TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
________________________
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI THƯỞNG
“TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình: Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lý 1
HÀ NỘI, 2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
______________________
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT
GIẢI THƯỞNG “TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2014
Tên công trình: Nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công
bố thông tin của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên thị trường
chứng khoán Việt Nam.
Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh và quản lý 1
Họ và tên nhóm sinh viên:
1. Nguyễn Thị Mai Anh (Nữ) – Năm thứ: 3/4
Kế toán tiên tiến 53, Chương trình Tiên tiến, CLC, POHE
2. Đỗ Thu Huyền (Nữ) - Năm thứ: 3/4
Kế toán tiên tiến 53, Chương trình Tiên tiến, CLC, POHE
3. Thạch Diệu Hương (Nữ) - Năm thứ: 3/4
Kế toán tiên tiến 53, Chương trình Tiên tiến, CLC, POHE
4. Phạm Quang Huy (Nam) - Năm thứ: 3/4
Ngân hàng CLC 53, Chương trình Tiên tiến, CLC, POHE
Người hướng dẫn: PGS.TS. Nguyễn Hữu Ánh – Viện phó Viện Kiểm toán-Kế
toán, ĐH KTQD
HÀ NỘI, 2014
Danh mục các bảng
Bảng
Tên bảng
Bảng 3.1
Lựa chọn chỉ mục CBTT
Bảng 3.2
Các biến độc lập
Bảng 4.1
Thống kê về chỉ số mức độ CBTT
Bảng 4.2
Thông kê cho từng chỉ mục
Bảng 4.3
Mức độ công bố của các chỉ mục
Bảng 4.4
Thống kê mô tả cho từng nhân tố
Bảng 4.5
Kiểm định đa cộng tuyến
Bảng 4.6
Mô hình hồi quy tuyến tính 1
Bảng 4.7
Tóm tắt mô hình 1
Bảng 4.8
Mô hình hồi quy 2
Bảng 4.9
Tóm tắt mô hình 2
Bảng 4.10
Tóm tắt mô hình
Bảng 5.1
Đánh giá mức độ CBTT
Bảng các kí hiệu viết tắt
Trang
40
42
45
46
46
49
53
55
56
57
57
59
67
Kí hiệu
Viết đầy đủ
CBTT
Công bố thông tin
HĐQT
Hội đồng quản trị
TP
Thành phố
VN
Việt Nam
BCTC
SGDCK
BĐS
Báo cáo tài chính
Sở giao dịch chứng khoán
Bất động sản
MỤC LỤC
1
TÓM TẮT
Đề tài tập trung nghiên cứu về mức độ công bố thông tin của các doanh
nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ
Chí Minh. Cụ thể hơn, đề tài đi sâu vào việc đánh giá mức độ công bố thông
tin của từng doanh nghiệp và phân tích mối tương quan giữa mức độ công bố
thông tin và các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ công bố. 58 doanh nghiệp bất
động sản và 13 nhân tố được lựa chọn, trong đó 13 nhân tố được chia thành 3
nhóm: đặc điểm về tài chính, đặc điểm về quản trị và cấu trúc sở hữu. Thông
qua mô hình hồi quy bội, bài nghiên cứu chỉ ra rằng mức độ công bố thông tin
trung bình của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh không quá cao (khoảng 76%). Kết luận này đã phần
nào thúc đẩy sự cấp thiết của việc tăng cường chất lượng kiểm toán báo cáo
tài chính cũng như hoàn thiện và nâng cao hệ thống quy chế về công bố thông
tin. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra rằng hai nhân tố Quy mô doanh nghiệp và
ROA có ảnh hưởng lớn nhất tới mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp,
11 nhân tố còn lại bao gồm đòn bẩy tài chính, ROE, tính thanh khoản, kiểm
toán độc lập, tài sản cố định, số công ty con, kích cỡ Hội đồng quản trị, giám
đốc không điều hành, ban kiểm soát, sở hữu của cổ đông nước ngoài, sở hữu
nhà nước không có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ công bố thông tin. Từ đó,
nhóm tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công bố
thông tin cho các doanh nghiệp bất động sản nói riêng và các doanh nghiệp
niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh nói chung.
2
CHUƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Công bố thông tin kế toán là hành vi công khai tất cả các thông tin liên
quan đến một công ty mà có thể ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Mục đích
của việc công bố thông tin là thông báo cho các nhà đầu tư hiện tại và tiềm
năng về chính sách và phương pháp kế toán được sử dụng khi doanh nghiệp
làm báo cáo tài chính định kì. Báo cáo tài chính bao gồm ít nhất bốn bản sau:
bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ và thuyết minh báo cáo tài chính. Nguyên tắc công bố thông tin
đầy đủ yêu cầu bất kì sự kiện nào có ảnh hưởng tới báo cáo tài chính đều phải
được công bố.
Để bắt kịp với sự phát triển nhanh chóng và sự cạnh tranh khốc liệt
trong thị trường toàn cầu, mỗi công ty sẽ cố gắng hết sức để tối đa hóa lợi ích
của người sử dụng, chẳng hạn như cung cấp thông tin minh bạch và dễ hiểu
(Laohapolwatana et al, 2005; Adina & Ion, 2008). Quyết định công bố thông
tin có thể kết nối một công ty với rất nhiều người sử dụng bên ngoài khác
nhau và có thể có tác động rất lớn và lâu dài tới hành vi của tất cả các bên liên
quan như các cá nhân, gia đình, đối thủ cạnh tranh, các chủ nợ, các nhà đầu
tư, thị trường, và nhiều nhóm khác liên quan đến các công ty lớn. Adina và
Ion (2008) kết luận rằng việc công bố cũng là một yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội và giảm thiểu sự nhiễu
loạn thông tin giữa công ty và người sử dụng bên ngoài. Đó là lý do tại sao
nghiên cứu về mức độ công bố thông tin kế toán là một mối quan tâm của các
nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách và quản trị doanh nghiệp.
1.2.
Mục đích nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Bài nghiên cứu phân tích về các nhân tố quyết định có ảnh hưởng đến
mức độ công bố thông tin kế toán của các công ty bất động sản niêm yết tại
3
thị trường chứng khoán Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Từ đó bài nghiên cứu
nhằm mục đích đưa ra gợi ý cho doanh nghiệp về quyết định công bố thông
tin một cách đầy đủ hơn để có thể thu hút các nhà đầu tư tiềm năng. Có ba câu
hỏi nghiên cứu được thảo luận:
• Mức độ công bố thông tin công khai của các doanh nghiệp bất động sản
niêm yết tại thị trường chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí
Minh là gì?
• Các nhân tố nào ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin của các
doanh nghiệp bất động sản niêm yết tại thị trường chứng khoán Hà Nội
1.3.
và Thành phố Hồ Chí Minh?
Dựa trên kết quả nghiên cứu, những đề xuất là gì?
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là báo cáo tài chính năm 2012 của 58
doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn chứng khoán Hà Nội và TP Hồ
Chí Minh, bao gồm báo cáo của Hội đồng quản trị, báo cáo của cơ quan kiểm
toán, bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu
chuyển tiền tệ, thuyết minh báo cáo tài chính. Những báo cáo tài chính này
phản ánh trung thực và hợp lý tình hình tài chính của công ty vào ngày
31/12/2012, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình lưu chuyển tiền tệ cho
năm tài chính kết thúc cùng ngày, phù hợp với Chuẩn mực kế toán, chế độ Kế
toán VN và tuân thủ các quy định pháp lý có liên quan.
1.4.
Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu vận dụng phương pháp định lượng để đo lường mức độ
công bố thông tin và ảnh hưởng của các nhân tố đến mức độ công bố thông
tin trong báo cáo tài chính của từng doanh nghiệp. Cụ thể:
• Lựa chọn các doanh nghiệp bất động sản niêm yết trên sàn chứng
khoán HN và TP HCM có báo cáo tài chính đáp ứng tiêu chí về mẫu.
• Lựa chọn các chỉ mục công bố thông tin và đánh mã.
• Đo lường mức độ công bố thông tin
4
• Thiết lập các biến và đo lường ảnh hưởng của các biến đến mức độ
công bố thông tin
• Thiết lập mô hình
• Phân tích dữ liệu thu thập được thông qua mô hình hồi quy bội.
1.5.
Cấu trúc bài nghiên cứu
Những phần tiếp theo của bài nghiên cứu được sắp xếp theo bố cục sau:
Chương 2: Cơ sở lý luận và thực tiễn về công bố thông tin và đo lường công
bố thông tin của doanh nghiệp.
Chương 3: Giả thuyết và phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Phân tích số liệu – Trình bày kết quả
Chương 5: Kết luận
1.6.
Tổng quan tài liệu nghiên cứu trước
Tầm quan trọng của việc công bố thông tin trong các báo cáo tài chính đã
được đề cập đến và nhấn mạnh trong rất nhiều các nghiên cứu trước đây. Ví
dụ, nghiên cứu của Hosian và VIJAY (2007); Văn Huynh (2013); Phương
Nguyên (2013); Aljifri (2008); Bình Tạ (2012); Alsaeed (2006); Cerf (1964);
Naser và cộng sự (2002); Singhvi (1968), vv.
Tuy nhiên, Hosain và Reax (2007) nghiên cứu báo cáo kết quả của một
cuộc điều tra thực nghiệm ở Ấn Độ. Nó cũng trình bày mối quan hệ giữa các
đặc điểm cụ thể công ty và mức độ công bố tự nguyện của các công ty mẫu.
Nghiên cứu cho thấy rằng các ngân hàng Ấn Độ tiết lộ một số lượng đáng kể
thông tin tự nguyện. Phát hiện này cũng chỉ ra rằng kích thước và tài sản tại
chỗ có ý nghĩa đáng kể và các biến như tuổi tác, sự đa dạng hóa, thành phần
hội đồng quản trị, nhiều danh sách trao đổi và sự phức tạp của kinh doanh là
không đáng kể trong việc giải thích mức độ công bố.
Nghiên cứu của Phương Nguyễn (2013) tập trung vào vấn đề thông tin
và hoàn thiện công bố thông tin như một vấn đề cốt lõi cho sự phát triển của
nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Giá trị của dự án này nằm trong việc phân tích
môi trường công bố thông tin hiện nay, cung cấp một số biện pháp tiêu chuẩn
để đánh giá báo cáo tài chính, phát hiện và giải thích các yếu tố ảnh hưởng
5
đến mức độ công bố thông tin trong tình hình cụ thể của Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu cho thấy rằng, trong bối cảnh khó khăn hiện nay, mức độ công bố
thông tin phải cao hơn để thúc đẩy sự phục hưng của nền kinh tế. Nguyên
nhân được phân tích, xuất phát từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm cả vấn đề
thể chế pháp lý, trình độ phát triển và hệ tư tưởng của những người tham gia
trong nền kinh tế.
Một nghiên cứu khác tại Việt Nam là nghiên cứu về mức độ công bố
thông tin của các doanh nghiệp bất động sản niêm yết tại sàn chứng khoán Hà
Nội. Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc thực tế theo mức độ công bố
thông tin của các công ty bất động sản tại sàn HNX. Bên cạnh đó, nghiên cứu
cũng cung cấp một số gợi ý để nâng cao chất lượng công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán.
Nghiên cứu của Bình Tạ (2012) xem xét các yêu cầu về thông tin trong
báo cáo tài chính hàng năm do các nhà phân tích tài chính Việt Nam đưa ra,
minh họa quan điểm của các nhà quản lý tài chính và đo lường mức độ tự
nguyện thực tế trong báo cáo của các doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu
này là một trong những nghiên cứu đầu tiên kiểm tra mức độ công bố thông
tin tự nguyện của các công ty bất động sản niêm yết Việt Nam. Nghiên cứu
báo cáo hàng năm của 199 công ty bất động sản niêm yết tại Việt Nam trong
năm 2009, bài nghiên cứu mở rộng các tài liệu hiện có về việc công bố tự
nguyện trong các nghiên cứu trước ở Việt Nam cũng như ở các nước phát
triển khác.
Aljifri (2008) đã kiểm tra mức độ công bố thông tin trong báo cáo hàng
năm của 31 doanh nghiệp niêm yết tại UAE và cũng xác định các yếu tố cơ
bản ảnh hưởng đến mức độ công bố. Nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng bốn
yếu tố chính sẽ ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin tại UAE, đó là các
loại ngành (ngân hàng, bảo hiểm, công nghiệp và dịch vụ), kích thước (tài
6
sản), tỉ lệ nợ - vốn và lợi nhuận. Kết quả chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa các
ngành; tuy nhiên, kích thước, nợ, tỷ lệ nợ - vốn và lợi nhuận không có ảnh
hưởng đáng kể tới mức độ công bố.
Alsaeed (2006) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa các đặc điểm cụ thể của
doanh nghiệp và mức độ công bố ở Saudi Arabia. Tổng cộng có 20 chỉ mục tự
nguyện để đánh giá mức độ công bố thông tin trong báo cáo hàng năm của 40
doanh nghiệp. Kết quả cho thấy trung bình chỉ số công bố thấp hơn so với
trung bình chung. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng kích thước doanh nghiệp có
ảnh hưởng tích cực đáng kể liên quan đến mức độ công bố; tuy nhiên, nợ,
phân tán quyền sở hữu, tuổi tác, lợi nhuận biên, loại ngành công nghiệp và
quy mô cơ quan kiểm toán thể hiện sự ảnh hưởng không đáng kể đến việc giải
thích sự biến động của mức độ công bố tự nguyện.
Cerf (1964) tiên phong nghiên cứu về mối quan hệ giữa mức độ công
bố thông tin của công ty và các đặc điểm của công ty. Ông sử dụng một mẫu
ngẫu nhiên 527 công ty tổ phần niêm yết và chưa niêm yết cho bằng chứng về
việc tuân thủ một số tiêu chuẩn tối thiểu của công bố thông tin. Các biến độc
lập bao gồm lợi nhuận, quy mô tài sản, phương pháp giao dịch cổ phiếu,
quyền sở hữu chứng khoán, ngành công nghiệp, tần số của tài chính bên
ngoài, ổn định tăng trưởng lợi nhuận và cổ tức, sản phẩm, mức độ cạnh tranh,
liên kết với các công ty CPA và đặc điểm quản lý. Chỉ bốn biến đầu tiên được
kiểm tra. Tính ưu việt của công bố thông tin được đo bằng chỉ số công bố,
được xây dựng dựa trên ba mươi mốt mục thông tin căn cứ vào tầm quan
trọng. Một số tỷ lệ phần trăm được tính toán cho mỗi công ty bằng cách lấy số
điểm đạt được chia tổng số điểm có thể cho tất cả các mục áp dụng đối với
công ty. Cerf nhận thấy rằng có một mối quan hệ tích cực giữa mức độ công
bố và quy mô tài sản, lợi nhuận và số lượng cổ đông. Ông cũng phát hiện ra
rằng có sự thiếu sót trong việc công bố một số kỹ thuật như khấu hao, hàng
7
tồn kho, công nhận thu nhập trên hợp đồng dài hạn và phân bổ thuế thu nhập.
Nghiên cứu này không xem xét một số công ty như tập đoàn nước ngoài, ngân
hàng, nhà tài chính, công ty bảo hiểm, các công ty bất động sản, dịch vụ công
cộng và các công ty đầu tư.
Singhvi (1968) trong luận án tiến sĩ của ông cố gắng để cải thiện và
mở rộng nghiên cứu của Cerf (Buzby, 1975). Ông thay đổi chỉ số công bố của
Cerf và mở rộng các biến giải thích thử nghiệm đến sáu. Nghiên cứu của ông
được dựa trên các báo cáo hàng năm của 200 doanh nghiệp trong đó bao gồm
100 công ty niêm yết và 55 công ty chưa niêm yết tại Mỹ và 45 công ty niêm
yết ở Ấn Độ. Một chỉ số có chứa 34 mục thông tin được tạo ra bằng cách sử
dụng trọng lượng phân phối, mức độ trải từ 1 đến 4. Kích thước được đo bằng
tổng tài sản, danh sách tình trạng, số lượng cổ đông, công ty kiểm toán; lợi
nhuận thấp được đo bằng tỷ lệ lợi nhuận và lợi nhuận thu nhập. Ông phát hiện
ra rằng công ty có quy mô nhỏ ở Mỹ và Ấn Độ không tiết lộ thông tin đầy đủ
và các công ty Ấn Độ đó công bố thông tin ít đầy đủ và ít định hướng phát
minh hơn các công ty Mỹ. Ông cũng nhận thấy rằng các công ty có khả năng
tiết lộ thông tin chất lượng thấp ở Ấn Độ có thể sẽ là quy mô nhỏ, ít lợi nhuận
và do các nhà quản lý Ấn Độ quản lý.
Naser và cộng sự (2002) điều tra những thay đổi trong hoạt động công
bố thông tin của Jordan sau khi giới thiệu IASs và mối quan hệ giữa mười lăm
thuộc tính của công ty và chiều sâu của thông tin. Kết quả của các phân tích
cho thấy có một sự gia tăng nhỏ trong mức độ công bố thông tin sau sự ra đời
của IASs. Ông cũng phát hiện ra rằng độ sâu của việc công bố có liên quan
đến lợi nhuận, kích thước, tính thanh khoản, đòn bẩy tài chính và tình trạng
công ty kiểm toán.
Các nhà nghiên cứu xem xét các đặc điểm của công ty để dự đoán chất
lượng công bố thông tin của công ty đó. Các đặc tính phổ biến nhất là quy mô
8
của công ty, lợi nhuận, thanh khoản, đòn bẩy tài chính, quy mô cơ quan kiểm
toán, danh sách tình trạng, công ty mẹ đa quốc gia, tuổi tác và cơ cấu sở hữu.
Bài nghiên cứu của chúng tôi nghiên cứu về mức độ công bố thông tin kế toán
của các công ty bất động sản tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
9
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC CBTT KẾ
TOÁN CỦA CÁC CÔNG TY BẤT ĐỘNG SẢN NIÊM YẾT TRÊN SỞ
GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN HÀ NỘI VÀ TP. HỒ CHÍ MINH
2.1. Khái niệm về CBTT kế toán
Việc CBTT là các thông tin bổ sung được cung cấp kèm với BCTC của
một công ty, thường là các thuyết minh cho hoạt động sản xuất kinh doanh có
ảnh hưởng lớn tới lợi nhuận của doanh nghiệp.
Mục đích của việc CBTTkế toán là cung cấp thông tin cho cả nhà đầu
tư hiện tại và tương lai về các chính sách kế toán cũng như các phương pháp
áp dụng khi lập BCTC định kỳ. Những BCTC này gồm có: Bảng cân đối kế
toán, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Báo cáo kết quả kinh doanh và Báo cáo vốn
chủ sở hữu. Qui định về việc CBTT đòi hỏi cần phải công bố bất cứ sự kiện
nào có ảnh hưởng tới BCTC.
Được ghi nhận khá thường xuyên trong quá khứ, tầm quan trong của
việc công bố các số liệu kế toán đầy đủ và chính xác có ảnh hưởng lớn và lâu
dài đối với cá nhân, hộ gia đình, các đối thủ cạnh tranh, nhà đầu tư , thị
trường và rất nhiều các tổ chức liên quan tới doanh nghiệp, đặc biệt là các cổ
đông của công ty. Các BCTC thường được cả đối tượng nội bộ và bên ngoài
sử dụng. Người sử dụng nội bộ dùng cho mục đích lập kế hoạch tài chính.
Đểmang lại sự công bằng cho các nhà đầu tư, công ty cần phải công bố
cả những thông tin tốt và không tốt. Thực tế việc chọn lọc trong CBTT đã gây
ra những vấn đề nghiêm trọng cho nhà đầu tư vì những cổ đông nội bộ sẽ
chiếm ưu thế do những thông tin mật mà họ có được để đưa ra quyết định đầu
tư có lợi hơn những nhà đầu tư bên ngoài.
2.2.
Phân loại các hình thức CBTT
Phân loại theo thời gian công bố:
10
- Thông tin công bố định kỳ: gồm có Báo cáo thường niên, Báo cáo nửa năm.
- Thông tin công bố đột xuất: trong trường hợp tài khoản công ty bị
ngân hàng phong tỏa hoặc được phép hoạt động sau khi phong tỏa, các loại
công bố khác.
Phân loại theo tính chất bắt buộc hoặc tự nguyện:
- Thông tin công bố bắt buộc: Một số điều luật về vay mua nhà quy
định thông tin nào phải được công bố cho người vay tiền cũng như thời điểm
và cách thức CBTT.
- Thông tin công bố tự nguyện: Công bố tự nguyện trong kế toán là
việc cung cấp thông tin bởi ban lãnh đạo công ty dựa trên các chuẩn mực kế
toán và các quy định của Ủy ban Chứng khoán , được cho là những thông tin
đáng tin cậy cho việc đầu tư. Việc CBTT tự nguyện thường được nhiều công
ty sử dụng và là vấn đề quan trọng khi nghiên cứu BCTC.Trong các BCTC
này có thể bao gồm các thông tin về đặc điểm đặc thù của doanh nghiệp, các
chiến lược phát triển, các thông tin phi tài chính như trách nhiệm xã hội hay
các thông tin tài chính như giá cổ phiếu.
Phân loại theo mức độ xử lí:
- Thông tin sơ cấp: Là các BCTC được công bố ra công chúng.
- Thông tin đã qua xử lý: Là các số liệu thống kê được phân tích từ
thông tin sơ cấp, dành cho những mục đích sử dụng khác nhau.
2.3. Yêu cầu về CBTT kế toán
2.3.1. Yêu cầu về CBTT dựa trên Chuẩn mực kế toán
Trong khuôn khổ Chuẩn mực kế toán, yêu cầu đối với CBTT cho thấy có 4
thuộc tính quan trọng của việc CBTT kế toán:
- Dễ hiểu
Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC phải rõ ràng, dễ hiểu đối
với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được hiểu là người có hiểu biết về kinh
11
doanh, về kinh tế, tài chính, kế toán ở mức trung bình. Thông tin về những vấn đề
phức tạp trong BCTC phải được giải trình trong phần thuyết minh.
Tính dễ hiểu của thông tin trên BCTC thực sự cần thiết cho người sử dụng.
nếu như việc hạch toán và thuyết minh liên quan quá phức tạp, mặc dù cung cấp
thông tin đủ về doanh nghiệp, sẽ làm giảm độ tin cậy với toàn bộ BCTC vì các
quyết định đầu tư của người sử dụng se dựa trên thông tin không độc lập.
- Tính liên quan
Thông tin phải phù hợp với nhu cầu ra quyết định của người sử dụng.
Thông tin có liên quan nếu nó giúp người sử dụng BCTC trong việc dự đoán
xu hướng tương lai của doanh nghiệp (Predictive Value) hoặc xác nhận hoặc
điều chỉnh bất kỳ dự đoán vừa qua, họ đã thực hiện (Giá trị tính xác nhận ).
Thông tin này sẽ hỗ trợ người dùng trong việc xác nhận dự đoán trước đây
của họ cũng có thể hữu ích trong việc hình thành dự báo trong tương lai.
Ví dụ: Một công ty công bố sự gia tăng lợi nhuận mỗi cổ phiếu (EPS) từ $ 5
đến $ 6 từ giai đoạn báo cáo cuối cùng. Các thông tin có liên quan đến các
nhà đầu tư vì nó có thể hỗ trợ họ trong việc xác nhận dự đoán trước đây của
họ liên quan đến lợi nhuận của các công ty và cũng sẽ giúp họ trong việc dự
báo xu hướng tương lai trong thu nhập của các công ty.
Sự liên quan bị ảnh hưởng bởi tính vật chất của thông tin chứa trong các
BCTC vì chỉ có thông tin trọng yếu ảnh hưởng đến các quyết định kinh tế của
người sử dụng.
- Độ tin cậy
Thông tin là đáng tin cậy nếu một người sử dụng có thể tin tưởng vào nó là
đúng với thực tế và nó đại diện cho các thông tin với mục đích trình bày. Sai
sót trọng yếu đáng kể hoặc thiếu sót trong BCTC làm giảm độ tin cậy của
thông tin chứa trong BCTC.
12
Ví dụ: Một công ty đang bị kiện bồi thường thiệt hại của một công ty đối thủ, giải
quyết mà có thể đe dọa sự ổn định tài chính của công ty.Không công bố các thông
tin này sẽ làm cho các BCTC không đáng tin cậy cho người sử dụng. .
Độ tin cậy của thông tin tài chính được tăng cường bằng cách sử dụng
các khái niệm kế toán và nguyên tắc sau đây:
+ Khách quan: Các thông tin trong BCTC phải được tự do không bị sai
lệch. Nó phải phản ánh một cái nhìn khách quan các công việc của công ty mà
không cần cố gắng để trình bày chúng trong một vẻ hào nhoáng nào cả.
Thông tin có thể được cố tình thiên vị hay thiên vị một cách hệ thống.
• Cố tình thiên vị: Xuất hiện trong những trường hợp và điều kiện gây ra quản
lý cố tình trần thuật sai BCTC.
• Thiên vị hệ thống: Xuất hiện nơi hệ thống kế toán đã phát triển một khuynh
hướng thiên vị các kết quả theo thời gian.
+ Trung thực: Thông tin được trình bày trong BCTC phải thể hiện đúng các
giao dịch và các sự kiện xảy ra trong một khoảng thời gian. Tính trung thực
khách quan yêu cầu giao dịch và các sự kiện cần đại diện cho tính chất kinh tế
thực sự của họ chứ không phải là hình thức pháp lý đơn thuần.
+ Thận trọng: Chuẩn bị BCTC đòi hỏi việc sử dụng các đánh giá chuyên môn
trong việc áp dụng các chính sách kế toán và ước tính. Tính thận trọng yêu
cầu kế toán phải thực hiện một cách cẩn trọng trong việc áp dụng các chính
sách và ước tính quan trọng. Các tài sản và thu nhập của đơn vị không được
phóng đại; không phát sinh trách nhiệm và chi phí không thuộc quy định.
+ Đầy đủ: Độ tin cậy của thông tin chứa trong các BCTC được thực hiện chỉ
khi thông tin kế toán hoàn chỉnh được cung cấp liên quan đến các nhu cầu
kinh doanh và quyết định tài chính của người sử dụng. Vì vậy, thông tin phải
đầy đủ trong tất cả các khía cạnh trọng yếu.
13
Thông tin không đầy đủ không chỉ làm giảm sự liên quan của các
BCTC mà còn làm giảm độ tin cậy của các BCTC khi người dùng căn cứ trên
vào các thông tin mà chỉ trình bày một phần của công việc của tổ chức để
định đưa ra những quyết định quan trọng.
- So sánh được / Tính nhất quán
BCTC của một kỳ kế toán phải được so sánh với nhau để cho người sử
dụng để lấy được kết luận có ý nghĩa về các xu hướng trong hoạt động tài
chính của một thực thể và vị trí của nó theo thời gian. So sánhBCTC trong
thời gian kế toán khác nhau có thể được bảo đảm bằng việc áp dụng các chính
sách kế toán tương tự trong cùng một khoảng thời gian.
Một sự thay đổi trong chính sách kế toán của một thực thể có thể được
yêu cầu để nâng cao độ tin cậy và phù hợp của BCTC. Một sự thay đổi trong
chính sách kế toán cũng có thể được áp dụng bởi những thay đổi trong tiêu
chuẩn kế toán. Trong những trường hợp này, bản chất và hoàn cảnh dẫn đến
sự thay đổi phải được công bố trong BCTC.
BCTC của một thực thể cũng phải phù hợp với các đơn vị khác trong
cùng ngành kinh doanh. Điều này sẽ hỗ trợ người dùng trong việc phân tích
hiệu quả hoạt động và vị trí của một công ty liên quan đến các tiêu chuẩn
công nghiệp. Do đó nó rât cần thiết cho các đơn vị áp dụng chính sách kế toán
trong việc phản ánh tình trạng hoạt động hiện tại.
Ví dụ: Nếu một công ty bán lẻ áo khoác da có giá trị hàng tồn kho trên cơ sở
của phương pháp FIFO trong quá khứ, nó phải tiếp tục làm như vậy trong
tương lai để bảo tồn tính nhất quán trong dư hàng tồn kho báo cáo. Sự thay
đổi từ FIFO để cơ sở xác định giá trị hàng tồn kho LIFO có thể gây ra một sự
thay đổi trong giá trị của hàng tồn kho giữa các kỳ kế toán chủ yếu là do biến
động theo mùa trong giá cả.
14
Ngoài ra, theo chuẩn mực kế toán VAS 01 - tiêu chuẩn chung, các yêu
cầu về thông tin kế toán để được tóm tắt nhưng vẫn thể hiện tính tương đồng
cao với chuẩn mực kế toán quốc tế.
- Trung thực
Các dữ liệu thông tin và kế toán phải được ghi chép và báo cáo trên cơ
sở bằng chứng đầy đủ , khách quan và đúng với thực tế về hiện trạng , nội
dung , tính chất và giá trị của các giao dịch kinh tế phát sinh .
- Trung lập
Các dữ liệu thông tin và kế toán phải được ghi chép và báo cáo đúng với thực
tế, không bị bóp méo.
- Mức độ đầy đủ
Tất cả các giao dịch kinh tế, tài chính phát sinh liên quan đến kỳ kế
toán phải được ghi chép và báo cáo đầy đủ, không bị bỏ qua.
- Thời hạn
Các dữ liệu thông tin và kế toán phải được ghi chép và báo cáo kịp thời
hoặc trước thời hạn quy định, không chậm trễ.
- Dễ hiểu
Các thông tin và số liệu kế toán trình bày trong BCTC phải rõ ràng và
dễ hiểu cho người dùng. Người sử dụng hiểu rằng người dân ở đây có kiến
thức về kinh doanh, kinh tế , tài chính, kế toán trung bình . Thông tin về các
vấn đề phức tạp trong BCTC phải được giải thích trong thuyết minh BCTC.
- So sánh được
Thông tin về dữ liệu kế toán giữa các kỳ kế toán trong một doanh
nghiệp có thể so sánh được và phải được trình bày nhất quán. Trong trường
hợp có sự mâu thuẫn phải được giải thích trong các ghi chú cho người sử
dụng BCTC để so sánh thông tin giữa các kỳ kế toán, giữa các doanh nghiệp
…
15
2.3.2. Yêu cầu về CBTT trên BCTC
Các BCTC thường niên hợp nhất được kiểm toán bởi các công ty kiểm
toán độc lập, cùng với BC kiểm toán, gồm có:
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
- Thuyết minh BCTC
Không phải tất cả công ty niêm yết tất cả các mục liệt kê dưới đây, mặc
dù các mục này là khá phổ biến. Mức độ CBTT của các doanh nghiệp tư nhân
thường ít hơn so với công ty đại chúng.
Ngoài các BCTC và thuyết minh cho BCTC, công ty đại chúng thường
công bố một số hoặc tất cả các thông tin sau đây trong các BCTC năm cho
các cổ đông của họ:
- Cover letter : Một lá thư từ giám đốc điều hành của doanh nghiệp cho
các cổ đông , thường đưa ra các tin tốt và đổ lỗi phần lớn cho chính phủ về
những tin xấu, như phát triển chính trị thế giới không thuận lợi, một nền kinh
tế nghèo, hoặc một số điều khác ngoài Kiểm soát quản lý.
- Báo cáo quản lý về kiểm soát nội bộ trong BCTC: Một khẳng định của
giám đốc điều hành và giám đốc tài chính liên quan đến sự hài lòng của họ
với hiệu quả của kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp, được thiết kế để đảm
bảo độ tin cậy của BCTC (và ngăn chặn gian lận tài chính và kế toán).
- Bảng tóm tắt tình hình tài chính: Một bảng trình bày số liệu chính từ
các BCTC, chẳng hạn như doanh thu bán hàng , tổng tài sản, lợi nhuận, tổng
số nợ , vốn chủ sở hữu , số lượng nhân viên, và số lượng các đơn vị bán ra (ví
dụ như số lượng xe bán ra của một nhà sản xuất ô tô ) với mục đích chủ yếu
là để cung cấp cho các cổ đông một bản phác thảo hình ảnh thu nhỏ tình hình
tài chính của doanh nghiệp.
16
- Thảo luận Quản lý và phân tích (MD & A): Thảo luận về sự phát triển
lớn và những thay đổi trong năm có ảnh hưởng đến hoạt động tài chính và
tình hình của doanh nghiệp. SEC yêu cầu CBTT này được bao gồm trong các
BCTC hàng năm của các tập đoàn thuộc sở hữu công
- Thông tin phân khúc: Một báo cáo của doanh thu bán hàng và lợi nhuận
hoạt động (trước thuế suất và thu nhập , có thể trước chi phí cố định mà
không thể được phân bổ giữa các phân đoạn khác nhau ) cho các đơn vị lớn
của tổ chức, hoặc cho các thị trường khác nhau của nó ( ví dụ: quốc tế so với
trong nước…).
- Tóm tắt lịch sử: Một lịch sử tài chính kéo dài trở lại vượt quá 1 số năm
nhất định (thường là ba) bao gồm trong BCTC chính.
- Biểu đồ: biểu đồ xu hướng, và các biểu đồ đại diện cho các điều kiện
tài chính; hình ảnh của những người chủ chốt và các sản phẩm.
- Tài liệu đi kèm: Thông tin về công ty, sản phẩm của mình , các nhân
viên, và các nhà quản lý của nó, thường nhấn mạnh một chủ đề bao quát trong
năm. Hầu hết các công ty sử dụng BCTC hàng năm của họ như là một cơ hội
quảng cáo.
- Hồ sơ: Thông tin về thành viên quản lý hàng đầu và ban giám đốc. Tất
nhiên, tất cả mọi người gần như đủ điều kiện cho vị trí của mình. Thông tin
tiêu cực không được báo cáo.
- Tóm tắt quý về lợi nhuận và giá cổ phiếu chứng khoán: Hiển thị kết
quả tài chính cho tất cả bốn quý trong năm và phạm vi giá cổ phiếu cho mỗi
quý (theo yêu cầu của SEC).
- Báo cáo trách nhiệm quản lý: Một tuyên bố ngắn cho thấy rằng quản lý
có trách nhiệm chính trong các phương pháp kế toán được sử dụng để lập các
BCTC, để viết thuyết minh cho các BCTC, và cung cấp các thuyết minh khác
trong BCTC. Thường, tuyên bố này xuất hiện gần báo cáo của kiểm toán viên
độc lập CPA.
- Báo cáo kiểm toán độc lập: Các báo cáo từ các công ty CPA mà thực
hiện công việc kiểm toán, đưa ra ý kiến về tính công bằng của các BCTC và
17
thuyết minh kèm theo. Công ty đại chúng phải có kiểm toán; doanh nghiệp tư
nhân có thể có hoặc không có BCTC năm đã được kiểm toán.
- Thông tin liên lạc công ty: Thông tin về cách liên lạc với công ty, địa
chỉ trang web của công ty, làm thế nào để có được bản sao của các báo cáo
nộp cho SEC, các đại lý chuyển nhượng chứng khoán và đăng ký của công ty,
và các thông tin khác.
Các nhà quản lý của công ty đại chúng dựa vào luật sư, CPA kiểm toán
viên và quan chức tài chính và kế toán của họ để đảm bảo rằng tất cả mọi thứ
cần được công bố trong BCTC hàng năm của doanh nghiệp được bao gồm, và
các thuật ngữ của thuyết minh là không sai lệch, chính xác và đầy đủ. Đây là
một yêu cầu cao. Lĩnh vực công bố BCTC thường thay đổi liên tục.
Pháp luật của Nhà nước, cũng như các chuẩn mực kế toán có thẩm
quyền, phải được quan sát thấy trong thuyết minh BCTC. CBTT không đầy
đủ do việc sử dụng phương pháp kế toán sai để đo lường lợi nhuận và xác
định giá trị tài sản, nợ phải trả và vốn chủ sở hữu. Hoặc BCTC có thể bị sai
lệch do các phương pháp kế toán không đúng hoặc không CBTT không đầy
đủ hoặc sai lệch. Cả hai loại thiếu sót trên có thể dẫn đến các vụ kiện chống
lại công việc kinh doanh và quản lý của mình.
2.4. Đo lường mức độ CBTT kế toán
2.4.1. Lý thuyết về đo lường mức độ CBTT kế toán
Các nghiên cứu trước đây sử dụng các phương pháp tiếp cận khác nhau
để tính toán mức độ CBTT. Theo Urquiza, F.B., Navarro, M.C.A. và
Trombetta, M. (2009) , không có thiết kế tốt nhất để đo lường mức độ CBTT .
Tác giả cho rằng có ba chỉ số để đo lường mức độ CBTT là "chỉ số chất
lượng", bản chất đa chiều được sử dụng để đo chất lượng của thông tin,
“phạm vi chỉ số” đề cập đến phạm vi đo của thông tin và " số chỉ số " được sử
dụng để đo lượng thông tin được công bố.
18
2.4.2. Đo lường mức độ CBTT
Trong nghiên cứu này, mức độ CBTT của từng công ty được tính như sau:
Trong đó:
- Ij là mức độ CBTT của công ty j
- Nj là số lượng thông tin được công bố bởi công ty j
- Xij có giá trị 1 nếu thông tin được công bố và có giá trị 0 nếu thông tin
không được công bố.
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến CBTT kế toán
Phần này cung cấp cái nhìn chung về các yếu tố quyết định đến mức độ
CBTT. Theo Lopes và Lodrigues (2007), mức độ CBTT bị ảnh hưởng bởi cả
hai yếu tố bên ngoài và bên trong. Các yếu tố bên ngoài bao gồm nền văn hóa,
hệ thống chính trị và pháp lý, trình độ phát triển của nền kinh tế , v.v… ; yếu
tố bên trong thuộc về đặc điểm của từng công ty như quy mô, cấu trúc, tình
hình tài chính và cả đặc điểm của kế toán và quản lý.
Nghiên cứu này tập trung vào các yếu tố bên trong hoặc đặc điểm của
từng công ty mà không xem xét các yếu tố bên ngoài. Giả định rằng tất cả các
công ty bất động sản niêm yết trên SGDCK Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh được điều tra trên nền tảng đó, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh ảnh
hưởng về đặc điểm của từng công ty trên phạm vi CBTT.
Các nhà nghiên cứu phân chia đặc điểm của từng công ty thành 3
nhóm: đặc điểm về tài chính, đặc điểm về quản trị và cấu trúc sở hữu .
Đặc điểm về tài chính
• Quy mô doanh nghiệp
19
Quy mô doanh nghiệp được coi là một trong những biến quan trọng
nhất liên quan với mức độ CBTT (Lang và Lundholm, 2000). Các công ty lớn
phải đối mặt với chi phí đại diện lớn hơn bởi vì họ yêu cầu khối lượng lớn
vốn từ bên ngoài để tài trợ cho các khoản đầu tư của họ (Jensen và Meckling,
1976). Marston và Polei (2004) cho rằng mức độ CBTT cao hơn sẽ giảm chi
phí đại diện có thể phát sinh từ xung đột lợi ích của các cổ đông , các nhà
quản lý và chủ nợ. Watts và Zimmerman (1990) cũng cho rằng các chi phí
chính trị lớn hơn trong các tổ chức lớn. Do đó, các công ty lớn có xu hướng
công bố thêm thông tin để củng cố niềm tin và để giảm thiểu các chi phí đó.
• Đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy tài chính có thể được định nghĩa là mức độ mà một công ty sử
dụng chứng khoán thu nhập cố định, chẳng hạn như nợ và vốn chủ sở hữu. Đòn bẩy
tài chính càng lớn dẫn đến các khoản thanh toán với lãi suất càng cao. Kết quả là,
các khoản thu nhập dưới dòng trên mỗi cổ phiếu bị ảnh hưởng tiêu cực bởi các
khoản thanh toán lãi suất. Giống như chi phí lãi vay tăng là kết quả của việc tăng
đòn bẩy tài chính, EPS được điều chỉnh thấp hơn.
Như đã đề cập trước đó, rủi ro tài chính là rủi ro cho các cổ đông bị gây
ra bởi sự gia tăng nợ và chứng khoán ưu đãi trong cơ cấu vốn của công ty.
Khi một công ty làm tăng nợ và chứng khoán ưu đãi, lãi suất thanh toán tăng
làm giảm EPS. Kết quả là, rủi ro của cổ tức tăng lên. Một công ty nên giữ cơ
cấu vốn tối ưu của nó khi đưa ra quyết định tài chính để đảm bảo bất kỳ sự gia
tăng nợ hay vốn chủ sở hữu đều làm tăng giá trị của công ty.
Mối quan hệ thuận chiều giữa đòn bẩy tài chính và rủi ro cổ đông có
thể dẫn đến các mối quan hệ tích cực giữa đòn bẩy tài chính và mức độ CBTT
bởi ba lý do sau đây. Thứ nhất, khi có những rủi ro cao hơn, các cổ đông có
nhu cầu cao hơn của thông tin, dẫn đến mức độ CBTT cao hơn. Thứ hai, các
công ty có xu hướng tích cực cung cấp thêm thông tin để giảm thiểu các hoạt
20
động giám sát của chủ nợ. Thứ ba, mức độ CBTT cao hơn sẽ lấy lại niềm tin
của các cổ đông.
Tuy nhiên, trên thực tế, có một số nghiên cứu trước đây cho thấy kết
quả trái ngược. Mối quan hệ thuận chiều có thể được tìm thấy trong nghiên
cứu Bradbury (1990), nghiên cứu Naser (1998), .v.v… Ngược lại, một số
nghiên cứu cho thấy không có mối quan hệ giữa đòn bẩy tài chính với mức độ
CBTT, chẳng hạn như nghiên cứu của Hossain et al. (1994) hay Đoàn Nguyên
Trang Phương (2010 ), .v.v…
• Khả năng sinh lời
Có một tình trạng chung là các công ty sẵn sàng công bố những thông
tin tích cực liên quan đến lợi nhuận của họ. Điều này có thể được bắt nguồn
từ lý thuyết đại diện. Đó là việc các nhà quản lý của các công ty có lợi nhuận
CBTT rộng rãi để trình bày và giải thích cho các cổ đông rằng họ đang hành
động vì lợi ích tốt nhất của mình và biện minh cho các gói đền bù của họ.
Tương tự như vậy, quản lý của một công ty có lợi nhuận mong muốn công bố
thêm thông tin cho công chúng để quảng bá ấn tượng tích cực về hiệu năng
của nó (Ghazali và Weetman, 2006).
Mối liên hệ giữa lợi nhuận và mức độ CBTT cũng đã được nghiên cứu
trong các nghiên cứu trước đó (Wang và cộng sự, 2008). Và Marston và
Polei, 2004). Ghazali và Weetman (2006) lập luận rằng các công ty có lợi
nhuận càng cao thì khả năng CBTT tài chính càng lớn. Marston và Polei
(2004) cũng nhấn mạnh "tin tốt" rằng các công ty được khuyến khích khẳng
định mình đối với các công ty khác bằng cách công bố thêm thông tin.
• Khả năng thanh toán hiện hành
Khi tính thanh khoản ảnh hưởng đến mức độ CBTT, có hai xu hướng
xảy ra. Khỉ chỉ số thanh khoản cao, các công ty có xu hướng tăng mức độ
CBTT của họ để chứng minh hiệu năng tốt của họ, theo Belkaoui và Kahl