đô-ha đang lâm vào bế tắc.
- TPP là một Hiệp định được thiết kế theo hướng mở. Mục tiêu này
được thể hiện qua nguyên tắc “hội nhập khu vực” với mong muốn có một
hiệp định thương mại tự do toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Điều
này dễ dàng nhận thấy qua việc thay đổi số nước tham gia đàm phán TPP.
Với 4 thành viên khai sáng, đến nay đã có 12 nước tham gia. Chính sự tham
gia của Hoa Kỳ và những lợi ích kỳ vọng của nước này, TPP có thể sẽ thu hút
sự tham gia của các nước khác trong khu vực, đặc biệt là một số nền kinh tế
lớn khác như Hàn Quốc, Liên bang Nga…
1.2.2. Nguyên tắc
- Một trong những nguyên tắc của TPP là “vì sự phát triển”. Theo
nguyên tắc này, Hiệp định TPP sẽ được thiết kế theo hướng vừa bảo đảm
được trình độ và chất lượng cao, vừa dung hòa được quyền lợi của các nước
có cơ cấu kinh tế và trình độ phát triển khác nhau, giúp các nước phát triển có
thể tham gia đầy đủ và thành công vào hiệp định.
- “Đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp vừa và nhỏ” là một trong những
nguyên tắc của hiệp định TPP. Hiệp định TPP sẽ dành sự quan tâm thỏa đáng
tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME), bởi họ là động lực của tăng trưởng,
vừa là nguồn tạo việc làm quan trọng tại tất cả các nền kinh tế, nhất là các nền
kinh tế đang phát triển. Một số mục tiêu đàm phán để hỗ trợ SME là tạo điều
kiện tiếp cận các nguồn vốn, giải quyết nhanh các tranh chấp thương mại để
giảm chi phí, cải thiện tính minh bạch của môi trường thể chế, bảo lãnh cho
SME tham gia đấu thầu mua sắm chính phủ…
- TPP sẽ hướng tới “một sự hội tụ về phương pháp luận” trong xây
dựng chính sách để tạo ra một môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi
hơn trong khu vực, giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, thời gian, từ đó nâng
cao sức cạnh tranh. Phương châm của TPP là “nhanh hơn, dễ hơn, rẻ hơn”.
1.3. Các nội dung đàm phán chính của TPP
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) là một hiệp định
thương mại tự do tiêu chuẩn cao với phạm vi điều chỉnh rộng, bao gồm hầu
như tất cả các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế như thương mại hàng hóa,
9
thương mại dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, lao động, môi trường…, liên kết
khu vực, hợp tác kinh tế, hợp tác phát triển, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ,
nâng cao sức cạnh tranh…Sau đây là một số nội dung đàm phán chính của
hiệp định:
- Nhóm hàng hóa phi nông nghiệp: Đây là một trong những nội dung
chính của đàm phán cấp kỹ thuật. Đàm phán chủ yếu ở đây là thống nhất
phương thức đàm phán, mô hình cắt giảm thuế quan. TPP là hiệp định tiêu
chuẩn cao, vì vậy mức cắt giảm thuế quan đối với nhóm hàng phi nông
nghiệp có khả năng sẽ cao hơn mức cắt giảm trong một số hiệp định Việt
Nam đã ký kết.
- Nhóm dệt may: Nội dung này được đề cập với lý do ngành dệt may là
một ngành phức tạp đối với Hoa Kỳ và một số nước như Australia và NiuDilân. Các vấn đề các thành viên TPP quan tâm là mở cửa thị trường, thủ tục
hải quan, quy tắc xuất xứ. Đây là cam kết quan trọng đối với Việt Nam, vì
ngành dệt may chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu và có ảnh
hưởng lớn đến thu nhập và việc làm của số lớn người dân Việt Nam. Hơn thế
nữa, Việt Nam được đánh giá là nước được coi là có lợi nếu như TPP đi đến
thống nhất và đưa thuế suất về mức ưu đãi. Tuy nhiên, quy định “từ sợi trở
đi” đang là 1 trở ngại lớn đối với một nước mà chủ yếu là nhập nguyên phụ
liệu từ nước ngoài như Việt Nam.
- Nhóm nông nghiệp: Các thành viên TPP đều bày tỏ mong muốn đạt
được một hiệp định mang lại lợi ích nhiều hơn các FTA hiện có. Hoa Kỳ là
nước quan tâm nhiều nhất đến vấn đề này. Các biện pháp phi thuế sẽ là nội
dung cơ bản của nhóm cam kết về nông nghiệp như: trợ cấp xuất khẩu, tín
dụng xuất khẩu, hạn ngạch thuế quan, doanh nghiệp nhà nước, tiêu chuẩn thực
phẩm, vệ sinh kiểm dịch, hàng rào kỹ thuật, giấy phép nhập khẩu, các biện pháp
hạn chế xuất nhập khẩu, chính sách cạnh tranh, quy tắc xuất xứ… Vấn đề môi
trường cũng được đặt ra trong tự do hóa thương mại hàng nông sản.
- Quy tắc xuất xứ: TPP sẽ đàm phán để đồng bộ hóa và đơn giản hóa
từng bước quy tắc xuất xứ tạo điều kiện cho các thành viên khai thác tối đa lợi
ích của việc mở cửa thị trường theo TPP.
- Hàng rào kỹ thật trong thương mại (TBT): Những vấn đề được bàn
thảo và đưa ra đàm phán là minh bạch hóa các quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn,
10
phương thức đánh giá sự phù hợp, có tính đến yêu cầu của các doanh nghiệp
nhỏ và vừa; hợp tác kỹ thuật, hợp tác với các diễn đàn khác như WTO,
APEC, ASEAN…; xây dựng thể chế hiệu quả.
- Biện pháp vệ sinh an toàn thực phẩm (SPS): Các quy định về SPS sẽ
được đàm phán ở mức cao hơn và cởi mở hơn so với quy định của WTO với
mục đích tạo thuận lợi cho thương mại.
- Dịch vụ: Các nước thành viên TPP có tham vọng khá cao đối với
thương mại dịch vụ. Cách thức đàm phán về cơ bản theo nguyên tắc WTO+.
Dịch vụ tài chính, bảo hiểm, viễn thống và Internet là những lĩnh vực các
nước quan tâm.
- Đầu tư: các cam kết về Đầu tư của TPP, nhìn chung, có phạm vi bảo
hộ và mức độ tự do hóa cao hơn nhiều với các nghĩa vụ tương ứng mà Việt
Nam đã cam kết trong khuôn khổ các hiệp định song phương và khu vực, đặc
biệt là các quy định liên quan đến chế độ đối xử quốc gia, đối xử tối huệ quốc,
tiêu chuẩn đối xử tối thiểu, các yêu cầu về hoạt động giải quyết tranh chấp.
- Mua sắm chính phủ: Đây là vấn đề sẽ được đàm phán trong khuôn
khổ TPP với mong muốn tăng cường hợp tác giữa các nước và hỗ trợ SME
tham gia thị trường mua sắm Chính phủ.
- Sở hữu trí tuệ: Một số thành viên TPP kỳ vọng sẽ đưa lên một chất
lượng cao hơn (nhóm đã ký FTA với Hoa Kỳ), một số khác không muốn nâng
cao tiêu chuẩn bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nhìn chung, các thành viên đều khẳng
định cơ chế bảo hộ sở hữu trí tuệ phải phục vụ sự phát triển kinh tế, xã hội
bằng cách hậu thuẫn và đáp ứng các yêu cầu của các doanh nghiệp của mình.
- Phòng vệ thương mại: Các vấn đề liên quan đến phòng vệ thương mại
được đưa ra đàm phán trong TPP với mục tiêu giải quyết tốt các tranh chấp
thương mại như bán phá giá, trợ cấp, tự vệ...
- Vấn đề liên quan đến lao động và công đoàn: Vấn đề này được đề cập
trong hiệp định P4. Đây đang là vấn đề tranh cãi giữa các nước. Trong các
phiên đàm phán vừa qua Việt Nam nhấn mạnh quan điểm không nên gắn vấn
đề lao động với thương mại vì vấn đề này đã được WTO thống nhất chuyển
sang giải quyết trong khuôn khổ Tổ chức Lao động quốc tế.
- Thương mại và môi trường: Vấn đề này cũng được đề cập trong Hiệp
định P4. Tuy nhiên, các bên tham gia đàm phán TPP chưa làm rõ được nội dung
11
chính của vấn đề này và chưa tách được đàm phán về môi trường trong TPP với
các thỏa thuận về môi trường và biến đổi khí hậu tại các diễn đàn khác.
- Một số vấn đề khác cũng được đưa ra đàm phán trong TPP như: Thỏa
thuận hóa và hợp tác hải quan; Hợp tác và nâng cao năng lực…
1.4. Quá trình và kết quả đàm phán của TPP
Như trên đã đề cập, Việt Nam được các nước TPP mời tham gia đàm
phán với tư cách thành viên liên kết từ đầu năm 2009. Việt Nam đã tham gia
tất cả 3 phiên đàm phán chính thức của TPP với tư cách là thành viên liên kết
(phiên 1 tại Melbourne (Australia) vào tháng 3/2010, phiên 2 tại San
Fransisco (Hoa Kỳ) vào tháng 6/2010, phiên 3 tại Bru-nây tháng 10/2010) và
phiên đàm phán giữa kỳ tại Lima (Pê-ru) tháng 8/2010. Tháng 11 năm 2010,
sau khi tham gia 3 phiên đàm phán TPP với tư cách này, Việt Nam đã chính
thức tham gia đàm phán TPP.
Cho tới nay, Hiệp định TPP đã trải qua 21 phiên đàm phán, Việt Nam
đã tham gia đầy đủ các phiên đàm phán trên. Kết quả sơ bộ như sau:
- Phiên đàm phán thứ 1 diễn ra tại Australia tháng 3/2010 với sự tham
gia của Australia, Hoa Kỳ, Niu-Dilân, Chilê, Xinh-ga-po, Bru-nây, Pê-ru và
Việt Nam, trao đổi một số lĩnh vực mới nổi của thương mại quốc tế như dịch
vụ, thương mại điện tử và công nghệ xanh.
- Phiên đàm phán thứ 2 diễn ra tại Hoa Kỳ tháng 6/2010 đã đạt được
những tiến triển đáng kể. Các đoàn đàm phán cũng đạt được sự thống nhất về
các vấn đề chung quan trọng như: thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp
nhỏ vào thương mại; giải quyết các vấn đề liên quan đến biên giới như giảm
thủ tục hải quan; thúc đẩy tính thống nhất pháp lý, bao gồm thông qua khuyến
khích hợp tác giữa các cơ quan quản lý; xem xét cách thức để tăng tính cạnh
tranh của các nước đối tác TPP; tập trung vào tính minh bạch trong quản lý và
điều hành và tính đến nhu cầu của các nước đang phát triển.
- Phiên đàm phán thứ 3 diễn ra tại Bru-nây tháng 10/2010 với sự tham
gia của một thành viên mới là Malaysia. Các nước TPP đồng ý cho Malaysia
gia nhập quá trình đàm phán chính thức. Các nước TPP cũng đàm phán về các
cam kết nền, bao gồm: tăng kết nối thông qua tạo cơ hội tối đa hiệu quả của
chuỗi cung ứng trong khu vực; tăng tính thống nhất về pháp lý trong khu vực;
12
tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tận dụng được TPP và hỗ
trợ phát triển.
- Phiên đàm phán thứ 4 diễn ra tại Niu-Dilân tháng 12/2010 với sự
tham gia của các nước Niu-Dilân, Hoa Kỳ, Australia, Bru-nây, Chile, Malaysia,
Pê-ru, Xinh-ga-po và Việt Nam. Tại phiên đàm phán lần này, TPP đã có định
hướng lạc quan, trong tương lai hiệp định hoạt động trong nhiều lĩnh vực như
hàng hóa, sở hữu trí tuệ, hải quan, các vấn đề pháp lý và thể chế, lao động, dịch
vụ tài chính và những rào cản kỹ thuật đối với thương mại. Hoa Kỳ cho biết họ
muốn hoàn tất đàm phán hiệp định TPP vào cuối năm 2011.
- Phiên đàm phán thứ 5 được tổ chức tại Chilê tháng 02/2011 với sự
tham gia của 9 nước Australia, Bru-nây, Chilê, Malaysia, Niu-Dilân, Pê-ru,
Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam. Các bên thảo luận về việc làm thế nào để
thiết lập được một quy tắc xuất xứ trong TPP tối ưu nhất, một vấn đề cốt yếu
trong việc xây dựng một hiệp định thương mại khu vực. Australia tiếp tục
thúc đẩy việc xóa bỏ tối đa các dòng thuế và xây dựng các quy tắc xuất xứ
hiệu quả tạo điều kiện thuận lợi cho các chuỗi cung ứng hàng hóa trong khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương. Các bên cũng đồng ý trao đổi các bản chào
về tiếp cận thị trường đối với dịch vụ, đầu tư và mua sắm chính phủ trước
vòng đàm phán thứ 6. Các bản chào dịch vụ và đầu tư sẽ được thực hiện trên
cơ sở chọn bỏ, đối với tất cả các nước TPP.
- Phiên đàm phán thứ 6 được tổ chức tại Singapore tháng 3/2011. Các
nhà đàm phán tại vòng đàm phán này tập trung vào thu hẹp khoảng cách về vị
thế trên Bản thảo và thảo luận các bản chào ban đầu về tiếp cận thị trường của
các nước. Liên quan đến vấn đề tiếp cận thị trường, các nhà đàm phán đã trao
đổi danh sách các yêu cầu cải thiện các bản chào ban đầu trước vòng đàm
phán này, và các bản chào thuế quan sửa đổi được trao đổi trước vòng đàm
phán thứ 7 tại Việt Nam. Mối quan tâm chính của Australia là thiết lập một
hiệp định khu vực với các cam kết chung về thuế quan và các quy định về
nguồn gốc xuất xứ dễ sử dụng. Các cuộc thảo luận về các quy tắc xuất xứ đối
với các sản phẩm cụ thể đã đạt được kết quả - đó là các nhân tố chính để đạt
được một FTA khu vực hỗ trợ hội nhập chuỗi cung ứng kinh doanh hiện đại.
- Phiên đàm phán thứ 7 được tổ chức tại Việt Nam tháng 6/2011 với sự
tham gia của các Đoàn đàm phán đến từ 9 nền kinh tế của 3 châu lục là
13
Australia, Bru-nây, Chile, Hoa Kỳ, Malaysia, Niu-Dilân, Pê-ru, Xinh-ga-po
và Việt Nam. Các đối tác TPP tiếp tục đẩy nhanh tiến độ ở tất cả các nhóm
đàm phán. Bản dự thảo đang được soạn thảo bởi các nhóm đàm phán. Các
bên đã làm việc nhằm củng cố các vấn đề hiện tại và xem xét các đề xuất mới
ở các nhóm làm việc, bao gồm sở hữu trí tuệ, dịch vụ, minh bạch, truyền
thông, hải quan và môi trường.
- Phiên đàm phán thứ 8 được tổ chức tại Hoa Kỳ tháng 9/2011 đã đạt
được nhiều tiến bộ quan trọng. Các bên đã đưa ra đề xuất cuối cùng cho nhiều
lĩnh vực đàm phán, điều kiện tiên quyết để có thể bước vào giai đoạn đàm
phán thực chất. Bên cạnh đó, còn có những bước tiến quan trọng trong đàm
phán các vấn đề xuyên suốt toàn bộ hiệp định, như làm thế nào để giúp đỡ các
nước đang phát triển có thể thực thi tốt hiệp định trong tương lai, làm thế nào
để chính sách của tất cả các nước tham gia TPP có độ hội tụ nhất định, tạo ra
một sân chơi tương đối bằng phẳng cho tất cả các doanh nghiệp, tạo thuận lợi
cho sự phát triển của các chuỗi cung ứng trong khu vực.
- Phiên đàm phán thứ 9 tổ chức tại Pê-ru tháng 10/2011 với sự tham dự
của 9 nước đối tác. Phiên đàm phán lần này đạt được các tiến triển mới, đặc
biệt ở một số chương về các vấn đề Vệ sinh và dịch tễ, Rào cản Kỹ thuật đối
với Thương mại và các Quy định về Nguồn gốc xuất xứ. Một đề xuất mới về
vấn đề Doanh nghiệp Nhà nước cũng được đưa ra và sẽ được thảo luận trong
nhóm làm việc về Chính sách Cạnh tranh. Về vấn đề tiếp cận thị trường hàng
hóa, dịch vụ và đầu tư, và mua sắm chính phủ, các cuộc đàm phán cũng đạt
được nhiều tiến bộ.
- Phiên đàm phán 10 tổ chức tại Kuala Lumpur, Malaysia từ ngày 5 –
9/12/2011. Tuy nhiên, chỉ có một vài nhóm đàm phán gặp mặt và làm việc
trong suốt cả tuần, bao gồm các nhóm đàm phán về nguồn gốc xuất xứ, dịch
vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Tất cả đều tạo nên những tiến bộ hơn nữa trong
việc thu hẹp khoảng cách giữa các vấn đề trong các bản dự thảo và đàm phán
về các hiệp định tiếp cận thị trường. Các nhà lãnh đạo của 9 nước thành viên
đã tuyên bố rằng đã đạt được một hiệp định khung về TPP và thông qua báo
cáo từ các bộ trưởng thương mại của các nước TPP, bao gồm cam kết về một
FTA toàn diện và tham vọng mà sẽ giúp xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi
thuế quan đối với thương mại và đầu tư.
14
- Phiên đàm phán thứ 11 tổ chức tại Melbourne, Australia từ ngày 1-9/
3/2012. Đây là vòng đàm phán đầy đủ đầu tiên bao gồm tất cả các nhóm đàm
phán kể từ hội nghị các nhà lãnh đạo TPP, các nhà lãnh đạo đã tuyên bố rằng
hiệp định đã đạt được một khung đàm phán rộng và các nhà đàm phán tiếp tục
nỗ lực để đi đến kết thúc đàm phán.
- Phiên đàm phán thứ 12 tổ chức tại Dallas, Texas Hoa Kỳ từ ngày 818/5/2012. Vòng đàm phán lần này đã đạt được những tiến triển ngoài dự
kiến. Trong suốt 11 ngày của vòng đàm phán lần này, các nhóm đàm phán đã
làm việc hết sức tập trung để có thể hoàn thiện các văn bản của hiệp định. Các
nước tham gia TPP đã đàm phán xong các vấn đề về các doanh nghiệp vừa và
nhỏ - điểm mới trong một hiệp định thương mại tự do của Hoa Kỳ, nhằm thúc
đẩy quá trình hội nhập vào thương mại toàn cầu của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ mà hiện đang chiếm hai phần ba tổng số việc làm ở Hoa Kỳ. Các nhóm
đàm phán cũng tiến đến kết thúc đàm phán về các vấn đề chung như vấn đề
xung đột pháp luật, tăng cường chuỗi cung ứng hàng hóa giữa các quốc gia
TPP và thúc đẩy sự phát triển chung của khu vực.
- Phiên đàm phán thứ 13 tổ chức tại San Diego, California, Hoa Kỳ từ
ngày 2-10/7/2012. Tại vòng đàm phán lần này, các nhà đàm phán tiếp tục tiến
đến kết thúc hơn 20 chương của Hiệp định TPP là một sáng kiến thương mại
quan trọng của Hoa Kỳ nhằm tạo công ăn việc làm cho người dân thông qua
đẩy mạnh xuất khẩu sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương năng động,
thúc đẩy sản xuất, sáng tạo đổi mới và hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Hiệp
định cũng đề cập đến những vấn đề khác như quyền của người lao động và
môi trường; các vấn đề như hải quan, dịch vụ xuyên biên giới, truyền thông,
đầu tư công, chính sách cạnh tranh, hợp tác và xây dựng năng lực.
- Phiên đàm phán thứ 14 tổ chức tại Leesburg, Virginia, Hoa Kỳ từ
ngày 6-15/9/2012. Phiên đàm phán lần này tiếp tục tập trung vào giải quyết
những vấn đề quan trọng mà vẫn còn nhiều khác biệt trong quan điểm của các
bên. Sau 10 ngày đàm phán, các nhà đàm phán từ các nước đối tác TPP đã nỗ
lực làm việc trên 29 chương của Hiệp định. Các nhóm đàm phán đã đạt được
những tiến triển ở một loạt các chương như tiếp cận thị trường, hải quan,
nguồn gốc xuất xứ, rào cản kỹ thuật đối với thương mại, các tiêu chuẩn vệ
15
sinh dịch tễ, dịch vụ xuyên biên giới, truyền thông, mua sắm chính phủ và các
vấn đề khác
- Phiên đàm phán thứ 15 tổ chức tại Aukland, New Zealand từ ngày 312/12/2012. Đây là phiên đàm phán TPP đầu tiên của Mexico và Canada và
hai nước này cũng đã góp phần vào những tiến triển đạt được sau 10 ngày
đàm phán. Các nhà đàm phán từ 11 nước đã tập trung tìm kiếm những giải
pháp thực tế và có lợi chung đối với những vấn đề vẫn còn đang cân nhắc, và
tạm thời bỏ qua những vấn đề còn nhiều thách thức cho vòng đàm phán tới.
Cụ thể, các nước đã nỗ lực để kết thúc đàm phán về lời văn đối với 29 chương
của hiệp định bao gồm tất cả các vấn đề liên quan đến thương mại và đầu tư.
Với rất nhiều chương phía trước các bên đồng ý sẽ tiếp tục làm việc từ giờ
cho đến vòng đàm phán sau để có thể giải quyết một loạt các vấn đề như hải
quan, truyền thông, rào cản kỹ thuật đối với thương mại, vệ sinh dịch tễ…và
hết sức tập trung và các chương mà còn nhiều vấn đề chưa được thống nhất.
- Phiên đàm phán thứ 16 tổ chức tại Singapore từ ngày 4-13/3/2013.
Vòng đàm phán tại Singapore cho thấy nhiều khó khăn mới nảy sinh nếu các
quốc gia khác gia nhập TPP. Ví dụ như tại Mexico, các bên liên quan đang cố
gắng tìm kiếm các ngoại lệ khỏi việc phải mở cửa hoàn toàn đối với một loạt
các mặt hàng như dệt may, giày dép và sản phẩm từ trứng, sữa. Điểm tích cực
là các vấn đề như hải quan, viễn thông, hài hòa pháp lý và phát triển đã hoàn
thành đàm phán, ngoại trừ một số quyết định chính trị chủ chốt sẽ được đưa ra
sau. Một trong những vấn đề then chốt cần được giải quyết giữa Việt nam và
Hoa Kỳ là hàng dệt may và đã có một vài dấu hiệu tích cực trong vòng đàm
phán này.
- Phiên đàm phán thứ 17 tổ chức tại Li-ma, Pê-ru từ ngày 1524/5/2013.Tại phiên đàm phán, các nước đã thảo luận những nội dung còn tồn
tại trong nhiều lĩnh vực và đạt được tiến bộ đáng kể trong các chương như các
biện pháp vệ sinh và kiểm dịch động thực vật , phòng vệ thương mại, thương
mại điện tử, dịch vụ xuyên biên giới, quy tắc xuất xứ, pháp lý và thể chế. Các
nước nhận thấy thách thức vẫn còn trong một số lĩnh vực như sở hữu trí tuệ,
môi trường và cạnh tranh. Do tính chất phức tạp, các lĩnh vực đàm phán mở
cửa thị trường về hàng hóa, mua sắm chính phủ, dịch vụ và đầu tư cũng cần
thêm thời gian và nỗ lực đàm phán.
16
- Phiên đàm phán thứ 18 tổ chức tại Kota Kinabalu, thủ phủ bang
Sabah, Ma-lay-xia từ ngày 15-25/7/2013, thu hút sự tham gia của 12 quốc gia.
Nhật Bản là nước lần đầu tiên tham gia đàm phán TPP.
Đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Công Thương, Trưởng đoàn Đàm phán
Chính phủ về kinh tế và thương mại quốc tế Trần Quốc Khánh dẫn đầu cùng đại
diện các Bộ, ngành liên quan đã tham dự phiên đàm phán.
Vòng đàm phán thứ 18 diễn ra trong bối cảnh các bên tham gia đàm phán
đang nỗ lực đẩy nhanh đàm phán nhằm đạt được thỏa thuận này vào cuối năm.
- Phiên đàm phán thứ 19 tổ chức tại Banda Seri Begawan, Brunei từ
ngày 23-31/8/2013 tập trung vào một số lĩnh vực còn tồn đọng nhiều vấn đề
quan trọng. Hoa Kỳ và Việt Nam có vẻ đã sẵn sàng tham gia vào các thảo
luận sâu hơn về mặt hàng da giày. Việt Nam đang tìm kiếm mức thuế thấp
hơn của Hoa Kỳ đối với hàng da giày nhập khẩu, mặc dù việc giảm thuế bị
các nhà sản xuất nội địa của Hoa Kỳ phản đối. Việt Nam cũng tìm kiếm sự
tiếp cận rộng hơn vào thị trường Hoa Kỳ cho các sản phẩm may mặc. Các
thảo luận chủ yếu tập trung vào quy tắc xuất xứ đối với hàng may mặc, với việc
Hoa Kỳ kiên quyết theo đuổi quy tắc “từ sợi trở đi”, sẽ ngăn cản Việt Nam sử
dụng sợi và vải từ các nước không thuộc TPP như Trung Quốc để hàng may
mặc đủ điều kiện hưởng cắt giảm thuế quan theo quy tắc này. Các nước TPP
đàm phán và đưa ra một danh sách “nguồn cung thiếu hụt” mà theo đó các sản
phẩm trong danh sách này sẽ được miễn trừ khỏi quy tắc từ sợi trở đi.
- Phiên đàm phán thứ 20 tổ chức tại Xinh-ga-po tháng 12/2013. Các
nước vẫn chưa thể đồng thuận về cơ chế thuế xuất nhập khẩu nông nghiệp,
quyền của người lao động, các vấn đề liên quan doanh nghiệp nhà nước, quyền
tiếp cận thị trường, và đặc biệt là quyền bảo hộ sở hữu trí tuệ. Nhật Bản dường
như vẫn chưa sẵn sàng trong việc xóa bỏ rào cản thuế quan về 5 mặt hàng ngành
nông nghiệp (trong đó có lúa gạo) theo yêu cầu từ Hoa Kỳ, vì nước này lo ngại
những vấn đề về an ninh lương thực và đời sống người nông dân.
- Phiên đàm phán thứ 21 diễn ra tại Singapore từ ngày 22-25/2/2014.
Sau 4 ngày thương thuyết mà không đạt được thỏa thuận chung. Phiên đàm
phán này có sự tham gia của 12 nước là Ustralia, Bru-nây, Ca-na-da, Chi-lê,
Nhật Bản, Malayxia, Mexico, Niu-Di-Lân, Pê-ru, Xinh-ga-po, Hoa Kỳ, Việt
Nam. Phiên đàm phán này kết thúc trong sự thất bại khi không đạt được thỏa
17
thuận thương mại tự do của khu vực. Nguyên nhân chính được cho là do bất
đồng giữa 2 thành viên có nề kinh tế lớn nhất là Nhật Bản và Hoa Kỳ về việc
xóa bỏ hàng rào thuế quan. Trong phiên đàm phán này, Nhật Bản chưa muốn
bãi bỏ thuế quan với một số mặt hàng nông sản gồm: gạo, thịt bò và heo, sản
phẩm sữa, lúa mì, đường. Nhật Bản cũng đang gây sức ép để Hoa Kỳ đưa ra
lịch trình cụ thể loại bỏ thuế quan 2,5% với ô tô chở khách và 25% với xe tải
nhẹ. Theo dự kiến, Tổng thống Obama sẽ thăm Nhật Bản vào tháng 4/2014 và
đây được coi là mốc quan trọng cho việc kết thúc đàm phán TPP. Tuy nhiên
sau vòng đàm phán này các bên vẫn chưa đưa ra lịch trình cụ thể cho vòng
đàm phán tiếp theo.
Như vậy, sau 21 phiên đàm phán TPP đã có những tiến triển nhất định.
Bên cạnh những thành tựu đạt được trong việc đàm phán về xóa bỏ rào cản thuế
quan với 1 số quốc gia đàm phán vẫn còn những mâu thuẫn, được coi là “lợi ích
quốc gia” chưa được giải quyết thỏa mãn tất cả các quốc gia. Vì vậy cho đến
nay, TPP vẫn chưa kết thúc đàm phán chính thức, các quốc gia vẫn muốn đạt
được những lợi ích nhất định mà qua các phiên đàm phán chưa đạt được.
1.5. Kết quả đàm phán đối với hàng dệt may trong TPP
Sau nhiều vòng đàm phán TPP, cho đến thời điểm này, dệt may vẫn là
một trong những vấn đề gai góc nhất, quy định xuất xứ “từ sợi” (yarn
forward) của TPP buộc doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam muốn
được hưởng mức thuế suất ưu đãi thì phải sử dụng nguyên liệu sản xuất trong
nước hoặc nhập khẩu từ các nước thành viên TPP khác (không có Trung
Quốc vốn là thị trường cung cấp nguyên phụ liệu dệt may cho Việt Nam).
Quy định xuất xứ “từ sợi trở đi” (yarn forward) đến hiện tại đang là trở ngại
lớn nhất đối với Việt Nam bởi nước ta vẫn nhập khẩu nguyên phụ liệu từ
nước ngoài (chủ yếu là Trung Quốc), các doanh nghiệp dệt may trong nước
chưa đủ điều kiện để chuẩn bị “từ sợi trở đi” cho đến sản phẩm hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, để theo kịp và đón đầu khi Hiệp định TPP được ký kết, các DN dệt
may trong nước đã và đang tích cực mở rộng và tăng trưởng sản xuất. Nhất là
các công ty dệt may lớn đang nỗ lực để hình thành nên chuỗi cung ứng hoàn
chỉnh từ khâu nguyên phụ liệu để dần không còn phải phụ thuộc nguyên phụ
liệu từ nước ngoài. Theo kế hoạch trong năm 2014, Tập đoàn Dệt may Việt
Nam (Vinatex) sẽ tiến hành đầu tư phát triển 57 dự án bao gồm 5 dự án sợi, 8
18
dự án dệt, 24 dự án may, 2 dự án bông trang trại… Vinatex đã kêu gọi các
DN thành viên trong ngành, bao gồm cả DN khối FDI cùng tập trung đầu tư
phát triển sản xuất nguyên phụ liệu.
Hiện tại, các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam đã chủ động
được nguồn nguyên phụ liệu lên đến 70% thay vì chỉ có 20% như trước kia.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp đã chú trọng hơn vào khâu quản lý, kiểm soát để
đáp ứng yêu cầu của khách hàng đối với nguồn nguyên phụ liệu. Đối với các
mặt hàng nguyên phụ liệu nhập khẩu, thay vì nhập về từ Trung Quốc, hiện
doanh nghiệp chuyển hướng nhập từ các nước thuộc thành viên TPP.
19
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC
ĐỐI VỚI HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU KHI VIỆT NAM
THAM GIA TPP
2.1. Tầm quan trọng của thị trường các nước thành viên TPP đối
với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam
2.1.1. TPP là thị trường xuất khẩu rộng lớn đối với hàng dệt may Việt
Nam
Mặc dù việc gia nhập TPP của Việt Nam vẫn còn đang trong quá trình đàm
phán nhưng các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã bắt đầu lên kế hoạch xâm
nhập thị trường rộng lớn đầy tiềm năng cũng như thách thức này. Hiện nay, TPP
gồm 4 thành viên chính thức đồng thời là thành viên sáng lập là
Brunei, Chile, New Zealand và Singapore. Ngoài ra còn có 8 thành viên đang
trong quá trình đàm phán là Hoa Kì, Autralia, Peru, Việt Nam, Malaysia, Mexico,
Canada và Nhật Bản. Theo thống kê của Bộ Công thương, nhiều doanh nghiệp
(DN) trong ngành đã có được đơn hàng xuất khẩu đến cuối năm nay, nhiều DN
triển khai đầu tư các dự án lớn mở rộng quy mô, tăng năng lực sản xuất và nâng
cao chất lượng sản phẩm. Tuy trước đây, kim ngạch xuất khẩu của nước ta vào
các thị trường này đã có sự tăng trưởng bền vững nhưng sau kho hiệp định TPP
chính thức được kí kết, đây là một cơ hội lớn cho Việt Nam trong việc mở rộng
thị trường xuất khẩu vì khi hiệp định được kí kết, các hàng rào thương mại và thuế
quan sẽ được xóa bỏ và thuận lợi hơn cho xuất khẩu hàng dệt may.
Đơn vị: (Triệu USD)
Biểu đồ 2.1: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may qua các năm 2009-2013