ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRIỆU VĂN NAM
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG)
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRIỆU VĂN NAM
CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
(TRÊN CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG)
Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. TRỊNH TIẾN VIỆT
Hà Nội - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn
thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Triệu Văn Nam
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng, biểu đồ
MỞ ĐẦU .............................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT
TỰ CÔNG CỘNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM ...........................6
1.1. TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÁCH THỂ QUAN
TRỌNG ĐƯỢC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM BẢO VỆ ..................................6
1.1.1. Khái niệm trật tự công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng...........6
1.1.2. Phân nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng ............................10
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 ĐẾN
NAY VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ..........................11
1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước pháp điển hóa lần
thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985..................................................12
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến trước
pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999 .....................................14
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 đến nay
............................................................................................................................16
1.3. CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG TRONG BỘ LUẬT
HÌNH SỰ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .................................................25
1.3.1. Bộ luật hình sự Liên bang Nga ................................................................25
1.3.2. Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức................................................28
1.3.3. Bộ luật hình sự Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ......................................29
Chương 2: CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ...................33
THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 VÀ
THỰC TIỄN XÉT XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ......................33
2.1. CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG THEO QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM NĂM 1999 ........................................33
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt..............................................33
2.1.2. Các tội phạm cụ thể..................................................................................38
2.2. THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ GIANG ................................................................60
2.2.1. Tình hình chung........................................................................................60
2.2.2. Một số tồn tại, hạn chế .............................................................................69
2.2.3. Các nguyên nhân cơ bản ..........................................................................75
Chương 3: TIẾP TỤC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ
CÔNG CỘNG ...................................................................................................77
3.1. SỰ CẦN THIẾT, Ý NGHĨA CỦA VIỆC TIẾP TỤC HOÀN THIỆN VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG ...............77
3.1.1. Sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam về các tội xâm phạm trật tự công cộng ......................................................77
3.1.2. Ý nghĩa của việc tiếp tục hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm trật tự công cộng ......79
3.1.3. Nội dung tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về
các tội xâm phạm trật tự công cộng ...................................................................80
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT
TỰ CÔNG CỘNG ..............................................................................................92
3.2.1. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích các quy định của Bộ luật
hình sự trong tương quan với các văn bản pháp luật khác về hành vi xâm phạm
trật tự công cộng ................................................................................................93
3.2.2. Tuyên truyền, phổ biên, giáo dục pháp luật trong nhân dân ...................94
3.2.3. Phối hợp các cơ quan, tổ chức với các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa
án để phòng ngừa, ngăn chặn và xét xử nghiêm minh các tội xâm phạm trật tự
công cộng ...........................................................................................................97
3.2.4. Giải pháp mang tính nghiệp vụ, chuyên ngành, quản lý hành chính về
trật tự xã hội .......................................................................................................98
3.2.5. Giải pháp tăng cường đời sống, cơ sở vật chất, trang thiết bị, công cụ hỗ
trợ cho cán bộ, chiến sĩ, người thi hành công vụ và trách nhiệm của đội ngũ
làm công tác thi hành công vụ, bảo vệ an toàn, trật tự xã hội.........................101
KẾT LUẬN .....................................................................................................104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................106
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BLHS
: Bộ luật hình sự
- TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
- TNHS
: Trách nhiệm hình sự
- TTCC
: Trật tự công cộng
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Số hiệu
bảng,
Tên bảng, biểu đồ
Trang
biểu đồ
Bảng 2.1. Tỉ lệ các tội phạm và bị cáo trong nhóm các tội phạm
xâm phạm trật tự công cộng đã xét xử trên địa bàn tỉnh
Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015
Biểu đồ 2.1.
66
Tỉ lệ các tội xâm phạm trật tự công cộng đã xét xử trên
địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015
66
Biểu đồ 2.2: Tỉ lệ bị cáo trong nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng đã
bị xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 – 2015
67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của
Nhà nước ta trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế
độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm
chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân, duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời pháp luật hình
sự còn góp phần chống lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục mọi người ý thức
chấp hành và tuân theo pháp luật.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của cả nước đã có những khởi
sắc đáng mừng, từ đó có những tác động tích cực đến đời sống của toàn bộ
nhân dân cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những tích cực đã đạt được, chúng ta
không thể không thấy những khó khăn và thách thức to lớn đặt ra với toàn
Đảng và toàn dân.
Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật
tự công cộng (TTCC) xảy ra trên các thành phố, khu đô thị, thị xã lớn đang là
vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này không có tính nguy
hiểm cao so với các loại tội phạm khác nhưng lại có tính phổ biến, đa dạng hình
thức và có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội;
xâm phạm nghiêm trọng các quan hệ xã hội trong lĩnh vực công cộng, gây tổn
hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước. Qua các số liệu thống kê
chính thức được thu thập từ các cơ quan bảo vệ pháp luật trong cả nước cho
thấy, diễn biến của loại hành vi và tội phạm này ngày càng phức tạp.
Vì vậy, để làm sáng tỏ các dấu hiệu pháp lý của nhóm tội xâm phạm
TTCC, phân tích lịch sử hình sử hình thành và phát triển của luật hình sự Việt
Nam về nhóm tội xâm phạm TTCC từ năm 1945 đến nay, đánh giá thực tiễn xét
xử loại tội phạm này ở tỉnh Hà Giang trong thời gian vừa qua (2010 - 2015),
trên cơ sở đó, chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn, lý luận và các
nguyên nhân cơ bản, qua đó bước đầu tìm giải pháp hoàn thiện trên phương
diện lập pháp hình sự và giải pháp về mặt thực tiễn (góc độ tội phạm học) để
góp phần phòng, chống tội phạm này, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội có
1
ý nghĩa chính trị - pháp lý và lý luận - thực tiễn quan trọng. Đây cũng là lý do
để chúng tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Các tội xâm phạm trật tự công cộng
trong luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang)”
làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu và điểm mới khoa học của luận văn.
Chương XIX Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam năm 1999, sửa đổi, bổ
sung năm 2009 (sau này là Chương XXI BLHS năm 2015) quy định về các tội
xâm phạm an toàn công cộng, TTCC. Các nội dung chính cũng như các điều luật
trong chương này, trong đó có sự phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình
phạt của nhóm tội phạm xâm phạm TTCC đã được một số nhà khoa học - luật gia
hình sự quan tâm nghiên cứu, đồng thời thể hiện ở một số sách chuyên khảo, tham
khảo, bình luận, giáo trình đại học và luận văn thạc sĩ, chẳng hạn như:
* Giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo:
[1] GS. TS Đỗ Ngọc Quang, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội 2003;
[2] GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chương X - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm), do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ biên, Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội 2001;
[3] GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chương XXV - Các tội xâm phạm an
toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Giáo trình luật hình sự Việt
Nam (Tập II), do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội. 2010;
[4] TS. Trương Quang Vinh, Bình luận các điều 241 đến 256, trong
sách: “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999” (tài bản có sửa
chữa, bổ sung), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2008;
[5] GS.TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên), Chương XIX - Các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình
sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi
hành, Nxb Lao động, Hà Nội 2010;
[6] TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 - Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
2
trật tư công cộng. Trong sách: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội
phạm), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2010;
[7] PGS.TS. Trần Hải Âu, Vũ Thế Công (chủ biên), Lý luận chung về
trật tự công cộng và bảo đảm trật tự công công và các quy định của pháp luật
về bảo đảm trật tự công cộng, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội,. 2011;
[8] GS.TS. Trần Minh Hưởng, Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, trật tự quản lý hành chính, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội 2002;
[9] TS. Nguyễn Đức Mai, Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng. Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999, Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001.
[10] ThS. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình
sự - Phần các tội phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; v.v…
* Luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật học
Luận văn thạc sĩ luật học về đề tài này chưa có, chỉ có một số tội phạm
riêng lẻ trong nhóm các tội xâm phạm TTCC đã được đề cập, chẳng hạn:
[1] Nguyễn Thanh Hải, Tội gây rối trật tự công cộng trong luật hình sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2011;
[2] Nguyễn Ngọc Anh, Tội đua xe trái phép trong luật hình sự Việt Nam,
Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011;
[3] Nguyễn Văn Giang, Tội đánh bạc trong luật hình sự Việt Nam và
thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hòa Bình, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012;
[4] Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Tội làm môi giới hối lộ trong luật hình sự
Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc
sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013;
[5] Nguyễn Thu Huyền, Tội chứa mại dâm trong luật hình sự Việt Nam
(trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật
học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2015; v.v…
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu đã nêu trên chỉ xem xét các tội
xâm phạm TTCC với ý nghĩa là những tội phạm/tội danh cụ thể để bình luận
3
các dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt, cũng như phân tích việc định tội
danh, quyết định hình phạt trong tương quan giữa các tội phạm này với một số
tội phạm khác có cấu thành tội phạm có tính tương tự hoặc chỉ xem xét dưới
góc độ phòng ngừa dưới góc độ tội phạm học cả nhóm tội phạm an toàn công
cộng, TTCC trong BLHS năm 1999, mà chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu độc lập, có hệ thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dưới
góc độ pháp lý hình sự về các tội xâm phạm TTCC và trên một địa bàn cụ thể
là tỉnh Hà Giang. Do đó, điểm mới về mặt khoa học của đề tài lần đầu tiên
trong khoa học luật hình sự đề cập đến riêng nhóm tội phạm này dưới góc độ
một luận văn thạc sĩ luật học.
3. Mục đích và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ
bản của nhóm các tội phạm xâm phạm TTCC như khái niệm, các dấu hiệu pháp
lý hình sự và hình phạt, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử các tội
phạm này trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 - 2015. Trên cơ sở đó,
luận văn chỉ ra một số vướng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, định tội danh và
hình phạt để đề xuất một số kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và những
giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS Việt Nam về
xử lý loại tội phạm này.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của đề tài - Các tội
phạm xâm phạm TTCC trong luật hình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học
pháp lý như: Lịch sử, lý luận về Nhà nước và pháp luật, xã hội học pháp
luật, luật hình sự, tội phạm học và triết học, những luận điểm khoa học trong
các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp
chí trong và ngoài nước.
4
4.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học
luật hình sự như: Phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học, phương pháp so
sánh, đối chiếu, phương pháp điều tra án điển hình để phân tích các tri thức
khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề khoa học cần nghiên cứu.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng của luận văn là ở chỗ - tác giả đã
làm rõ các vấn đề chung các tội xâm phạm TTCC trong luật hình sự Việt Nam,
phân tích khái quát lịch sử hình thành và phát triển của các quy định trong luật
hình sự nước ta về nhóm tội phạm này từ năm 1945 đến nay, phân biệt các tội
phạm trong cùng nhóm; làm sáng tỏ các quy định của BLHS năm 1999 về các tội
xâm phạm TTCC và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang giai đoạn 2010 2015, qua đó chỉ ra nguyên nhân của thực trạng này và đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật và những giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của
BLHS nước ta về các tội phạm xâm phạm TTCC ở khía cạnh lập pháp và việc áp
dụng trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần
thiết cho các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên
cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như phục vụ cho
công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng BLHS Việt Nam liên quan đến
tội xâm phạm TTCC, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh
phòng, chống nhóm tội phạm này, cũng như giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã
hội hiện nay ở nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Hà Giang nói riêng.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương;
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội xâm phạm trật tự công cộng
trong luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các tội xâm phạm trật tự công cộng theo quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hà Giang.
Chương 3: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm
trật tự công cộng.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ
CÔNG CỘNG TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. TRẬT TỰ CÔNG CỘNG VỚI TƯ CÁCH LÀ KHÁCH THỂ
QUAN TRỌNG ĐƯỢC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM BẢO VỆ
1.1.1. Khái niệm trật tự công cộng và các tội xâm phạm trật tự công cộng
* Khái niệm trật tự công cộng
Đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm
phải kể đến luật hình sự với tư cách là một ngành luật duy nhất trong hệ thống
pháp luật của Nhà nước quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào là
các tội phạm và danh mục hình phạt các biện pháp pháp lý hình sự cần áp dụng
đối với những người đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội đó. Điều 8
BLHS năm 1999 đã xác định các khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ đó
là: độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội…
Trong các khách thể đó trật tự, an toàn xã hội là một khách thể quan trọng, có ý
nghĩa nền tảng, gắn chặt với sự phát triển ổn định chung của xã hội, là thước
đo, tiêu chí để đánh giá sức mạnh của cơ quan bảo vệ pháp luật, văn minh pháp
lý của công dân [77, tr.320].
Xét riêng trong lĩnh vực chung của xã hội, an toàn công cộng, TTCC
được coi là điều kiện bảo đảm cho mọi công dân có cơ hội tồn tại, phát triển và
sử dụng tốt năng lực, cống hiến của mình để xây dựng một xã hội văn minh,
dân chủ, giàu đẹp, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Cho
nên dưới bất kỳ hình thức nào, bằng cách này hay cách khác, việc giữ gìn và
bảo vệ an toàn công cộng, TTCC không những là một trong những nhiệm vụ
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của Nhà nước, mà đến lượt mình, Nhà nước lại đòi hỏi
tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi công dân phải tuân thủ một cách nghiêm túc
pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội xã hội chủ nghĩa [77, tr. 321].
Cho nên, dưới góc độ pháp lý, tất cả các hành vi xâm phạm “an toàn công
6
cộng, trật tự công cộng” đều gây nên những thiệt hại nhất định cho cuộc sống
bình thường của công dân cần thiết phải bị xử lý, tùy theo tính chất và mức độ
nguy hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau từ xử
phạt hành chính đến xử lý hình sự.
Khách thể trật tự, an toàn xã hội được quy định thành một chương riêng.
Chương XIX - Các tội phạm xâm phạm an toàn công cộng, TTCC, có số lượng
các điều luật tương đối lớn (gồm 59 điều, từ điều 202 đến điều 256). Như vậy
với tư cách là khách thể quan trọng được luật hình sự bảo vệ, đòi hỏi chúng ta
phải làm rõ phạm trù “trật tự công cộng”.
Theo cuốn “Từ điển từ và ngữ Hán - Việt” của Giáo sư Nguyễn Lân,
Nxb. Văn học, Hà Nội 2003: “Trật tự là tình trạng ổn định, có thứ bậc trên
dưới, trước sau...” [32, tr. 16, 704].
Mặt khác, theo “Từ điển Bách khoa toàn thư”:
TTCC là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung
bao gồm những quy định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa; sự tuân
thủ những quy định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt
được mọi người thừa nhận; tình trạng yên ổn, có trật tự, tôn trọng lẫn
nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi… [82].
Còn dưới góc độ pháp lý, Từ điển Luật học có giải thích cụ thể “trật tự
công cộng” là:
Trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng.
Những nơi phục vụ lợi ích công cộng như đường phố, quảng trường,
công viên, bệnh viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, bãi biển, khu nghỉ
mát… được tổ chức sắp xếp ngăn nắp, các quy ước chung được mọi
người tôn trọng, thực hiện nghiêm chỉnh. Quy tắc bắt buộc phải tuân
theo để bảo vệ lợi ích chung của xã hội, thể hiện toàn bộ yêu cầu cơ
bản của xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… [68,
tr. 68, 809].
Ngoài ra, trong một nghiên cứu chuyên sâu, PGS.TS. Trần Hải Âu, Vũ
Thế Công và tập thể tác giả quan niệm như sau:
TTCC là tình trạng xã hội có ổn định, hoạt động của con
7
người tuần tự, được tổ chức theo một quy tắc nhất định và tuân thủ
các quy tắc đó tại không gian công cộng để bảo đảm lợi ích chung
cho tất cả mọi người trong khi cùng tham gia hoạt động [1, tr.7-8];
v.v…
Tóm lại, từ các phân tích trên, theo chúng tôi khái niệm đang nghiên cứu
có thể được định nghĩa như sau: TTCC là trạng thái xã hội có trật tự được hình
thành và điều chỉnh bởi các quy tắc, quy phạm nhất định ở những nơi công
cộng mà mọi người phải tuân theo.
* Khái niệm các tội xâm phạm trật tự công cộng
Xét riêng dưới góc độ khoa học, quan điểm về khái niệm “các tội xâm
phạm an toàn công cộng, TTCC ” mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau, song tựu
trung lại tổng hợp các quan điểm đó vẫn thống nhất trong việc nêu ra bản chất
pháp lý của nhóm tội phạm này và gộp chung các tội xâm phạm an toàn công
cộng với TTCC chứ không có định nghĩa riêng về các tội xâm phạm TTCC, do
đó, chúng tôi phân tích chung cả “an toàn công cộng, TTCC ” để từ đó rút ra
khái niệm đang nghiên cứu.
Trước hết, có tác giả quan niệm:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội xâm phạm hai nhóm quan hệ xã hội cùng loại liên
hệ chặt chẽ với nhau và có những đặc điểm chung: các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực an toàn công cộng và TTCC [4, tr. 5, 439].
Ngoài ra, theo GS.TS. Đỗ Ngọc Quang:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, có lỗi, xâm phạm vào những quy định của Nhà nước về an
toàn, TTCC trong các lĩnh vực giao thông vận tải, phòng cháy chữa
cháy, tin học, lao động sản xuất, quản lý vũ khí, phương tiện, công cụ
hỗ trợ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, và trong những lĩnh vực
khách của trật tự xã hội gây nên những thiệt hại về tính mạng, tổn hại
đến sức khỏe, tài sản của Nhà nước và của công dân [39, tr. 37, 494].
Với các quan điểm này có nhân tố hợp lý là đã phân loại đầy đủ và chi
tiết từng nhóm tội xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau liên quan đến an toàn
8
công cộng, TTCC, nêu được mối liên hệ giữa hai nhóm có quan hệ chặt chẽ với
nhau là TTCC và an toàn công cộng tuy nhiên lại chưa thấy nêu dấu hiệu chủ
thể của nhóm tội phạm này trong khái niệm đã nêu.
Tuy nhiên, theo GS.TS. Võ Khánh Vinh trên cơ sở khái niệm tội phạm
nói chung đã chỉ ra:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự (TNHS) thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm đến an toàn công cộng, TTCC gây ra những thiệt hại cho tính
mạng, sức khỏe của nhân dân, gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước
và của cá nhân [75, tr.74, 401].
Cũng trên cơ sở khái niệm về tội phạm nói chung, trong cuốn “Tìm hiểu
BLHS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những văn bản hướng dẫn thi
hành" của GS.TS. Trần Minh Hưởng (chủ biên) và tập thể tác giả đã khẳng định:
Các tội xâm phạm an toàn, TTCC là những hành vi nguy
hiểm cho xã hội, có lỗi, do người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào những quy định
của Nhà nước về an toàn công cộng, TTCC , gây ra những thiệt hại
về tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến hoạt động bình thường ở
những nơi công cộng [29, tr.439].
Quan điểm này nêu tương đối đầy đủ nội dung, trong đó nhấn mạnh
thêm việc các hành vi xâm phạm đến cả “hoạt động bình thường ở những nơi
công cộng, nhưng trong dấu hiệu chủ hiệu chủ thể của nhóm tội phạm này còn
chưa nêu” dấu hiệu “đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ”, vì đây là một dấu hiệu
hoàn toàn khác với dấu hiệu “có năng lực trách nhiệm hình sự ”; v.v...
Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự, theo chúng tôi khái niệm
đang nghiên cứu được định nghĩa như sau: Các tội xâm phạm TTCC là những
hành vi nguy hiểm cho xã hội, do những người có đủ năng lực TNHS và đủ tuổi
chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào các quy định của
Nhà nước về TTCC, gây ra những thiệt hại về tài sản của Nhà nước, của tổ chức,
9
thiệt hại về tính mạng sức khỏe, tài sản của công dân đồng thời còn xâm phạm
đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội ở những nơi công cộng.
Như vậy, từ khái niệm này chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản
các tội xâm phạm TTCC:
Một là, các tội xâm phạm TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm vào các quy định của Nhà nước về TTCC, gây ra những thiệt hại về
tài sản của Nhà nước, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản của
công dân, đồng thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thường, ổn định xã hội
ở những nơi công cộng.
Hai là, các tội xâm phạm TTCC là những hành vi nguy hiểm cho xã hội
do những người có đủ năng lực, TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện.
Ba là, các tội xâm phạm TTCC do những người có đủ năng lực TNHS
và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý, không có mục đích chống chính
quyền nhân dân.
1.1.2. Phân nhóm các tội phạm xâm phạm trật tự công cộng
Việc phân nhóm tội phạm trong BLHS trên cơ sở khoa học - thực tiễn sẽ
có vai trò rất quan trọng trong việc áp dụng đúng đắn và chính xác các quy định
của pháp luật trong công tác truy cứu TNHS người phạm tội, xác định rõ thẩm
quyền điều tra, truy tố và xét xử, cũng như phân hóa TNHS và cá thể hóa hình
phạt đối với người phạm tội.
Phân nhóm các tội phạm cụ thể - các tội xâm phạm an toàn công cộng,
TTCC có ý nghĩa quan trọng ở chỗ - làm rõ khách thể của tội phạm xâm hại
đến quan hệ xã hội của hành vi phạm tội, hình thức lỗi của từng loại tội phạm,
cũng như các chế tài pháp lý được áp dụng. Qua nghiên cứu cho thấy, về cơ bản
các nhà khoa học - luật gia đều căn cứ vào sự phân loại các nhóm tội phạm theo
BLHS năm 1999 (từng nhóm quan hệ xã hội mà một nhóm tội phạm xâm phạm
đến) để thống nhất như sau:
Các tội xâm phạm TTCC bao gồm 12 tội danh (từ Điều 245 đến Điều
256) quy định trong BLHS năm 1999. Tuy nhiên, dưới góc độ khoa học luật
hình sự, căn cứ vào khách thể trực tiếp bị tội phạm xâm phạm đến (TTCC, có
thể cả tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân hay tài sản của tổ chức, của
10
Nhà nước, sự ổn định, bình yên của đời sống xã hội...) chúng tôi nhất trí với
quan điểm cần phân nhóm các tội xâm phạm TTCC thành hai nhóm tội chính
như sau:
* Nhóm các tội xâm phạm TTCC liên quan đến tệ nạn xã hội bao gồm 6
tội danh trong BLHS năm 1999, cụ thể là:
- Tội hành nghề mê tín, dị đoan (Điều 247);
- Tội đánh bạc (Điều 248);
- Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 249);
- Tội chứa mại dâm (Điều 254);
- Tội môi giới mại dâm (Điều 255);
- Tội mua dâm người chưa thành niên (Điều 256).
* Nhóm các tội khác xâm phạm trật tự xã hội bao gồm 6 tội danh trong
BLHS năm 1999, cụ thể là:
- Tội gây rối trật tự công cộng (Điều 245);
- Tội xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt (Điều 246);
- Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có (Điều 250);
- Tội hợp pháp hóa tiền, tài sản do phạm tội mà có - nay tội phạm này
đổi tên thành tội rửa tiền (Điều 251);
- Tội dụ dỗ, ép buộc hoặc chưa chấp người chưa thành niên phạm pháp (Điều 252);
- Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy (Điều 253).
Như vậy để làm rõ nhóm tội phạm xâm phạm trật tự xã hội, chúng ta đi
sâu phân tích làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự và phân biệt
các tội danh trong cùng nhóm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, qua đó
nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm này trong
xã hội, cũng như góp phần định tội danh chính xác và đúng đắn hành vi phạm
tội trên thực tế của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
1.2. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
ĐẾN NAY VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
Sự hình thành và phát triển các quy định pháp luật hình sự của nước ta
gắn liền với các giai đoạn của cách mạng dân tộc trong kháng chiến chống
11
Pháp, chống Mỹ đến khi đất nước thống nhất, xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bước vào thời kỳ đổi mới.
1.2.1. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám 1945 đến trước pháp điển
hóa lần thứ nhất - Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
Cách mạng Tháng 8/1945 thắng lợi, tại quảng trường Ba Đình lịch sử,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam Dân chủ cộng hòa. Đây là thời kỳ chính quyền cách mạng còn non trẻ,
phải đương đầu với muôn vàn thử thách khó khăn: Vừa phải khôi phục và xây
dựng lại nền kinh tế - xã hội bị chiến tranh tàn phá, vừa phải xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân, phải đối phó với các thế lực thù địch ở trong nước và
nước ngoài... Vì vậy, chính quyền mới chưa thể xây dựng được hệ thống pháp
luật nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. Tuy nhiên, vấn đề lập pháp và
thực thi pháp luật luôn được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm.
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh 47/SL quy
định tạm thời sử dụng luật lệ cũ hiện hành lúc đó tại Việt Nam. Theo nội dung Sắc
lệnh: “Tòa án xét xử theo luật hình sự cũ mà thực dân phong kiến đã đề ra với điều
kiện không trái nguyên tắc độc lập của Nhà nước và chính thể dân chủ cộng hòa”
[16]. Tuy vậy, do hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, chính quyền cách mạng tập
trung chủ yếu vào việc xét xử những tội phạm phản cách mạng, chống phá
chính quyền tại các Tòa án quân sự và một số tội đặc biệt nguy hiểm khác như:
tội đầu cơ, tội tích trữ... nhằm củng cố và bảo vệ Nhà nước trong những ngày
mới thành lập. Như vậy, thời kỳ sau những năm 1950, Nhà nước ta chưa ban
hành văn bản pháp luật quy định các tội xâm phạm đến trật tự, an toàn cộng
cộng nói chung.
Trong những năm 60 của thế kỷ XX, trên cơ sở những kinh nghiệm của
thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) đã ban hành các báo cáo
tổng kết, các chỉ thị hướng dẫn về đường lối xử lý một số tội phạm nguy hiểm
và phổ biến, Tuy vậy, các tội phạm liên quan đến trật tự, an toàn công cộng nói
chung chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể.
Đến Hiến pháp năm 1959, đã quy định tại Điều 39: “Công dân nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao
12
động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt xã hội” [45, Điều 39]. Đây
có thể coi là sự quy định mang tính định hướng đầu tiên của nước ta về vấn đề
TTCC nhưng mới chỉ dừng lại ở việc quy định về việc công dân phải tuân theo
những quy tắc sinh hoạt xã hội mà chưa có các quy định cụ thể về việc quy tắc
đó là gì và nếu vi phạm thì xử lý như thế nào.
Sau khi được giải phóng, ngày 15/03/1976, Chính phủ cách mạng lâm
thời cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ban hành Sắc luật 03-SL/76 ngày
15/3/1976 quy định “Các tội phạm và hình phạt” trong đó đã quy định tại Điều
9 - tội xâm phạm đến TTCC, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân. Như
vậy, trong một văn bản pháp luật đã đề cập cụ thể đến một khách thể được pháp
luật hình sự bảo vệ - TTCC.
Tiếp ngay sau đó, Thông tư số 03-BTP tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03-SL/76 cụ thể hơn các hành vi xâm phạm đến
TTCC, an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân [55, tr. 59]:
- Tụ tập đông người nhằm gây náo động trong dân chúng và gây rối trật
tự ngoài đường phố hoặc ở các nơi công cộng chống lại nhân viên nhà nước khi
làm nhiệm vụ;
- Vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn nghiêm trọng;
- Tổ chức du đãng có hành động càn quấy, đe dọa tính mạng người khác
và an toàn xã hội;
- Cờ bạc, tổ chức ổ mại dâm, buôn bán, tàng trữ ma túy và các chất độc
khác trái phép;
Ngoài ra, những hành vi sau đây cũng bị coi là tội xâm phạm đến TTCC,
an toàn công cộng và sức khỏe của nhân dân và bị sử phạt theo điều 9 Sắc luật.
- Giả danh cán bộ, bộ đội, nhân viên an ninh;
- Cố ý vi phạm quy tắc quản lý vũ khí, chất nổ;
- Trốn trại giam hoặc tổ chức cho kẻ khác trốn trại giam, không vì mục
đích phản cách mạng;
- Phản tuyên truyền, chống lại việc thực hiện các chính sách và pháp luật
nhà nước, không vì mục đích phản cách mạng;
- Cố ý truyền bá, lưu hành các tác phẩm văn hóa đồi trụy, không vì mục
13
đích phản cách mạng;
- Xuất cảnh, nhập cảnh trái phép, không vì mục đích phản cách mạng;
- Vi phạm các quy định về quyền lập hội và quyền hội họp.
Phạm các tội trên nếu vượt quá mức độ xử lý hành chính, thì bị truy tố
và xét xử về hình sự và bị phạt tù từ 3 tháng đến 5 năm. Trường hợp nghiêm
trọng, thì bị phạt tù đến 15 năm. Ngoài ra, còn có thể bị phạt tiền đến 1000
đồng và có thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Kẻ phạm tội có tính chất chuyên nghiệp còn bị phạt quản chế hoặc cấm
lưu trú ở một địa phương từ 1 năm đến 5 năm, sau khi mãn hạn tù
Như vậy, có thể khẳng định, trong thời kỳ áp dụng luật hình sự giai đoạn
từ năm 1945 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985, Nhà nước ta đã ban hành
một số văn bản pháp luật hình sự quy định về các tội phạm xâm phạm TTCC.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nước nên các văn bản hướng dẫn còn chưa thống
nhất, đồng bộ, các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC nói chung chưa được
đề cập cụ thể.
1.2.2. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
đến trước pháp điển hóa lần thứ hai - Bộ luật hình sự năm 1999
Trước tình hình đổi mới của đất nước, với những biến chuyển về mặt
kinh tế - xã hội, để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tất yếu
đòi hỏi Nhà nước phải ban hành hệ thống pháp luật mới trong đó có pháp luật
hình sự.
Để đáp ứng yêu cầu bức thiết đó, sau một thời gian dài nghiên cứu soạn
thảo, BLHS được Quốc hội nước ta thông qua ngày 27/06/1985 và có hiệu lực
từ ngày 01/01/1986. Đây là đạo luật được pháp điển hóa hoàn chỉnh bao gồm
hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự quy định về tội phạm và hình phạt nói
chung cũng như về các tội phạm cụ thể và các khung hình phạt cụ thể đối với
tội phạm đó. Sự ra đời của BLHS đầu tiên của Nhà nước ta đã đánh dấu sự phát
triển của công tác lập pháp trong lĩnh vực hình sự. Trong đó, chương VIII quy
định về các tội xâm phạm an toàn, TTCC và trật tự quản lý hành chính trong đó
chia làm 3 mục tương ứng:
- Mục A: Các tội xâm phạm an toàn công cộng;
- Mục B: Các tội xâm phạm TTCC;
14
- Mục C: Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
BLHS năm 1985 đã thể hiện một bước tiến quan trọng trong việc pháp
điển hóa các tội phạm hình sự nói chung và tội xâm phạm TTCC nói riêng
thành các tội phạm tương ứng trong từng chương tội phạm của BLHS và phản
ánh chính xác từng khách thể mà các tội phạm khác nhau đã xâm phạm đến.
Như vậy, để bảo vệ “an toàn công cộng, TTCC ” với tư cách là khách
thể quan trọng được luật hình sự xác lập và bảo vệ, BLHS đầu tiên của nước ta
năm 1985, nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC được xếp chung tại
Chương VIII - “Các tội xâm phạm an toàn, TTCC, trật tự quản lý hành chính”
với các nhóm quan hệ xã hội được luật hình sự xác lập và bảo vệ. Theo BLHS
năm 1985, Mục B các tội xâm phạm TTCC gồm các điều:
- 198: Tội gây rối TTCC;
- 199: Tội hành nghề mê tín, dị đoan gây hậu quả nghiêm trọng;
- 200: Tội đánh bạc, tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc;
- 201: Tội chứa chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có;
- 202: Tội chứa mại dâm, tội môi giới mại dâm;
- 203: Tội tổ chức dùng chất ma túy;
- 204: Tội xâm phạm mồ mả, hài cốt.
Để thi hành BLHS năm 1985 về các quy định về tội xâm phạm TTCC,
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn. Đáng chú ý nhất là Nghị
quyết số 04/HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC ngày 29/11/1986 về
“Hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự”, đã hướng dẫn về Chương VIII - Các tội xâm phạm an toàn công cộng,
TTCC và trật tự quản lý hành chính và một số Thông tư liên tịch giữa Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, TANDTC và Bộ Nội vụ về hướng dẫn xử lý hành vi
đua xe trái phép, hành vi sản xuất, mua bán, vận chuyển, tàng trữ, sử dụng trái
phép pháo nổ và thuốc pháo và Hướng dẫn việc giải quyết án trọng điểm.
Cùng với thành tựu của công cuộc đổi mới, các vấn đề xã hội và nhu
cầu của cuộc sống ngày càng phức tạp. Để phù hợp với yêu cầu của thực tiễn
trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, BLHS năm 1985 đã
được sửa đổi, bổ sung bốn lần vào các năm 1989, 1991, 1992 và năm 1997.
15
Qua bốn lần sửa đổi, bổ sung, BLHS năm 1985 đã tương đối hoàn thiện và
góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm
nói chung, cũng như đảm bảo trật tự, an toàn công cộng.
Tuy nhiên, sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, kinh tế phát triển, đời sống nhân dân được cải
thiện, tình hình đất nước có nhiều thay đổi. BLHS năm 1985 dù được sửa đổi
bốn lần nhưng vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, hạn chế trong quy định về tội
phạm nói chung và các tội phạm xâm phạm TTCC nói riêng. Quá trình áp dụng
pháp luật cho thấy, các tội phạm được quy định ở chương VIII có các khách thể
loại khác nhau. Các tội xâm phạm an toàn công cộng, TTCC xâm phạm vào
những quy định, quy tắc bảo đảm an toàn, trật tự trong cuộc sống của mọi công
dân. Còn các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính xâm phạm vào hoạt động
bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội. Mặt khác, nhóm các tội xâm
phạm an toàn công cộng, TTCC chiếm số lượng lớn nhất so với các loại tội
phạm ở các chương khác BLHS, do đó, cần phải tách riêng nhóm tội xâm phạm
an toàn công cộng, TTCC với nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
Như vậy, tính đến trước khi ban hành BLHS Việt Nam năm 1999, với hệ
thống văn bản ban hành đã trực tiếp hoặc gián tiếp quy định trong đó các vấn đề
về bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm hoạt động bình thường và ổn định của
xã hội, qua đó kiên quyết xử lý nghiêm minh, triệt để và đúng pháp luật tất cả các
hành vi xâm phạm TTCC, an toàn công cộng ở mức độ từ xử lý hành chính đến
xử lý hình sự.
1.2.3. Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999
đến nay
Qua gần 15 năm thi hành, BLHS năm 1985 đã giữ một vai trò quan trọng,
đặc biệt tích cực trong đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm của nước ta. Tuy
nhiên, do được xây dựng và ban hành trong bối cảnh tình hình kinh tế, xã hội
trong nước cũng như quốc tế có nhiều điểm khác biệt cơ bản so với giai đoạn
thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
sau này. Vì vậy, dù đã qua bốn lần sửa đổi, bổ sung song nhiều quy định của
BLHS không còn phù hợp cũng như không đáp ứng đầy đủ yêu cầu phòng,
16
chống tội phạm trong giai đoạn mới.
Do vậy, ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 6 đã thông qua
BLHS năm 1999, có hiệu lực thi hành trên cả nước từ ngày 01/07/2000 và đây
là Bộ luật vẫn được áp dụng trong giai đoạn hiện nay. BLHS năm 1999 đã sửa
đổi, bổ sung một cách toàn diện, cơ bản BLHS năm 1985, phù hợp với yêu cầu
thực tiễn đấu tranh phòng và chống tội phạm trong tình hình mới.
Nếu trong BLHS năm 1985, nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng,
TTCC và trật tự quản lý hành chính được quy định trong Chương VIII Phần các
tội phạm với ba mục khác nhau, thì đến BLHS năm 1999, các tội phạm này
được chia thành hai chương; Chương XIX - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, TTCC và Chương XX - Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính.
Đến lần pháp điển BLHS lần thứ 2 năm 1999, BLHS đã có rất nhiều thay đổi,
Cụ thể đối với nhóm các tội xâm phạm TTCC có những thay đổi sau:
- BLHS năm 1999 xây dựng một chương riêng quy định về tội phạm và
hình phạt đối với một tệ nạn đang làm nhức nhối xã hội “Các tội phạm về ma
túy” do đó tội tổ chức dùng chất ma túy không còn thuộc nhóm các tội phạm
xâm phạm TTCC.
- Căn cứ vào yêu cầu của thực tiễn nhằm cá thể hóa TNHS đối với người
phạm tội nên nhà làm luật đã tách Điều 200: tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc
hoặc gá bạc thành 02 điều luật riêng biệt Điều 248: Tội đánh bạc và Điều 249
Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc; tách điều 202: tội chứa mại dâm, tội môi giới
mại dâm làm 02 điều luật riêng biệt Điều 254: Tội chứa mại dâm, Điệu 255:
Tội môi giới mại dâm.
- Bổ sung, sửa đổi Điều 202a ở BLHS năm 1985 sửa đổi năm 1997
thành Điều 256 - Tội mua dâm người chưa thành niên - BLHS năm 1999 có
khung hình phạt nghiêm khắc hơn thể hiện thái độ đặc biệt nghiêm khắc của
nhà lập pháp đối với loại tội phạm có tính phi đạo đức cao này.
- Đưa tội dụ dỗ, ép buộc người chưa thành niên phạm tội từ Chương xâm
phạm chế độ hôn nhân gia đình và các tội phạm đối với người chưa thành niên
về Chương XIX.
- Đưa tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy từ chương Các tội xâm phạm
an ninh quốc gia về chương XIX.
- Bổ sung một số yếu tố định tội để làm rõ cấu thành tội phạm như sau:
17
+ Tội gây rối TTCC:
BLHS năm 1985
BLHS năm 1999
“người nào gây rối trật tự nơi công “người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả
cộng”
nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về
hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa
được xóa án tích mà còn vi phạm”
+ Tội đánh bạc:
BLHS năm 1985
BLHS năm 1999
Người nào đánh bạc dưới bất kỳ Người nào đánh bạc dưới bất kỳ hình thức nào
hình thức nào được thua bằng tiền được thua bằng tiền hay hiện vật có giá trị lớn
hay hiện vật
hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy
định tại Điều này và Điều 249 của Bộ luật này
hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa
được xoá án tích mà còn vi phạm.
+ Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc:
BLHS năm 1985
BLHS năm 1999
Người nào tổ chức đánh bạc hoặc Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc với quy
gá bạc
mô lớn hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành
vi quy định tại Điều này và Điều 248 của Bộ
luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội
này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm
+ Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy
BLHS năm 1985
BLHS năm 1999
Người nào làm ra, sao chép, lưu Người nào làm ra, sao chép, lưu hành, vận chuyển,
hành, buôn bán, tàng trữ nhằm phổ sử dụng, mua bán, tàng trữ nhằm phổ biến sách,
biến sách, báo, tranh, ảnh, phim, báo, tranh, ảnh, phim, nhạc hoặc những vật phẩm
nhạc hoặc những vật phẩm khác có khác có tính chất đồi trụy, cũng như có hành vi khác
tính chất đồi truỵ, cũng như có truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy thuộc một trong
hành vi khác truyền bá văn hoá đồi các trường hợp sau đây…:
trụy.
a) Vật phạm pháp có số lượng lớn;
b) Phổ biến cho nhiều người;
c) Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án
tích mà còn vi phạm.
18