Tải bản đầy đủ (.docx) (60 trang)

Giải pháp nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu của việt nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (841.08 KB, 60 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT GIẢI
GIẢI THƯỞNG” TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ VIỆT NAM”
NĂM 2015

TÊN CÔNG TRÌNH:

Giải pháp nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu

Thuộc nhóm ngành khoa học: Kinh doanh quản lý 2

GV hướng dẫn: TH.S Lê Tuấn Anh
Nhóm sinh viên thực hiện:
1.
2.
3.
4.

Nguyễn Thị Thanh Bình – KTQT 54C
Phạm Thu Hường – KTQT 54C
Phạm Thanh Phương Ngọc – KTQT 54C
Lê Hoàng Yến – KTQT 54C

Hà Nội, 2015
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


2



ADMM+
AEC
ARF
ASEAN
ASEM
BNN
CIF
CP
EAS
EC
EEU
EU
FAS/USDA
FDI
FTA
GDP
NQ

R&D
TPP
UAE
USD
VICOFA
VND
WTO

Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng
Cộng đồng kinh tế ASEAN
Diễn đàn khu vực ASEAN

Hiệp hội các nước Đông Nam Á
Diễn đàn hợp tác Á- Âu
Bộ Nông nghiệp
Giá thành, phí bảo hiểm, phí vận chuyển
Chính Phủ
Hội nghị cấp cao Đông Á
Ủy ban Châu Âu
Liên minh kinh tế Á – Âu
Liên minh Châu Âu
Cơ quan Nông nghiệp nước ngoài thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Hiệp định thương mại tự do
Tổng sản phẩm quốc nội
Nghị quyết
Quyết định
Nghiên cứu và phát triển
Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương
Các tiểu vương quốc Ả rập thống nhất
Đồng Đô la Mỹ
Hiệp hội Cà phê Ca cao Việt Nam
Việt Nam đồng
Tổ chức thương mại thế giới

DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
Sơ đồ 1-1: Mô hình chuỗi giá trị của Michael Porter.............................9
Sơ đồ 1-2: Bốn mắt xích trong chuỗi giá trị giản đơn...........................10
Sơ đồ 1-3: Chuỗi giá trị toàn cầu.........................................................12
Sơ đồ 1-4: Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu..........................................13
Sơ đồ 2-1: Các công đoạn trong chuỗi giá trị cà phê toàn cầu..............36
Sơ đồ 2-2: Giá trị gia tăng ở các khâu của chuỗi giá trị cà phê .................38

Bảng 2-1: Tình hình xuất khẩu cà phê của Brazil.................................24


3

Bảng 2-2: Vị trí của Brazil trong xuất khẩu cà phê thế giới..................25
Bảng 2-3: Tình hình xuất, nhập khẩu nông lâm thủy sản toàn ngành năm
2013......................................................................................................32
Bảng 2-4: Xuất khẩu cà phê các loại sang Hoa Kỳ................................44
Bảng 2-5: Giá cà phê Robusta tại một số khu vực trồng cà phê chính của
Việt Nam mùa vụ 2012/13....................................................................46
Biểu đồ 2-1: Tình hình xuất khẩu nông sản giai đoạn 2009-2014.........31
Biểu đồ 2-2: Kim ngạch xuất khẩu 10 mặt hàng chính của Việt Nam năm
2014......................................................................................................34
Biểu đồ 2-3: Sản lượng hai loại cà phê Robusta và Arabica của Việt
Nam......................................................................................................40
Biểu đồ 2-4: Tỷ trọng tham gia sản xuất cà phê của Việt Nam trong chuỗi
các nhà sản xuất cà phê chính của thế giới...........................................41
Biểu đồ 2-5: Sự tham gia của Việt Nam trong tổng giá trị xuất khẩu của
các nước xuất khẩu cà phê chính................................................................43
Biểu đồ 2-6: Tỷ trọng tiêu dùng cà phê của các nước xuất khẩu
chính....................................................................................................45

MỤC LỤC


4

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Tự do hoá thương mại hàng nông sản đang đang diễn ra với mức độ
ngày càng tăng. Phân công lao động trong chuỗi giá trị hàng nông sản
toàn cầu ngày càng sâu sắc với mức độ chuyên môn hoá ngày càng cao từ
khâu Nghiên cứu và phát triển (R&D) sản phẩm, sản xuất sản phẩm đến
marketing và phân phối sản phẩm. Các nước tham gia vào chuỗi giá trị
hàng nông sản đang tìm cách để thâm nhập vào những khâu tạo ra giá trị
nhiều nhất đó là các khâu nghiên cứu, phát triển và phân phối marketing.
Trong những năm gần đây nhiều nước đang phát triển đã từng bước cải
thiện được vị trí của mình trong chuỗi giá trị toàn cầu, tham gia vào
những công đoạn tạo ra giá trị nhiều hơn. Thực tế cho thấy, tham gia vào
chuỗi giá trị toàn cầu đang là xu thế phổ biến hiện nay và sự tham dự này
mang lại lợi ích kinh tế và xã hội to lớn, kể cả đối với các nước đang và
kém phát triển.
Là một nước có nhiều lợi thế trong sản xuất nhiều mặt hàng nông
sản nhiệt đới, Việt Nam đang có vị trí ngày càng quan trọng trong thị
trường hàng nông sản thế giới. Hiện tại, Việt Nam đang là một trong
những nước xuất khẩu nông sản lớn trong khu vực và thế giới với nhiều
sản phẩm đặc trưng như cà phê, điều, hồ tiêu, chè, gạo. Tuy nhiên, trong
quá trình phát triển, nông nghiệp Việt Nam đã bộc lộ những lỗ hổng lớn
trong dây chuyền sản xuất, công nghệ sau thu hoạch, chất lượng và vệ sinh
an toàn thực phẩm.Vì vậy, dù là một trong những quốc gia hàng đầu xuất
khẩu nông sản, nhưng tính bền vững trong sản xuất chưa cao, đang bộc lộ
những khiếm khuyết lớn từ giống, kỹ thuật, chăm sóc cho đến thu hoạch,
chế biến sau thu hoạch và tiêu thụ. Nông sản của Việt Nam đã tham gia
vào chuỗi giá trị toàn cầu nhưng mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp đầu vào
là nông sản thô, trong khi giá trị gia tăng đối với hàng nông sản lại chủ
yếu do khâu chế biến, bao gói và hoạt động thương mại. Hay nói cách



5

khác, Việt Nam mới tham gia được ở khâu tạo ra giá trị ít nhất trong
chuỗi giá trị toàn cầu.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng nói trên là do sự lạc hậu về
công nghệ trước và sau thu hoạch, trình độ hạn chế của những tác nhân
tham gia chuỗi từ khâu sản xuất, chế biến đến khâu marketing, phân phối
và tiêu thụ. Bên cạnh đó, các yếu tố tạo môi trường cho sự tham gia hiệu
quả vào chuỗi như dịch vụ hỗ trợ, cơ sở hạ tầng còn hạn chế. Các chính
sách của Nhà nước đối với phát triển nông nghiệp như chính sách đất đai,
chính sách phát triển thương mại hàng nông sản... còn nhiều bất cập. Mặt
khác, trong tư duy phát triển, chúng ta quá chú trọng đến sản lượng, số
lượng mà chưa chú trọng đúng mức đến giá trị gia tăng. Chính vì vậy,
thay vì tiếp cận sản lượng, vấn đề tiếp cận giá trị gia tăng đang trở thành
yêu cầu cấp thiết. Sau khi trở thành quốc gia xuất khẩu nông, lâm, thuỷ
sản lớn về lượng, đã đến lúc chúng ta cần chiếm lĩnh vị trí cao về chất,
tăng hàm lượng giá trị gia tăng của sản phẩm, nâng cao thu nhập người
nông dân.
Với mục đích như vậy,nhóm đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu
khoa học: “ Giải pháp nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu của
Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu”.
2.
a.

Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là chuỗi giá trị nông sản toàn

cầu và vị thế của nông sản Việt Nam điển hình là cà phê trong chuỗi giá trị
trong giai đoạn 2009-2014.

b.

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: nông sản xuất khẩu, trong phạm vi cả nước.

3.

Mục đích nghiên cứu


6

Mục tiêu chung của đề tài nhằm đóng góp về mặt lý thuyết: xây
dựng cơ sở lý luận xác định cách tiếp cận hiệu quả đến các khâu của chuỗi
giá trị trong xuất khẩu nông sản.
Mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất: nâng cao nhận thức của các nhà hoạch định chính
sách và các nhà quản lý về tầm quan trọng của việc tham gia vào chuỗi
giá trị toàn cầu, qua đó có những bước đi và quyết sách phù hợp nhằm
tăng cường phát huy các lợi thế cạnh tranh của ngành và nâng cao
năng lực cạnh thanh quốc gia trong bối cảnh hội nhập ngày càng sâu
vào nền kinh tế thế giới.
Thứ hai: phân tích, xác định những cơ hội cho doanh nghiệp
Việt Nam và thách thức mà họ phải đương đầu khi tham gia sâu hơn
vào các khâu của chuỗi giá trị toàn cầu, tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn
và mang về nhiều lợi ích kinh tế hơn cho đất nước trong điều kiện thực
thi các cam kết WTO.
Thứ ba: rút ra các bài học thực tế từ việc nghiên cứu cụ thể
trường hợp ngành nông nghiệp Việt Nam, đề xuất định hướng các giải
pháp giúp các ngành, các doanh nghiệp tiến xa hơn, hiệu quả hơn

trong chuỗi giá trị toàn cầu của ngành.
4.

Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính và thu thập
thông tin, nghiên cứu, tham khảo tài liệu, số liệu từ sách, báo, các
nghiên cứu của luận văn của các thạc sĩ, giáo sư của Việt Nam và quốc
tế.

5.

Kết cấu của đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục
bảng biểu và danh mục các từ viết tắt đề tài được chia thành ba phần
chính, tương ứng với ba chương như sau:


7

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về việc tham gia vào chuỗi
giá trị nông sản toàn cầu.
Chương 2: Thực trạng tham gia vào chuỗ giá trị nông sản toàn
cầu của Việt Nam 2009-2014
Chương 3: Giải pháp nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu
của Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC THAM GIA VÀO
CHUỖI GIÁ TRỊ NÔNG SẢN TOÀN CẦU
1.1.


Chuỗi giá trị toàn cầu
1.1.1.

Khái niệm về chuỗi giá trị

Khái niệm về chuỗi giá trị
Chuỗi giá trị theo Michael Porter
Chuỗi giá trị là một khái niệm được Micheal Porter đưa ra
trong cuốn “ Lợi thế cạnh tranh: Sáng tạo và duy trì năng lực vượt
trội” vào năm 1985. Mô hình chuỗi giá trị của ông được áp dụng
trong phân tích nội bộ doanh nghiệp, cho thấy hoạt động chuỗi giá
trị liên kết cùng nhau để cuối cùng tạo ra giá trị cho người tiêu dùng.
Các sản phẩm thông qua các hoạt động đó theo đúng trật tự, và tại
mỗi hoạt động sản phẩm lại tăng thêm giá trị. Chuỗi giá trị của
Michael Porter mang lại bức tranh tổng thể về các hoạt động chính
yếu cũng như hỗ trợ của doanh nghiệp.


8

Sơ đồ 1-1: Mô hình chuỗi giá trị của M. Porter
Nguồn: M.Porter, 1985.

Lợi nhuận của doanh nghiệp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp thực
hiện các hoạt động trên như thế nào. Doanh nghiệp có khả năng gia tăng
thêm gia trị thông qua các lợi thế về chi phí hoặc sự khác biệt. Điều quan
trọng là doanh nghiệp cần xác định được những hoạt động cụ thể nào cần
phải được tập trung để đạt được lợi thế cạnh tranh bền vững.
Phương pháp tiếp cận toàn cầu của Kaplinsky và Morris năm 2001

Nếu như khái niệm chuỗi giá trị được đề cập bởi Michael Porter,
1985 chỉ tập trung nghiên cứu trong phạm vi quy mô doanh nghiệp thì
đến năm 2001, Kaplinsky và Morris trong cuốn “ A handbook for value
chain research” đã mở rộng khái niệm chuỗi giá trị.
“Chuỗi giá trị mô tả toàn bộ những hoạt động cần thiết để đưa một
hoạt động hay dịch vụ từ khái niệm đi qua những công đoạn sản xuất
khác nhau (liên quan đến việc kết hợp giữa chuyển hóa vật chất và đầu
vào các dịch vụ sản xuất khác nhau), đưa đến người tiêu dùng sau cùng,
và bố trí sau sử dụng.”
Theo các tác giả, có hai loại chuỗi giá trị là chuỗi giá trị giản đơn
và chuỗi giá trị mở rộng. Chuỗi giá trị đơn giản gồm bốn mắt xích cơ bản:


9

Sơ đồ 1-2. Bốn mắt xích trong một chuỗi giá trị đơn giản
Nguồn: Sổ tay nghiên cứu chuỗi giá trị Raphael Kaplinsky và Mike Morris
Thực tế, chuỗi giá trị phức tạp hơn nhiều với nhiều mắt xích hơn
tạo nên chuỗi giá trị mở rộng.
1.1.2.

Khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng thì
các mối quan hệ gắn kết, tác động phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia,
khu vực không ngừng được gia tăng và mở rộng. Quá trình tự do hóa
thương mại đã xóa bỏ dần các rào cản giữa các nước, thúc đẩy các hoạt
động mua bán trao đổi hàng hóa dịch vụ mang lại lợi ích cho các bên.
Nhờ vậy, chuỗi giá trị đã hình thành trước đó ở một quốc gia nay được
mở rộng, vượt ra khỏi biên giới của quốc gia đó và được tiếp nối ở một

quốc gia khác. Việc mở rộng quy mô với nhiều chủ thể tham gia hơn của
chuỗi giá trị mang lại giá trị và lợi nhuận cao hơn.
Xuất phát từ cơ sở trên và theo cách tiếp cận toàn cầu của
Kaplinsky và Morris, khái niệm chuỗi giá trị toàn cầu có thể được hiểu
như sau:
Chuỗi giá trị toàn cầu là một chuỗi giá trị có quy mô trên phạm vi
toàn cầu. Nói một cách khác, các chủ thể tham gia vào các công đoạn của
chuỗi giá trị từ khâu nghiên cứu, thiết kế, sản xuất, tiếp thị đến phân phối,


10

hỗ trợ khách hàng có thể ở nhiều nước khác nhau. Thậm chí, ngay tại mỗi
công đoạn cơ bản nói trên có thể có nhiều tác nhân cùng tham gia đảm
nhiệm từng phần nhỏ. Chẳng hạn như công đoạn phân phối sản phẩm có
thể có sự tham gia đồng thời của nhiều nước tạo nên mạng lưới phân
phối rộng khắp trên toàn cầu.
Ngược lại, một tác nhân cũng thể tham gia vào cả khâu đầu vào
khâu cuối của chuỗi giá trị. Điều này có nghĩa là một tác nhận có thể
tham gia vào khâu nghiên cứu phát triển sản phẩm, đảm nhiệm một công
đoạn nhỏ trong quá trình sản xuất sản phẩm và cũng có thể tham gia cả
khâu phân phối.
Hình dưới đây mô tả giá trị gia tăng tạo ra được ở từng công đoạn
trong chuỗi giá trị

Sơ đồ 1- 3: Chuỗi giá trị toàn cầu
Nguồn: Bùi Đức Tuấn (2012) “Tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu
trong điều kiện thực thi các cam kết WTO : Trường hợp ngành nông
nghiệp Việt Nam”



11

Từ hình vẽ trên có thể nhận thấy rằng giá trị gia tăng tạo ra ở mỗi
công đoạn trong chuỗi giá trị là khác nhau. Cụ thể, các công đoạn tạo ra
nhiều giá trị gia tăng là nghiên cứu, phát triển sản phẩm (R&D), thiết kế
sản phẩm, phân phối và marketing. Ngược lại khâu lắp ráp và sản xuất
mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong cả chuỗi giá trị. Vì vậy, các quốc
gia, nền kinh tế hàng đầu thế giới sở hữu nhiều công nghệ, bằng phát
minh sáng chế lớn nên họ là những người nắm giữ phần lớn giá trị tạo ra
và lợi nhuận của chuỗi giá trị. Các nước đang phát triển với lợi thế về
nhân công giá rẻ thường được chọn làm địa điểm để tiến hành các hoạt
động lắp ráp sản xuất. Đây không chỉ là cơ hội mà còn là thách thức với
các nước đang phát triển khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Tóm lại, việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu là một xu hướng
tất yếu của tất cả các quốc gia, nền kinh tế trên thế giới. Tuy rằng việc
chia sẻ lợi ích giữa các công đoạn là chưa đồng đều nhưng chuỗi giá trị
toàn cầu vẫn đang đóng vai trò như một cầu nối gia tăng sự liên kết, phụ
thuộc giữa các quốc gia.
1.1.3.

Các dạng chuỗi giá trị toàn cầu

Trong tác phẩm “The global apparel value chain: What prospects
for upgrading by developing countries” Gary Gereffi đã đưa hai loại chuỗi
giá trị khác nhau cơ bản, đó là chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối
(producer-driven) và chuỗi giá trị do người mua chi phối (buyer-driven)
Chuỗi giá trị do người sản xuất chi phối là chuỗi giá trị mà các công
ty đa quốc gia, có quy mô lớn đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống sản
xuất (bao gồm cả liên kết xuôi và liên kết ngược). Đây là đặc điểm điển

hình của những ngành thâm dụng vốn, đòi hỏi hàm lượng công nghệ cao
như là điện thoại di động, ô tô, máy bay, máy tính, sản phẩm bán dẫn và
máy móc công nghiệp.
Chuỗi giá trị do người mua chi phối là chuỗi giá trị mà các nhà bán
lẻ lớn, các nhà marketing và những nhà sản xuất có thương hiệu đóng vai
trò then chốt trong việc thiết lập mạng lưới sản xuất phi tập trung ở


12

những nước xuất khẩu, đặc biệt là các nước đang phát triển. Loại chuỗi
này phổ biến ở những ngành hàng thâm dụng lao động, sản xuất hàng
tiêu dùng như dệt may, giày dép, đồ chơi, đồ thủ công và sản phẩm điện
dân dụng. Các nhà thầu của các nước thế giới thứ ba đảm nhận sản xuất
các sản phẩm cuối cùng cho những người mua nước ngoài. Những nhà
bán lẻ lớn sẽ đặt hàng cung cấp các sản phẩm với những đặc tính rõ ràng.
Các công ty tham gia vào kiểu chuỗi giá trị do người mua chi phối
này thường chủ yếu tiến hành các hoạt động thiết kế và marketing mà
không sản xuất. Trong chuỗi giá trị do người mua chi phối, lợi nhuận chủ
yếu đến từ sự kết hợp giữa các nghiên cứu giá trị cao, thiết kế, bán hàng,
marketing và các dịch vụ tài chính. Điều này cho phép các nhà bán lẻ, nhà
thiết kế, nhà marketing đóng vai trò như các trung gian liên kết các nhà
máy và các thương nhân trên toàn cầu với những sản phẩm phù hợp với
thị trường tiêu thụ chính của họ. Lợi nhuận thu được lớn nhất ở những
công đoạn mà có rào cản gia nhập cao đối với các công ty mới.
Trong chuỗi giá trị do nhà sản xuất chi phối, những nhà sản xuất
các loại sản phẩm tiến bộ có khả năng kiểm soát các liên kết ngược với
những nhà cung cấp các nguyên vật liệu thô các bộ yếu tố bộ phận của
sản phẩm và cả những liên kết xuôi trong việc phân phối và bán lẻ. Những
công ty dẫn đầu trong chuỗi thường thuộc về độc quyền nhóm quốc

tế.Trái lại, chuỗi giá trị do người mua chi phối được đặc trưng bởi tính
cạnh tranh cao và hệ thống nhà xưởng phi tập trung toàn cầu với rào cản
gia nhập thấp.
Những nhà sản xuất lớn kiểm soát chuỗi giá trị do nhà sản xuất chi
phối tại quá trình sản xuất trong khi những nhà marketing, bán hàng là
“đòn bẩy chính” trong chuỗi giá trị do người mua chi phối tại công đoạn
thiết kế và bán lẻ.
1.1.4.

Các hình thức tham gia chuỗi giá trị toàn cầu

Một chủ thể có tham gia vào khâu đầu cũng như khâu cuối của
chuỗi giá trị, nghĩa là có thể tham gia vào khâu thiết kế, nghiên cứu phát


13

triển sản phẩm, sản xuất hay phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Có hai hình
thức tham gia vào chuỗi giá trị đó là tham gia trực tiếp và tham gia gián
tiếp.
1.1.4.1.

Tham gia trực tiếp

Một chủ thể tham gia trực tiếp vào chuỗi giá trị khi chủ thế đó thực
hiện hoat động tạo ra một phần của sản phẩm hoặc dịch vụ mà chuỗi giá
trị cần có. Điều này có nghĩa là chủ thể tham gia vào một khâu của chuỗi
giá trị phải tạo ra giá trị gia tăng cho chuỗi tại một địa điểm nào đó và
với một chi phí nào đó được chuỗi sản phẩm thừa nhận.
Việc tham gia trực tiếp vào chuỗi giá trị toàn cầu có thể được thực

hiện bằng việc sản xuất và cung cấp các bộ phận cấu thành của sản phẩm.
Ví dụ như, trong chuỗi giá trị công nghiệp xe hơi có nhiều hoạt động sản
xuất phụ trợ như sản xuất linh kiện phụ tùng như gương, kính, săm lốp,
ắc quy... Việt Nam cũng đang tham gia sản xuất các loại sản phẩm phụ
tùng nhưng số lượng còn quá ít, chủng loại sản phẩm nghèo nàn và công
nghệ chưa cao.
Như vậy, nếu các doanh nghiệp ở các quốc gia có thể nắm bắt được
tốt các nhu cầu và đi sâu vào sản xuất các bộ phận cấu thành của sản
phẩm dựa trên khả năng của mình với chất lượng tốt và giá cả cạnh
tranh thì có thể đạt được thành công trong việc tham gia vào chuỗi giá
trị. Hơn nữa, việc đầu tư cho việc sản xuất các sản phẩm phụ trợ sẽ mất ít
thời gian và đỡ tốn kém hơn việc đầu tư để sản xuất toàn bộ sản phẩm,
làm giảm rủi ro mà giá trị gia tăng thu được cũng rất đáng kể.
1.1.4.2.

Tham gia gián tiếp

Qui mô thị trường ở một quốc gia là rất hạn chế vậy nên để phát
triển thị trường và mở rộng qui mô sản xuất thì việc tăng chi phí cho
mạng lưới phân phối sản phẩm trên qui mô toàn cầu của các công ty đa
quốc gia là cần thiết. Quá trình này sẽ thành nhiều kênh phân phối tại
nhiều địa phương ở các quốc gia khác nhau. Tại mỗi kênh sẽ có các “đại lý
phân phối sản phẩm” của các công ty lớn. Vì vậy, đây là cơ hội để các


14

doanh nghiệp tại nước sở tại có thể tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở
công đoạn phân phối sản phẩm tại chính quê hương mình. Phương thức
này được xem là gián tiếp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Do qui mô rộng lớn của thị trường toàn cầu nên hiện nay vẫn còn
nhiều khoảng trống trong hệ thống thương mại, phân phối sản phẩm mà
các công ty, tập đoàn đa quốc gia chưa vượt qua được. Vậy nên, đây sẽ là
cơ hội lớn cho những quốc gia có quan hệ kinh tế với các công ty này để
có thể tham gia vào phần thương mại của chuỗi trên lãnh thổ nước mình.
Tuy nhiên, bản thân quốc gia cũng cần phải có sự chủ động trong việc
liên kết với các công ty chi phối hệ thống thương mại của các tập đoàn
kinh tế nắm chuỗi giá trị đó, đồng thời chủ động tạo những điều kiện
thuận lợi để hình thành tổ chức phân phối sản phẩm của tập đoàn với chi
phí hợp lí, những điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi.
1.1.5.

Lợi ích khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu

Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập ngày càng sâu rộng thì
một doanh nghiệp hay một quốc gia khó có thể tồn tại độc lập được. Việc
các quốc gia, doanh nghiệp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu không
phải chỉ chi do đó là một xu hướng tất yếu mà còn bởi những lợi ích mà
nó mang lại.
Thứ nhất, việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu nâng cao tính
chuyên môn hóa trong quá trình sản xuất của các nước nói chung cũng
như các doanh nghiệp nói riêng. Trong chuỗi giá trị, mỗi nước đảm nhiệm
một hoặc một số công đoạn nào đó chẳng hạn như nước thì tham gia vào
công đoạn thiết kế, nghiên cứu phát triển sản phẩm, nước thì đảm nhận
vai trò sản xuất hay phân phối sản phẩm. Thông qua quá trình phân công
lao động quốc tế này, mỗi nước sẽ phát triển một kĩ năng hiệu quả nào đó
từ đó biến kĩ năng thành lợi thế của mình.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Việc
tham gia vào chuỗi sẽ giúp cho doanh nghiệp giảm bớt rủi ro, giảm chi
phí, tận dụng tốt các thế mạnh của mình từ đó nâng cao được chất lượng



15

sản phẩm, dịch vụ tối đa hóa doanh thu và từ đó thu được mức lợi nhuận
cao hơn.
1.1.6. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
1.1.6.1.
Nhóm yếu tố khách quan

-

Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế: là một xu thế tất yếu mà thông qua việc
kí kết các hiệp định song và đa phương, sự tham gia vào các tổ chức,diễn
đàn khu vực và toàn cầu thì “biên giới mềm’ giữa các quốc gia đang dần
được xóa bỏ. Mối quan hệ giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ với sự
đan xen của trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và lợi ích. Từ đó, chuỗi giá
trị các sản phẩm, dịch vụ ngày càng được mở rộng và có sự tham gia của

-

nhiều tác nhân.
Nhu cầu của thị trường: khả năng phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu
chịu sự tác động lớn của nhu cầu thị trường toàn cầu. Khi nhu cầu thị
trường càng lớn, khả năng đáp ứng tại chỗ của các nhà sản xuất trong
nước không đủ nên sẽ có xu hướng lôi kéo sự tham gia của các nhà sản
xuất nước ngoài vào thị trường.. Hơn nữa, trong bối cảnh toàn cầu hóa
mỗi quốc gia đều có thể có cơ hội thâm nhập vào thị trường tiêu thụ của

-


nước khác để đáp ứng những nhu cầu ngày càng đa dạng trên toàn cầu.
Sức ép cạnh tranh toàn cầu: Với việc sức ép cạnh tranh ngày càng gia
tăng, các doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh cũng
như hiệu quả kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển. Việc chia sẻ các
khâu trong quá trình sản xuất vừa góp phần làm giảm rủi ro vừa giúp các
doanh nghiệp tận dụng thế mạnh của mình, giảm được chi phí thông qua

-

việc chuyên môn hóa các công đoạn sản xuất.
1.1.6.2. Nhóm yếu tố chủ quan
Năng lực của các đơn vị sản xuất kinh doanh: Việc tham gia vào chuỗi giá
trị có thành công hay không phụ thuộc vào năng lực của các chủ thể
tham gia. Trong môi trường kinh doanh toàn cầu, các doanh nghiệp cần
phải trang bị cho mình những năng lực cơ bản cả về khía cạnh trang thiết
bị, trình độ lao động, trình độ quản lý. Nếu không doanh nghiệp có thể
phải chịu nhiều thua thiệt về lợi ích khi tham gia vào các khâu của chuỗi

-

giá trị toàn cầu
Chính sách của địa phương/ quốc gia: Như đã trình bày ở trên quá trình
hội nhập đã thúc đẩy việc các quốc gia, các doanh nghiệp tham gia vào


16

chuỗi giá trị toàn cầu. Vậy nên các chính sách đối ngoại, lộ trình hội nhập
của một quốc gia có tác động lớn tới việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn

cầu. Các chính sách ở tầm vĩ mô hướng các doanh nhà sản xuất, kinh
doanh đến các chuỗi giá trị toàn cầu thích hợp, tạo điều kiện để có thể tận
dụng những lợi thể của quốc gia. Những chính sách phù hợp sẽ góp phần
tăng cơ hội thành công và giảm bớt rủi ro cho các doanh nghiệp khi tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
1.2. Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
1.2.1. Khái niệm chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu là một hệ thống các hoạt động
nhằm cung cấp giá trị cho khách hàng. Các hoạt động này bao gồm các
khâu từ nghiên cứu, triển khai, thiết kế, sản xuất, phân phối và marketing.
Chuỗi giá trị đối với hàng nông sản có sự khác biệt đối với hàng
công nghiệp ở các điểm sau: (i) Thiết kế thuộc khâu R&D; sản xuất tách
thành hai khâu là nuôi, trồng và chế biến, (ii) Giá trị gia tăng được tạo ra
trong khâu chế biến cao hơn so với khâu nuôi, trồng; (iii) Sự phân bố địa
điểm nuôi, trồng phụ thuộc nhiều vào điều kiện khí hậu- tự nhiên; (iv)
Tính không đồng đều giữa các chủ thể tham gia vào chuỗi và độ lớn của
mỗi chuỗi bị hạn chế do các rào cản khi tham gia; vv. Với những khác biệt
này, chuỗi giá trị nông sản cần được nghiên cứu dưới góc độ và bằng
những phương pháp khác với hàng công nghiệp và các ngành hàng khác.
Sản xuất nông sản là một lĩnh vực sản xuất nhạy cảm trong cơ cấu
kinh tế của mỗi nước do có những đặc điểm riêng biệt so với các ngành
khác như cung cấp lương thực , thực phẩm nuôi sống con người, sử dụng
nhiều lao động, lại chịu nhiều tác động từ thiên nhiên… Do đó chuỗi giá
trị nông sản rất phức tạp, bao gồm các quá trình có những tính chất hoàn
toàn khác nhau: quá trình sản xuất (sản xuất nông nghiệp), quá trình chế
biến nông sản (quá trình công nghiệp) và quá trình xuất khẩu hàng hóa
(thương mại).
1.2.2.

Cấu trúc chuỗi giá trị nông sản toàn cầu



17

Sơ đồ 1-4. Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
Nguồn: Bùi Đức Tuấn (2012) “Tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu
trong điều kiện thực thi các cam kết WTO : Trường hợp ngành nông
nghiệp Việt Nam”
Để có được một sản phẩm nông nghiệp và đưa đến tay người tiêu
dùng cuối cùng cần trải qua một chuỗi các hoạt động tạo ra giá trị . Dựa
vào hình trên có thể thấy rằng chuỗi giá trị của ngành hàng nông nghiệp
bao gồm rất nhiều công đoạn khác nhau từ cung ứng nguyên liệu, nuôi,
trồng, thu hoạch, bảo quản, chế biến đến phân phối. Trong xu hướng toàn
cầu hóa, các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu sẽ được phân bổ đến
những nơi tạo ra giá trị gia tăng cao nhất và hoạt động hiệu quả nhất.
Trong suốt quá trình hình thành giá trị của sản phẩm nông nghiệp,
có sự tham gia của nhiều chủ thể khác nhau, và khi chuỗi giá trị của
ngành nông nghiệp được toàn cầu hóa thì các chủ thể trong chuỗi có thể
đến từ nhiều quốc gia khác nhau, cùng tham gia vào chuỗi giá trị toàn
cầu của ngành nông nghiệp.
1.2.3.

Đặc điểm của chuỗi giá trị nông sản toàn cầu

Về cơ bản sự hình thành và phát triển các chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu cũng giống như sự hình thành và phát triển các chuỗi giá trị sản
phẩm công nghiệp. Tuy nhiên do những đặc thù rất riêng của sản xuất


18


nông sản từ khâu nuôi, trồng, thu hoạch tới chế biến và tiêu thụ mà chuỗi
giá trị hàng nông sản có những đặc thù và tính chất riêng.
Đặc điểm về tính mùa vụ và bảo quản
Do đối tượng nông sản luôn mang tính mùa vụ nên sản phẩm
a.

nông nghiệp làm ra cũng mang tính mùa vụ theo, làm cho chuỗi giá trị
sản phẩm nông nghiệp thường mang đặc điểm không liên tục và có sự
thay đổi rất nhanh khối lượng, chất lượng trong quá trình cung ứng ra
thị trường. Cụ thể, vào vụ thu hoạch thì khối lượng nông sản tăng
nhanh, chất lượng cao và nhu cầu bán ra thị trường rất lớn, làm cho
giá nông sản trên thị trường hạ, ngược lại khi hết vụ thu hoạch thì giá
hàng hóa giảm rất nhanh, chất lượng thấp, nhưng giá bán trên thị
trường lại cao. Đặc điểm này làm cho việc phân phối hàng hóa trở nên
khó khăn và giá cả không ổn định.
Nông sản đa phần là hàng hóa tươi sống, dễ bị hỏng, nhanh giảm
phẩm chất sau khi thu hoạch, việc vận chuyển đi xa khó khăn nếu
không được chế biến, bảo quản tốt trước khi vận chuyển, điều này đồng
nghĩa với giá thành sản xuất sẽ tăng lên nếu sản phẩm được trải qua
các công đoạn chế biến, chọn lọc và bảo quản đúng yêu cầu kĩ thuật.
Đặc điểm này gây ra nhiều khó khăn cho người sản xuất và hạn chế sự
phát triển mở rộng của chuỗi giá trị. Và cũng vì vậy, tính toàn cầu nông
sản trở nên rất hạn chế, muốn phát triển được các chuỗi giá trị toàn
cầu các sản phẩm này tới nhiều quốc gia và không gian mở rộng, đòi
hỏi các nhà sản xuất, kinh doanh phải có công nghệ cao, thích hợp về
chế biến và bảo quản đồng thời giá cả tiêu thị phải tăng lên nhiều lần
so với giá bán sản phẩm tại nơi sản xuất. Công nghệ được sử dụng để
kéo dài chuỗi giá trị các sản phẩm này thường là bảo quản đông lạnh,
bảo quản bằng hóa chất hoặc chân không, với chi phí để bảo quản là

rất lớn và thời gian bảo quản không được lâu.
Ngoài các hình thức chế biến, bảo quản nói trên, để kéo dài chuỗi
giá trị người ta thường sử dụng các công nghệ chế biến khác như: nấu
chín và đóng hộp hoặc làm khô và bảo quản trong những thiết bị không
quá tốn kém, nhưng chất lượng sản phẩm thường bị thay đổi và không


19

thích ứng lắm với nhu cầu tiêu dùng của đa số cư dân các nước, do vậy
cũng dẫn đến khó kéo dài chuỗi giá trị.
b. Đặc điểm về tác động của thời tiết, bệnh dịch và an toàn thực
phẩm

Sản xuất nông sản chịu tác động mạnh bởi các nhân tố khí hậu,

nhiệt độ, ánh sáng và các nguồn lực khác như đất đai, nguồn nước. Sự
thay đổi nhân tố này theo bất kì chiều hướng nào cũng sẽ ảnh hưởng
trực tiếp và mạnh mẽ đến kết quả sản xuất, có thể là tích cực, có thể là
tiêu cực và làm cho tính ổn định của chuỗi giá trị trở nên không bền
vững và biến động mạnh theo thời gian. Sự phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên đã làm cho sản xuất nông sản bị hạn chế mạnh bởi những điều
kiện tự nhiên không phù hợp và sản phẩm nông nghiệp bị “khu vực
hóa” mạnh mẽ, tập trung nhiều ở một số vùng, trong khi những vùng
khác không thể phát triển được. Chính vì vậy, chuỗi giá trị nông sản
thường mang tính địa phương rất cao. Cộng thêm khả năng vận
chuyển khó khăn, chi phí tốn kém đã hạn chế mạnh khả năng phát triển
các kênh tiêu thụ của chuỗi nông sản đến các vùng xa nơi sản xuất và
tính toàn cầu bị hạn chế hơn nhiều so với các loại hàng hóa phi nông
nghiệp khác.

Vấn đề dịch bệnh, đòi hỏi về an toàn thực phẩm cũng là những
cản trở lớn đến sự phát triển chuỗi giá trị hàng nông sản trên phạm vi
toàn cầu bởi những hàng hóa này ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe,
đời sống người tiêu dùng. Chính phủ các nước thường đặt ra những
hàng rào kiểm soát chặt chẽ về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hàng
nông sản nhập khẩu và không cho phép nhập khẩu những lô hàng kém
phẩm chất, có mầm bệnh hoặc có chứa hóa chất độc hại quá mức cho
phép. Những biện pháp này là chính đáng và cần thiết, nhưng ảnh
hưởng xấu tới thương mại nông sản toàn cầu vốn đã rất khó khăn do
những đặc điểm nói trên, gây ra nhiều rủi ro cho người sản xuất nông
nghiệp, từ đó ảnh hưởng không tốt tới sự phát triển và lan tỏa của
chuỗi giá trị nông sản.
c. Đặc điểm về tổ chức sản xuất


20

Do tính truyền thống và tính sinh học của các loại nông sản nên
tổ chức sản xuất nông sản cũng mang những đặc thù khác hẳn với tổ
chức sản xuất của hàng hóa khác.
Sự khác biệt lớn nhất của chuỗi giá trị nông sản là quá trình sản
xuất có sự tham gia của số lượng rất đông các hộ nông dân,ngư dân
với trình độ sản xuất, ý thức kinh doanh và nhận biết về thị trường rất
khác nhau. Điều này làm cho chuỗi giá trị trở nên phức tạp và rất khó
điều chỉnh để có thể tạo ra khối lượng lớn sản phẩm đồng nhất về chất
lượng, nhất là đối với những sản phẩm được sản xuất ở những quốc
gia có số lượng nông dân đông như Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam, Thái
Lan,… Đây là vấn đề nan giải của chuỗi giá trị nông sản toàn cầu và
đang là những thách thức lớn đối với các nhà sản xuất, chế biến trong
các chuỗi giá trị nông sản.

d. Đặc điểm về chế biến và lưu giữ sản phẩm
Trong chuỗi giá trị nông sản, hàng hóa muốn vận chuyển đi xa
đến những thị trường nằm cách xa nơi sản xuất thì hàng hóa đó không
thể vận chuyển dưới trạng thái tươi sống, mà phải thông qua chế biến
thành hàng khô hoặc đóng hộp bảo quản, nếu là tươi sống thì cũng
phải thông qua các thiết bị bảo quản tốn kém. Chính vì vậy mà công
nghiệp chế biến nông sản đã phát triển đa dạng với nhiều thành tựu to
lớn về kỹ thuật và các bí quyết công nghệ cao trong những năm vừa
qua, những vẫn chưa tháo gỡ hết mọi vấn đề của chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu.
Thường những công nghệ chế biến cao cấp thì chi phí đầu tư sẽ
rất lớn và từ đó giá thành sản phẩm nông sản đã qua chế biến sẽ rất
cao, làm cho hiệu quả của chuỗi giá trị có thể giảm, lợi ích của các chủ
thể, nhất là những nông dân tham gia chuỗi bị ảnh hưởng tiêu cực và
động lực tham gia có thể sẽ mất đi. Đặc điểm này thường là nguyên
nhân gây ra tình trạng thiếu thừa lẫn lộn trên thị trường nông sản
toàn cầu, tạo ra sự chênh lệch về giá tiêu thụ rất lớn giữa nơi sản xuất
và nơi tiêu thụ tùy theo khoảng cách và điều kiện vận chuyển và hện là
thách thức lớn đới với các biện pháp mở rộng các chuỗi giá trị nông


21

sản. Những người nông dân tham gia sản xuất ở những chuỗi nông sản
này thường chịu rủi ro và thua thiệt lớn khi thị trường biến động.
1.2.4. Sự cần thiết tham gia vào chuỗi giá trị nông sản toàn cầu:
Trong môi trường kinh doanh thương mại toàn cầu, nâng cao năng lực
cạnh tranh là một xu thế tất yếu mà mỗi quốc gia nói chung và mỗi doanh
nghiệp nói riêng phải đối mặt. Nước ta đã và đang từng bước tiến hành hội nhập
với nền kinh tế thế giới, bước chân vào kỷ nguyên quốc tế hóa, toàn cầu hóa ở

mức độ ngày một sâu rộng hơn.
Từ xưa đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành có vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế nước nhà. Trong những năm gần đây, những đóng góp của ngành
nông nghiệp, đặc biệt là xuất khẩu các mặt hàng nông sản ra nhiều thị trường
nước ngoài đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, tạo việc làm, tiêu thụ
hàng hóa cho người nông dân, đồng thời góp phần nâng cao tiềm lực và vị trí
nước nhà trên trường quốc tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các mặt hàng nông sản Việt Nam có lợi thế và tiềm năng phát triển rất
lớn trong khi dự báo về nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản trên thế giới có xu
hướng tăng. Đây chính là một tín hiệu lạc quan cho sự phát triển xuất khẩu các
mặt hàng nông sản của Việt Nam
Việc gia nhập WTO và trong thời gian tới hoàn tất các cam kết trong các
hiệp định thương mại tự do đã, đang và sẽ mang lại cho Việt Nam những cơ hội
lớn cho nhiều mặt hàng nông sản thâm nhập vào thị trường thế giới. Bên cạnh
đó, những ưu đãi về thuế quan, xuất xứ hàng hóa, sự hạn chế về hàng rào phi
thuế quan và những quy định về đối xử công bằng, bình đẳng đã tạo điều kiện
để hàng nông sản Việt Nam có khả năng cạnh tranh và tạo chỗ đứng trên thị
trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các nhà
sản xuất nông sản Việt Nam cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh của nhà xuất
khẩu nông sản nước ngoài cùng những rào cản kỹ thuật tinh vi và khắt khe hơn:
vấn đề về an toàn vệ sinh thực phẩm, các yêu cầu về truy suất nguồn gốc sản
phẩm hay các vấn đề về chống bán phá giá … Mặt hàng nông sản xuất khẩu
Việt Nam tuy đã đạt được những thành tích đáng kể trên thị trường thế giới,


22

song khi so sánh với hàng hóa đến từ các quốc gia xuất khẩu nông sản lớn khác
như Thái Lan, Trung Quốc thì mặt hàng nông sản Việt Nam còn tồn tại nhiều

hạn chế: khả năng cạnh tranh không cao, chất lượng không ổn định, chưa có
chiến lược phát triển thị trường, chiến lược quảng cáo hiệu quả, do đó cũng
chưa xây dựng được thương hiệu mạnh cho nông sản nước nhà.
Để nâng cao giá trị của các mặt hàng nông sản, toàn ngành nói chung
và các nhà sản xuất, xuất khẩu nông sản nói riêng phải nâng cao chất lượng sản
phẩm bằng cách áp dụng các công nghệ tiên tiến trong sản xuất, đồng thời có
chiến lược kinh doanh phù hợp, đúng đắn, chủ động tích cực tham gia vào hoạt
động thương mại quốc tế, vào thị trường thế giới.
Tóm lại, việc xâm nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu ngành nông
nghiệp là một điều tất yếu trong giai đoạn hội nhập hiện nay nhằm tận dụng
tiềm năng, nâng cao giá trị của hàng nông sản trong kim ngạch xuất khẩu quốc
gia, đóng góp vào tăng trưởng và phát triển đất nước.
1.3. Kinh nghiệm của Brazil trong việc tham gia vào chuỗi giá trị nông

sản toàn cầu.
1.3.1.

Kinh nghiệm của Brazil

Brazil là quốc gia có lịch sử trồng trọt, chế biến và tiêu thụ cà phê từ
thế kỉ 17, phát triển mạnh từ thập kỉ 20 của thế kỉ 20 cho đến nay. Trước
đây, cà phê chiếm tới 80% tổng thu nhập từ xuất khẩu, tuy nhiên hiện nay,
con số này đã giảm xuống do giá trị xuất khẩu của các ngành hàng khác tăng
mạnh. Lợi nhuận của người trồng cà phê cũng không cao như trước đây do
chi phí lao động tăng đáng kể, thường chiếm tới 85% tổng chi phí sản xuất.
Bảng 2-1. Tình hình sản xuất cà phê của Brazil
Năm

2009


2010

Sản lượng
(nghìn bao)

39 470 48 095

2011

2012

2013

2014

43 484 50 826 49 152 45 342

Nguồn: Tổ chức cà phê thế giới ICO, 2015
Là nước đứng đầu thế giới về sản lượng cà phê Arabica và đứng thứ
hai về sản lượng cà phê Robusta, sản xuất cà phê của Brazil có vị trí chi
phối đối với thị trường cà phê thế giới về phía cung.


23

Mặc dù vị trí của ngành cà phê giảm tương đối trong cơ cấu xuất khẩu
hàng hóa của Brazil nhưng Brazil vẫn là nước xuất khẩu cà phê lớn nhất thế
giới với sản lượng tương đối ổn định. Thành tựu này đạt được một phần là
nhờ nước này có hệ thống giám sát nguồn cung cà phê hiệu quả, trên cơ sở
đó, đưa ra thông tin và dự báo thị trường cà phê rất chính xác, được công bố

qua Hội thảo triển vọng thị trường được tổ chức hàng năm tại Brazil.

Bảng 2-2. Vị trí của Brazil trong xuất khẩu cà phê thế giới
Chỉ tiêu

Nước
Thế giới
Brazil
090111

KNXK 2008
(1000 USD)

Tăng bq
2003-2008
về giá trị
(%)

Tăng bq
20032008 về
lượng
(%)

21.598.610
4.167.885

23
22
22


Tổng
KNXK
cà phê
Cà phê
4.131.559
chưa
rang,
chưa khử

4
3

Tỷ
trọng
trong
tổng
XK thế
giới (%)
100
19,3

Vị trí
trong
XK cà
phê thế
giới
1

3


26,36

1


24

090121

090122

090190
090112

caffein
Cà phê
rang,
chưa khử
caffein
Cà phê
rang, đã
khử
caffein
Các loại
cà phê
khác
Cà phê
chưa
rang, đã
khử

caffein

35.213

40

24

0,74

19

414

35

11

0,12

29

584

48

151

0,62


28

115

-17

-34

0,224

35

Nguồn: Trung tâm thương mại thế giới ITC, 2009
Tuy nhiên, cũng như hầu hết các nước sản xuất cà phê khác, Brazil
cũng chiếm thị phần khá hạn chế về xuất khẩu cà phê hòa tan mặc dù Chính
phủ và các tổ chức điều phối ngành cà phê đã có nhiều chính sách phát triển
công nghiệp chế biến của Brazil. Nguyên nhân của tình trạng này là ngoài
các yếu tố liên quan đến vốn và công nghệ, các cơ sở rang xay và chế biến
thường được phát triển tại các thị trường tiêu thụ để đảm bảo đưa cà phê
thành phẩm đến người tiêu dùng trong thời gian ngắn nhất và có tỷ lệ pha
trộn trong cà phê thành phẩm phù hợp nhất với thị hiếu của người tiêu dùng.
Có thể thấy rằng, vị trí quan trọng của Brazil trong chuỗi giá trị cà
phê toàn cầu được khẳng định nhờ:
Thứ nhất, ngành cà phê Brazil được nhận sự điều tiết và hỗ trợ của
Chính phủ:
Các thành tựu về khoa học kĩ thuật, xúc tiến thương mại và thông tin
giám sát và dự báo hiệu quả mà Brazil đạt được trong thời gian qua phần
lớn là nhờ xây dựng và phát triển tốt hệ thống tổ chức ngành hàng cà phê,
hoạt động chuyên nghiệp và mang lại nhiều lợi nhuận cho các nhóm lợi ích



25

tham gia trong ngành. Các tổ chức ngành hàng này đại diện cho từng nhóm
lợi ích khác nhau, tham gia vào quá trình (i) thảo luận, hoạch định và thực
hiện chính sách; (ii) xác định, điều chỉnh, giám sát và đánh giá nghiên cứu
kỹ thuật cà phê; (iii) thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại, tăng
cường chất lượng cà phê. Bộ nông nghiệp Brazil có chức năng nghiên cứu,
hoạch định chính sách, chịu trách nhiệm về các vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm, phóng chống dịch bệnh.
Brazil xây dựng và phát triển hệ thống hợp tác xã ngành hàng cà phê
hoạt động rất hiệu quả và nhịp nhàng. Sản xuất cà phê của Hợp tác xã chiếm
tới 35% tổng sản lượng cà phê của cả nước. Hợp tác xã cà phê lớn nhất thế
giới của Brazil có tên là Cooxupe được thành lập từ năm 1957, có 12.000
thành viên, trong đó 70% là nông trại quy mô nhỏ (5-7ha), 30% là quy mô
vừa và lớn. Hàng năm, HTX này buôn bán tới 4,5 triệu bao cung cấp cho cả
thị trường trong nước va xuất khẩu trực tiếp tới các thị trường Mỹ, EU, Nhật
Bản. HTX có hệ thống hoàn chỉnh bao gồm kho chứa, làm sạch, phân loại,
đánh bóng, pha trộn hạt cà phê và buôn bán trực tiếp. HTX có kho chứa
công suất lên tới 3,3 triệu bao/năm. HTX có khoảng 60 chuyên gia về nông
nghiệp, mỗi người chịu trách nhiệm cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho khoảng
200-250 hộ. Như vậy, mỗi vụ,một chuyên gia có thể tới thăm 1 trang trại 4
lần để hướng dẫn kỹ thuật mới, kiểm tra quy trình sản xuất đến thu hoạch,
phát hiện vấn đề và giải quyết khó khăn khi cần thiết.
Trước đây, ngành cà phê Brazil do Viện cà phê Brazil (IBC) quản lý.
Tổ chức này thiết lập hạn ngạch xuất khẩu cũng như điều tiết thị trường. Do
áp lực về hạn ngạch, các nhà sản xuất đã trộn cà phê Arabica chất lượng cao
với các loại cà phê cấp thấp hơn. Khi hoạt động bất hợp pháp này bị phát
hiện, IBC đã bị giải thể. Điều này đã dẫn đến sự tăng cường xuất khẩu cà
phê chất lượng cao, đặc biệt là với Hoa Kì, thị trường có nhu cầu cao đối

với cà phê hòa tan hảo hạng. Sau IBC, Chính phủ đã nắm vai trò kiểm soát
ngành sản xuất cà phê. Hiệp hội Ngành Công nghiệp cà phê Brazil (ABIC)
đã phụ trách việc phòng chống đưa các loại cà phê “thay thế “ vào thị
trường. Với sự giám sát của ABIC, Brazil hiện là nhà sản xuất nhiều loại cà
phê chất lượng cao để xuất khẩu.


×