Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Đảng bộ huyện thanh oai , thành phố hà nội lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 2001 đến năm 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (488.04 KB, 115 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I

NGUYỄN THỊ BÍCH NGA

ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH OAI, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60220315

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN DUY HẠNH

HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2015

1


MỤC LỤC
MỞ
ĐẦU .........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề
tài .........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề
tài…...........................................4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu ............................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên
cứu .............................................................7


5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
………………..........................8
6. Đóng góp của luận
văn ...............................................................................8
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận
văn ................................................8
8. Kết cấu của luận
văn ..................................................................................9
CHƯƠNG 1: SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH OAI
ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TỪ
NĂM 2001 ĐẾN THÁNG 7 NĂM
2008.......................................................10
1.1. Khái quát, điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của huyện
Thanh Oai
...................................................................................................10
1.1.1. Điều kiện tự
nhiên ................................................................................10
2


1.1.2. Kinh tế - xã
hội .....................................................................................13
1.2. Quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức cơ sở đảng ……...
………17
1.3. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây và Đảng bộ huyện Thanh Oai
về xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 2001 đến tháng 07 năm
2008 ...........38
1.4. Quá trình Đảng bộ huyện Thanh Oai lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ
sở đảng từ năm 2001 đến tháng 07 năm

2008.............................................44
Tiểu kết chương 1…………………………………………..
………………..52
CHƯƠNG 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH OAI TĂNG CƯỜNG
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TỪ 01 THÁNG 8
NĂM 2008 ĐẾN NĂM
2013....................................................................................53
2.1. Chủ trương của TW Đảng, Đảng bộ thành phố Hà Nội và Đảng bộ
huyện Thanh Oai về xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ 01 tháng 8 năm
2008 đến
2013………..............................................................................................53
2.1.1. Chủ trương của Trung ương
Đảng .......................................................53
2.1.2. Chủ trương của Đảng bộ thành phố Hà
Nội ........................................62
2.1.3. Chủ trương của Đảng bộ huyện Thanh
Oai .........................................64

3


2.2. Quá trình Đảng bộ huyện Thanh Oai chỉ đạo công tác xây dựng và
phát triển tổ chức cơ sở đảng từ 01/8 /2008 đến năm
2013 .......................69
2.2.1. Công tác giáo dục chính trị tư
tưởng……………................................69
2.2.2. Công tác kiểm tra, giám
sát ..................................................................82
2.2.3. Công tác dân
vận ..................................................................................85

Tiểu kết chương 2………………………………………………..
………….88
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT VÀ KINH
NGHIỆM .......................................89
3.1. Nhận
xét ..................................................................................................89
3.2. Một số kinh
nghiệm ...............................................................................95
KẾT LUẬN
.................................................................................................100
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….……..
…...103
PHỤ LỤC………………………………………………………….………
114

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc. Đảng ta lấy chủ nhĩa Mác – Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động...
C.Mác và Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đánh giá
rất cao về vị trí vai trò của tổ chức cơ sở đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nền
tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, là cầu nối giữa Đảng với nhân
dân, là đơn vị chiến đấu trực tiếp đưa đường lối chính sách của Đảng và
Pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Ngay từ khi ra đời Đảng Cộng sản
Việt Nam đã được lịch sử trao cho sứ mệnh to lớn là lãnh đạo Cách mạng

Việt Nam. Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, Đảng đã không
ngừng lớn mạnh, lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi vĩ đạo, nổi
bật nhất là cách mạng tháng Tám năm 1945, thắng lợi của hai cuộc kháng
chiến oanh liệt chống đế quốc giải phóng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, từng
bước đưa nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước, Đảng đã khởi xướng và lãnh
đạo, thu được những thành tựu to lớn đưa đất nước ta vượt qua được những
thử thách khó khăn thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội, bước
vào thời kỳ mới. Nghị quyết 03 Ban chấp hành Trung ương khóa VII về đổi
mới chỉnh đốn Đảng đã xác định: Đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Tiếp tục đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng,
tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong, nâng cao năng
lực và sức chiến đấu của Đảng: xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh về
chính trị tư tưởng, có đạo đức cách mạng trong sạch, có tầm trí tuệ cao, có
phương thức lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân”. Thực hiện Nghị
5


quyết của Trung ương, các cấp ủy Đảng trong hệ thống tổ chức đảng từ
Trung ương đến cơ sở đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng TCCSĐ,
nhiều TCCSĐ đã giữ vững và phát huy được vai trò hạt nhân chính trị ở cơ
sở, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và sự chỉ đạo của các cấp ủy
trong thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, công tác chuyên môn của địa
phương, cơ quan, đơn vị. Đội ngũ cán bộ, đảng viên tăng thêm hàng năm,
được nâng cao về số lượng và chất lượng, cũng như trình độ kiến thức và
năng lực hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiện vụ của tình
hình thế giới và trong nước, nhiều cấp ủy chưa thực sự coi trọng vị trí quan
trọng của TCCSĐ ở cơ sở, không ít TCCSĐ chưa nhận thức sâu sắc vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của TCCSĐ nên chưa thực hiện đúng chức năng,

nhiệm vụ của TCCSĐ ở cơ sở. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, khả năng
nhận thức, vận dụng, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, đường
lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước ở nhiều TCCSĐ còn yếu,
chưa đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp xảy ra ở địa phương. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn
đấu, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng. Tình trạng suy thoái về
phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
rất đáng lo ngại. Tệ quan liêu, lãng phí, tiêu cực còn xảy ra ở nhiều nơi,
nhưng chậm được phát hiện ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả. Việc đánh giá
chất lượng TCCSĐ và đảng viên hàng năm còn mang tính hình thức, kết quả
chưa phản ánh đúng thực chất, chất lượng ở cơ sở.
Xây dựng, củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của TCCSĐ là một trong những vấn đề cơ bản, thường xuyên, cấp
bách của công tác đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đảng ta thường xuyên coi trọng
xây dựng TCCSĐ ngang tầm với đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ mới của
cách mạng. Hầu hết trong các nghị quyết về xây dựng Đảng, Đảng ta đều đề
6


cập đến chủ trương, biện pháp xây dựng TCCSĐ. Nghị quyết Hội nghị BCH
Trung ương Đảng lần thứ 6 (khóa X) chỉ rõ: “Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng
của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với dân, có vị trí quan trọng trong hệ thống
tổ chức của Đảng. Toàn Đảng phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để nâng cao
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội ở cơ sở,
nhất là những địa bàn, lĩnh vực trọng yếu, có nhiều khó khăn. Lấy hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp của
công tác xây dựng Đảng”.
Là huyện ngoại thành của Thủ đô Hà Nội, dưới sự lãnh đạo của Đảng
bộ, cùng với nhân dân cả nước, Thanh Oai quyết tâm vươn lên thoát khỏi đói

nghèo, vượt qua mọi thử thách khó khăn của thời đại, xây dựng, kiến thiết
quê hương ngày càng giàu đẹp, trong sự nghiệp đổi mới, Đảng bộ huyện
Thanh Oai đã lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu to lớn, trên
mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, nhưng không thể không tránh khỏi những tồn
tại, khó khăn vướng mắc cần được khắc phục.
Quá trình phát triển kinh tế thị trường đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước, hội nhập quốc tế diễn ra rất nhanh chóng và phức tạp trên địa bàn
huyện Thanh Oai, đặt ra yêu cầu mới ngày càng cao đối với năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ của Đảng bộ huyện Thanh Oai. Việc xây
dựng, củng cố, kiện toàn phát triển các loại hình TCCĐ đã trở thành nhiệm
vụ trọng tâm, cấp bách của Đảng bộ huyện.
Việc đánh giá đầy đủ, khách quan, khoa học quá trình lãnh đạo xây
dựng TCCSĐ của Đảng bộ huyện Thanh Oai theo đúng chủ trương của
Đảng là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược để xây dựng và phát triển Đảng bộ
huyện Thanh Oai. Mặt khác, đánh giá tổng kết thành tựu, khuyết điểm, thuận
lợi và khó khăn, trong lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thanh Oai về xây dựng
TCCSĐ cũng là những vấn đề thực tiễn của một số địa phương khác có đặc
7


điểm, vị trí, điều kiện tương tự, cần được nghiên cứu, tổng kết, rút kinh
nghiệm, để thực hiện chủ trương xây dựng TCCSĐ; từ đó tổng kết kinh
nghiệm góp phần cung cấp cơ sở thực tiễn để phát triển lý luận xây dựng
Đảng, xây dựng TCCSĐ ở Đảng bộ Huyện Thanh Oai nói riêng và ở các địa
phương trong cả nước nói chung.
Với những lý do nêu trên, tôi chọn vấn đề: “Đảng bộ huyện
Thanh Oai , thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở
đảng từ năm 2001 đến năm 2013” làm chủ đề nghiên cứu của
luận văn tốt nghiệp thạc sỹ khoa học lịch sử Đảng.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Xây dựng Đảng là một lĩnh vực đặc biệt quan trọng thu hút sự quan
tâm của các nhà lãnh đạo đảng, các nhà lý luận, các nhà khoa học, nhà
nghiên cứu tâm huyết với Đảng. Lịch sử nghiên cứu vấn đề xây dựng và
phát triển tổ chức cơ sở đảng của huyện Thanh Oai chưa có nhiều đề tài
nghiên cứu ngoài một số cuốn sách như: Lịch sử đảng bộ huyện Thanh Oai
từ năm 1930 đến năm 2008. Bên cạnh đó, có nhiều công trình, bài viết có
liên quan đến vấn đề này như:
-Nhóm các đề tài, đề án khoa học cấp Nhà nước:
+ Đề tài khoa học cấp Nhà nước KX 03.04 chương trình khoa học xã
hội cấp nhà nước giai đoạn2001 – 2005 “Xây dựng Đảng trong điều kiện
mới” được công bố và xuất bản thành sách: “Vấn đề đảng viên và phát triển
đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do GS,
TS. Mạch Quang Thắng làm chủ biên, xuất bản năm 2006.
+ Đề tài khoa học cấp ban đảng, mã số KHBĐ (2007) – 08 về “Nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đội ngũ đảng viên” do TS. Đỗ Ngọc Thịnh làm chủ nhiệm.

8


+ Đề án “Những giải pháp nhằm củng cố tổ chức cơ sở đảng đối với
cấp ủy ở các tỉnh miền núi phía bắc”, KHBD (2002) – 03 của Trần Ngọc
Tín, Nguyễn Đình Phu.
- Nhóm các bài báo khoa học đăng tải trên các tạp chí:
Trên tạp chí Xây dựng Đảng có các bài viết như: - Phạm Quang Vịnh:
“Xây dựng củng cố tổ chức cơ sở đảng ở vùng biển”, số tháng 3 năm 2006;
Võ Trọng Việt: “Nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng đồn biên phòng”; số tháng 3 năm 2006; Thu Huyền: Nghiệm thu đề
tài: “Nâng cao hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng trong cơ quan báo chí”,
số tháng 8 năm 2006; Tương Thị Hồng Vân: “Đánh giá chất lượng tổ chức

cơ sở đảng xã, phường, thị trấn ở Đảng bộ Hà Nội”, số tháng 9 năm 2009;
Lê Khả Phiêu (2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội:” Đảng Cộng sản Việt
Nam 70 năm xây dựng và trưởng thành”; Bùi Đình Phong (2001) Nxb Lao
Động, Hà Nội:” Công tác xây dựng Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước”; Lưu Quang Quán (Cb)(2004), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội: “Xây dựng chỉnh đốn Đảng chống quan liêu
tham nhũng, lãng phí”; Phạm Ngọc Anh chủ biên, Nxb chính trị quốc gia:
“Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong thời
kỳ đổi mới”; Chu Chí Hòa chủ biên, Nxb Đại học quốc gia: “Đổi mới công
tác xây dựng Đảng ở nông thôn”… Các tác giả đã dày công nghiên cứu và
đưa ra những luận điểm mang tính tổng quát về công tác xây dựng Đảng.

9


- Nhóm các đề tài, luận văn, luận án:
Luận văn thạc sĩ lịch sử thuộc trường Đại học khoa học xã hội và Nhân văn
– Đại học Quốc gia Hà Nội: “Đảng Cộng sản Việt Nam với quá trình xây
dựng đội ngũ đảng viên từ năm 1996 đến năm 2006” của tác giả Đặng Thị
Huệ; tác giả Đặng Quang Vinh với đề tài: “Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng
xây dựng tổ chức cơ sở Đảng từ năm 1997 – 2006”; tác giả Hà Thị Thu
Hằng với đề tài:”Đảng bộ huyện Thanh Sơn tỉnh Phú Thọ lãnh đạo tổ chức,
xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 1995 đến 2005”; tác giả Nguyễn Văn
Hoàn (2002): “Đảng bộ thành phố Thái Nguyên thực hiện nhiệm vụ xây
dựng tổ chức cơ sở đảng thời kỳ 1986 – 2000 Quá trình củng cố và phát
triển tổ chức cở đảng”; tác giả Nguyễn Thị Lan Phương (2002) với đề tài:
“Quá trình củng cố và phát triển tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ thị xã
Phủ lý tỉnh Hà Nam trong thời kỳ 1991 – 2000”; tác giả Trần Thị Thảo
(2002) với đề tài: “Đảng bộ huyện Vụ Bản lãnh đạo thực hiện công tác xây
dựng Đảng trong thời kỳ đổi mới 1986 – 2001”… Các tác giả đã dành công

sức tiếp cận, nghiên cứu vấn đề xây dựng Đảng trong từng thời kỳ nhất định
và từng lĩnh vực của công tác xây dựng Đảng ở các địa phương khác nhau.
Đây là những tư liệu mang tính chất nền tảng, cơ sở phục vụ cho việc nghiên
cứu đề tài.
Ở Thanh Oai, Ban Tuyên giáo Huyện ủy phối hợp với các địa phương,
cho ra đời cuốn lịch sử Đảng bộ huyện Thanh Oai khái quát giai đoạn 19302008. Tuy việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Huyện Thanh Oai đã được
các cấp uỷ Đảng quan tâm, song rất ít người đề cập nghiên cứu sâu về lĩnh
vực này trên địa bàn huyện Thanh Oai. Xuất phát từ thực tế trên, đề tài này
đã đi sâu nghiên cứu những mặt mạnh để phát huy, đồng thời cũng chỉ ra
những tồn tại và nguyên nhân để từ đó đề xuất, gợi ý một số biện pháp lớn
nhằm giải quyết những vấn đề bất cập bức xúc của các tổ chức cơ sở đảng
của tỉnh nhà đáp ứng với yêu cầu mới hiện nay.
10


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Luận văn nghiên cứu về sự nhận thức, chủ trương, biện pháp, kết quả tổ
chức thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng của Đảng bộ huyện
Thanh Oai trong những năm từ 2001 đến 2013, từ đó làm rõ thêm lịch sử
Đảng bộ thời kỳ này, nhất là trong lĩnh vực xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Từ
đó rút ra một số kinh nghiệm làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ huyện Thanh Oai
lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 2001 đến năm 2013, rút ra một
số kinh nghiệm chủ yếu góp phần nâng cao chất lượng công tác xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Trình bày có hệ thống chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây và thành
phố Hà Nội về xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Luận văn có nhiệm vụ khảo sát, tổng hợp đánh giá đúng thực trạng về
tình hình hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng của huyện Thanh Oai trong

những năm 2001 – 2013.
Rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ huyện
Thanh Oai lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng ở địa phương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thanh Oai lãnh
đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
4.2. Phạm vi
Về mặt nội dung: Luận văn nghiên cứu những chủ trương và chỉ đạo của
Đảng bộ huyện Thanh Oai thực hiện nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng
trên các phương diện: chính trị - tư tưởng và tổ chức.
11


Về mặt thời gian: Luận văn nghiên cứu quá trình thực hiện nhiệm vụ
xây dựng tổ cơ sở đảng trong thời gian 13 năm từ 2001 đến năm 2013.
Về mặt không gian: Luận văn nghiên cứu quá trình lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ xây dựng tổ chức cơ sở đảng trên địa bàn huyện Thanh Oai.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của Chủ
nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; những quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng.
Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của luận
văn là sử dụng các phương pháp như: phương pháp lịch sử, và phương pháp
logic, ngoài ra còn phương pháp thống kê, phương pháp mô tả... Đặc biệt là
coi trọng khảo sát nhằm phân tích khái quát hoá, tổng hợp hoá, để đánh giá
tình hình tổ chức cơ sở đảng.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn trình bày một cách hệ thống một số vấn đề lý luận cơ bản
về tổ chức cơ sở đảng.

Nêu một số nhận xét về quá trình Đảng bộ huyện Thanh Oai lãnh đạo
xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Luận văn nêu một số kinh nghiệm lịch sử trong quá trình Đảng bộ huyện
Thanh Oai lãnh đạo xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Những kinh nghiệm có thể
vận dụng xây dựng đảng bộ huyện Thanh Oai trong thời gian tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần tổng kết lý luận thực tiễn xây dựng tổ chức cơ sở
đảng của huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội từ năm 2001 đến năm 2013.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong công tác nghiên cứu và
giảng dạy.
12


8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, bố cục
của luận văn được chia thành ba chương, bao gồm:
Chương 1: Sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Thanh Oai đối với công
tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng từ năm 2001 đến tháng 7 năm 2008
Chương 2: Đảng bộ huyện Thanh Oai tăng cường lãnh đạo xây
dựng tổ chức cơ sở đảng từ 01 tháng 8 năm 2008 đến năm 2013
Chương 3: Nhận xét chung và những kinh nghiệm chủ yếu

13


CHƯƠNG 1
SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN THANH OAI ĐỐI VỚI
CÔNG TÁC XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TỪ NĂM 2001
ĐẾN THÁNG 07 NĂM 2008
1.1. Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của huyện

Thanh Oai
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thanh Oai là một huyện thuộc vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng,
nằm ở phía Tây Nam thủ đô Hà Nội. Phía Bắc liền kề với quận Hà Đông,
phía Đông tiếp giáp với huyện Thường Tín, phía Tây tiếp giáp với huyện
Chương Mỹ, phía Nam tiếp giáp với huyện Ứng Hòa, Phú Xuyên.
Với hệ thống giao thông thủy - bộ khá phát triển như đê sông Đáy, đê
sông Nhuệ nối giữa các xã, các huyện lân cận. Đường 22 (nay là quốc lộ
21B) là huyêt mạch giao thông của huyện, từ Hà Đông đi chùa Hương và
sang Hà Nam. Bên cạnh đó, huyện còn có quốc lộ 6 qua rìa phía Tây Bắc
huyện, dự án đường trục phía Nam Hà Nội đi xuyên qua huyện và tỉnh lộ 71
(nay gọi là đường 427).
Phía Đông Bắc có tuyến đường sắt vành đai phía Tây Hà Nội chạy
qua, để tới ga Văn Điển.
Với vị trí địa lý và hệ thống giao thông như trên, Thanh Oai đã trở
thành “cửa ngõ” của thủ đô Hà Nội, là cầu nối thuận lợi để sang các huyện
khác trong và ngoài tỉnh thành.
Diện tích tự nhiên của huyện là 129,6 km 2. Dân số là 175.800 người
(theo thống kê năm 2009).
Từ khi đất nước ta giành được độc lập, địa dư hành chính huyện
Thanh Oai từng bước được hình thành, gắn liền với sự nghiệp đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước.
Sự kiện năm 1010, vua Lý Thái Tổ rời đô từ Hoa Lư về thành Đại La
14


đổi tên nước là Thăng Long. Sau đó, nhà Lý đã phân chia lại địa giới hành
chính, đổi thập đạo thời Đinh thành 24 lộ, đất Thanh Oai thuộc lộ Quốc Oai;
lúc đó, huyện Thanh Oai có tên gọi là hương Thanh Oai. Đến năm 1207,
cuối triều Lý Cao Tông, địa dư hành chính huyện Thanh Oai chính thức ra

đời thuộc lộ Quốc Oai.
Năm 1831, vua Minh Mạng lập tỉnh Hà Nội. Huyện Thanh Oai lúc đó
thuộc phủ Ứng Hòa của tỉnh Hà Nội. Phủ Ứng Hòa lúc đó gồm 4 huyện là
Sơn Minh, Chương Đức, Thanh Oai và Hoài An.
Năm 1888, Pháp lập ra tỉnh Hà Đông và lúc đó huyện Thanh Oai thuộc
tỉnh Hà Đông. Ngày 4/1/1955, Chính phủ ban hành Nghị định số 436-TTg giải
tán quận Văn Điển do đối phương lập ra trong thời gian bị tạm chiến trả lại cho
tỉnh Hà Đông để tổ chức lại hai huyện Thanh Oai và Thanh Trì.
Ngày 20/4/1961, Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa II thông qua Nghị quyết
phê chuẩn mở rộng thành phố Hà Nội lần thứ nhất. Theo đó, sáp nhập phần lớn
các xã thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông vào thành phố Hà Nội.
Ngày 17/5/1961, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 70-CP sáp
nhập các xã, các thôn còn lại của huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông vào các
huyện Thường Tín, Thanh Oai và thị xã Hà Đông. Theo đó, các xã Kiến
Hưng, Mỹ Hưng, Cự Khê, Hữu Hòa được sáp nhập vào huyện Thanh Oai,
tỉnh Hà Đông.
Ngày 21/4/1965, tỉnh Hà Tây được thành lập theo Nghị quyết của Ủy
ban Thường vụ Quốc hội trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Sơn Tây và Hà Đông.
Theo đó, huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây gồm 26 xã là Kim An, Cao
Viên, Thanh Cao, Thanh Mai, Xuân Dương, Bích Hòa, Phương Trung, Cao
Dương, Bình Minh, Kim Thư, Tam Hưng, Đỗ Động, Hồng Dương, Dân
Hòa, Thanh Văn, Tân Ước, Thanh Thùy, Liên Châu, Mỹ Hưng, Cự Khê,
Kiến Hưng, Hữu Hòa, Phú Lương, Phú Lãm, Biên Giang, Đồng Mai.
Ngày 15/9/1969, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 178-CP
về việc mở rộng địa giới thị xã Hà Đông và sáp nhập xã Kiến Hưng của
15


huyện Thanh Oai vào thị xã Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây. Sau khi điều chỉnh,
huyện Thanh Oai còn 25 xã.

Ngày 27/12/1975, Kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa V thông qua Nghị
quyết hợp nhất 2 tỉnh Hà Tây và Hòa Bình thành tỉnh Hà Sơn Bình. Theo
đó, huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Sơn Bình.
Ngày 29/12/1978, Kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa VI thông qua Nghị
quyết phê chuẩn việc sáp nhập một số huyện, thị xã và thị trấn của tỉnh Hà
Sơn Bình vào thành phố Hà Nội.
Ngày 17/2/1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 49-CP về
việc điều chỉnh địa giới một số xã, thị trấn của Hà Nội. Theo đó, sáp nhập xã
Hữu Hòa của huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Sơn Bình vào huyện Thanh Trì, thành
phố Hà Nội. Sau khi điều chỉnh, huyện Thanh Oai còn 24 xã.
Ngày 12/8/1991, Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII thông qua Nghị
quyết chia tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Lúc này
huyện Thanh Oai thuộc tỉnh Hà Tây.
Ngày 23/6/1994, Chính phủ ra Nghị định số 52-CP về việc điều chỉnh
địa giới các huyện thuộc tỉnh Hà Tây. Theo đó, thành lập thị trấn Kim Bài
thuộc huyện Thanh Oai trên cơ sở một phần diện tích và nhân khẩu của xã
Kim An, Đỗ Động. Sau khi điều chỉnh, huyện Thanh Oai có 25 đơn vị hành
chính trực thuộc gồm thị trấn Kim Bài và 24 xã.
Ngày 23/9/2003, Chính phủ ra Nghị định số 107/2003/NĐ-CP điều
chỉnh địa giới hành chính và chuyển hai xã Phú Lương và Phú Lãm thuộc
huyện Thanh Oai về thị xã Hà Đông quản lý. Sau khi điều chỉnh, huyện
Thanh Oai còn 23 đơn vị hành chính gồm thị trấn Kim Bài và 22 xã.
Ngày 4/1/2006, Chính phủ ra Nghị định số 01/2006/NĐ-CP, điều
chỉnh địa giới hành chính, mở rộng thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây; và sáp
nhập một phần diện tích cùng nhân khẩu của thôn Phượng Bãi, xã Phụng
Châu, huyện Chương Mỹ vào xã Biên Giang, huyện Thanh Oai. Chuyển
toàn bộ xã Biên Giang và Đồng Mai thuộc huyện Thanh Oai về thị xã Hà
16



Đông quản lý. Sau khi điều chỉnh, huyện Thanh Oai còn 21 đơn vị hành
chính gồm thị trấn Kim Bài và 20 xã là: Kim An, Cao Viên, Thanh Cao,
Thanh Mai, Xuân Dương, Bích Hòa, Phương Trung, Cao Dương, Bình
Minh, Kim Thư, Tam Hưng, Đỗ Động, Hồng Dương, Dân Hòa, Thanh Văn,
Tân Ước, Thanh Thùy, Liên Châu, Mỹ Hưng, Cự Khê.
Từ ngày 1/8/2008, toàn bộ tỉnh Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội
theo Nghị quyết của Kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII ngày 29/5/2008. Theo
đó, huyện Thanh Oai thuộc thành phố Hà Nội.
Như vây, kể từ năm 1207 đến nay, địa bàn huyện Thanh Oai chẳng
những được hình thành mà còn có những biến động về đơn vị hành chính
theo từng thời gian và tiến trình của công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Song, dù ở thời điểm lịch sử nào thì vùng đất Thanh Oai vẫn là một địa bàn
có tiềm năng phát triển kinh tế, văn hóa và là vị trí quan trọng về an ninh
quốc phòng.
1.1.2. Kinh tế - xã hội
- Kinh tế:

Với điều kiện tự nhiên thuận lợi, đặc biệt do sự bồi tụ phù sa của sông
Hồng, sự thay đổi dòng chảy của sông Đáy nên đồng đất của Thanh Oai
thuộc diện “bờ xôi, ruộng mật”, rất thuận lợi cho phát triển kinh tế nông
nghiệp. Chính vì thế, từ xưa tới nay, thế mạnh chủ yếu của huyện Thanh Oai
là kinh tế nông nghiệp, mà trọng tâm đứng đầu là sản xuất lương thực lúa
gạo. Bên cạnh cây lúa, người dân còn trồng nhiều loại cây lương thực, thực
phẩm, cây ăn quả và phát triển chăn nuôi. Nhìn chung, Thanh Oai có nhiều
điều kiện thuận lợi để phát triển một nền nông nghiệp toàn diện.
Bên cạnh nghề chính là nông nghiệp, cư dân ở nơi đây còn phát triển
rất nhiều nghề thủ công. Các nghề thủ công truyền thống đã trở thành một
thế mạnh của huyện Thanh Oai, với 118 làng nghề; trong đó có 27 làng nghề
đã được công nhận như nón làng Chuông, quạt làng Vác, điêu khắc Thanh
Thùy, sơn tượng Võ Lăng, tương Cự Đà, giò chả Ước Lễ...

17


Sự phát triển của nông nghiệp cùng với sự phong phú các mặt hàng
thủ công đã tạo điều kiện cho thương nghiệp của huyện sớm phát triển. Trên
địa bàn huyện, ngay từ xa xưa, nhiều chợ đã hình thành ở các vùng để giao
lưu trao đổi hàng hóa của nhân dân. Theo sách Dư địa chí Hà Tây, huyện
Thanh Oai có 15 chợ, một số chợ lớn có tiếng trong vùng như: chợ Mai Lĩnh
(Đồng Mai), chợ Bộ (Cao Bộ), chợ Tư (Bình Đà), chợ Chuông (Phương
Trung)... Ngày nay, cùng với sự phát triển của nông nghiệp và thủ công
nghiệp, thương nghiệp cũng ngày càng phát triển. Nhiều khu phố, trung tâm
buôn bán, các chợ lớn được mở rộng để buôn bán, trao đổi sản phẩm phục
vụ nhu cầu của nhân dân trong và ngoài huyện.
Từ bao đời nay, cư dân Thanh Oai chủ yếu là làm nông nghiệp. Sự
cần cù, chịu thương, chịu khó của người dân cùng với việc ứng dụng sáng
tạo các thành tựu khoa học kỹ thuật một cách phù hợp với điều kiện ở địa
phương đã tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế - xã hội của huyện trong những
năm qua đã có những bước phát triển đáng kể.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và chính quyền các cấp, nhân dân Thanh
Oai đồng lòng phát huy sức mạnh tập thể, hăng hái thi đua sản xuất, thúc đẩy
kinh tế phát triển, tạo cho bộ mặt kinh tế huyện ngày càng khởi sắc.
Trong những năm qua, kinh tế huyện đạt tốc độ tăng trưởng khá và ổn
định. “Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 13,5% (cao
hơn giai đoạn 2000 - 2005 là 3%); bình quân thu nhập đầu người năm 2009
đạt 9,17 triệu đồng, đến năm 2010 là 10,27 triệu đồng”. Cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch theo hướng tích cực. “Cơ cấu kinh tế năm 2010: nông nghiệp
chiếm 28,37%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm
42,12%, dịch vụ - thương mại chiếm 29,51%. Tỉ trọng công nghiệp, thủ
công nghiệp, xây dựng tăng 14,4% và tỉ trọng nông nghiệp giảm 19,23% (so
với năm 2005)”. Giá trị sản xuất công nghiệp, thủ công nghiệp và xây dựng

liên tục phát triển và chiếm tỉ trọng tăng dần trong cơ cấu kinh tế. Qua đó
cho thấy, nền kinh tế của huyện đang ngày càng phát triển và có sự chuyển
18


dịch cơ cấu theo đúng hướng, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH của huyện đạt
nhiều thành tựu.
Tuy nhiên, “sự phát triển của kinh tế như vậy vẫn còn chưa tương xứng
với vị thế và tiềm năng của huyện, tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc; sản
xuất nông nghiệp còn phân tán, manh mún, năng suất lao động thấp; sản xuất
thủ công còn nhỏ lẻ, chưa có thương hiệu sản phẩm chất lượng cao; hoạt động
thương mại - dịch vụ - du lịch còn mang tính tự phát”.
Mặc dù nền kinh tế còn một số hạn chế như trên nhưng sự tăng trưởng
của nền kinh tế đã góp phần cải thiện đời sống cho nhân dân trong huyện
trên tất cả các lĩnh vực. Bình quân thu nhập đầu người tăng, tạo điều kiện
cho cuộc sống của nhân dân được ấm no hơn, giảm mức chênh lệch giàu
nghèo giữa các hộ dân trong huyện. Kinh tế phát triển ổn định góp phần ổn
định xã hội.
- Văn hóa - xã hội

Cư trú ở vùng đồng bằng châu thổ Bắc bộ, cư dân trên địa bàn huyện
chủ yếu là dân tộc Kinh. Về tôn giáo, đạo Phật là gốc rễ trong tín ngưỡng
của nhân dân. Bên cạnh đạo Phât, Đạo Thiên Chúa cũng được du nhập vào
một số vùng trong huyện (từ nửa cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX). Một số
nhà thờ lớn được xây dựng như: nhà thờ Thạch Bích (xã Bích Hòa), nhà thờ
Kim Lâm (xã Kim Thư), nhà thờ Chuông (xã Phương Trung)... Cư dân theo
Đạo chiếm khoảng 10% dân số trong huyện.
Cư trú trên địa bàn có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa, cư dân
Thanh Oai đã biết bảo tồn, xây dựng và phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống tốt đẹp của dân tộc. Ở khắp các làng, xã trong huyện đều có những

ngôi đình, ngôi chùa, đền, miếu; nó không những thể hiện đời sống văn hóa
tinh thần phong phú của nhân dân, mà nó còn để lại những những di sản văn
hóa vật thể có giá trị cho dân tộc. Trên địa bàn huyện, nhiều ngôi đình, chùa
đã được công nhận và xếp hạng di tích Quốc gia như chùa Bối Khê (Tam
Hưng), chùa Ngọc Đình (Hồng Dương), đình và chùa Chuông (Phương
19


Trung), đình và chùa Bình Đà (Bình Minh). Các ngôi đình, chùa đều mang
dấu ấn kiến trúc độc đáo của vùng đồng bằng Bắc bộ. Đây cũng là nơi diễn ra
các lễ hội truyền thống. Hàng năm huyện Thanh Oai diễn ra 81 lễ hội, trong
đó có nhiều lễ hội lớn như lễ hội chùa Bối Khê (Tam Hưng), lễ hội Bình Đà
(Bình Minh), hội Chuông(Phương Trung). Các di tích đình, chùa và lễ hội đã
trở thành biểu tượng đẹp trong văn hóa làng Việt.
Sự nghiệp giáo dục của huyện đã đạt được những thành tựu mới. Nhờ
có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành và sự quan tâm ủng hộ của
nhân dân trong huyện, sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển cả về chiều
sâu lẫn chiều rộng ở tất cả các cấp học, các ngành học. Hệ thống giáo dục
phát triển đã tạo ra đội ngũ trí thức, đội ngũ nhân công lao động lành nghề
có trình độ chuyên môn cao để phục vụ đắc lực cho công cuộc CNH, HĐH
của huyện nói riêng và của đất nước nói chung.
Công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân cũng có những tiến bộ
đáng kể. Cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế ở Bệnh viện huyện, các Trạm y tế xã
được nâng cấp, phục vụ nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân trong huyện.
Tuy nhiên, nền kinh tế của Thanh Oai vẫn còn phát triển chậm, chưa
tương xứng với vị thế và tiềm năng của huyện; hoạt động văn hóa chưa đáp
ứng được yêu cầu, vẫn còn nhiều hủ tục lạc hậu trong đời sống văn hóa của
nhân dân; chất lượng giáo dục còn hạn chế, công tác xã hội hóa giáo dục
chưa cao; nhân công lao động thiếu việc làm thường xuyên còn nhiều, nhất là ở
những xã bị thu hồi đất nông nghiệp. Các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng và

ngày càng có nhiều loại tội phạm nguy hiểm, gây rối loạn trật tự trị an trong xã
hội. Đứng trước những vấn đề còn tồn tại đó, lãnh đạo các cấp chính quyền
trong huyện cần năng động hơn nữa để tìm ra những giải pháp khắc phục
những khó khăn trên. Một trong những giải pháp đó chính là việc đẩy mạnh
xây dựng đời sống văn hóa cơ sở trên địa bàn toàn huyện. Đây chính là một nút
thắt, một khâu trọng yếu để vượt qua khó khăn, vươn lên trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển của huyện Thanh Oai trong thời gian tới.
20


Để đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của Huyện Thanh
Oai, yêu cầu đặt ra đối với Đảng bộ Huyện Thanh Oai là phải đẩy mạnh việc
lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng Tổ chức cơ sở đảng.
1.2. Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
quan điểm của Đảng Công sản Việt Nam về tổ chức cơ sở đảng
Khái niệm, chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng:
Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản ở mỗi cấp có vị trí, chức năng,
nhiệm vụ khác nhau. Trong đó, cấp cơ sở được xác định là nền tảng của Đảng.
Bởi vì, đây là nơi trực tiếp triển khai và tổ chức thực hiện đường lối, nghị
quyết của Đảng cấp trên, đưa đường lối và nghị quyết đi vào cuộc sống.
Ngay từ Đại hội III Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga, V.I. Lênin đã
đưa ra thuật ngữ Tổ chức cơ sở Đảng, Người viết: “Mỗi tổ chức đảng, cho tới
chi bộ công nhân cơ sở của Đảng... phải được xác định thành phần và nhất định
phải ổn định những mối liên hệ đều đặn với Trung ương” [110, tr. 217].
Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng: được xác định rõ trong Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam (1996), Chương V “Tổ chức cơ sở Đảng”, Điều 21:
1.Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp đơn vị cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ

ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở đảng; nếu chưa đủ ba đảng
viên chính thức thì cấp ủy cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở
tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có
các tổ đảng trực thuộc.
4.Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ
sở, có các chi bộ trực thuộc đảng ủy.
21


5. Những trường hợp sau đây, cấp ủy cấp dưới phải báo cáo và được
cấp ủy cấp trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:

- Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ ba mươi đảng viên.
- Lập chi bộ trực thuộc Đảng ủy cơ sở có hơn ba mươi đảng viên.
- Lập Đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng ủy cơ sở [28, tr. 32-33-34].
Điều 10, Điều lệ Đảng chi rõ: Tổ chức cơ sở đảng được lập tại các đơn
vị cơ sở hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo
của cấp ủy quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Tổ chức Đảng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nạm theo quy định
tại chương VI. Việc lập Tổ chức cơ sở Đảng ở những nơi có đặc điểm riêng
theo quy định của Bộ Chính trị [28, Tr. 18].
Theo quy định trên, có thể thấy khái niệm TCCSĐ được gọi chung cho
cả Chi bộ cơ sở, Đảng bộ cơ sở căn cứ theo số lương đảng viên và yêu cầu cụ
thể của nhiệm vụ từng đơn vị ở cơ sở để thực hiện.
Chức năng của tổ chức cơ sở đảng:
Trong xây dựng CNXH khi Đảng trở thành lực lượng lãnh đạo toàn xã
hội, TCCSĐ dù được thành lập ở loại hình cơ sở nào, là Chi bộ cơ sở hay
Đảng bộ cơ sở đều có chức năng là hạt nhân chính trị lãnh đạo tại đơn vị cơ sở
và tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng.

Hạt nhân chính trị ở cơ sở: các TCCSĐ bảo đảm tính chất chính trị của
sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đơn vị cơ sở. Vai
trò đó thể hiện ở:
+ Tổ chức quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối, chủ trương, Nghị
quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và cơ quan cấp trên cho
phù hợp với đặc điểm của đơn vị, đề ra mục tiêu phương hướng nhiệm vụ
công tác chủ trương, giải pháp thực hiện, đồng thời nắm vững và phản ánh
tâm tư, nguyện vọng, những yêu cầu chính đáng của quần chúng để Đảng và
Nhà nước định ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn.
22


+ Định hướng xây dựng tổ chức và hoạt động của chính quyền, các
đoàn thể, các tổ chức kinh tế, xã hội ở cơ sở theo đường lối quan điểm của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho đường lối, chủ trương
của Đảng chính sách pháp luật của Nhà nước, các Chỉ thị, Nghị quyết của cấp
trên và của TCCSĐ thực hiện có hiệu quả.
+ Ngăn chặn những tiêu cực, uốn nắn những lệch lạc, khẳng định và
ủng hộ những nhân tố mới trong hoạt động của các tổ chức xã hội và quần
chúng tại cơ sở. Phát động, lãnh đạo và duy trì các phong trào thi đua xã hội
chủ nghĩa của quần chúng.
+ Là hạt nhân chính trị ở cơ sở, hoạt động lãnh đạo của các TCCSĐ
nhằm phát triển sản xuất, cải tiến và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác,
làm nhiệm vụ an ninh quốc phòng, thực hiện các chính sách xã hội, chăm lo
xây dựng đơn vị về mọi mặt. Tuy nhiên, ở từng loại hình đơn vị cơ sở, do
những đặc điểm về tổ chức, về chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động khác
nhau nên phương thức, quyền hạn, trách nhiệm và sự phối hợp hoạt động giữa
TCCSĐ với chính quyền và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội ở cơ sở,
cần được cụ thể hóa, song không làm mất đi tính toàn diện của sự lãnh đạo đó.
-Tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng:

+ Những hoạt động xây dựng nội bộ Đảng của TCCSĐ nhằm trực tiếp
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của TCCSĐ và góp phần nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của toàn Đảng. Tuy mỗi loại hình TCCSĐ có
những điểm riêng về phương thức tiến hành xây dựng nội bộ, song, nhìn chung
đều thực hiện những công việc chủ yếu: củng cố kiện toàn hệ thống tổ chức,
chăm lo đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và kết
nạp đảng viên mới, thực hiện chế độ sinh hoạt Đảng, tự phê bình và phê bình,
kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, giữ gìn kỷ luật và sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng; trực tiếp hoặc gián tiếp bầu các cơ quan lãnh đạo các cấp của

23


Đảng và tham gia xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, các Nghị quyết của tổ chức Đảng cấp trên.
+ Các TCCSĐ tiến hành các hoạt động xây dựng nội bộ Đảng phải
được thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt nội
bộ Đảng, đồng thời tổ chức tốt việc quần chúng tham gia xây dựng tổ chức
Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên [32, tr. 92-93-94].
Chức năng của TCCSĐ là sự phân công tất yếu, sự quy định chức
trách một cách tương đối ổn định, hợp lý trong từng thời kỳ lịch sử cụ thể
mà cách mạng đòi hỏi ở một tổ chức, giúp phân biệt rõ tổ chức này với tổ
chức khác trong hệ thống chính trị. Qua sự xác định của Điều lệ Đảng có
thể thấy, TCCSĐ có chức năng quan trọng là hạt nhân lãnh đạo chính trị
tại đơn vị cơ sở. Ở đây, TCCSĐ thể hiện rõ vai trò đoàn kết và lãnh đạo
các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở; TCCSĐ là trung tâm quy tụ
tập hợp các lực lượng ở cơ sở; TCCSĐ giữ vai trò định hướng xây dựng
Nghị quyết, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở; TCCSĐ lãnh
đạo thực hiện đường lối, chủ trượng, chính sách của Đảng và pháp luật
của Nhà nước ở cơ sở. Vì vậy, khi TCCSĐ mất đoàn kết, bị quần chúng

lôi kéo kích động làm việc một cách tự phát, thì TCCSĐ sẽ không thể trở
thành hạt nhân chính trị lãnh đạo cơ sở được.
Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng: Trong điều (Điều 23) Điều lệ Đảng
Cộng sản Việt Nam được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) thông
qua đã xác định TCCSĐ có 5 nhiệm vụ cơ bản sau:
1.Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, Chi bộ và lãnh đạo
thực hiện có hiệu quả [28, tr. 35].
Đây là nhiệm vụ trọng tâm, nội dung chủ yếu trong quá trình thực hiện
vai trò lãnh đạo của TCCSĐ đối với đơn vị cơ sở. Đặc biệt, đây còn là vấn đề
quan trọng chi phối hoạt động lãnh đạo các lĩnh vực khác cũng như xây dựng
24


nội bộ Đảng ở cơ sở. Các loại hình TCCSĐ có đặc điểm khác nhau, hoạt động
trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng các loại hình TCCSĐ đều có điểm
chung là phải tổ chức cho đảng viên, quần chúng ở đơn vị cơ sở học tập quán
triệt đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nghiên cứu tình
hình, nắm vững điều kiện tự nhiên, xã hội, tiềm năng ở cơ sở, nắm bắt tâm tư
nguyện vọng chính đáng của nhân dân để đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính tri
phù hợp cho Đảng bộ, Chi bộ và lãnh đạo thực hiện đạt hiệu quả. Có thể nói,
đây là quá trình TCCSĐ phát huy dân chủ trong Chi bộ, đảng viên và quần
chúng. Bởi vì, khi xác định được chủ trương, nhiệm vụ chính trị đúng,
TCCSĐ tổ chức lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện bằng những nhiệm vụ, kế hoạch
cụ thể của đơn vị, thành quyết tâm và thành phong trào cách mạng của quần
chúng ở cơ sở.

2. Xây dựng Đảng bộ, Chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất lượng
sinh hoạt Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng

cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và
quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính
chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển
đảng viên [28, tr. 35].
Chất lượng của một tổ chức đảng, của cấp ủy và đội ngũ cán bộ đảng
viên là yếu tố giữ vai trò lãnh đạo quyết định đối với việc đổi mới phương
thức : lãnh đạo của các TCCSĐ. Vì vậy, nội dung của nhiệm vụ trên cần được
vận ’ dụng vào từng loại hình TCCSĐ nhất định theo đúng với quy định của
BCH Trung ương, phải xuất phát từ thực tiễn ở Chi bộ, Đảng bộ mà xác định
trọng tâm, trọng điểm cần phải giải quyết.
3.Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính tri - xã hội trong sạch,
25


×