Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

bài tiểu luận phục vụ cho môn học các vùng văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 36 trang )

Mục Lục
A.
1.
2.
3.
4.
B.

Mở Đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội Dung
Chương I: Khái quát chung về tiểu vùng văn hóa Thăng Long- Hà Nội
Chương II: Tìm hiểu Thăng Long Tứ Trấn - dấu ấn của kinh đô Thăng

Long ngàn năm văn hiến
2.1.
Khái niệm về Thăng Long Tứ Trấn
2.2.
Trấn Đông - Đền Bạch Mã
2.3.
Trấn Tây - Đền Voi Phục
2.4.
Trấn Nam – Đền Kim Liên
2.5.
Trấn Bắc – Đền Quán Thánh
C. Kết luận
D. Tài liệu tham khảo


A. Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài

Thăng Long - Hà Nội đến nay đã hơn ngàn năm tuổi, kể từ khi Lý Công Uẩn
ban Chiếu dời đô. Trải qua bao biến thiên của lịch sử, Thăng Long - Hà Nội


vẫn là trung tâm chính trị - kinh tế - văn hóa lớn nhất cả nước, nơi hội tụ, lắng
đọng hồn thiêng sông núi, trường tồn cùng lịch sử dựng nước và giữ nước
của dân tộc. Nơi đây, còn lưu giữ những giá trị truyền thống, những di sản
quý báu của dân tộc với hàng loạt các công trình kiến trúc cổ vô giá và độc
đáo - Tiêu biểu phải kể đến “Thăng Long tứ Trấn”- bốn ngôi đền thiêng thờ 4
vị thần trấn giữ 4 phương huyết mạch trên mảnh đất Thăng Long, che chở,
bảo vệ cho cho kinh thành Thăng Long xưa, Thủ đô Hà Nội ngày nay luôn
được bình yên. Vì vậy em xây dựng đề tài : “Tìm hiểu Thăng Long Tứ Trấn dấu ấn của kinh đô Thăng Long ngàn năm văn hiến”
2. Mục đích nghiên cứu

Tìm hiểu khái quát về tiểu vùng Thăng Long- Hà Nội nói chung và tìm hiểu
Thăng Long tứ Trấn- bốn ngôi đền thiêng thờ 4 vị thần trấn giữ 4 phương
huyết mạch trên mảnh đất Thăng Long, che chở, bảo vệ cho cho kinh thành
Thăng Long xưa, Thủ đô Hà Nội ngày nay luôn được bình yên.
3.
4.
-

Phạm vi nghiên cứu
Tiểu vùng Thăng Long – Hà Nội
Thăng Long tứ Trấn xưa và nay
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích – tổng hợp tài liệu

Phương pháp quan sát
Phương pháp điền dã

B. Nội dung

Chương I: Khái quát chung về tiểu vùng văn hóa Thăng Long- Hà Nội
Trải qua tiến trình lịch sử kéo dài hàng ngàn năm, là trung tâm đầu não quốc
gia Đại Việt, nay là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, vùng văn hóa


Thăng Long-Hà Nội, có một bề dày lịch sử nghìn năm, là nơi hội tụ văn hóa,
kết tinh văn minh Việt Nam. Nằm trong vùng tam giác châu thổ sông Hồng có
đất đai mầu mỡ, trù phú, nơi đây đã sớm là một trung tâm chính trị - văn hóa
– kinh tế ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam đồng thời cũng là tiêu
biểu cho ý chí, tinh thần người Việt, thu hút nhân tài, tạo nên sự phát triển liên
tục, từ đó lan tỏa, tạo ảnh hưởng ra các vùng đồng bằng Bắc Bộ, xa hơn nữa
vào miền Trung, Nam Trung Bộ và Nam Bộ.

Bản đồ thành Hà Nội đầu TK 19
Trong lịch sử, trước khi Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long, thời Bắc
thuộc là thành Đại La – Tống Bình, trị sở đô hộ phủ nhà Hán. Trở thành
Thăng Long vào năm 1010, mở đầu cho sự phát triển kéo dài đến ngày nay.
Trong Chiếu dời Đô, Lý Thái Tổ từng nói: “Ở trung tâm cõi bờ đất nước, có cái
thế rồng cuộn hổ ngồi, vị trí ở giữa bốn phương Đông Tây Nam Bắc, địa hình
thế núi sông sau trước. Ở nơi đó địa thế rộng mà bằng phẳng, vùng đất cao
mà sáng sủa, cư dân không khổ vì ngập lụt, muôn vật đều phì nhiêu tươi tốt.


Xem khắp nước Việt ta chỗ ấy là nơi hơn cả, thực là chỗ bốn phương tụ hội,
là nơi đô thành bậc nhất của Đế vương muôn đời!”

Đến thời Trần, Thăng Long chứng kiến 3 lần đánh thắng quân Nguyên –
Mông. Tới thời Lê, Thăng Long trở thành trung tâm chính trị vững mạnh. Mặc
dù nhà Nguyễn lập triều đình đóng đô ở Huế, Thăng Long vẫn giữ vị trí trọng
yếu. Đến năm 1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập mở ra trang
sử mới, Thăng Long – Hà Nội là thủ đô của quốc gia Việt Nam đến ngày nay.
Đất Thăng Long xưa, hình thành từ những làng quê, có bụi tre, bến nước,
vườn nhỏ, ao chuôm... Ngày nay, dấu ấn “làng” ấy vẫn tồn tại đâu đó với
những phố cổ, làng cổ trầm mặc, xinh xắn, với bao ngõ nhỏ uốn lượn, quanh
co, ngoằn ngoèo trong lòng một Hà Nội hiện đại, sầm uất.
Kiến trúc cổ Hà Nội gợi lên một nền văn minh tinh thần, một nếp sống văn
hóa gia đình trong những đường nét ấm nóng hơi thở của nhiều thế hệ. Khu
phố cổ Hà Nội vẫn là khu vực đông đúc nhất. Qua nhiều năm, những cư dân
sinh sống nhờ các nghệ thủ công, buôn bán tiểu thương đã hình thành những
con phố nghề đặc trưng mang những cái tên như Hàng Bạc, Hàng Ngang,
Hàng Đường, Hàng Đồng, Thuốc Bắc... Bên cạnh đó, Hà Nội cũng còn lại
những khu phố mang đặc trưng kiến trúc Pháp cổ, những con đường ở đây
rộng, dài và phủ kín cây xanh. Tùy theo từng giai đoạn, thời đại trong lịch sử
mà Thăng Long mở rộng dần về 4 hướng. Thời Lý có 61 phường, đến thời
hậu Lê có 36 phố phường. Tên Hà Nội 36 phố phường xuất hiện trong ca dao
như biểu tượng về mã số văn hóa đủ và đầy của vùng đất này:
Rủ nhau chơi khắp Long Thành
Ba mươi sau phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm ,Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ ,Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn


Phố Mới, Phúc Kiến , Hàng Than
Hàng Mã, Hàn Mắn, Hàng Ngang, Hàng Đồng

Hàng Muối, Hàng Nón, CẦu Đông
Hàng Buồn, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng BÈ
Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The , Hàng Gà
Quanh đi đếïn phố Hàng Da
Trải xem phừơng phố thật là cũng xinh
Phồn hoa thứ nhất Long Thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.


Hàng Đào xưa

Sinh hoạt tại đô thị xưa
Theo nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc, Hà Nội ngày nay bao gồm 4 khu
vực lớn trước đây:
-

Thăng Long thượng kinh: toàn bộ nội thành
Một phần thuộc phía Đông của xứ Kinh Bắc cũ: Đông Anh, Gia Lâm
Một phần xứ Đoài: Sơn Tây với Từ Liêm, Hoài Đức
Một phần trấn Sơn Nam Thượng ( Thanh Trì )

Thăng Long-Hà Nội, kinh đô của Việt Nam, còn là nơi giao thoa của những
nền văn hóa lớn. Những nét văn hóa thường được thể hiện qua ngôn ngữ,
trang phục, truyền thống ẩm thực, những thú vui giải trí... Họ vẫn giữ lại
những thú vui tao nhã như chơi hoa, trồng cây cảnh, nuôi chim... dù thành
phố ngày nay đã trở nên chật chội. Trang phục của người Hà Nội, dẫu thay
đổi nhiều theo thời gian, vẫn được xem là trang nhã và duyên dáng.

Nếu Hồ Gươm, Hồng Hà, Hồ Tây, nói như Nguyễn Đình Thi, là nơi “lắng hồn
núi sông ngàn năm” thì từ những phương ngữ Việt Nam do biết bao người “tứ
trấn” đổ về đây làm ăn sinh sống qua lịch sử ngàn năm mang lại, đã được
thanh lọc và ngưng cất thành “tiếng Hà Nội” hay nói như Tô Hoài là “tiếng Hồ
Gươm” đại diện sáng giá nhất của tiếng Việt Nam trong sáng.


Ở thời hiện đại, Thăng Long-Đông Đô-Hà Nội vẫn còn rất bí ẩn và quyến rũ
bởi những chứng tích lịch sử, những dấu ấn về con người qua truyền thuyết
huyền thoại, di tích lịch sử, những khu phố, ngôi nhà cổ, tường thành xưa,
đường phố cũ…
Bề dày lịch sử cũng khiến Thăng Long trở thành một vùng đất đầy hấp dẫn về
du lịch, với những địa danh lịch sử-văn hóa nổi tiếng như Hoàng thành Thăng
Long, quần thể Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Tháp Rùa-Đền Ngọc Sơn, chùa Một
Cột, Thăng Long Tứ trấn, thành Cổ Loa, bệ đá chùa Bái, chùa Đông, bậc điện
Kính Thiên... Du khách cũng sẽ rất thích thú khi được dạo quanh khu phố cổ
sầm uất hay những ngõ phố nhỏ cổ kính trầm mặc bằng xích lô.
Đất Hà Thành còn nổi tiếng với những làng nghề truyền thống. Các làng
nghề, phường nghề trong quá trình đáp ứng nhu cầu hàng hóa, thị trường, tự
động thiết lập. Phần lớn, trước đây là người cùng làng, có nghề rủ nhau ra
kinh thành làm ăn như nghề tiện gỗ có gốc gác từ làng Nhị Khê – Sơn Tây;
nghề kim hoàn ở phố hàng Bạc có gốc từ Bình Giang ( Hải Phòng) ; nghề làm
quạt giấy ở phố hàng Quạt từ làng Quất Động ( Thường Tín) ; nghề giày dép
ở ngõ Hai Tượng là của người làng Chằn ( Hưng Yên) . Ngoài ra các làng
trồng rau nổi tiếng như rau Láng trồng ở đường Láng, những sản phẩm thủ
công đầy tinh xảo như gốm Bát Tràng, sơn mài Hà Thái, dệt tơ tằm như Bưởi,
La Khê, Vạn Phúc, thêu Yên Thái, đúc đồng Ngũ Xã và nhiều nghề làm mây
tre, chạm bạc, khảm trai,… cùng những làng hoa, cây cảnh nổi tiếng như Nhật
Tân, Quảng Bá, Nghi Tàm.
Về ăn mặc thì người xưa thường có câu “ăn Bắc, mặc Kinh” (kinh kỳ , kinh

thành) được hiểu là trang phục của thị dân Thăng Long – Hà Nội luôn phù
hợp với khí hậu bốn mùa xuân hạ thu đông, cách phối trộn màu sắc tinh tế,
thẩm mỹ, giữ được kiểu dáng thanh lịch của đất Tràng An.


Lối ăn mặc của người Hà Nội xưa
Là trung tâm văn hóa của cả miền Bắc từ nhiều thế kỷ, tại Hà Nội có thể tìm
thấy và thưởng thức những món ăn của nhiều vùng đất khác, nhưng ẩm thực
thành phố cũng có những nét riêng biệt. Ẩm thực Hà Nội được người thượng
kinh ăn lấy ngon, không lấy chắc, đủ no theo nghĩa đen. Đặc biệt là hàng quà
Hà Nội rất phát triển, đến với Hà Nội, người ta không thể bỏ qua cơ hội
thưởng thức những món ăn đặc trưng như cốm làng Vòng, phở Hà Nội, bánh
cuốn Thanh Trì, chả cá Lã Vọng, bánh tôm Hồ Tây…Ngoài ra còn có nhiều
món ăn đặc trưng khác như bún thang, bún chả, bún nem, bún bung, bún
mọc, đậu phụ Mơ, tào phớ An Phú, nem chua làng Vẽ.


Phở Hà Nội và Cốm làng Vòng Hà Nội
Con người Hà Nội có gốc gác tứ xứ về hội nhập theo từng thời điểm khác
nhau, tất cả đều góp phần hình thành cốt các văn hiến Hà Nội vừa có đặc
điểm riêng của vùng văn hóa kinh kỳ Thăng Long – Hà Nội, vừa đại diện cho
toàn bộ những tinh túy, ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam.


Chương II: Tìm hiểu Thăng Long Tứ Trấn - dấu ấn của kinh đô Thăng
Long ngàn năm văn hiến
2.1.

Khái niệm về Thăng Long Tứ Trấn


Thăng Long tứ trấn là khái niệm xuất hiện trong dân gian để chỉ về bốn ngôi
đền thiêng trấn giữ các hướng Đông Tây Nam Bắc của thành Thăng Long đó
là:
-

Trấn Đông: đền Bạch Mã (phố Hàng Buồm) thờ thần Long Đỗ - thành

-

hoàng Hà Nội. Đền được xây dựng từ thế kỷ 9
Trấn Tây: đền Voi Phục (đúng ra là đền Thủ Lệ), (hiện nằm trong Công
viên Thủ Lệ) thờ Linh Lang - một hoàng tử thời nhà Lý. Đền được xây

-

dựng từ thế kỷ 11
Trấn Nam: đền Kim Liên, trước đây thuộc phường Kim Hoa, sau thuộc
phường Đông Tác, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức (nay là phường
Phương Liên, Đống Đa, Hà Nội), thờ Cao Sơn Đại Vương. Đền được

-

xây dựng từ thế kỷ 17
Trấn Bắc: đền Quán Thánh (đúng ra là đền Trấn Vũ), (cuối đường
Thanh Niên), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ. Đền được xây dựng từ thế kỷ
10.

“Thăng Long Tứ Trấn” được xây dựng từ rất sớm, gắn liền với việc ra đời kinh
đô Thăng Long thời nhà Lý từ những năm 1010. Trải qua nhiều thời kỳ còn
được tôn là “Thượng đẳng phúc thần”. Bốn ngôi đền xác định địa giới của



Thăng Long xưa, tạo nên những công trình kiến trúc cổ vô giá và độc đáo của
mảnh đất Kinh kỳ. Mỗi ngôi đền thờ một vị thần có nguồn gốc và ý nghĩa khác
nhau, gắn liền với nhiều giai thoại về công cuộc dựng nước, giữ nước của
cha ông chúng ta trong những năm tháng đầy biến động của lịch sử. Xưa,
“Thăng Long Tứ Trấn” là nơi diễn ra các lễ hội Xuân, là nơi nhà vua chọn để
dâng hương dịp đầu năm cầu cho quốc thái dân an, bốn mùa tươi tốt. Và
truyền thống tốt đẹp đó đã được tiếp nối cho đến tận ngày nay.
2.2.

Trấn Đông - Đền Bạch Mã

Đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ, vị thần bảo hộ trấn giữ hướng Đông của
Kinh Thành Thăng Long. Xưa thuộc phường Hà Khẩu, tổng Hữu Túc, huyện
Thọ Xương, phủ Hoài Đức, nay là số nhà 76 - 78 phố Hàng Buồm, quận Hoàn
Kiếm, Hà Nội.

Đền Bạch Mã xưa


Đền Bạch Mã ngày nay tại số 76 - 78. Hàng Buồm (Hoàn Kiếm, Hà Nội).
-

Sự tích và lịch sử

Thần Long Đỗ được thờ phụng tại đền Bạch Mã, còn gọi là Tô Lịch giang thần
(thành hoàng Hà Nội gốc). Theo truyền thuyết, đây cũng là vị thần đã làm thất
bại các pháp thuật của viên quan đô hộ thời Bắc thuộc là Cao Biền.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử ra đời cũng như sự tích liên

quan đến ngôi đền Bạch Mã, Trấn phía Đông của thành Thăng Long. Trong
cuốn “Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên còn ghi lại nguồn gốc và thời điểm
xây dựng đền thờ thần Long Đỗ. Câu chuyện này gắn liền với Cao Biền –
viên quan Bắc triều tương truyền có nhiều tài phép, được phái tới nước ta.
“Việt điện u linh tập” chép rằng, năm 866, Khi đắp xong thành Đại La, Cao
Biền bèn ra cửa Đông dạo chơi. Bỗng thấy gió nổi, mây mù, một người cao
lớn mặc áo gấm cưỡi rồng ẩn hiện. Cao Biền thất kinh bèn nảy sinh ý lập bùa
trấn yểm. Đêm đó, Cao Biền nằm mộng thấy vị thần cao lớn ấy lại hiện ra
khoan thai nói: “Ta là tinh anh ở Long Đỗ. Nghe tin ông đắp thành nên đến
chơi. Việc gì phải trấn yểm?”. Tỉnh dậy, Cao Biền bèn lấy vàng, đồng và bùa
chôn xuống đất để trấn yểm. Việc vừa làm xong, một trận cuồng phong nổi
lên, vàng, đồng và bùa của Cao Biền bị đánh tan thành tro bụi. Cao Biền than
thở: “Ta phải về phương Bắc mất thôi!” rồi lập tức cho người lập đền thờ thần


Long Đỗ và phong làm “Đô phủ thành hoàng thần quân”. Quả nhiên, sau đó ít
lâu, Cao Biền bị triệu về cố quốc và phải chết tức tưởi.
Theo như vậy, đền Bạch Mã đã được xây dựng từ năm 866. Tuy nhiên, theo
dòng lịch sử, tìm hiểu về “Thăng Long Tứ Trấn”, ta có thể tìm hiểu từ khi Vua
Lý Thái Tổ dời đô, khi Thăng Long trở thành kinh đô của một nước độc lập.
Tương truyền: Sau khi dời đô ra Đại La và đổi tên thành Thăng Long, để tiện
việc phòng bị giặc giã Vua Lý Thái Tổ bắt tay ngay vào việc đắp luỹ, xây
thành. Tuy nhiên, điều kỳ lạ là thành xây đến đâu, dù gia cố thế nào cũng vẫn
bị sụp đổ.
Thấy việc dựng thành gặp khó khăn, vua Lý Thái Tổ bèn tới đền thờ thần
Long Đỗ - được dân gian coi là thần cai quản chốn Đại La - cầu đảo, xin được
phù trợ. Đêm đó, nhà vua nằm mộng thấy thần Long Đỗ nói rằng, cứ theo dấu
chân ngựa mà đắp thì thành tất sẽ vững vàng. Thần vừa dứt lời, một con
ngựa trắng từ trong đền đi ra, khoan thai bước từ hướng Tây, rẽ qua hướng
Đông một vòng rồi biến mất vào trong đền.

Hôm sau, Lý Thái Tổ cho đắp thành theo dấu chân thần bạch mã trong giấc
mộng. Quả nhiên, thành Thăng Long không bị lún sụt nữa. Nhà vua cảm kích
trước sự phò trợ của thần Long Đỗ, bèn ban sắc phong thần làm Quốc đô
Định bang Thành hoàng Đại vương. Lại cho tạc một bức tượng ngựa trắng để
thờ trong đền và cho gọi tên ngôi đền thờ thần là “Bạch Mã linh từ” nghĩa là
đền thiêng ngựa trắng. Đền thờ thần Long Đỗ cũng có tên là Bạch Mã từ đó.
-

Kiến trúc tổng thể

Trải qua những biến thiên lịch sử, đền đã được sửa chữa nhiều lần, cuối thế
kỷ XVII được tôn nền cũ và mở rộng. Năm 1781, chúa Trịnh cho dân các giáp
Mật Thái, Bắc Thượng, Bắc Hạ thuộc phường Hà Khẩu chung quanh đền
Bạch Mã được "tạo lệ" (sắm lễ vật tế, không phải sưu sai, tạp dịch khác).
Năm 1829, sửa chữa đền thêm tráng lệ. Năm 1839, dựng Văn chỉ ở bên trái
đền, dựng Phương đình để làm nơi cúng lễ các tuần tiết. Gần đây nhất, trong


dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội, đền được tu bổ thêm một lần nữa
trên cơ sở giữ nguyên kiến trúc cũ.
Đền Bạch Mã bao gồm các công trình: tam quan, phương đình, đại bái, thiêu
hương, cung cấm và nhà hội đồng.
Tam quan được chia thành năm gian, gian giữa mở lối vào phương đình bằng
cửa gỗ lớn. Phương đình được xây theo lối hai tầng tám mái đao cong sử
dụng hệ thống “củng ba phương” đỡ góc mái. Nối giữa phương đình và đại
bái là mái vòm hình mai cua.
Đại bái cũng được chia thành năm gian, nền lát đá xanh. Ở công trình này,
ngoài bốn bộ vì dựng theo lối “chồng rường giá chiêng hạ bảy” còn có hai bộ
vì hai bên đầu hồi được dựng theo lối “kẻ chuyền”. Riêng hai bộ vì gian giữa
dẫn vào chính điện được chạm các hình tứ linh trên nền hoa văn xoắn, trên

các đầu dư được chạm hình đầu rồng. Đại bái nối với thiêu hương cũng bằng
mái “mai cua”.
Thiêu hương và cung cấm có kiến trúc gần giống nhau, mái vuốt góc đao
cong hai tầng. Trong cung cấm là nơi đặt thờ tượng thần Bạch Mã.


Tượng Thần Bạch Mã được thờ trong đền.

Bệ thờ và kiến trúc trong đền Bạch Mã
Hiện nay, đền Bạch Mã còn lưu giữ 15 văn bia cổ cùng nhiều hiện vật có giá
trị khác. Trong đó còn giữ được 15 tấm bia chép sự tích đền và thần, nghi lễ
cúng bái, các lần trùng tu tôn tạo… Với diện tích hơn 500m2, Đền Bạch Mã là
một công trình đồ sộ còn được gìn giữ, bảo quản khá tốt. Tuy đền đã được
trùng tu nhiều lần, nhưng vẫn giữ được dáng vẻ kiến trúc các thời Trần, Lê,
Nguyễn. Các cửa võng, các mảng điêu khắc trong đền mang giá trị nghệ thuật
cao.
-

Lễ hội


Lễ tiến xuân ngưu vào đền Bạch Mã

Rước kiệu lễ vật vào đền Bạch Mã
Đền Bạch Mã có vị trí đặc biệt thuận lợi cho loại hình du lịch văn hóa, du lịch
khám phá khu vực phố cổ Hà Nội. Không chỉ là nơi mang ý nghĩa lớn trong
đời sống tinh thần, tâm linh của người dân Hà Nội, du khách thập phương mà
còn là nơi cung cấp nguồn tư liệu quý để nghiên cứu, tìm hiểu về chặng
đường ngàn năm lịch sử của mảnh đất Thăng Long - Hà Nội.
Hội Đền Bạch Mã được tổ chức vào ngày 12 và 13 tháng 2 âm lịch hằng năm,

với những nghi thức tế lễ cùng một số hoạt động văn hóa khác như: hát ca


trù, hát chèo, ngâm thơ, múa kiếm, múa đao… Đặc biệt, năm 2009, lễ hội
được tổ chức theo đề án "Nghiên cứu tổ chức lễ hội truyền thống trong khu
phố cổ và khu vực hồ Hoàn Kiếm" - một trong những công trình kỷ niệm 1000
năm Thăng Long - Hà Nội của nhân dân quận Hoàn Kiếm.
Đền Bạch Mã được Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia ngày 12/12/1986.
2.3.

Trấn Tây - Đền Voi Phục

Trong tiềm thức dân gian, đền Voi Phục là tối linh từ thờ thần Linh Lang – vị
thần được tin là đã giúp nhà vua coi sóc sự an bình cho phía Tây Hoàng
thành. Nếu loại bỏ những yếu tố truyền thuyết, huyền bí, vị thần được người
dân tôn kính thờ phụng trong đền là vị nhân thần có thật trong lịch sử, ông
vốn là Hoàng tử - người đã giúp Vua Lý Thái Tông dẹp giặc Tống.
Trước đây, đền Voi Phục nằm giữa khuôn viên của công viên Thủ Lệ nên ít
người nhận ra đây là một trong “Tứ Trấn Thăng Long” vang danh cùng Thủ đô
ngàn năm văn vật. Vào dịp chuẩn bị cho đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà
Nội, đền Voi Phục nằm trong chương trình tôn tạo những khu di tích gắn liền
với Hoàng thành Thăng Long nên được UBND thành phố Hà Nội trùng tu trên
quy mô lớn.
Đền được tách hẳn khỏi Công viên Thủ Lệ, toạ lạc trên gò Long Thủ giữa một
khu đất rộng, xum xuê cành lá của những cây cổ thụ hàng ngàn năm tuổi, mặt
tiền quay về hướng Hoàng thành, trông ra mặt hồ Thủ Lệ. Sau khi được tu bổ,
giờ đây đi qua phố Kim Mã xuôi hướng Cầu Giấy về phía cuối hồ Thủ Lệ ta sẽ
dễ dàng nhận thấy ngay bên tay phải là cổng đền Voi Phục sừng sững, thâm
nghiêm. Theo sử sách ghi lại thì hồ nước phía trước đền Voi Phục vốn thông
với hệ thống sông, hồ trong và ngoài thành. Thuyền rồng của nhà vua có thể

đi từ trong thành mà ngự ra đền.


Cổng chính đền Voi Phục (Thủ Lệ).
-

Sự tích và lịch sử

Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ thần Linh Lang. Gọi là đền Voi Phục (Thủ Lệ) là để
phân biệt với đền Voi Phục (Thụy Khuê) cũng thờ thần Linh Lang. Hai vị thần
được thờ đều được sắc phong Uy Linh Lang nhưng có xuất xứ khác nhau. Đó
là Uy Linh Lang thời Lý và Uy Linh Lang thời Trần. Tuy ở hai thời điểm khác
nhau nhưng theo tương truyền cả hai vị thần đều giáng thế để giúp dân đánh
giặc ngoại xâm. Đền Voi Phục (Thủ Lệ) thờ thần Linh Lang Thời Lý. Ông vốn
là Hoàng tử thứ tư của Vua Lý Thái Tông, mẹ là Hoàng phi họ Nguyễn
(thường gọi là Hạo Nương, người làng Đồng Đoàn, huyện Từ Liêm, phủ Quốc
Oai, trấn Sơn Tây – nay là làng Bồng Lai, xã Hồng Hà, Đan Phượng, Hà Nội).
Linh Lang Đại vương sinh nhằm ngày 13 tháng Chạp năm Giáp Thìn (1064),
được đặt tên là Hoằng Chân. Tương truyền, hoàng tử Hoằng Chân sinh ra đã
có diện mạo khôi ngô, tuấn tú. Hoàng tử sống trong cung cùng mẹ ở khu Thị


Trại (nay là phường Thủ Lệ). Từ thuở thiếu niên, Hoằng Chân đã tỏ rõ là
người văn võ song toàn.
Thuở ấy, giặc Tống liên kết với quân Chiêm Thành kéo hàng vạn hùng binh
bao vây chiếm đánh Đại Việt. Thế giặc khi ấy rất mạnh. Nhà vua bèn xuống
chiếu vời nhân tài đánh giặc cứu nước. Khi sứ giả của nhà vua đi ngang qua
Thị Trại, hoàng tử Hoằng Chân còn nhỏ tuổi nhưng đã nhờ sứ giả về tâu với
Vua chuẩn bị cho mình một lá cờ hồng, một cây giáo dài, một thớt voi. Sứ giả
vui mừng vội về tâu lại với nhà vua. Nhà vua bèn cấp đủ những thứ hoàng tử

Hoằng Chân yêu cầu, ngoài ra còn cấp thêm hơn năm ngàn binh mã.
Nhận được đồ vật vua ban, Hoằng Chân bèn thét lớn: “Ta là thiên tướng”.
Con voi nghe tiếng thét bèn phủ phục xuống để hoàng tử ngự lên. Trên lưng
voi, hoàng tử Hoằng Chân chỉ đạo hơn năm ngàn binh mã vua ban và hàng
trăm nghĩa sĩ của Thị Trại đánh thẳng vào nơi giặc đồn trú.
Giặc Tống thấy quân ta hùng dũng xông tới trong tiếng voi gầm ngựa hí thì
hồn siêu phách tán bỏ cả gươm giáo mà chạy thoát thân. Thắng trận Hoàng
Tử cùng ba quân được nhà Vua mời tiệc khao quân.
Sau buổi yến tiệc, nhà vua tỏ ý muốn truyền ngôi cho hoàng tử Hoằng Chân,
nhưng hoàng tử không nhận. Sau đó ít lâu, hoàng tử Hoằng Chân lâm bệnh
nặng. Nhà vua truyền ngự y đến cứu chữa cho ngài, nhưng bệnh tình không
thuyên giảm, không lâu sau thì qua đời.
Nhà vua truy phong hoàng tử Hoằng Chân làm Linh Lang Đại vương, cho thờ
ngay tại Thị Trại, đổi tên Thị Trại thành ra Thủ Lệ, lại xuống chiếu cho người
dân làng ấy được hưởng “Hộ nhi sở tại”, tức là được miễn phu phen, tạp dịch
muôn đời để chuyên tâm thờ phụng Linh Lang Đại vương.


Tượng thần Linh Lang.


Tượng Voi phục hai bên cửa đền.
Sau này, khi nhà Trần đánh giặc Nguyên Mông và nhà Lê tiễu trừ Mạc Thị,
các vị tướng xuất trận tới đền cầu đảo và đều giành thắng lợi. Vua Trần Thái
Tông hàm ơn bèn sắc phong thêm 5 chữ: “Bình Mông Vương Thượng Đẳng”.
Triều Lê Trung Hưng phong thêm 8 chữ: “Phối Đồng Thiên Địa – Vạn Cổ Lưu
Truyền”. Trải qua các triều đại từ thời nhà Lý đến thời nhà Nguyễn sau này
đều phong ngài làm “Thượng Đẳng Thần”.
Gắn liền với sự tích con voi phủ phục khi nghe tiếng thét của hoàng tử, ngôi
đền được gọi là đền Voi Phục từ ấy. Ngày nay, ở cổng đền vẫn còn nguyên 2

bức tượng voi phủ phục hai bên, đời đời tưởng nhớ vị anh hùng đánh giặc
cứu nước được nhân dân biết ơn phong thánh, thờ phụng muôn đời.
-

Kiến trúc tổng thể

Tương truyền, đền Voi Phục được khởi dựng năm Chương Thánh Gia Khánh
thứ 7 (năm 1065) đời vua Lý Thánh Tông trên một khu gò cao thuộc vùng đất
của trại Thủ Lệ - một trong 13 làng trại ở phía tây kinh thành Thăng Long.
Cổng đền là cổng tứ trụ, như những trục vũ trụ đem sinh khí từ tầng trên
truyền xuống trần gian. Hai bên cổng có bia hạ mã và đôi voi chầu phục (hiện
mới được xây thêm nghi môn tứ trụ nữa, ở sát với đường lớn).
Đường lên sân đền có ba lối, chính giữa có 12 bậc đá rộng, nơi chỉ để rước
kiệu trong ngày lễ, bình thường đi hai lối bên. Trước mặt lối giữa là một giếng
vuông mang ý nghĩa tụ thuỷ tụ phúc, nơi xưa kia lấy nước cúng, nay giếng đã
được sửa thành vuông. Ý nghĩa cầu nước và cầu no đủ còn được thể hiện ở
đôi rồng mây "chạm tròn" bằng đá, một sản phẩm khoảng giữa thế kỷ XIX và
đôi hổ phù gắn hai bên tường cửa chính được chạm nổi, mang nét chuẩn
mực. Đền Voi Phục có dạng chữ Công. Tiền tế 5 gian, kết cấu vì chồng
rường, mái lợp ngói mũi hài cổ. Trung đường 1 gian chạy dọc vào phía trong
nối với hậu cung. Tại tòa này được đặt ngai lớn chạm khắc hình rồng, hoa lá
tỉ mỉ, các nét chạm mang nghệ thuật thế kỷ XIX. Hậu cung cũng 5 gian, gian
chính giữa ở vị trí sâu và cao nhất là pho tượng đức Linh Lang Đại vương với


nét mặt thanh tú, cao sang. Phía trước pho tượng Ngài là một hòn đá lớn
được đặt trong hộp kính. Hòn đá có vết lõm, tương truyền thần đã từng gối
đầu trên hòn đá này. Hai bên hòn đá là tượng 2 vị phụ tá đứng chầu. Trong
đền, ngoài các pho tượng còn có hoành phi, câu đối, nhang án, long ngai,
cửa võng bát bửu cùng các đồ tế khí đều được sơn son thếp vàng lộng lẫy.

Đền Voi Phục đã được trùng tu sửa chữa nhiều lần và ngôi đền hiện nay
khang trang hơn so với ngôi đền cũ bị thực dân Pháp phá hủy năm 1947.
Năm 1994, nhân dân Thủ Lệ quyên góp đúc lại quả chuông cao 93 cm,
đường kính miệng 70 cm, thân chia 4 múi, mỗi múi có hàng chữ Hán đúc nổi:
"Tây trấn thượng đẳng". Ngày 10/8/2000, thành phố Hà Nội khởi công tu sửa
lại Đền Voi Phục. Đợt tu bổ này tập trung chủ yếu vào khôi phục nhà Hữu Vu,
hoàn chỉnh kiến trúc tổng thể cho khu di tích. Ngày 4/7/2009, Đền Voi Phục
một lần nữa được trùng tu tôn tạo để hướng tới Đại lễ kỷ niệm 1000 năm
Thăng Long - Hà Nội. Đền Voi Phục được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
xếp hạng di tích lịch sử văn hóa ngày 28/4/1962.
-

Lễ hội

Lễ hội đền Voi Phục là một sinh hoạt văn hoá thường niên, mang tính chất
mở, với sự tham gia của thập phương, vượt ra ngoài không gian đất Thủ Lệ,
ít nhất là vùng Thuỵ Khuê, Thủ Lệ, Vạn Phúc rồi vùng Thập tam trại và cả
Bồng Lai (Đan Phượng - Hà Tây) - lễ hội chính của đền Voi Phục diễn ra vào
ngày 9 và 10 tháng hai âm lịch, từng năm có thể kéo dài từ 3 tới 10 ngày tuỳ
theo sự đóng góp của dân, đáng kể nhất là việc rước kiệu và một số tục lệ
khác.
Trong lịch sử, đền Voi Phục là trấn thiêng ở phía Tây thành Thăng Long, đền
không chỉ liên quan trực tiếp với Kinh đô mà nó đã hội vào bản thân rất nhiều
dòng chảy của tín ngưỡng dân gian để tồn tại với thời gian, hiện nay khó ai có
thể nắm bắt được hết những ý nghĩa thiêng liêng của kiến trúc mang vẻ đẹp
thánh thiện này, chỉ biết rằng, đền Voi Phục, từ nay sẽ luôn được tôn tạo xứng
đáng, vì đó là một điểm sáng trong tinh thần bảo tồn bản sắc văn hoá dân tộc.


2.4.


Trấn Nam – Đền Kim Liên

Đền Kim Liên vốn được lập nên để thờ Cao Sơn Đại Vương, Tương truyền là
Lạc tướng Vũ Lâm, con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Tại đây còn lưu giữ
39 đạo sắc phong Thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có 26 đạo thời Lê
Trung Hưng và 13 đạo thời nhà Nguyễn, sớm nhất là sắc phong mang niên
hiệu Vĩnh Tộ thứ hai (1620).
-

Sự tích và lịch sử.

Theo tấm bia đá cao 2,34m, rộng 1,57m, dày 0,22m, hiện vật quý giá nhất
hiện còn lưu giữ trong đền có bài tựa "Cao Sơn đại vương thần từ bi minh",
văn bia do sử thần Lê Trung soạn năm 1510, nói về công lao của thần Cao
Sơn. Nội dung cho biết: Khi vua Lê Tương Dực cầm quân dẹp loạn, khôi phục
cơ nghiệp của vua Lê Thái Tổ, có ba vị đại thần là Nguyễn Bá Lân, Nguyễn
Hoàng Dụ và Nguyễn Văn Lữ cùng đem quân đi chinh phạt.
Đến địa phận huyện Phụng Hoá (nay thuộc Nho Quan, tỉnh Ninh Bình) thì
thấy giữa cảnh núi rừng rậm rạp có ngôi đền cổ ghi bốn chữ "Cao Sơn Đại
Vương". Vua quan bèn khẩn cầu thần phù trợ. Quả nhiên sau mười ngày đã
thành công. Vì thế, vua Lê Tương Dực cho sửa sang đền thờ thần Cao Sơn ở
Phụng Hóa. Sau nhớ ơn thần đã ngầm giúp dẹp loạn , nên năm 1509, Vua
cho xây dựng đền thờ to đẹp hơn ở phường Kim Hoa, Đông Đô thời bấy giờ,
nay thuộc phố Kim Hoa, phường Phương Liên, quận Đống Đa, tp Hà Nội.
Sau này, dân làng Kim Liên đã xây thêm tam quan ở phía trước cổng đền và
bổ sung thêm một số hạng mục kiến trúc mới, có cả đình Kim Liên. Ngoài Cao
Sơn Đại Vương, trong khuôn viên đền và đình này còn thờ Tam Phủ, thờ
Mẫu, và thờ chủ tịch Hồ Chủ tịch.



Văn bia "Cao Sơn đại vương thần từ bi minh" do sử thần Lê Trung soạn năm
1510.
-

Kiến trúc tổng thể

Đền Kim Liên được xây dựng trên một gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên
xưa. Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía tây, trông ra đầm Kim
Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1). Kiến trúc
của đình và đền bao gồm hai phần tương đối rõ: Phía trước có một cổng trụ
biểu và hai dãy giải vũ 3 gian bên sân đình. Phía sau là đền thờ nằm trên gò
đất cao. Từ sân đình lên cửa chính điện có thềm chín bậc với đôi sấu đá
được làm từ thời Lê Trung Hưng, nối hai bộ phận kiến trúc nói trên.


Quang cảnh trước cổng đền Kim Liên.

Khu chính điện đền Kim Liên.


×