Khóa luận tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã kiên
quyết lựa chọn con đường phát triển bền vững, hướng tới sự cân bằng giữa
lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể,
giữa lợi ích địa phương và lợi ích quốc gia, không những vì hành phúc của
thế hệ hôm nay mà còn vì sự phát triển của các thế hệ mai sau.
Phát triển bền vững có thể xem như là một phương thức phát triển
mới, có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình phát triển của nhân loại. Quan
điểm phát triển này không chỉ đơn thuần là phát triển kinh tế mà đó còn là sự
phối hợp hài hòa nhiều giá trị khác nhau của cuộc sống, bao gồm giá trị kinh
tế, giá trị nhân văn và đặc biệt là giá trị môi trường.
Việc đưa vấn đề môi trường vào các chính sách phát triển kinh tế và
giải quyết đầu tư có thể giúp giảm bớt mâu thuẫn giữa mục tiêu tăng trưởng
kinh tế và vấn đề bảo vệ môi trường. Trong thực tiễn, vấn đề ô nhiễm môi
trường đã gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với con người và cân bằng
sinh thái. Nó đã và đang có những tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến sức
khỏe của con người, gây ra nhiều bệnh nan y, đặc biệt là căn bệnh ung thư,
cướp đi sinh mạng của nhiều người dân. Đồng thời, ô nhiễm môi trường
cũng gây ra nhiều hiện tượng làm thay đổi môi trường sống của con người
như hiện tượng hiệu ứng nhà kính, hiện tượng ấm lên của vỏ trái đất, hiện
tượng tan băng ở hai cực, mưa axit… gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho
nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, nhân loại đã và đang ý thức được
rằng, nếu các vấn đề môi trường không được xem xét một cách nghiêm túc,
đầy đủ và kỹ lưỡng trong chính sách phát triển thì tăng trưởng kinh tế và
Khóa luận tốt nghiệp
công nghiệp hóa với tốc độ nhanh nhất định sẽ đi kèm với việc hủy hoại môi
trường sống của con người. Hiện nay, nhằm khắc phục những hậu quả nặng
nề do ô nhiễm môi trường gây ra con người đã và đang áp dụng nhiều biện
pháp thích hợp khác nhau, trong đó biện pháp có tính lâu dài là giáo dục và
nâng cao nhận thức của con người về bảo vệ môi trường.
Là một sinh viên, hơn nữa lại được tiếp cận với môn học kinh tế môi
trường từ năm thứ hai trên giảng đường đại học, em đã tích lũy được một số
kiến thức nhất định về môi trường, hiểu được rõ vai trò của môi trường đối
với đời sống kinh tế - xã hội của con người và tầm quan trọng của việc bảo
vệ môi trường. Chính vì thế, em đã lựa chọn đề tài: “Môi trường trong việc
phát triển bền vững ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” cho khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Thông qua việc nghiên cứu bản chất, các quy định pháp lý, lý luận
cũng như thực trạng mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam để thấy được những mặt còn tồn tại, từ đó đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị giải quyết hài hòa mối quan hệ này để đạt được mục tiêu
phát triển bền vững.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu:
• Lý luận về mối quan hệ giữa môi trường và phát triển kinh tế - xã hội.
• Thực trạng vấn đề môi trường trong việc phát triển bền vững ở Việt
Nam.
Khóa luận tốt nghiệp
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các vấn đề môi trường dưới
góc độ môi trường tự nhiên, nghiên cứu các vấn đề về môi trường trong mối
tương quan với phát triển kinh tế - xã hội.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu của đề tài, khóa luận sử dụng các
phương pháp nghiên cứu tổng hợp như: thu thập tài liệu, kết hợp phân tích,
thống kê, tổng hợp, so sánh từ đó khái quát hóa giải quyết vấn đề.
5. Kết cấu của đề tài.
Đề tài gồm có 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1. Tổng quan về môi trường trong sự phát triển bền
vững.
Chương 2. Thực trạng môi trường trong việc phát triển bền vững
ở Việt Nam.
Chương 3. Các giải pháp nhằm bảo vệ môi trường để hướng tới
sự phát triển bền vững ở Việt Nam.
Cuối cùng, cho phép em được gửi lời cảm ơn đến các cô, chú cán bộ
làm việc tại Trung tâm Thông tin Phát triển Việt Nam, Thư viện Viện Kinh
tế Việt Nam, thư viện trường Đại học Ngoại Thương đã giúp đỡ và tạo điều
kiện cho em trong quá trình thu thập tài liệu phục vụ cho khóa luận tốt
nghiệp. Đăc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo - Thạc
sĩ Trần Minh Nguyệt, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và giúp đỡ em
trong suốt quá trình viết khóa luận.
Khóa luận tốt nghiệp
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ MÔI TRƯỜNG TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG.
I. Một số vấn đề lý luận cơ bản về môi trường, phát triển và phát
triển bền vững.
1. Những đặc trưng cơ bản của môi trường.
1.1. Khái niệm chung về môi trường.
Mỗi cơ thể sống dù là cá nhân con người hay bất kỳ một loại sinh vật
nào tồn tại trên trái đất ở trong mọi trạng thái đều bị bao quanh và bị chi
phối bởi môi trường. Vậy môi trường là gì? Nó được hình thành và có quá
trình biến đổi như thế nào? Môi trường có vai trò gì đối với sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người?
Xung quanh khái niệm môi trường, hiện nay có rất nhiều quan điểm
khác nhau của các nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu ở trong và ngoài
nước; mỗi quan điểm đều cố gắng diễn đạt để đưa ra những lập luận hợp lý
có sức thuyết phục ở các mức độ khác nhau. Trước khi đi sâu vào nghiên
cứu về môi trường cũng như vai trò của môi trường trong việc phát triển bền
vững của Việt Nam cần hệ thống hóa các quan điểm về môi trường để trên
cơ sở đó chúng ta có một khái niệm tương đối đầy đủ về môi trường.
Quan điểm thứ nhất: Cho rằng môi trường là sinh quyển, sinh thái
cần thiết cho sự sống tự nhiên của con người, môi trường cũng là nơi chứa
đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối tượng của lao động sản xuất và
hình thành các nguồn lực cần thiết cho việc sản xuất ra của cải vật chất của
loài người, trong số này một số có thể tái tạo được, một số khác không thể
tái tạo được. Trong quá trình khai thác, nếu mức độ khai thác nhanh hơn
Khóa luận tốt nghiệp
mức độ tái tạo thì gây ra tình trạng khan hiếm, suy kiệt hoặc khủng hoảng
môi trường.
Theo quan điểm trên, khái niệm môi trường đề cập nhiều hơn tới môi
trường tự nhiên, chưa thể hiện được mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội
trong quan hệ tác động qua lại lẫn nhau hợp thành thể thống nhất của môi
trường nói chung. Nét nổi trội và cũng là ưu điểm của quan điểm này là đã
nêu được những yếu tố cấu thành của môi trường đó là sinh quyển, sinh thái
cần thiết cho sự sống tự nhiên của con người. Điểm hạn chế ở đây là các yếu
tố sinh quyển, sinh thái được đề cập rất chung chung, chưa được cụ thể hóa.
Hơn nữa, qua cách diễn đạt thì khái niệm lại toát lên tính không gian của
môi trường “là nơi chứa đựng những nguồn tài nguyên làm thành đối tượng
của lao động”. Ở đây, tính không gian về môi trường được nhấn mạnh và
trong không gian đó hàm chứa những nguồn tiềm năng tài nguyên làm thành
đối tượng lao động. Song các yếu tố cấu thành môi trường vẫn chưa được đề
cập đầy đủ, khái niệm này còn thiếu những yếu tố rất cơ bản cần thiết cho sự
hợp thành của môi trường đó là đất đai, động thực vật, hệ sinh thái còn tài
nguyên không phải là yếu tố cơ bản duy nhất cấu thành môi trường.
Nhìn nhận tổng quát khái niệm về môi trường theo quan điểm trên thì
tính không gian và chức năng của môi trường được nhấn mạnh, tuy nhiên
khái niệm trên chưa thể hiện được quan hệ giữa con người với môi trường
cũng như giữa các yếu tố cấu thành của môi trường với nhau.
Quan điểm thứ hai: Quan điểm này cho rằng môi trường là tổng hợp
các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của một
sự vật hoặc sự kiện nào đó. Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào cũng đều tồn
tại và phát triển trong môi trường nhất định. Đối với cơ thể sống thì môi
trường sống là tổng hợp những điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng đến sự
Khóa luận tốt nghiệp
phát triển của cơ thể. Tương tự như vậy đối với con người thì “môi trường
sống là tổng hợp tất cả các điều kiện vật lý, hóa học, kinh tế, xã hội bao
quanh có ảnh hưởng đến sự sống và phát triển của từng cá nhân của cộng
đồng người”.So với khái niệm trên, khái niệm này mang tính bao quát hơn,
môi trường được đề cập toàn diện với đầy đủ các yếu tố cấu thành của nó
bao quanh mọi cơ thể sống. Mặc dù khái niệm không nói cụ thể môi trường
bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội song “tất cả những
điều kiện bao quanh” đã hàm ý là cả môi trường tự nhiên và môi trường xã
hội. Điểm mới nổi trội của quan điểm này là đã đặt môi trường trong quan
hệ với sự sống, môi trường gắn với sự sống và mọi sự sống đều phải gắn với
một môi trường nhất định. Quan niệm này còn đặc biệt nhấn mạnh quan hệ
giữa các cơ thể sống với môi trường, qua đó chúng ta có thể hiểu được môi
trường sống của con người là những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và
phát triển của con người, củ xã hội loài người. Môi trường sống của con
người gồm môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Môi trường tự nhiên
giúp con người tồn tại và phát triển vể mặt thể chất, còn môi trường xã hội
có ảnh hưởng đến việc hình thành nhân cách đạo đức, phong cách và nếp
sống của mỗi cá nhân trong xã hội.
Quan điểm thứ ba: Môi trường ở một thời điểm nhất định là tập hợp
các nhân tố vật lý, hóa học, sinh học và các nhân tố xã hội có thể có một
hậu quả trực tiếp, hay gián tiếp, trước mắt hay lâu dài tới các sinh vật sống
và các hoạt động của con người.
Với phương pháp tiếp cận mang tính khoa học, xuất phát từ những
môn khoa học cụ thể để định nghĩa về môi trường, khái niệm này đã hàm
chứa tương đối đầy đủ các yếu tố cấu thành môi trường, đó là các yếu tố vật
lý, hóa học, sinh học, xã hội… Mặc dù khái niệm không đề cập thật cụ thể
Khóa luận tốt nghiệp
tới các yếu tố tự nhiên, xã hội, nhưng qua cách diễn đạt mang tính khái quát
đã bao hàm đầy đủ các nhân tố tự nhiên và xã hội cấu thành môi trường.
Khái niệm cũng thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố ở trong
môi trường và nhấn mạnh tới môi trường sống của con người. Điểm mới
trong quan điểm trên về môi trường mà chưa có quan điểm nào thể hiện là
tính thời gian của môi trường: “môi trường ở một thời điểm nhất định là tập
hợp…”. Theo quan điểm này thì môi trường cũng có tính thời gian, môi
trường không phải là cái gì đó tĩnh tại, bất biến mà nó luôn thay đổi theo
thời điểm. Đây là một quan điểm tương đối toàn diện về môi trường, quan
điểm này đã đề cập đến cả tính thời gian và tính không gian cũng như những
ảnh hưởng trực tiếp trước mắt và lâu dài của môi trường đối với đời sống
con người. Tuy nhiên, điểm hạn chế lớn nhất của quan điểm này so với các
quan điểm trên đó là nó chưa thể hiện được các mối quan hệ giữa các yếu tố
cấu thành môi trường và quan hệ giữa môi trường với con người.
Quan điểm thứ tư: Quan điểm này dựa vào quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin về các điều kiện sống của con người, sự tồn tại và phát triển của
loài người. Theo quan điểm này, Các Mác đã chỉ ra ba yếu tố quyết định sự
tồn tại và phát triển của xã hội loài người đó là điều kiện địa lý, dân số và
phương thức sản xuất trong điều kiện hiện tại; ba nhân tố cũng có thể được
xem là các nhân tố môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và môi trường
kinh tế. Với cách tiếp cận như vậy, quan điểm này cho rằng môi trường là
khái niệm dùng để chỉ tổng thể các yếu tố vật chất, tự nhiên và nhân tạo bao
quanh con người có quan hệ mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của con
người và xã hội loài người. Như vậy, khái niệm môi trường ở đây không
phải là thế giới tự nhiên nói chung, bất kỳ, mà là thế giới tự nhiên đặt trong
Khóa luận tốt nghiệp
mối quan hệ mật thiết với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội
loài người nói chung.
Khái niệm môi trường hiểu theo cách trên đây mang tính bao quát rất
rộng và đầy đủ, bao hàm cả môi trường tự nhiên, xã hội và môi trường nhân
tạo. So với các khái niệm trên nó mang tính bao quát hơn và thể hiện được
mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố tự nhiên, xã hội và nhân tạo, đồng
thời nêu bật được vai trò của môi trường đối với đời sống của xã hội loài
người cũng như mối quan hệ của con người với môi trường nói chung. Tuy
nhiên nó thể hiện nhiều hơn về cách phân loại môi trường mà chưa thể hiện
được cấu trúc về môi trường.
Quan điểm thứ năm: Trong Luật bảo vệ môi trường đã được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 29/11/2005 đã đưa ra khái niệm về môi trường như sau: “Môi
trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật” (Điều 3. Luật bảo vệ môi trường của Việt Nam).
Quan điểm trên về môi trường nhấn mạnh yếu tố bản chất của môi
trường bao gồm các yếu tố bao quanh con người, trong đó cấu trúc của nó
cũng được thể hiện đó là yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất do con người tạo
nên. Khái niệm này đề cập nhiều hơn về góc độ môi trường tự nhiên có ảnh
hưởng tới đời sống của con người.
Tổng hợp tất cả các quan điểm trên đây về môi trường ta có thể thấy
chúng đều thể hiện được những nội dung sau:
• Nêu rõ bản chất bao quanh của môi trường đối với các cơ thể sống.
Khóa luận tốt nghiệp
• Môi trường có ảnh hưởng và tác động tới các cơ thể sống, tới sản
xuất, tới sự tồn tại và phát triển của xã hội.
• Các mối quan hệ của các yếu tố cấu thành môi trường và quan hệ giữa
sự sống của con người với môi trường cũng được đề cập trong một số khái
niệm.
• Cấu trúc của môi trường và các yếu tố cấu thành môi trường.
Từ sự phân tích và nghiên cứu các quan điểm khác nhau về môi
trường, căn cứ vào quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về môi trường,
chúng ta có thể định nghĩa môi trường như sau:
Môi trường là khái niệm dùng để chỉ tất cả các yếu tố tự nhiên, vật
chất nhân tạo, xã hội bao quanh con người, có liên quan mật thiết với nhau
và quan hệ tới đời sống của con người. Môi trường là khái niệm “động”, nó
luôn vận động, biến đổi dưới tác động của các nhân tố tự nhiên, xã hội và
nhân tạo.
Như chúng ta đã biết, môi trường là một khái niệm rất rộng, tùy theo
từng góc độ nghiên cứu mà có những cách phân loại môi trường khác nhau.
Theo cách bao quát chung nhất, chúng ta hiểu môi trường là toàn bộ các yếu
tố tự nhiên, xã hội và nhân tạo bao quanh con người và các cơ thể sống khác,
có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại và phát triển của các cơ
thể sống. Như vậy, theo cách hiểu bao quát chung nhất ấy thì môi trường
bao hàm:
•
Môi trường tự nhiên.
•
Môi trường xã hội.
•
Môi trường nhân tạo.
Khóa luận tốt nghiệp
Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố của tự nhiên tồn tại khách
quan ngoài ý muốn của con người như không khí, đất đai, nguồn nước, ánh
sang mặt trời, động thực vật… Môi trường tự nhiên cung cấp các nguồn tài
nguyên tự nhiên cho chúng ta như không khí để thở, đất để xây dựng nhà
cửa, trồng cây, chăn nuôi, các loại khoáng sản cho sản xuất, tiêu thụ và là
nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải, cung cấp cho ta cảnh đẹp giải trí tăng
khả năng sinh lý của con người.
Môi trường xã hội là tổng hợp các quan hệ giữa người với người. Đó
là những luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, hương ước… ở các cấp khác
nhau như: Liên Hợp Quốc, Hiệp hội các nước, quốc gia, tỉnh, huyện, cơ
quan, làng xã, họ tộc, gia đình, các tổ chức tôn giáo… Môi trường xã hội
định hướng hoạt động của con người theo một khuôn khổ nhất định tạo nên
sức mạnh tập thể, thuận lợi cho sự phát triển, làm cho cuộc sống của con
người khác với các sinh vật khác.
Môi trường nhân tạo bao gồm các nhân tố do con người tạo nên, làm
thành những tiện nghi cho cuộc sống của con người như ô tô, máy bay, nhà
ở, công sở, các khu đô thị, công viên nhân tạo, các khu vui chơi gải trí…
Tuy nhiên, trong khuôn khổ của bài viết này chúng ta chỉ đi sâu
nghiên cứu về môi trường tự nhiên.
1.2. Các chức năng cơ bản của môi trường.
Môi trường tự nhiên trong quan hệ với đời sống của con người và sự
phát triển của xã hội loài người là một hệ thống tự nhiên có các chức năng
cơ bản như sau:
Thứ nhất, môi trường là sinh quyển, sinh thái cần thiết cho sự sống tự
nhiên của con người. Chức năng đầu tiên của môi trường là nơi sinh sống và
Khóa luận tốt nghiệp
phát triển của xã hội loài người. Trong hoạt động của mình, con người cần
phải có một không gian sống (không gian sinh tồn) với đặc trưng về quy mô
và chất lượng cho phép. Qua nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế
giới cho tới nay đã xác định rằng, trong hệ mặt trời sự sống hầu như chỉ tồn
tại ở trái đất, và duy nhất chỉ có trái đất trong điều kiện bình thường mới có
khả năng duy trì được sự sống của con người. Lịch sử của loài người thấy rõ
là, trong khi trái đất gần như không thay đổi về độ lớn, nhưng dân số trên thế
giới không ngừng gia tăng. Vì vậy, diện tích đất tự nhiên bình quân đầu
người ngày càng giảm sút nhanh chóng.
Ngoài ra, sự phân bố không đồng đều dân số trên thế giới càng làm
gay gắt về không gian sống ở những nơi mật độ dân số tập trung cao, đặc
biệt là ở những thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung ở các quốc gia.
Không gian sống bị thu hẹp tất yếu sẽ kéo theo sự suy giảm chất lượng môi
trường sống do không đảm bảo những điều kiện tối thiểu không gian sống
cho phép. Sự sống của con người và sinh vật đòi hỏi không gian sống không
chỉ về quy mô cho phép, mà còn cả về chất lượng đảm bảo. Để đảm bảo sự
sống tồn tại và phát triển bình thường, không gian sống có chất lượng cao
trước hết phải đảm bảo trong lành, sạch đẹp. Các thành phần môi trường
được con người sử dụng không chứa hoặc ít chứa các chất độc hại đối với
sức khỏe của con người; đảm bảo sạch sẽ, đẹp đẽ, hài hòa đối với con người;
tạo sự thoải mái và thư giãn trong cuộc sống.
Thứ hai, môi trường là nơi cung cấp tài nguyên thiên nhiên. Môi
trường là nơi cung cấp tài nguyên thiên nhiên cần thiết cho sự sống và hoạt
động sản xuất của con người. Từ xa xưa cho tới nay, các nguồn tài nguyên
do thiên nhiên ban tặng cho con người với chủng loại hết sức phong phú và
trữ lượng dồi dào. Nhờ vậy, cuộc sống của con người mới tồn tại và không
Khóa luận tốt nghiệp
ngừng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Nguồn tài nguyên thiên
nhiên chứa trong môi trườn là rất đa dạng và giàu có, nhưng không phải là
vô tận. Sự khai thác quá mức các nguồn tài nguyên thiên nhiên để phục vụ
sản xuất và đời sống của con người đã làm cho các nguồn này ở nhiều nơi bị
cạn kiệt. Việc tăng cường thăm dò, khảo sát, phát hiện thêm nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên, cùng với việc tăng cường mở mang các vùng đất mới,
hoặc việc áp dụng các công nghệ tiên tiến thay thế nguyên, nhiên, vật liệu…
chính là những biện pháp tình thế của con người hiện nay nhằm bù đắp vào
sự suy giảm chức năng của môi trường, mà nguyên nhân chính là do con
người gây ra.
Thứ ba, môi trường là nơi chứa đựng, hấp thụ, trung hòa các chất thải
độc hại. Trong mọi hoạt động của con người từ quá trình khai thác tài
nguyên cho sản xuất chế biến tạo ra sản phẩm, đến quá trình lưu thông và
tiêu dung đều có phế thải. Chất thải bao gồm nhiều dạng, nhưng chủ yếu
chúng tồn tại ở ba dạng là dạng khí, dạng rắn, dạng lỏng. Ngoài ra còn có
các dạng khác như nhiệt, tiếng ồn, hóa chất nguyên tử, phân tử, hợp chất…
Và tất cả các chất thải đó đều được đưa vào môi trường.
Trong xã hội sản xuất hàng hóa chưa phát triển cao, mật độ dân số
thấp, các chất thải thường được tái sử dụng. Ví dụ, các chất bài tiết được
dùng làm phân bón, các chất thải từ nông sản, lâm sản được dùng làm thức
ăn cho gia súc, nhiên liệu. Những cái không thể tái sử dụng, tái chế thường
được phân hủy tự nhiên bởi các sinh vật và vi sinh vật, sau một thời gian
ngắn để trở lại thành những hợp chất hoặc nguyên tố dùng làm nguyên liệu
cho các quá trình sản xuất mới.
Trong xã hội công nghiệp hóa, sản xuất hàng hóa phát triển, mật độ
dân số cao, lượng chất thải thường rất lớn, môi trường không đủ nơi chứa
Khóa luận tốt nghiệp
đựng, quá trình tự phân hủy không theo kịp so với lượng chất thải tạo ra.
Hay người ta thường gọi lượng chất thải vượt quá mức chịu tải của môi
trường. Đây là nguyên nhân cơ bản gây ra những biến đổi về môi trường.
1.3. Ô nhiễm môi trường.
Trên thế giới, ô nhiễm môi trường được hiểu là việc chuyển các chất
thải hoặc năng lượng vào môi trường đến mức có khả năng gây hại đến sức
khỏe con người, đến sự phát triển sinh vật hoặc làm suy giảm chất lượng
môi trường. Các tác nhân ô nhiễm bao gồm các chất thải ở dạng khí (khí
thải), lỏng (nước thải), rắn (chất thải rắn) chứa hóa chất hoặc tác nhân vật lý,
sinh học và các dạng năng lượng như nhiệt độ, bức xạ. Tuy nhiên, môi
trường chỉ được coi là bị ô nhiễm nếu trong đó hàm lượng, nồng độ hoặc
cường độ các tác nhân trên đạt mức có khả năng tác động xấu đến con
người, sinh vật và vật liệu.
Ở Việt Nam, theo khoản 6, điều 3 Luật Bảo vệ môi trường: “Ô nhiễm
môi trường là sự biến đổi của các thành phần môi trường không phù hợp với
tiêu chuẩn môi trường, gây ảnh hưởng xấu đến con người, sinh vật”.
Ô nhiễm môi trường được phân làm 3 loại chính đó là ô nhiễm không
khí, ô nhiễm nước và ô nhiễm đất.
• Ô nhiễm không khí là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi
quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc
gây ra sự tỏa mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi). Có hai nguồn
chính gây ô nhiễm không khí đó là nguồn tự nhiên (núi lửa phun ra những
nham thạch nóng và nhiều khói bụi giàu sunfua, cháy rừng, bão bụi gây nên
do gió mạnh và bão, các quá trình phân hủy xác động, thực vật…) và nguồn
Khóa luận tốt nghiệp
nhân tạo (hoạt động công nghiệp, đốt cháy nhiên liệu, hoạt động của các
phương tiện giao thông…).
• Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung do con người đối với chất
lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho con người, cho công
nghiệp, nông nghiệp, giao thông và môi trường nước. Ô nhiễm nước cũng do
nguồn gốc tự nhiên (mưa, tuyết tan, bão lụt đưa vào môi trường nước chất
thải bẩn, các sinh vật và vi sinh vật có hại kể cả xác chết của chúng) và
nguồn gốc nhân tạo (quá trình thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng
như các chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vào môi
trường nước).
• Ô nhiễm đất là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất
bởi các chất ô nhiễm. Có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc
phát sinh (ô nhiễm do các chất thải sinh hoạt, ô nhiễm do chất thải công
nghiệp và ô nhiễm do hoạt động nông nghiệp) hoặc theo các tác nhân gây ô
nhiễm (ô nhiễm do tác nhân hóa học: phân bón, thuốc trừ sâu…; ô nhiễm do
tác nhân sinh học: trực khuẩn lỵ, thương hàn, các loại ký sinh trùng…; ô
nhiễm đất do tác nhân vật lý: nhiệt độ, chất phóng xạ…).
2. Phát triển.
Đối với quá trình tồn tại và vận động của các sự vật và hiện tượng
trong thế giới khách quan, người ta thường dùng khái niệm phát triển để xác
định sự thay đổi các chỉ số của từng tiêu chí theo thời gian và không gian.
Còn riêng trong lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội, ngày nay khái niệm phát
triển đã được giới hạn chỉ ở những lĩnh vực liên quan trực tiếp đến đời sống
mọi mặt của con người.
Khóa luận tốt nghiệp
Phát triển hay nói đầy đủ hơn là phát triển kinh tế - xã hội của con
người là quá trình nâng cao về đời sống vật chất và tinh thần bằng phát triển
sản xuất, tăng cường chất lượng các hoạt động văn hóa, xã hội. Con người
vừa là đối tượng, vừa là động lực của phát triển; vì vậy, mục tiêu của sự phát
triển là không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh
thần của con người. Phát triển là xu hướng tất yếu trong sự tồn tại và hoạt
động của mỗi cá nhân, của từng cộng đồng dân cư và ở từng quốc gia.
Phát triển là một khái niệm đánh giá tổng hợp các điều kiện sống của
công đồng dân cư trong xã hội đối với việc bảo đảm các yêu cầu sau:
• Tạo điều kiện cho con người sinh sống ở bất kỳ nơi nào trong một đất
nước hay trên thế giới đều được trường thọ.
• Mỗi người đều có đủ tài nguyên cho cuộc sống sung túc, được thỏa
mãn các nhu cầu sống, đều có mức tiêu thụ hàng hóa và dịch vụ tốt mà
không phải lao động quá cực nhọc.
• Mọi người đều có trình độ học vấn cao, đều được hưởng những thành
tựu về văn hóa và tinh thần.
• Mọi người đều được sống trong một môi trường trong lành, sạch đẹp,
được hưởng các quyền cơ bản của con người và được đảm bảo an ninh, an
toàn, không có bạo lực.
Tăng trưởng kinh tế được đo bằng tốc độ phát triển và quy mô của nền
kinh tế. Tốc độ tăng trưởng được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) thông qua
việc so sánh quy mô sản xuất của hai thời kỳ xác định. Quy môi sản xuất của
thời kỳ sau so với thời kỳ trước càng lớn thì tốc độ tăng trưởng càng nhanh.
Trong nền kinh tế, sự tăng trưởng được đánh giá và thể hiện ở tốc độ tăng
GNP (tổng sản phẩm quốc dân) hay GDP (tổng sản phẩm quốc nội), mà
Khóa luận tốt nghiệp
chúng lại phụ thuộc vào tốc độ tăng của từng ngành kinh tế. Sự tăng trưởng
của từng ngành lại phụ thuộc vào hàng loạt những mối quan hệ hữu cơ khác.
Do vậy, tăng trưởng kinh tế là một chỉ tiêu quan trọng, nhưng nó chỉ mới là
điều kiện cần của phát triển kinh tế, bởi vì bên cạnh đó còn phải đồng thời
quan tâm đến các chỉ tiêu khác.
Phát triển là nhằm để mọi người đạt tới các mục tiêu nhất định về kinh
tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường, mức sống về vật chất và tinh
thần trong quốc gia đó. Các mục tiêu này thường được cụ thể hóa bằng
những chỉ tiêu khác nhau: không chỉ dựa vào chỉ tiêu GNP hay GDP, mà còn
có các chỉ tiêu về giáo dục, y tế, văn hóa…
3. Phát triển bền vững.
3.1. Khái niệm phát triển bền vững.
Khái niệm “phát triển bền vững” xuất hiện vào đầu thập niên 80 của
thế kỷ XX nhưng phải đến năm 1987, Ủy ban Thế giới về Môi trường và
Phát triển mới tiếp thu và triển khai trong Bản phúc trình mang tựa đề
“Tương lai của chúng ta”, trong đó đã đưa ra định nghĩa: “Phát triển bền
vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các nhu cầu hiện tại nhưng không làm
tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu
của chính họ”. Có thể coi đây là định nghĩa đầu tiên được dùng chính thức
và hiện vẫn được sử dụng trong các văn bản của chương trình môi trường
Liên Hợp Quốc (UNEP).
Năm 1992, Liên hợp quốc tổ chức Hội nghị thượng đỉnh về Trái đất
tại Rio de Janeiro, Brazil. Tại đây, các quốc gia đã thỏa thuận một chương
trình nghị sự về phát triển bền vững cho thế kỷ XXI (gọi tắt là Agenda 21),
và cũng đã thông qua được Công ước chung, theo đó viện trợ phát triển
Khóa luận tốt nghiệp
chính thức (ODA) cho các nước nghèo thuộc thế giới thứ ba cần phải chiếm
ít nhất 0,7% tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của các quốc gia công nghiệp
phát triển. Mười năm sau, năm 2002, Liên hợp quốc lại tổ chức Hội nghị
khác tại Johannesburg, Nam Phi, đã xác định phải xúc tiến và thực hiện
Agenda 21 và đề ra các mục tiêu cho Thiên niên kỷ.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu phát triển bền vững là sự phát triển liên
tục không ngừng về mọi mặt kinh tế, xã hội, môi trường… nâng cao chất
lượng cuộc sống của con người hiện tại và tương lai. Phát triển bền vững
chính là “vùng giao thoa” giữa ba mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội – môi
trường. Điều này có thể khái quát thành ba cấu thành chủ yếu của phát triển
bền vững, đó là: tăng trưởng kinh tế ổn định; thực hiện dân chủ, tiến bộ và
công bằng xã hội; môi trường được bảo vệ và giữ gìn trong sạch, lành mạnh.
Thông qua đó, mục đích cuối cùng cần hướng tới đó là chất lượng cuộc sống
của con người ngày càng được nâng cao.
Theo khoản 4, điều 3 Luật Bảo vệ môi trường 2005 của Việt Nam:
“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại
mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ
tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo
đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường”.
3.2. Nội dung phát triển bền vững.
Từ khái niệm phát triển bền vững, thực chất là một sự phát triển có
tính tổng hợp cao và có hệ thống. Tiếp cận quan điểm hệ thống và tổng hợp
cho phép hai nhà khoa học Canada là Jacobs và Sadler trình bày mối quan hệ
biện chứng giữa phát triển và môi trường trong hình dưới đây:
Khóa luận tốt nghiệp
Hình 1. Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội và môi
trường.
Mô hình này cũng đã được Mohan Munasingle, chuyên gia của Ngân
hàng thế giới (WB) phát triển vào năm 1993.
- Tăng trưởng
- Hiệu quả
- Ổn định
KINH TẾ
- Công bằng giữa các thế hệ
- Đánh giá tác động môi trường
- Mục tiêu trợ giúp việc làm
- Tiền tệ hóa tác động môi trường
Phát
triển bền
vững
XÃ HỘI
MÔI TRƯỜNG
- Giảm đói ngèo
- Đa dạng sinh học và thích nghi
- Xây dựng thể chế
- Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
- Bảo tồn di sản văn hóa
- Ngăn chặn ô nhiễm
- Công bằng giữa các thế hệ
- Sự tham gia của quần chúng
Khóa luận tốt nghiệp
Khía cạnh môi trường trong phát triển bền vững đòi hỏi chúng ta duy
trì sự cân bằng giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài
nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người nhằm mục đích duy trì mức độ
khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho phép môi
trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên
trái đất.
Khía cạnh xã hội của phát triển bền vững cần được chú trọng vào sự
phát triển công bằng xã hội, cần tạo mọi điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực
phát triển con người, nâng cao và cải thiện chất lượng cuộc sống cho tất cả
mọi người. Đó cũng chính là sự phát triển tự sinh do chính xã hội ấy chủ
động thực hiện, chứ không phải là sự phát triển ngoại sinh, sống nhờ hoàn
toàn từ bên ngoài, muốn vậy phải giảm đói nghèo, thường xuyên xây dựng
thể chế tốt và bảo tồn di sản văn hóa dân tộc.
Yếu tố kinh tế đóng vai trò không thể thiếu trong phát triển bền vững.
Nó đòi hỏi sự phát triển của hệ thống kinh tế trong đó cơ hội để tiếp xúc với
những nguồn tài nguyên được tạo điều kiện thuận lợi và quyền sử dụng
những nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các hoạt động kinh tế được chia sẻ
một cách bình đẳng. Khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ
ngành kinh doanh, sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lý
cơ bản. Yếu tố chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi
người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít, trong một giới
hạn cho phép của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ
bản của con người.
3.3. Các chỉ số phát triển bền vững.
Phát triển bền vững là một vấn đề rộng lớn, mang tính tổng hợp cao.
Để đo lường phát triển bền vững có nhiều chỉ tiêu khác nhau, có những chỉ
Khóa luận tốt nghiệp
tiêu định lượng được, nhưng cũng có những chỉ tiêu khó có thể định lượng
mà chỉ dừng ở mức độ định tính. UNDP đã đưa ra một hệ thống chỉ tiêu
nhưng chủ yếu tập trung ở 2 nhóm chỉ tiêu đó là chỉ số về sinh thái và chỉ số
phát triển con người (Human Development Index – HDI).
Chỉ số về sinh thái: Chỉ số này rất khó lượng hóa và tùy thuộc rất
nhiều vào hoàn cảnh tự nhiên trên từng lãnh thổ. Một cách tổng quát thì một
sự phát triển được gọi là đạt chỉ tiêu này khi sự phát triển ấy vừa giải quyết
được nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn bảo vệ được các hệ sinh thái
cơ bản trên lãnh thổ xác định, tức là bảo vệ được môi trường trên một phạm
vi rộng của không gian lãnh thổ. Đo lường chỉ tiêu này trên một lãnh thổ cụ
thể thường người ta căn cứ vào sự đa dạng sinh học, mức độ khai thác các
nguồn tài nguyên thiên nhiên tái sinh và không có khả năng tái sinh.
Chỉ số phát triển con người (HDI): là sự kết hợp của 3 chỉ tiêu cơ
bản liên quan đến sự phát triển con người: tuổi thọ, học thức (bao gồm tỷ lệ
người biết chữ trong độ tuổi và tỷ lệ người học ở các cấp học) và mức sống
của con người thông qua GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương
đương (PPP).
II. Môi trường trong việc phát triển bền vững.
1. Nhận thức về môi trường trong mối tương tác với kinh tế và xã
hội.
Môi trường tự nhiên và sản xuất xã hội có mối quan hệ khăng khít,
chặt chẽ, tác động lẫn nhau trong thế cân đối thống nhất: Môi trường tự
nhiên (bao gồm cả tài nguyên thiên nhiên) cung cấp nguyên liệu và không
gian cho sản xuất xã hội. Sự giàu nghèo của mỗi nước phụ thuộc khá nhiều
vào nguồn tài nguyên: Rất nhiều quốc gia phát triển chỉ dựa trên cơ sở khai
Khóa luận tốt nghiệp
thác tài nguyên để xuất khẩu đổi lấy ngoại tệ, thiết bị công nghệ hiện đại…
Có thể nói, tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung (trong đó
có tài nguyên) có vai trò quyết định đối với sự phát triển bền vững về kinh tế
- xã hội ở mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ, địa phương vì các lý do sau:
Thứ nhất, môi trường không chỉ cung cấp “đầu vào” mà còn chứa
đựng “đầu ra” cho các quá trình sản xuất và đời sống. Hoạt động sản xuất là
một quá trình bắt đầu từ việc sử dụng nguyên, nhiên liệu, vật tư, thiết bị máy
móc, đất đai, cơ sở vật chất kỹ thuật khác, sức lao động của con người để tạo
ra sản phẩm hàng hóa. Những dạng vật chất trên không phải gì khác, mà
chính là các yếu tố của môi trường.
Các hoạt động sống cũng vậy, con người cũng cần có không khí để
thở, cần có nhà để ở, cần có phương tiện để đi lại, cần có chỗ vui chơi giải
trí, học tập nâng cao hiểu biết… Những cái đó không gì khác chính là yếu tố
môi trường. Như vậy chính các yếu tố môi trường (yếu tố vật chất kể trên kể cả sức lao động) là “đầu vào” của quá trình sản xuất và các hoạt động
sống của con người. Hay nói cách khác: Môi trường là “đầu vào” của sản
xuất và đời sống. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng môi trường tự nhiên cũng có
thể là nơi gây ra nhiều thảm họa cho con người và các thảm họa này sẽ tăng
lên nếu con người gia tăng các hoạt động mang tính tàn phá môi trường, gây
mất cân bằng tự nhiên.
Ngược lại, môi trường tự nhiên cũng là nơi chứa đựng, đồng hóa “đầu
ra” các chất thải của quá trình hoạt động sản xuất và đời sống. Quá trình sản
xuất thải ra môi trường rất nhiều chất thải (cả khí thải, nước thải, chất thải
rắn). Trong các chất thải này có thể có rất nhiều loại chất độc hại gây ô
nhiễm môi trường, suy thoái hoặc gây ra các sự cố về môi trường. Quá trình
sinh hoạt, tiêu dung của xã hội loài người cũng thải ra môi trường rất nhiều
Khóa luận tốt nghiệp
chất thải. Những chất thải này nếu không được xử lý tốt cũng sẽ gây ô nhiễm
môi trường một cách nghiêm trọng.
Vấn đề ở đây là phải làm thế nào để hạn chế được nhiều nhất các chất
thải, đặc biệt là chất thải gây ô nhiễm, tác động tiêu cực đến môi trường.
Thứ hai, môi trường liên quan đến tính ổn định và bền vững của sự
phát triển kinh tế-xã hội. Phát triển kinh tế - xã hội là quá trình nâng cao
điều kiện sống về vật chất và tinh thần của con người qua việc sản xuất ra
của cải vật chất, cải tiến quan hệ xã hội, nâng cao chất lượng văn hóa. Phát
triển cũng là xu thế chung của từng cá nhân cũng như của cả loài người
trong quá trình sống. giữa môi trường và sự phát triển có mối quan hệ chặt
chẽ: Môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là
nguyên nhân tạo nên các biến đổi của môi trường.
Trong hệ thống kinh tế-xã hội, hang hóa được di chuyển từ sản xuất
đến lưu thông, phân phối và tiêu dung cùng với dòng luân chuyển của
nguyên liệu, năng lượng, sản phẩm, chất thải. Các thành phần đó luôn luôn
tương tác với các thành phần tự nhiên và xã hội của hệ thống môi trường
đang tồn tại trong địa bàn đó. Tác động của con người đến môi trường thể
hiện ở khía cạnh có lợi là cải tạo môi trường tự nhiên hoặc tạo ra kinh phí
cần thiết cho quá trình cải tạo đó, nhưng có thể gây ra ô nhiễm môi trường tự
nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời cũng tác động
đến sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc làm suy thoái nguồn tài
nguyên – đối tượng của sự phát triển kinh tế - xã hội hoặc gây ra các thảm
họa, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế - xã hội trong khu vực.
Ở các quốc gia có trình độ phát triển kinh tế khác nhau có các xu
hướng gây ô nhiễm môi trường khác nhau. Ví dụ:
Khóa luận tốt nghiệp
• Ô nhiễm do dư thừa: 20% dân số thế giới ở các nước giàu hiện sử
dụng 80% tài nguyên và năng lượng của loài người. Sản xuất công nghiệp
phát triển mạnh, hoạt động của quá nhiều các phương tiện giao thông vận tải
đã tạo ra một lượng lớn chất thải độc hại vào môi trường (đặc biệt là khí
thải). Hiện nay việc có được mua bán hay không quyền phát thải khí thải
giữa các nước đang là đề tài tranh luận chưa ngã ngũ trong các hội nghị
thượng đỉnh về môi trường, các nước giàu vẫn chưa thực sự tự giác chia sẻ
tài lực với các nước nghèo để giải quyết những vấn đề có liên quan đến môi
trường.
• Ô nhiễm do nghèo đói: mặc dù chiếm tới 80% dân số thế giới, song
chỉ sử dụng 20% tài nguyên và năng lượng của thế giới, chính vì thế mà
những người nghèo khổ ở các nước nghèo chỉ có con đường duy nhất là khai
thác tài nguyên thiên nhiên (rừng, khoáng sản, đất đai…) mà không có khả
năng hoàn phục. Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) về môi trường họp vào
tháng 1/2002 tại Trung Quốc đã cho rằng nghèo đói là thách thức lớn nhất
đối với công tác bảo vệ môi trường hiện nay. Do vậy, để giải quyết vấn đề
môi trường, trước hết các nước giàu phải có trách nhiệm giúp đỡ các nước
nghèo giải quyết nạn nghèo đói.
Như vậy, để phát triển, dù là giàu có hay nghèo đói đều tạo ra khả
năng gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề ở đây là phải giải quyết hài hòa mối
quan hệ giữa phát triển và bảo vệ môi trường. Để phát triển bền vững không
được khai thác quá mức dẫn tới hủy hoại tài nguyên, môi trường; thực hiện
các giải pháp sản xuất sạch, phát triển sản xuất đi đôi với các giải pháp xử lý
môi trường; bảo tồn các nguồn gen động vật, thực vật; bảo tồn đa dạng sinh
học; không ngừng nâng cao nhận thức của nhân dân về bảo vệ môi trường.
Khóa luận tốt nghiệp
Thứ ba, môi trường có liên quan tới tương lai của đất nước, dân tộc.
Như trên đã đề cập, bảo vệ môi trường chính là để giúp cho sự phát triển
kinh tế cũng như xã hội được bền vững. Kinh tế - xã hội phát triển giúp
chúng ta có đủ điều kiện để đảm bảo an ninh quốc phòng, giữ vững độc lập
chủ quyền của dân tộc. Điều đó lại tạo điều kiện ổn định chính trị xã hội để
kinh tế - xã hội phát triển. Bảo vệ môi trường là việc làm không chỉ có ý
nghĩa hiện tại, mà quan trọng hơn, cao cả hơn là nó có ý nghĩa cho tương lai.
Nếu một sự phát triển có mang lại lợi ích kinh tế trước mắt mà khai thác cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường, làm cho các thế hệ sau
không còn điều kiện để phát triển mọi mặt (cả về kinh tế, xã hội, thể chất, trí
tuệ con người…), thì sự phát triển đó phỏng có ích gì. Nếu hôm nay thế hệ
chúng ta không quan tâm tới, không làm tốt công tác bảo vệ môi trường, làm
cho môi trường bị hủy hoại thì trong tương lai, con cháu chúng ta chắc chắn
sẽ phải gánh chịu những hậu quả tồi tệ.
2. Quan điểm về môi trường và phát triển.
Các nhà kinh tế học đã chỉ ra rất nhiều nguyên nhân tạo nên sự phát
triển của kinh tế - xã hội: đó là sự ra đời của máy móc, công cụ khoa học kỹ
thuật, đó là sự thông minh cùng với óc sáng tạo và khả năng lao động của
con người… nhưng hơn tất cả đó là môi trường. Tự bản than máy móc, công
cụ sẽ không phát huy tác dụng nếu không có nguyên vật liệu, nhiên liệu; con
người dù thông minh, sáng tạo đến bao nhiêu cũng sẽ không thể có không
gian để tồn tại và sản xuất nếu không có môi trường. Không thể tách sự phát
triển kinh tế - xã hội khỏi môi trường. Môi trường và sự phát triển có mối
quan hệ khăng khít với nhau. “Nếu không bảo vệ môi trường một cách chính
đáng, phát triển sẽ bị suy yếu dần. Ngược lại, không có phát triển, bảo vệ
Khóa luận tốt nghiệp
môi trường sẽ thất bại”. (Báo cáo phát triển thế giới 1992 của Ngân hàng
Thế giới).
Như chúng ta đã biết, môi trường sống là tổng hợp các điều kiện sống
của con người. Phát triển là quá trình sử dụng và cải thiện các điều kiện đó.
Giữa môi trường và phát triển có mối quan hệ hết sức chặt chẽ. Môi trường
là địa bàn và đối tượng của phát triển. Phát triển là nguyên nhân tạo nên mọi
biến đổi tích cực cũng như tiêu cực đối với môi trường. Phát triển kinh tế xã hội là nhu cầu tất yếu của loài người và tất nhiên trong quá trình phát
triển kinh tế con người sẽ phải khai thác môi trường, do vậy ở đây nảy sinh
mâu thuẫn giữa việc phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Trong phạm vi một quốc gia, cũng như trên toàn thế giới, luôn luôn
tồn tại hai hệ thống: hệ thống kinh tế - xã hội cấu thành bởi các khâu: sản
xuất, lưu thông, phân phối, tiêu dùng, tạo nên một dòng luân chuyển nguyên
liệu, năng lượng, hàng hóa, phế thải giữa các phần tử của hệ thống. Hệ thống
môi trường với các thành phần thiên nhiên và xã hội cùng tồn tại trên một
địa bàn với hệ thống kinh tế - xã hội. Mối quan hệ hay các mâu thuẫn đều
được biểu hiện rất rõ ràng.
Hệ thống kinh tế lấy nguyên liệu, năng lượng từ hệ thống môi trường.
Đây là một trong những chức năng của môi trường: cung cấp nguyên, nhiên
liệu cho cuộc sống con người. Nếu vì phát triển kinh tế mà khai thác cạn kiệt
tài nguyên thiên nhiên không tái tạo được hoặc khai thác quá khả năng phục
hồi đối với tài nguyên tái tạo được thì sẽ dẫn tới không còn nguyên liệu,
năng lượng, từ đó phải đình chỉ sản xuất, giảm sút hoặc triệt tiêu hệ thống
kinh tế. Chất thải là thứ mà cuộc sống sinh hoạt của con người và các hoạt
động kinh tế thải ra môi trường nhiều nhất. Hầu hết các phế thải đều độc hại
đối với sức khỏe và sinh mệnh con người, tác động xấu đến không khí,