Tải bản đầy đủ (.docx) (110 trang)

Kiểm toán nợ công ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (966.08 KB, 110 trang )

1

MỤC LỤC

DANH SÁCH CÁC KÝ HIỆU VÀ TỪ VIẾT TẮT

ASOSAI
DN
DNNN
IMF
INTOSAI
KTNN
NDT
NSNN
WB

Tổ chức các cơ quan kiểm toán tối cao
châu Á (Asian Organization of Supreme
Audit Institutions)
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp Nhà nước
Quỹ tiền tệ quốc tế (International
Monetary Fund)
Tổ chức Kiểm toán tối cao thế giới (The
International Organisation of Supreme
Audit Institutions)
Kiểm toán Nhà nước
Nhân dân tệ
Ngân sách Nhà nước
Ngân hàng thế giới (World Bank)



2

DANH SÁCH HÌNH

Hình
2.1
2.2
2.3
2.4
2.5
2.6
3.1
3.2
3.3
3.4

Tên hình
Chi tiêu cụ thể của Liên bang Mỹ năm 2014
Cơ cấu nợ công Nhật Bản
Tỷ lệ nợ công của một số nước (so với GDP)
Nợ được Chính phủ bảo lãnh của Nhật Bản
Lãi suất trái phiếu chính phủ Nhật Bản năm 2013
Lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của một số quốc gia có tỷ lệ nợ công cao
Nợ công của Việt Nam so với thế giới năm 2014
Diễn biến nợ công và nợ Chính phủ giai đoạn 2001-2020
Tốc độ tăng nợ giai đoạn 2011-2015.
Cơ cấu nợ công Việt Nam 2013.

Trang

31
33
34
35
36
37
74
75
76
77


3

DANH SÁCH BẢNG
Bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Nợ công của Mỹ từ năm 2010 đến năm 2014 (so sánh với GDP danh
nghĩa)

26

2.2


Các cuộc kiểm toán của uỷ ban kiểm toán Nhật Bản qua các năm

43

3.1

Cân đối NSNN năm 2012

80

3.2

Cân đối ngân sách nhà nước năm 2015

86


4
LỜI NÓI ĐẦU
Jill Lepore , giáo sư lịch sử Mỹ của trường đại học Harvard từng nói:
“Quan niệm rằng nợ nần là cần thiết cho thương mại và cần được xóa nợ là kết
quả của một nền kinh tế thị trường. Quan niệm rằng nợ nần là sai và nên bị phạt
là đặc điểm của một nền “kinh tế đạo đức”” (The idea that debt is necessary for
trade, and has to be forgiven, is consequent to the rise of a market economy. The
idea that debt is wrong and should be punished is a feature of a moral economy).
Thật vậy, vay nợ đã trở thành một trong những cách huy động vốn hiệu
quả nhất.Ngay cả những nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Trung Quốc thì tỉ lệ
vay nợ cũng không hề nhỏ.Ở Việt Nam, trong từng giai đoạn của quá trình phát
triển,khi các khoản thu thông thường như thuế, phí và lệ phí không đủ đáp ứng
nhu cầu chi tiêu, Nhà nước phải quyết định vay nợ để thực hiện các chức năng,

nhiệm vụ của mình và chịu trách nhiệm trong việc chi trả khoản nợ đó, thường
được gọi là nợ côngĐối với một quốc gia,nợ công rất quan trọng vì nó nguồn tài
chính quan trọng cho sự phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, khi nợ công ở mức cao, đồng nghĩa với việc áp lực trả nợ tăng
cao.Đặc biệt, khi một đất nước quá phụ thuộc vào nguồn vốn vay này, rất có thể
dẫn tới không có khả năng trả nợ, tạo nên khủng hoảng nợ công.Hậu quả của là
nó hủy diệt sự phồn thịnh, làm cạn kiệt sức dân. Ngay cả khi các biện pháp cắt
giảm chi tiêu và tăng thuế làm vơi đi một phần núi nợ công, chúng sẽ khiến cho
các hộ gia đình chẳng còn tiền để tiêu. Chi tiêu của các hộ gia đình giảm sút ắt sẽ
dẫn đến tăng trưởng chững lại hoặc giảm theo. Hơn nữa, khi nợ công quá lớn,
việc thắt chặt chi tiêu, thực hiện chính sách "thắt lưng buộc bụng" để giảm thâm
hụt ngân sách là điều kiện phải đáp ứng để được nhận sự hỗ trợ cần thiết từ các
tổ chức tín dụng quốc tế, thế nhưng, "thắt lưng buộc bụng" lại dẫn tới những


5
cuộc biểu tình phản đối của quần chúng, gây căng thẳng, bất ổn chính trị, xã hội,
bởi những người nghèo, những người yếu thế trong xã hội là những người bị tác
động mạnh nhất từ chính sách cắt giảm phúc lợi, cắt giảm chi tiêu của chính phủ.
Chính vì thế, quản lí nợ công là một điều cần thiết.Đây là nhu cầu xuất
phát từ thực tế. Danh mục nợ công của Chính phủ ngày càng lớn và phức
tạp,kèm theo đó sẽ là những rủi ro tiềm tàng khó lường.Quản lí tốt nợ công sẽ
đảm bảo nguồn hỗ trợ từ bên ngoài được sử dụng hiệu quả, tránh lãng phí, không
hiệu quả; đảm bảo mức nợ công không vượt quá tầm kiểm soát; giảm thiểu chi
phi và rủi ro; tạo tiền đề cho sự phát triển lâu dài và bền vững.
Trong quá trình quản lí nợ công, kiểm toán nợ công được hình thành và
ngày càng được coi trọng.Kiểm toán nợ công được thực hiện chủ yếu bởi kiểm
toán nhà nước - cơ quan chuyên môn của Nhà nước về vấn đề kiểm tra tài chính
Nhà nước đối với việc quản lý nợ công tại mỗi quốc gia.Kiểm toán tài chính
thường xuyên về nợ công giúp cho các nhà quản lý nợ công có trách nhiệm đối

với hành động nợ công của mình. Ngoài ra, báo cáo kiểm toán tài chính có thể
tăng cường tính minh bạch của các vấn đề nợ công, tùy thuộc vào khả năng
thông tin rõ ràng cho các nhà lập pháp và người dân về các khoản nợ chính.
Kiểm toán hoạt động góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu suất kinh năng lực
quản lý nợ và tăng cường kiểm soát nội bộ để ngăn chặn gian lận trong hoạt
động nợ công.Mặc dù vậy, kiểm toán nợ công ở nước ta mới đạt hiệu quả ở mức
thấp. Nhiều dự án sử dụng vốn đầu tư công sai mục đích, nhiều cá nhân tham ô,
rút ruột nguồn vốn từ nợ công. Đặc biệt, năm 2014, nợ công của Việt Nam đạt
mức cao, trở thành một vấn đề lớn, cần đưa lên bàn cân xem xét.


6
Cái mới của đề tài nghiên cứu là, đề tài đi sâu vào nghiên cứu thực trạng
nợ công của một số quốc gia và khu vực có tỷ lệ nợ công cao từ đó rút ra bài học
kinh nghiệm để ứng phó với vấn đề nợ công tại Việt Nam hiện nay.Đề tài cũng
có đi vào nghiên cứu mô hình kiểm toán nợ công tại các quốc gia đó qua đó để
chỉ ra điểm mạnh, những hạn chế còn tồn tại trong công tác kiểm toán nợ công
của KTNN tại Việt Nam.Đề tài nghiên cứu đi vào nghiên cứu kiểm toán nợ công
trên cả hai phương diện: chuyên đề về nợ công và ngân sách nhà nước. Cách vận
hành và sử dụng ngân sách tác động tới nợ công như thế nào.Từ thực trạng nợ
công và kiểm toán nợ công tại Việt Nam.Bài nghiên cứu có đưa ra một số các
giải pháp nhằm khắc phục một số hạn chế trong công tác quản lý và kiểm soát nợ
công.Cùng với đó là mộ số giải pháp nhằm khác phục những hạn chế còn tồn tại
trong công tác kiểm toán nợ công.
Vì vậy, nghiên cứu khoa học : “Kiểm toán nợ công ở Việt Nam hiện nay”
đi sâu nghiên cứu vấn đề nợ công, làm sáng tỏ thực trạng nợ công ở Việt Nam,
đề xuất giải pháp, góp phần nâng cao thực hiện kiểm toán nợ công.


7

CHƯƠNG 1: LÍ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN NỢ CÔNG

1.1 Khái niệm nợ công và những vấn đề liên quan cơ bản
1.1.1 Khái niệm nợ công

Khái niệm
Trước hết cần tìm hiểu thế nào nợ công.Có rất nhiều khái niệm đã được
đưa ra.Theo Ngân hàng Thế giới (WB) thì : “Nợ công là toàn bộ những khoản nợ
của Chính phủ và những khoản nợ mà Chính phủ bảo lãnh”.
Theo Luật Quản lí nợ công 2009 thì nợ công bao gồm: nợ Chính phủ, nợ
được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Cụ thể:
Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc
các khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo
quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ.
Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký
kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, có thể thấy khái niệm nợ công của Việt Nam phần lớn là phù hợp
với quan điểm nợ công của WB. Đó là toàn bộ khoản nợ mà Chính phủ trực tiếp
vay và không trực tiếp vay nhưng vẫn có nghĩa vụ trả nợ hoặc bảo lãnh


8
Tuy nhiên, vẫn có sự khác biệt giữa hai khái niệm này. Theo Luật Quản lí
nợ công 2009 thì nợ công của Việt Nam bao hàm rộng hơn: nó bao gồm cả nợ

của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ký kết, phát hành hay ủy quyền phát hành. Điều
này dẫn tới sự khác biệt trong tính toán nợ công theo WB và của Việt Nam.
Ngoài ra, theo The Economist thì : “Nợ công là tất cả các khoản tiền đã
được gây quỹ bởi chính phủ mà vẫn chưa được trả. Nó khác với thiếu hụt ngân
sách hàng năm của khu vực nhà nước”.Đồng thời, Ivestopedia thì cho rằng cần
phân biệt giữa nợ công với thâm hụt ngân sách.Thâm hụt ngân sách là tình trạng
mất cân bằng ngân sách nhà nước khi số chi vượt quá số thu ngân sách trong cân
đối ngân sách nhà nước trong một tài khóa nhất định. Như vậy, cả hai quan điểm
này đều thống nhất nợ công hình thành khi chính phủ quyết định đi vay để bù
thâm hụt ngân sách.
Không ít người vẫn luôn nhầm lẫn giữa nợ công và nợ chính phủ.Như đã
nêu ở trên, nợ chính phủ chỉ là một bộ phận của nợ công, là tổng giá trị các
khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay
nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách.
Tóm lại, dù nhìn từ góc độ nào, nợ cônglà tổng giá trị các khoản tiền mà
chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay nhằm tài trợ cho
các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là thâm hụt
ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó.
Cách tính nợ công
Xuất phát từ sự khác biệt trong khái niệm khu vực công mà cách xác định
nợ công của Việt Nam và các tổ chức trên thế giới cũng khác nhau. Điều này góp


9
phần giải thích cho những con số nợ công được đưa ra bởi các tổ chức quốc tế và
Việt Nam rất khác nhau
Thực tiễn các nước cho thấy, ngoài nợ chính phủ và nợ được chính phủ
bảo lãnh (hầu hết các quốc gia đều cho vào nợ công) một số nước xác định nợ
công còn gồm nợ chính quyền địa phương (Đài Loan, Bungari, Rumani,
Macedonia), nợ của DNNN phi tài chính (Thái Lan, Macedonia). Tuy nhiên, cần

lưu ý ít nước có khu vực DNNN lớn như Việt Nam (các nước trước đây có nhiều
DNNN là các nước Đông Âu và Liên Xô cũ nhưng cho đến gần đây khu vực này
đã được thu hẹp đáng kể thông qua cổ phần hóa)
Thoạt nhìn có thể hình dung với cách xác định này thì khoản mục nợ của
các DN và tổ chức để tính vào nợ công ở Việt Nam là rộng hơn quốc tế, song
trên thực tế điều kiện để một DN hay tổ chức có được sự bảo lãnh của Chính phủ
Việt Nam là vô cùng khó khăn và rất ít các doanh nghiệp hay tổ chức tại Việt
Nam có được sự bảo lãnh này (thường là một số ít các DN, tổng công ty nhà
nước). Hơn nữa, với cách xác định này, khoản mục DNNN tự vay và tự trả sẽ
không được tính vào nợ công. Điều này là bất hợp lý bởi DNNN là DN do Nhà
nước đóng góp toàn bộ số vốn điều lệ hoặc nắm cổ phần, vốn góp chi phối
Do vậy, khoản mà các DN tự đi vay cũng thể hiện phần nào đó Nhà nước
đi vay (một phần hoặc toàn bộ) và trách nhiệm trả nợ cuối cùng vẫn thuộc về
Nhà nước (một phần hoặc toàn bộ). Đặc biệt, tại Việt Nam khu vực quốc doanh
rất lớn, mặc dù có quy chế chuyển đổi các DNNN sang loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên nhưng về mặt chính trị nếu xuất hiện các khoản
nợ thì Nhà nước cũng không thể thoái thác trách nhiệm


10
Ngoài ra, các tổ chức quốc tế có tính đến nợ lương hưu trong khoản nợ
Chính phủ còn Việt Nam thì không. Theo nguyên tắc tính nợ của một số tổ chức
quốc tế, khi một công chức nhận lương họ phải đóng vào quỹ về hưu, còn một
phần khác, có thể bằng hoặc gấp đôi Chính phủ phải đóng vào quỹ này. Phần
Nhà nước đóng góp phải tính vào chi tiêu.Dựa vào hợp đồng đã ký về hưu trí,
nếu đóng góp không đủ để chi trả trong tương lai thì phải tính vào nợ. Khoản
mục này trên thực tế là không nhỏ, tại các quốc gia phát triển như Mỹ, Canada,
Úc, Nhật và các nước trong khối EU đã tính nợ theo đúng tiêu chuẩn của Liên
hiệp quốc nên đều có tỷ lệ nợ/GDP cao hơn 50% nhiều. Tỷ lệ trên 100% đối với
các nước này là bắt đầu vượt ngưỡng an toàn. Còn đối với các nước đang phát

triển khi không tính nợ lương hưu thì có lẽ 50% là ngưỡng phù hợp
Tại Việt Nam, Bảo hiểm xã hội (trực thuộc Chính phủ) là cơ quan chuyên
trách về chế độ lương hưu, hàng năm bảo hiểm xã hội thu phí bao gồm một phần
trích từ lương người lao động và một phần từ ngân sách nhà nước hỗ trợ và thực
hiện chế độ hưu bổng cho cán bộ nghỉ hưu. Quá trình hạch toán chỉ rõ Việt Nam
chưa hề đề cập tới khoản nợ lương hưu.Trong khi hệ thống hưu trí ở các nước
trên thế giới trong đó có Việt Nam đang gặp phải rất nhiều khó khăn. Với điều
kiện dân số đang ngày càng già hóa nhanh, tỷ lệ sinh thấp và tỷ lệ tham gia lực
lượng lao động có xu hướng giảm thì sự tồn tại của hệ thống hưu trí sẽ bị đe dọa
trong tương lai không xa. Hệ thống hưu trí ở các nước trên thế giới (bao gồm cả
Việt Nam) chủ yếu là hệ thống PAYG với mức hưởng được xác định trước.
Tại Việt Nam, khoản nợ này lại không được phản ánh trong tài khoản tài
chính quốc gia và nó trở thành mối đe dọa tiềm ẩn đối với các chính sách tài
chính vì Chính phủ phải chuẩn bị một dòng tiền khổng lồ để thanh toán khoản nợ
này trong tương lai.Bên cạnh đó, cơ cấu nợ hiện nay của Việt Nam cũng là vấn


11
đề đáng lo ngại. Việc tỷ trọng nợ nước ngoài quá cao như hiện nay (chiếm
75,59% tổng số nợ công quốc gia năm 2012) cũng mang lại nhiều nguy cơ tiềm
ẩn
Tỷ trọng nợ nước ngoài quá lớn làm gia tăng khả năng tổn thương của nền
kinh tế Việt Nam khi nền kinh tế thế giới có biến động. Phần lớn nợ nước ngoài
có mức lãi suất thấp, tuy nhiên, bên trong các món vay này ẩn chứa nhiều rủi ro
về biến động tỷ giá. Sự mất giá của đồng nội tệ sẽ khiến cho gánh nặng nợ nước
ngoài theo nội tệ tăng lên cao.
Cách huy động vốn hình thành nợ công
Nợ chính phủ thường được phân thành: Nợ trong nước (các khoản vay từ
người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay
ngoài nước). Việc đi vay của chính phủ có thể được thực hiện thông qua phát

hành trái phiếu chính phủ để vay từ các tổ chức, cá nhân.Trái phiếu chính phủ
phát hành bằng nội tệ được coi là không có rủi ro tín dụng vì chính phủ vì có thể
tăng thuế thậm chí in thêm tiền để thanh toán cả gốc lẫn lãi khi đáo hạn. So với
trái phiếu chính phủ phát hành bằng nội tệ, trái phiếu chính phủ phát hành bằng
ngoại tệ (thường là các ngoại tệ mạnh có cầu lớn) có rủi ro tín dụng cao hơn vì
chính phủ có thể không có đủ ngoại tệ để thanh toán, thêm vào đó còn có thể xảy
ra rủi ro về tỷ giá hối đoái.
Cụ thể, có những hình thức trái phiếu sau:
Theo Luật quản lí nợ công 2009 thì : “Trái phiếu chính phủ là loại trái
phiếu do Bộ Tài chính phát hành nhằm huy động vốn cho ngân sách nhà nước
hoặc huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư cụ thể.


12
Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh là loại trái phiếu có kỳ hạn từ một
năm trở lên, do doanh nghiệp phát hành nhằm huy động vốn cho dự án đầu tư
theo chỉ định của Thủ tướng Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh
Trái phiếu chính quyền địa phương là loại trái phiếu có kỳ hạn từ một năm
trở lên, do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phát hành hoặc uỷ quyền phát hành nhằm
huy động vốn cho công trình, dự án đầu tư của địa phương.”
Ngoài việc vay bằng cách phát hành trái phiếu nói trên, chính phủ cũng có
thể vay tiền trực tiếp từ các ngân hàng thương mại, các thể chế tài chính quốc tế,
chẳng hạn Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)… Hình thức vay này thường được chính
phủ của các nước có độ tín cậy tín dụng thấp áp dụng vì khi đó khả năng vay nợ
bằng hình thức phát hành trái phiếu chính phủ của họ không cao.
Có thể thấy, hình thành nợ công là kèm theo không ít rủi ro. Vì vậy, rất cần
thiết phải quản lí nợ công
1.1.2 Quản lí nợ công

Khái niệm

Quản lí nợ công là quá trình thiết lập và thực thi chiến lược vay nợ của
một quốc gia nhằm xây dựng một lượng vốn theo yêu cầu, nhằm đạt được mục
tiêu về chi phí và rủi ro, đáp ứng được các mục tiêu quản lí nợ khác của chính
phủ đã đề ra.
Nhu cầu quản lí nợ công xuất phát từ thực tế đất nước. Thứ nhất, là do
danh mục nợ của Chính phủ ngày càng lớn và phức tạp, điều đó mang theo
những rủi ro như bất ổn kinh tế vĩ mô, mất khả năng thanh toán quốc tế, mất cân
bằng tài chính quốc gia. Thứ hai, quản lí nợ công hiệu quả sẽ giảm thiểu rủi ro.


13
Mục tiêu chính của quản lí nợ công là đảm bảo đáp ứng nhu cầu tài chính và các
nghĩa vụ thanh toán của chính phủ với chi phí thấp trong dài hạn.Vì thế, có một
cấu trúc vay nợ hợp lí về số lượng vay, lãi suất, thời hạn, cấu trúc vay trong và
ngoài nước sẽ hạn chế khả năng khoản vay vượt khỏi tầm kiểm soát.
Nội dung quản lí nợ công
Thế nhưng, để quản lí nợ công tốt thì cần làm những gì? Đây là quá trình
đòi hỏi sự hệ thống, đồng nhất để vận hành một cách hiệu quả. Có thể chi tiết
hóa quản lí nợ công thông qua các nội dung sau:
Một là, xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật về quản lý nợ công.
Hai là, xây dựng, ban hành chỉ tiêu an toàn về nợ, mục tiêu, định hướng
huy động, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công trong từng giai đoạn; hệ thống
các chỉ tiêu giám sát nợ chính phủ, nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia và kế
hoạch vay, trả nợ chi tiết hàng năm.
Ba là, tổ chức huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và quản lý nợ công
đúng mục đích, hiệu quả, bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ.
Bốn là, giám sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay, trả nợ, quản lý
nợ công, quản lý rủi ro tài khoá, bảo đảm an toàn nợ và an ninh tài chính quốc
gia.

Năm là, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay, hiệu quả quản lý nợ công.
Sáu là, tổng hợp, báo cáo, công bố thông tin về nợ công.
Bảy là, tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về quản lý nợ công.
Tám là, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật về quản lý nợ công.


14
Chín là, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong việc thực hiện
pháp luật về quản lý nợ công.
Mười là, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nợ công.
Mười một là, hợp tác quốc tế trong quản lý nợ công.
Với những công việc cụ thể như trên, quản lí nợ công sẽ đạt được những
mục tiêu đã đề ra.Trong quá trình quản lí nợ công, không thể bỏ qua công tác
kiểm toán nợ công.Đây là một khâu trọng yếu, góp phần quản lí nợ công hiệu
quả hơn.

1.2 Kiểm toán nợ công
1.2.1 Chủ thể kiểm toán nợ công

Chủ thể kiểm toán nợ công là kiểm toán nhà nước.KTNN nhằm đảm bảo
tính minh bạch trong quản lý và sử dụng các khoản nợ công cũng như tính bền
vững của ngân sách nhà nước của KTNN, đây là cơ quan chuyên môn về lĩnh
vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, thực hiện kiểm tra việc
quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước đối với mọi cơ quan, tổ
chức quản lý, sử dụng ngân sách. đối với quản lí nợ công, vai trò cơ bản của
KTNN là thực hiện xác nhận tính trung thực của thông tin trên báo cáo vay nợ
do các cơ quan quản lý nợ lập theo định kỳ và đột xuất. Thực hiện vai trò này
giúp cho việc cải thiện tính minh bạch và công khai thông tin về nợ công và công
tác quản lý công. Thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN sẽ cảnh báo, khuyến
cáo khả năng có thể xảy ra rủi ro tài chính quốc gia xét ở tầm vĩ mô và giúp

Chính phủ, Quốc hội có được một bức tranh toàn diện về thu, chi, quản lý và sử
dụng các khoản nợ, đánh giá tính bền vững của các khoản nợ, từ đó có các biện
pháp và quyết định phù hợp.


15
KTNN có thể thông báo cho các cơ quan có thẩm quyền về những trường
hợp bất thường hoặc thâm thủng trong quản lý và sử dụng các khoản nợ công
thông qua kiểm toán tính tuân thủ, tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực giúp cho
việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các khoản nợ công trong từng trường
hợp cụ thể.
Vì vậy, KTNN là chủ thể quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát và đánh
giá hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công, nhất là khi thế giới đã diễn ra một số
trường hợp khủng hoảng kinh tế do đổ vỡ nợ công. Việc thực hiện tốt việc kiểm
toán các khoản nợ công sẽ làm gia tăng giá trị và lợi ích của KTNN.
1.2.2 Mục tiêu kiểm toán nợ công

Cũng như các cuộc kiểm toán thuộc lĩnh vực ngân sách nhà nước, đầu tư
dự án, doanh nghiệp nhà nước thì kiểm toán nợ công đều có mục tiêu kiểm toán
tổng quát sau: Đánh giá tính đúng đắn, trung thực và hợp lý của các báo cáo vay
nợ do các cơ quan quản lý nợ công lập. Đánh giá sự tuân thủ các quy định pháp
luật về huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay đến việc trả nợ của cơ quan quản lý
và sử dụng nợ công. Đánh giá tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả trong huy động,
phân bổ, sử dụng vốn vay và trả nợ, nhằm mục tiêu đảm bảo cho việc quản lý nợ
công được tiến hành một cách hiệu quả, huy động được một lượng vốn theo yêu
cầu, đảm bảo các nhu cầu tài chính và trách nhiệm thanh toán được đáp ứng ở
chi phí thấp nhất có thể; đạt được các mục tiêu về rủi ro và chi phí... Đề xuất,
kiến nghị với Nhà nước để bổ sung, sửa đổi những quy định về cơ chế, chính
sách liên quan đến việc quản lý và sử dụng nợ công vì sự ổn định và phát triển
lành mạnh của nền tài chính quốc gia.

Tùy từng cuộc kiểm toán nợ công cụ thể ngoài 4 mục tiêu cơ bản trên,
kiểm toán nợ công còn hướng tới các mục tiêu sau:


16
Nhằm hạn chế rủi ro tài chính quốc gia: Một mục tiêu quan trọng mà kiểm
toán nợ công hướng tới là hạn chế rủi ro tài chính quốc gia. Trong khuôn khổ
kinh tế vĩ mô, kiểm toán nợ công giúp Nhà nước tìm cách đảm bảo quy mô và
tốc độ tăng nợ bền vững, duy trì khả năng thanh toán trong nhiều tình huống
khác nhau, trong khi vẫn đáp ứng được các mục tiêu về rủi ro và chi phí.
Đánh giá mục đích sử dụng các khoản nợ công: Thông qua kiểm toán nợ
công, có thể đánh giá một cách tổng thể về mục đích sử dụng các khoản vay nợ.
Các khoản vay nợ có được sử dụng đúng mục đích theo các quy định của pháp
luật hiện hành hay không. Chẳng hạn như quy định hiện hành, việc vay nợ chỉ
được sử dụng cho mục đích đầu tư, không sử dụng cho mục đích tiêu dùng.
Kiểm toán cần khẳng định rằng các khoản vay nợ đã đúng mục đích theo quy
định của pháp luật hiện hành.
Đánh giá khả năng trả nợ và nguồn để trả nợ: Thông qua đánh giá các chỉ
số về vay nợ, quản lý nợ, cơ quan KTNN đưa ra các đánh giá về khả năng thanh
toán của các khoản nợ công bao gồm nợ trực tiếp, các khoản nợ gián tiếp, nghĩa
vụ nợ dự phòng... cũng như việc xác định nguồn trả nợ để có hoạch định vay nợ
thích hợp trong trung hạn cũng như trong dài hạn. Chẳng hạn như qua kiểm toán,
KTNN đưa ra cảnh bảo về khả năng trả nợ của các tập đoàn kinh tế nhà nước đối
với các khoản vay về cho vay lại và các khoản bảo lãnh vay nợ của Chính phủ để
từ đó các cơ quan quản lý nợ, Chính phủ, cơ quan lập pháp có những biện pháp
thích ứng với những tình huống cụ thể.
Đánh giá công tác quản lý nợ đồng thời đưa ra các kiến nghị để quản lý tốt
hơn vay nợ: Kiểm toán công tác quản lý nợ công từ khâu xác định chiến lược
vay nợ; chính sách vay, trả nợ; mục đích sử dụng các khoản vay nợ; việc hạch



17
toán và báo cáo vay nợ. Cơ quan KTNN đưa ra đánh giá một cách độc lập về
công tác quản lý vay nợ công, đồng trhời đưa ra những cảnh báo về những thiếu
hụt trong công tác quản lý vay nợ và khuyến nghị về cải tiến công tác quản lý
vay nợ nhằm duy trì hệ thống quản lý vay nợ một cách hiệu quả. Những khủng
hoảng thị trường nợ trong những năm gần đây khuyến cáo chúng ta phải chú ý
đến tầm quan trọng của các biện pháp quản lý nợ phù hợp về một thị trường vốn
hợp lý và hiệu quả.
Đánh giá tính minh bạch và công khai thông tin về nợ và công tác quản lý
nợ công: Kiểm toán nợ công đảm bảo tính minh bạch và công khai thông tin về
nợ và các chính sách quản lý nợ, các vấn đề quan trọng trong hoạt động quản lý
nợ. Các mục tiêu về quản lý nợ cần phải được xác định rõ ràng và được công bố
công khai, việc áp dụng các biện pháp về chi phí, rủi ro cần phải được giải thích.
Việc công khai hóa một cách thường xuyên về nợ công cho phép Quốc hội, các
cơ quan chức năng, các chủ nợ và các đối tượng quan tâm khác có các thông tin
kịp thời để đánh giá liệu mức độ nợ có giữ ở tầm kiểm soát không, có khả năng
trả nợ không và có thể bảo đảm rằng các vấn đề tiềm ẩn trở nên rõ ràng. Kiểm
toán giúp cho Nhà nước, công chúng và các đối tượng quan tâm có số liệu tin
cậy về tình hình quản lý và sử dụng các khoản nợ công.
1.2.3 Nội dung kiểm toán nợ công

Theo hướng dẫn của INTOSAI, có 9 nội dung chủ yếu có thể thực hiện
kiểm toán nợ công cụ thể là: khuôn khổ pháp luật áp dụng cho quản lý nợ công,
tổ chức quản lý nợ công, xác định nhu cầu vay nợ công, chiến lược quản lý nợ
công, các hoạt động vay nợ, hệ thống thông tin nợ công, hoạt động dịch vụ nợ,
báo cáo nợ, rủi ro tài khóa chú trọng tới bảo lãnh khoản vay.
(1) Về kiểm toán khuôn khổ pháp luật áp dụng cho quản lý nợ công



18
Khuôn khổ pháp luật áp dụng cho quản lý nợ công là các quyền hợp pháp
mà Quốc hội ban hành dưới sự điều hành của Chính phủ liên quan tới nợ công.
Khuôn khổ pháp lý xác định rõ nghĩa vụ báo cáo, những hạn chế khi sử dụng
vốn vay, danh mục vay được duyệt, giới hạn về mức độ vay...Khuôn khổ pháp lý
được thể hiện dưới hình thức cơ bản là Hiến pháp, các văn bản luật được Quốc
hội thông qua và các văn bản dưới luật (quy định, nghị định, pháp lệnh...) được
Chính phủ ban hành.
Kiểm tra khuôn khổ pháp lý là cần thiết vì nó giúp SAI hiểu biết về môi
trường hoạt động liên quan đến nợ công. SAI có thể tiến hành kiểm toán nếu 5
yếu tố sau đây có mặt trong khuôn khổ pháp lý nợ công: Các bộ phận chuyên
trách của
Quốc hội, các cơ quan quản lý nợ, mục đích vay, mục tiêu chung và mục
tiêu quản lý nợ, nghĩa vụ báo cáo nợ.
(2) Về kiểm toán tổ chức quản lý nợ công
Hệ thống tổ chức quản lý nợ công có hiệu quả là hệ thống có quy định rõ
ràng nhiệm vụ và vai trò của các chủ thể tham gia quản lý nợ công, đồng thời
phải quy định rõ sự kiểm tra giám sát của các cấp, xác định rõ cơ chế phối hợp.
Sự thiếu phối hợp giữa các chủ thể tham gia quản lý nợ tạo ra nguy cơ là thông
tin về nợ không được báo cáo đầy đủ và không đáng tin cậy, và do đó khi hoạch
định chính sách có thể dẫn đến lạm vay, chi phí cao hơn khi vay.
SAI cần đánh giá hiệu quả cơ cấu tổ chức và các quy định về việc tổ chức
quản lý nợ liên quan tới 7 yếu tố chính của hệ thống tổ chức nợ công gồm: Chính
sách, quy định, nguồn lực, lưu trữ, phân tích, kiểm soát, và hoạt động.


19
(3) Về kiểm toán xác định nhu cầu vay nợ
Xác định khối lượng cần vay là một phần trong lập kế hoạch quản lý nợ.
Có bốn yếu tố cần phải biết: nợ đến hạn trong vòng một năm; ước tính thâm hụt

ngân sách năm tới; ước tính dự phòng; ước tính tài sản ròng bao gồm cả tiền mặt
và tài sản có thể chuyển thành tiền mặt vòng một năm. Với bốn yếu tố trên, các
nhà quản lý nợ sẽ biết chắc chắn số nợ đến hạn trong vòng một năm.
Chính phủ cần xác định chính xác nhu cầu vay vốn nhằm hạn chế việc đi
vay, đôi khi buộc phải cắt giảm ngân sách tránh gây ra khủng hoảng thanh khoản
dẫn tới vỡ nợ. Kiểm toán nhu cầu vay nợ đưa ra những khuyến nghị bổ ích để cải
thiện sự phối hợp giữa các cơ quan, hạn chế tối đa nhu cầu vay, tăng cường hiệu
quả thực hiện ngân sách và gia tăng lợi nhuận đầu tư tài chính.
Để đánh giá nhu cầu vay nợ, SAI cần kiểm toán những vấn đề sau đây:
Xác định đúng và đầy đủ nhu cầu vay; xác định độ tin cậy của dự phòng; ước
tính chính xác độ tin cậy của giá trị ròng của tài sản tương lai bao gồm tiền mặt.
(4) Về kiểm toán chiến lược quản lý nợ công Chiến lược quản lý nợ công
về cơ bản là một quá trình lặp đi lặp lại để xác định kinh phí tối ưu của chính phủ
dựa trên các yếu tố: Khả năng chịu đựng rủi ro, sự phát triển của thị trường tài
chính trong nước, khả năng thu hút tài trợ của khu vực chính phủ và tư nhân, các
giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Một chiến lược quản lý nợ bao gồm: Mô tả danh mục nợ trong bối cảnh
lịch sử của nó; môi trường tương lai để quản lý nợ; dự báo tài chính và nợ, giả
định về lãi suất và tỉ giá...Mô tả các phân tích để hỗ trợ chiến lược quản lý nợ,
làm rõ các giả định được sử dụng và hạn chế của việc phân tích. Lựa chọn đúng
chiến lược quản lý nợ cũng giống như việc đi đúng hướng để đạt mục tiêu.Nếu


20
quản lý nợ công chọn chiến lược quá nguy hiểm (như chỉ vay ngoại tệ) hoặc quá
tốn kém (như chỉ vay trong nước để tránh rủi ro tỉ giá) sẽ gây ra hậu quả lớn cho
ngân sách.
Các SAI nên tập trung kiểm toán các chiến lược nợ trung hạn để đánh giá
phù hợp với mục tiêu nợ quốc gia và các mục tiêu kinh tế - xã hội chung. Những
việc SAI cần làm khi đánh giá một chiến lược nợ: Xác định mục tiêu quản lý nợ

công và phạm vi; Xác định chiến lược nợ hiện tại, chi phí và rủi ro các khoản nợ
hiện tại; Xác định và phân tích các nguồn tài trợ tiềm năng; Xác định những
điểm cơ bản và rủi ro trong các chính sách quan trọng liên quan tới tài chính, tiền
tệ và thị trường; Xem xét các yếu tố cơ cấu dài hạn quan trọng.
(5) Về kiểm toán các hoạt động vay nợ
Hoạt động vay nợ công gồm một số hoạt động như: Chuẩn bị kế hoạch
vay nợ hàng năm phù hợp với chiến lược nợ của quốc gia, xác định các công cụ
vay tốt nhất... Hầu hết các chính phủ có thể vay tiền từ thị trường trong nước
hoặc từ nguồn quốc tế thông qua ODA và phát hành trái phiếu chính phủ. Các rủi
ro trong hoạt động vay nợ là các chính phủ không đạt được chi phí vay thấp nhất
theo thời kỳ.
Kiểm toán các hoạt động vay nợ sẽ bao gồm cả việc xem xét kế hoạch vay
nợ của chính phủ có phù hợp với mục tiêu nợ công và cần đánh giá việc quản lý
nợ quốc gia có: Duy trì và cập nhật đầy đủ các hướng dẫn cho các hoạt động
vay; Chuẩn bị kế hoạch vay hàng năm một cách thường xuyên và có tính toán;
Thường xuyên trao đổi với người cho vay và các nhà đầu tư; Phối hợp các hoạt
động vay với các chương trình sử dụng vốn; Minh bạch các thủ tục trong đấu giá
và phát hành tại thị trường trong và ngoài nước; Xác định sự tuân thủ pháp luật


21
và các quy định hiện hành; Điều phối tiền mặt và các hoạt động quản lý nợ hiệu
quả, tr7ánh chi phí cho việc lạm vay và rủi ro thanh khoản do hụt vay.
(6) Về kiểm toán hệ thống thông tin về nợ công
Hệ thống thông tin về nợ công bao gồm các thành phần nắm bắt, theo dõi,
phân tích và báo cáo kịp thời, đáng tin cậy các thông tin về nợ công của một
quốc gia. Hệ thống này là sự kết hợp của phần mềm, phần cứng, con người và hệ
thống thông tin hỗ trợ nhập dữ liệu, xử lý, lưu trữ và hoàn thiện các kết quả đầu
ra như các báo cáo quản lý danh mục nợ trong và ngoài nước.
SAI cần có sự hiểu biết về phạm vi, đặc điểm và cấu trúc của hệ thống

quản lý nợ, được khảo sát kỹ từ khâu lập kế hoạch để tổ chức đánh giá một cách
hiệu quả. Các đánh giá kiểm toán cần tập trung vào độ tin cậy của hệ thống.
(7) Về kiểm toán các dịch vụ nợ
Hoạt động dịch vụ nợ công là các hoạt động tài chính liên quan đến gốc,
lãi, tiền hoa hồng... như thanh toán nợ bằng tiền mặt, cơ cấu lại nợ như gia hạn
thanh toán gốc, thanh toán trước một phần hoặc toàn bộ nợ gốc, xóa nợ hoặc
hoán đổi nợ. Việc thực hiện các dịch vụ nợ công đòi hỏi sự tham gia tích cực của
một số cơ quan: các đơn vị quản lý nợ, các chủ nợ, Bộ Tài chính (Ngân sách và
Kho bạc), Ngân hàng Nhà nước...
Trả nợ đúng hạn là mục tiêu chính của hoạt động dịch vụ nợ.Một thành
phần quan trọng của hoạt động dịch vụ nợ là việc cập nhật cơ sở dữ liệu nợ đầy
đủ.Công cụ này là điều kiện cần thiết để thực hiện phân tích nguy cơ và thực
hiện quản lý nợ thận trọng.


22
Một số mục tiêu kiểm toán có thể thực hiện như sau: Xác định cơ sở dữ
liệu nợ công đầy đủ và chính xác để cung cấp thông tin đáng tin cậy; Xác định
lịch trình trả nợ bởi các cơ quan quản lý nợ DMUs; Xác định nợ có được trả
đúng theo hợp đồng vay; Kiểm tra các thông tin về nợ được cung cấp bởi các
DMUs để cơ cấu lại nợ.
(8) Về kiểm toán việc báo cáo nợ
Các cơ quan quản lý nợ phát hành nhiều báo cáo nợ. Tần suất và nội dung
của báo cáo sẽ thay đổi theo mục tiêu và đối tượng yêu cầu. Có những báo cáo
phát hành định kỳ như các báo cáo gửi WB, IMF… để phục vụ mục đích giám
sát và báo cáo tài chính hàng năm nộp cho cơ quan lập pháp. Ngoài ra, còn có
các báo cáo nợ nội bộ khác được thực hiện nhằm hoạch định chính sách để: (a)
chuẩn bị ngân sách nhà nước, (b) chuẩn bị các chiến lược nợ trung hạn và kế
hoạch vay hàng năm, (c) đàm phán tái cơ cấu nợ, (d) xác định các điều khoản và
điều kiện mua lại nợ và giao dịch hoán đổi nợ.

Phạm vi và mục tiêu kiểm toán đối với các loại báo cáo nợ tùy thuộc vào
chức năng, nhiệm vụ của từng SAI cụ thể nhưng có thể gồm: Đối với báo cáo tài
chính của chính phủ, SAI nên xác định xem con số nợ công đã được phản ánh
đầy đủ, chính xác hay chưa; đối với số liệu thống kê nợ công của các tổ chức cho
vay đa phương và song phương như WB và IMF, SAI cần đánh giá việc tổng hợp
số liệu có phù hợp các hướng dẫn về công bố thông tin đã được thoả thuận, kiểm
tra các điều khoản và điều kiện vay theo hợp đồng vay.
(9) Về kiểm toán rủi ro tài khóa đối với các bảo lãnh khoản vay
Rủi ro tài khóa với Chính phủ là khả năng trong một thời gian ngắn các
khoản vay cùng đồng thời đến hạn phải thanh toán. Rủi ro tài khóa có thể làm


23
giảm tăng trưởng kinh tế trong trung hạn, ảnh hưởng nghiêm trọng tính bền vững
nợ và tính linh hoạt tài chính.
Do tính chất đa dạng của các rủi ro, không có một phương pháp tiếp cận
kiểm toán duy nhất để SAI kiểm tra và đánh giá tất cả các rủi ro tài khóa. Thông
thường việc kiểm toán chi tiết bảo lãnh vay, đặc biệt là các khoản dự phòng là
lựa chọn phổ biến nhất. SAI thường xem xét các điều kiện để phát hành bảo lãnh
có được đáp ứng đầy đủ; các rủi ro về tín dụng và ngân sách có được xem xét khi
quyết định bảo lãnh, việc thực hiện giám sát theo các thông lệ tốt nhất với các
khoản bảo lãnh.
1.2.4 Hình thức kiểm toán nợ công

Kiểm toán ngân sách
Một trong các hình thức của kiểm toán nợ công là kiểm toán ngân sách.
Bỡi lẽ trong bản thân các khoản thu, chi trong ngân sách cũng hàm chứa một
phần từ vay nợ. chính vì thế cần tiến hành kiểm toán ngân sách nhà nước để
quản lý tốt không chỉ với nợ công mà cò tránh lãng phí ngân sách và sử dụng
ngân sách có hiệu quả.

Dựa theo chu trình của ngân sách nhà nước ta có thể chia kiểm toán nhà
nước ra là hai loại: kiểm toán dự toán ngân sách nhà nước( kiểm toán trước) và
kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước( kiểm toán sau)
Kiểm toán trước: Cơ quan KTNN tham gia với tư cách là cơ quan tài
chính độc lập nhằm đánh giá tính kinh tế, tính khoa học , tính khả thi của dự toán
ngân sách hàng năm trước khi đệ trình cho quốc hội phê duyệt.KTNN có thể
tham gia vào thực hiện công tác kiểm toán dự toán ngân sách trong một số quy
trình sau:


24
Tham gia kiểm tra, tư vấn trong lập dự toán ngân sách địa phương.Cụ thể:
tư vấn cho Bộ ngành địa phương về dự báo khả năng thu, thứ tự ưu tiên của các
khoản chí mang tính chiến lược; tham gia đàm phán ngân sách với cơ quan chức
năng . Bên cạnh đó, bằng việc tham gia lập dự toán cho cơ quan tại địa phương
KTNN có thể kiểm tra được quy trình lập dự toán của các Bộ ngành tại địa
phương, tính hợp lý của các khoản chi và thứ tự ưu tiên của chúng. Cũng trong
công tác kiểm toán dự toán ngân sách tại địa phương KTNN có thể các căn cứ
cho công tác sau này tại các cơ quan chức năng, chính phủ và quốc hội sau này.
Cùng với Bộ tài chính thực hiện lập dự toán cho ngân sách trung ương
bằng cách tham gia vào một số công việc sau:Tính toán các khoản thu xem có
phù hợp với tốc độ tăng trưởng kinh tế dự báo hay không; từ các kinh nghiệm
thu được trong quá trình lập dự báo tại đại phương và các cơ quan khác: KTNN
góp ý với Bộ Tài chính về việc bố trí các khoản chi theo thứ tự ưu tiên và mục
tiêu , chiến lược phát triển. tham gia công tác lập phương án huy động vốn bù
đáp thâm hụt; đưa ra các ý kiến phản biệt trên các phương diện của bản dự toán
ngân sách mà bộ tài chính đã lập. Tham gia thẩm định, đánh giá bản dự toán
ngân sách mà chính phủ trình lên quốc hội: trong vai trò của mình KTNN nước
bắt buộc phải trình lên quốc hội ý kiến của mình về bản dự toán Ngân sách trên
những khía cạnh: trình tự của bản dự toán ngân sách; tính khả thi và phù hợp của

các khoản ch ngân sách; đánh giá tính cần thiết , mức độ ưu tiên, tính kinh tế và
tính phù hợp của các khoản chi cho các chương trình và dự án quốc gia ; phân bổ
dự toán thu chi cơ cấu thu chi và mức thâm hụt ngân sách; mức huy động từ nội
lực nền kinh tế trong dự toán, phân bổ ngân sách cho đầu tư, cơ cấu cho chi
thường xuyên và chi đầu tư ,chi trả nợ…; về các giải pháp của chính phủ trong
công tác tố chức thực hiện dự toán Ngân sách.


25
Mục tiêu của công tác kiểm toán trước nhằm kiểm soát quy trình soạn lập,
phân bổ dự toán ngân sách kinh tế khoa học, phù hợp với điều kiện thức tế , tập
trung tốt cho đầu tư phát triển, tạo điều kiện cho bản dự toán ngân sách là căn cứ
vững chắc, định hướng cho quy trình thu chi đúng mục tiêu, hạn chế bội thu
ngân sách qua đó giảm số dư nợ công đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý ngân
sách.
Kiểm toán sau: Trong công tác kiểm toán quyết toán NSNN vai trò của
KTNN là đặc biệt quan trọng: KTNN thực hiện các công tác sau trong cả quá
trình quyết toán của ngân sách trung ương cũng như ngân sách địa phương;
Kiểm tra tính hợp lệ và tính đầy đủ của hồ sơ quyết toán trên các phương diện;
Kiểm tra tính chính xác và tính hợp lý của báo cáo quyết toán ngân sách địa
phương…
Từ đó đánh giá tính trung thực trong các khoản chi ngân sách tránh cho
các cá nhân tư lợi biến của cải toàn dân thành của riêng. Đồng thời cũng quản lý
tốt các khoản thu tránh thất thoát ngân sách gây mất công bằng xã hội
Bên cạnh đó một trong những căn cứ bắt buộc để xem xét các quyết toán
trong ngân sách địa phương là báo cáo của KTNN về kiểm toán quyết toán Ngân
sách địa phương; bên cánh đó theo nghị quyết số 387/2003/NQ-UBTVQH , một
trong các tài liệu mà chính phủ bắt buộc phải trình quốc hội có báo cáo của
KTNN về kết quả quyết toán NSNN. Báo cáo này cùng với báo cáo quyết toàn
NSNN phải được gửi tới UBKT&NS, Hội đồng dân tộc, các Uỷ bân khác chậm

nhất là 14 ngày sau khi năm ngân sách kết thúc.
Qua kiểm toán báo cáo quyết toán NSNN, KTNN còn cung cấp cho người
đọc báo cáo kiểm toán thông tin về nợ công, tuy nội dung này không thuộc quyết


×