Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ



LÊ DUY BÌNH

QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ
VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

-

LÊ DUY BÌNH

QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ
VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Triết học
Mã số:

60 22 80

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THÁI SƠN

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1

Chƣơng 1. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ KINH TẾ,
CHÍNH TRỊ VÀ QUAN HỆ GIỮA CHÚNG ................................................... 7

1.1. Quan điểm mácxít về kinh tế, chính trị ......................................................... 7
1.1.1. Khái niệm kinh tế ....................................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm chính trị................................................................................... 12
1.2. Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị ...................... 18
1.2.1. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin .................. 18
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh ................................................................... 26
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................................................ 31

2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế, đổi mới
chính trị và quan hệ giữa chúng ............................................................... 31
2.1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đổi mới kinh tế, đổi mới
chính trị .................................................................................................... 31
2.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ...................................................................... 42
2.2. Thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt
Nam hiện nay ........................................................................................... 49
2.2.1. Đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, từng bước đổi mới hệ thống

chính trị .................................................................................................... 49
2.2.2. Đẩy mạnh đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống
chính trị, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ............................................................................ 55


2.2.3. Thành tựu và hạn chế trong quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở nước ta hiện nay ..................................................................... 61
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT QUAN HỆ GIỮA ĐỔI
MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIÊN NAY ...............70

3.1. Một số nguyên tắc và phương hướng cơ bản .............................................. 70
3.1.1. Một số nguyên tắc cơ bản ........................................................................ 70
3.1.2. Một số phương hướng cơ bản .................................................................. 78
3.2. Một số giải pháp cơ bản .............................................................................. 82
3.2.1. Nhóm giải pháp về nhận thức .................................................................. 82
3.2.2. Nhóm giải pháp về hành động ................................................................. 91
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 109


BẢNG QUY ƯỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

HĐND


:

Hội đồng nhân dân

KHCN

:

Khoa ho ̣c công nghê ̣

KHXH

:

Khoa ho ̣c xã hô ̣i

IMF

:

Quỹ tiền tệ thế giới

FDI

:

Đầu tư trực tiếp nước ngoài

ODA


:

Đầu tư gián tiếp nước ngoài

MTTQ

:

Mặt trận Tổ quốc

TBCN

:

Tư bản chủ nghĩa

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa

UBND

:

Uỷ ban nhân dân

WB


:

Ngân hàng thế giới

WTO

:

Tổ chức Thương mại Thế giới


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thử thách lớn nhất đối với đảng cầm quyền trong xây dựng đất nước là
nhận thức, vận dụng quan hệ giữa kinh tế và chính trị phù hợp với những đặc
điểm dân tộc và bối cảnh thời đại. Quan hệ giữa kinh tế và chính trị luôn là vấn
đề quan trọng nhất của các cuộc cải cách và phát triển. Xử lý quan hệ này như
thế nào là thước đo tầm vóc của đảng cầm quyền về đối nội cũng như đối
ngoại. Lịch sử cho thấy quan hệ kinh tế và chính trị trong cải cách, đổi mới phụ
thuộc nhiều vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị trong nước
và chịu tác động ngày càng tăng của những biến đổi trên thế giới, nhất là ở giai
đoạn hiện nay.
Đại hội VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những quan hệ cơ bản
mà thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra [10, tr.75] và đòi hỏi phải được làm rõ
về lý luận nhằm soi đường tiếp tục đưa thực tiễn đổi mới đi vào chiều sâu. Vì
vậy, nghiên cứu quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay vẫn vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn
cao nhằm đáp ứng nhu cầu của giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công nghiệp

hóa, hiện đại hoá đất nước.
Nhằm nhận thức sâu sắc và có hệ thống lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định bản chất khoa học trong nhận thức
và hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị, từ đó nêu một số khuyến nghị và định hướng một số giải
pháp thực hiện mối quan hệ đó trong giai đoạn hiện nay là đề tài nghiên cứu
của luận văn Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
hiện nay.

1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nếu nhìn vào môn khoa học Lịch sử các học thuyết chính trị, chúng ta
thấy đối tượng nghiên cứu của nó là các tư tưởng và học thuyết chính trị, pháp
luật phát sinh và phát triển trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định.
Điều này cho thấy các học thuyết chính trị cô đọng lợi ích kinh tế của giai cấp
này hoặc giai cấp khác. Những lợi ích kinh tế ấy của các giai cấp có quyền lực
chính trị bảo vệ đòi hỏi phải có những nghiên cứu xứng tầm để khẳng định tư
tưởng chính trị của mình. Có thể liệt kê các học thuyết như vậy từ thời Hy Lạp
cổ đại, qua La Mã chiếm hữu nô lệ, đến các học thuyết chính trị Tây Âu phong
kiến, trong các cuộc cách mạng tư sản sơ kỳ (XVII), khai sáng (XVII-XVIII)
và của các nhà CNXH không tưởng Pháp như Xanh Ximông, Phuriê…
Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, kinh tế, chính trị và mối quan hệ giữa
chúng luôn là vấn đề quan trọng và cấp thiết, có tính thời sự trong các giai
đoạn khác nhau của cách mạng nên đã có không ít những công trình nghiên
cứu. Tiêu biểu là các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế,
chính trị và mối quan hệ giữa chúng của các nhà kinh điển như C.Mác và
Ph.Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Tư bản, Chống Đuyrinh, Nội
chiến ở Pháp, Phê phán cương lĩnh Gôta, Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư
hữu và của nhà nước… V.I.Lênin: Bản sơ thảo lần đầu những nhiệm vụ trước

mắt của chính quyền Xô viết; Diễn văn đọc tại Đại hội I toàn Nga các Hội
đồng kinh tế quốc dân ngày 26/5/1918; Những vấn đề trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội; Tổng kết một cuộc tranh luận về quyền tự quyết; Tóm
tắt bài phát biểu về Công đoàn, về tình hình trước mắt và về những sai lầm
của đồng chí Tơrốtxki…
Dựa trên những luận điểm kinh tế, chính trị của các nhà kinh điển và
thực tiễn cách mạng từng thời kỳ, đã có nhiều công trình nghiên cứu về kinh
tế, chính trị, quan hệ giữa kinh tế và chính trị của các nhà nghiên cứu, như
Bôgônirốp: Chủ nghĩa Lênin và vấn đề quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong thời

2


kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liênxô, Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1974
(tiếng Nga). Phạm Như Cương (chủ biên): Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam - Một số vấn đề kinh tế-xã hội trong chặng đường đầu tiên,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1987. Trung tâm Thông tin tư liệu, Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
nước ta trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đề tài KX.05.04, Hà
Nội, 1993. Phạm Ngọc Quang, Nguyễn Viết Thông: Góp phần tìm hiểu sự
phát triển tư duy lãnh đạo của Đảng ta trong công cuộc đổi mới trên các lĩnh
vực chủ yếu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000. Trần Phúc Thăng (chủ
biên): Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng chính trị
trong thời kỳ phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam,
Nxb. Lao động, Hà Nội, 2000. Nguyễn Trọng Phúc (chủ biên): Một số kinh
nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Lý Cảnh Nguyên (Viện Khoa học Xã hội
Trung Quốc): Tiêu chuẩn lực lượng sản xuất - hòn đá tảng của lý luận Đặng
Tiểu Bình, Tạp chí Triết học, số 2 (165) 2005. Lương Xuân Quỳ (chủ biên):
Quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở

Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2006. Nguyễn Thanh Tuấn và
những người khác (đồng chủ biên): Quan điểm chính trị trong một số tác
phẩm kinh điển Mác-Lênin, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Nguyễn
Thái Sơn: Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị ở Việt Nam
hiện nay, đề tài QTCT.07.01. Lương Đình Hải: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị: Những vấn đề cơ bản của Việt Nam, đề tài cấp Bộ, Viện
KHXH Việt Nam, 2009. Học viện Báo chí - Tuyên truyền: Hội thảo “Mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới hệ thống chính trị”, 10/2009.
Nguyễn Thái Sơn: Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế của Việt Nam hiện nay. Đề tài TTCT.09.06, 2010…

3


Những công trình trên, ở mức độ này hay mức độ khác đã có những
đóng góp quan trọng vào việc làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về kinh tế,
chính trị và quan hệ giữa chúng. Tuy nhiên, một là, do tiếp cận từ các góc độ
khác nhau để làm rõ nội dung các khái niệm và quan hệ giữa chúng; hai là,
các công trình trên thường dừng lại ở cấp độ lý luận chung; ba là, thực tiễn
đời sống kinh tế, chính trị luôn vận động và phát triển làm nảy sinh một số
vấn đề mới cần được tiếp tục nghiên cứu. Do vậy, đề tài hy vọng sẽ góp phần
làm phong phú thêm kho tàng lý luận và thực tiễn về kinh tế, chính trị và vấn
đề đổi mới đồng thời giữa chúng, nêu ra một số khuyến nghị định hướng và
giải pháp hiện thực hóa mối quan hệ đó trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay; trên cơ sở đó, đề xuất một số phương hướng
và giải pháp cho việc tăng cường hơn nữa việc đồng thời đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài kế thừa thành tựu nghiên cứu của các công trình đã có, thu
thập, xử lý tư liệu mới; nghiên cứu thực tiễn quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị trong thời gian từ 1986 đến nay nhằm:
- Hệ thống hoá, khái quát hoá những tư liệu đã có, bổ sung thêm những
tư liệu mới, góp phần làm rõ nhận thức về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị.
- Vận dụng quan điểm Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế và
chính trị, xem xét thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
ở Việt Nam.
- Khuyến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quá trình đồng
thời đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các khái niệm kinh tế, chính trị và mối quan hệ
biện chứng giữa chúng trong thời kỳ hiện nay ở Việt Nam.
Luận văn tập trung nghiên cứu các quan điểm chính, có tính bản lề
trong nhận thức và hiện thực hoá quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị trong giai đoạn 2006-2010 của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Luận văn chỉ đề cập tới những quan điểm mácxít cơ bản về kinh tế và
chính trị, đồng thời vận dụng những quan điểm đó vào nghiên cứu thực tiễn Việt
Nam. Nêu nội dung các quan điểm chính và khuyến nghị một số giải pháp xử lý
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong giai đoạn hiện nay ở
Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm về kinh tế, chính trị
trong một số tác phẩm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ

Chí Minh; một số quan điểm về kinh tế, chính trị trong Văn kiện Đại hội từ
lần thứ IV đến lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam và thực tiễn 25 năm
đổi mới.
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp
lịch sử, kết hợp với các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê,
đối chiếu, so sánh... phù hợp với yêu cầu của cấu trúc luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hóa quan điểm của các nhà kinh điển Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa kinh tế và chính trị; giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị.
- Làm sáng tỏ thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị ở Việt Nam hiện nay, với cả thành tựu và hạn chế.

5


- Trên cơ sở phân tích thực trạng quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam, luận văn khuyến nghị một số phương hướng và giải
pháp cơ bản nhằm thực hiện hiệu quả quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam thời gian tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu
hoặc giảng dạy các môn học có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết:
Chƣơng 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về kinh tế, chính trị
và quan hệ giữa chúng.
Chƣơng 2: Thực trạng quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị ở Việt Nam hiện nay.

Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp giải quyết mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.

6


Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ KINH TẾ, CHÍNH TRỊ VÀ QUAN HỆ GIỮA CHÚNG
1.1. Quan điểm mácxít về kinh tế, chính trị
1.1.1. Khái niệm kinh tế
Từ điển tiếng Việt định nghĩa kinh tế là một hệ thống những quan hệ
sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, là những hoạt động của
con người nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất. Kinh tế là tất cả những gì liên
quan tới lợi ích vật chất của con người; có tác dụng mang lại hiệu quả lớn so
với sức người, sức của và thời gian bỏ ra [60, tr.511].
Trong chủ nghĩa Mác-Lênin, khái niệm kinh tế phản ánh một trong
những lĩnh vực quan trọng nhất của đời sống xã hội, gắn liền với việc sản xuất
ra các điều kiện vật chất cần thiết để thoả mãn nhu cầu của xã hội trong
những hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể, thể hiện nhiều nhóm quan hệ
nhưng thống nhất, tác động qua lại lẫn nhau.
Có thể hiểu kinh tế “Là phương thức mà con người của một xã hội nhất
định dùng để sản xuất ra những tư liệu để sinh sống và trao đổi sản phẩm với
nhau” phương thức đó trong điều kiện kinh tế cụ thể, thể hiện tổng hoà của
lực lượng sản xuất (các điều kiện của sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất,
người lao động và khoa học) với quan hệ sản xuất (là hình thức xã hội của sản
xuất bao gồm quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất; tổ chức, phân công và quản lý
lao động; phân phối sản phẩm; trong đó “sản xuất (...) là điểm xuất phát, tiêu
dùng là điểm cuối cùng, phân phối và trao đổi là điểm trung gian” [34,
tr.270]. “Khái niệm các quan hệ kinh tế cũng bao gồm cả cơ sở địa lý, trên đó

các quan hệ đó phát triển” [31, tr.56]. “Những tàn tích trên thực tế do quá khứ
để lại của trình độ phát triền kinh tế trước đó. Những tàn tích đó vẫn tiếp tục
được duy trì một phần chỉ theo truyền thống hoặc nhờ visinestiae (lực quán

7


tính) và tất nhiên cũng gồm cả môi trường bên ngoài hình thức xã hội đó” [34,
tr.270-271].
Kinh tế chính trị Mác-Lênin là khoa học nghiên cứu quan hệ sản xuất
trong mối quan hệ, tác động qua lại giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng
tầng trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định nhằm tìm ra các quy luật
kinh tế trong sự vận động của xã hội đó. Môn khoa học này được biên soạn từ
nội dung và kết cấu bộ Tư bản của C.Mác; tác phẩm Chủ nghĩa đế quốc - giai
đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản của V.I.Lênin và một số tác phẩm khác
của các nhà kinh điển mác xít. Đồng thời các quan điểm kinh tế, chính trị của
các nhà lý luận mácxít cũng được kế thừa sáng tạo và phát triển toàn diện để
hoàn thiện và phát triển môn kinh tế chính trị Mác-Lênin, trong bài “Lịch sử
của khoa kinh tế chính trị” của bộ Tư bản, C.Mác viết “Với tư cách là một
khoa học riêng biệt thì khoa kinh tế chính trị chỉ xuất hiện vào thời kỳ công
trường thủ công, nó chỉ đứng trên quan điểm của sự phân công lao động trong
xã hội nói chung. Coi đó là một phương tiện để sản xuất ra nhiều hàng hoá
hơn với số lượng lao động như cũ, do đó là một phương tiện để làm cho hàng
hoá rẻ đi và đẩy nhanh sự tích luỹ của tư bản” [30, tr.529-530]. Về đối tượng
của khoa kinh tế chính trị, ông viết “Nhưng hình thái hàng hoá của sản phẩm
hay hình thái giá trị của hàng hoá lại là hình thái tế bào kinh tế của xã hội tư
sản” [30, tr.16-21]. “Một nước phải học hỏi và có thể học hỏi ở các nước
khác. Một xã hội, ngay cả khi đã phát hiện được quy luật tự nhiên của sự vận
động của nó (...) cũng không thể nào nhảy qua các giai đoạn phát triển tự
nhiên hay dùng sắc lệnh để xoá bỏ những giai đoạn đó. Nhưng có thể rút ngắn

và làm dịu bớt được những cơn đau đẻ” [30, tr.21-23].
Hình thái kinh tế - xã hội là lý luận nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện
chứng trong lĩnh vực xã hội. Trong lý luận đó C.Mác và Ph.Ăngghen không
những đã chỉ ra quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, mà còn chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa

8


cở sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng gồm toàn bộ những
quan hệ xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội ở giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử, còn kiến trúc thượng tầng gồm hệ thống các các quan
điểm chính trị, pháp luật, tôn giáo, nghệ thuật, triết học,... và các thiết chế
tương ứng. Mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng là mối
quan hệ biện chứng, chúng có thể phù hợp và cũng có thể không phù hợp với
nhau. Nếu phù hợp, chúng tạo sự ổn định và phát triển của xã hội, nếu không
phù hợp chúng sẽ làm cho xã hội bất ổn định, trì trệ, thậm chí rối loạn. Xét
cho cùng nguồn gốc sâu xa của mọi sự biến đổi xã hội là do sự tác động qua
lại giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, còn nguyên nhân trực tiếp là
do sự tác động qua lại giữa cơ sở hạ tầng với kiến trúc thượng tầng.
Trong xã hội còn giai cấp đối kháng quan hệ giữa cơ sở hạ tầng với
kiến trúc thượng tầng biểu hiện tập trung ở quan hệ giữa kinh tế và chính trị;
trong đó kinh tế là cái thứ nhất quy định nội dung kết cấu của chính trị và
chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị tuy là cái thứ hai so
với kinh tế, nhưng có tác động trở lại kinh tế, tạo vai trò định hướng cho sự
phát triển kinh tế và điều chỉnh các quan hệ kinh tế của một xã hội nhất định.
Về vị trí của chính trị trong kiến trúc thượng tầng, Từ điển Triết học cho rằng
“Chính trị là một bộ phận quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng, biểu
hiện của một chế độ kinh tế thống trị trong một xã hội nhất định, lĩnh vực chủ
yếu của chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, việc thực hiện

chính quyền nhà nước. Chính trị thể hiện tập trung quyền lợi của các giai cấp
xã hội. Do chỗ không một giai cấp nào có thể xác lập hay giữ vững được sự
thống trị kinh tế của mình nếu không có quyền lực chính trị, cho nên chính trị
giữ địa vị ưu tiên so với kinh tế. Sau khi đã vạch ra và thực hiện đường lối
chính trị đúng đắn thì trọng tâm của công cuộc xây dựng xã hội mới chuyển
sang việc tổ chức kinh tế, tổ chức hệ thống kinh tế tổ chức hệ thống quản lý
kinh tế. Nhà nước XHCN có chức năng tổ chức kinh tế và văn hoá giáo dục

9


mới. Cải tiến hệ thống quản lý kinh tế nâng cao trình độ khoa học trong kinh
tế là một trong những mặt quan trong nhất trong đường lối chính trị của Đảng
Cộng sản trong giai đoạn hiện nay” [60, tr.292].
Trong các tài liệu lý luận hiện đang có ít nhất hai cách hiểu về khái
niệm kinh tế khác nhau theo mức độ rộng và hẹp về ngữ nghĩa của từ. Kinh tế
là “1. Tổng thể các hoạt động của một cộng đồng người, một nước, liên quan
đến toàn bộ quá trình hay một phần của tổng quá trình bao gồm các quá trình
sản xuất, trao đổi, phân phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội. 2. Tổng thể
những mối quan hệ trong quá trình sản xuất của một hình thái kinh tế - xã hội
nhất định, trong tổ chức và hoạt động của cơ cấu hạ tầng của xã hội, bao gồm
các ngành kinh tế - kỹ thuật, các loại hình sản xuất tương ứng. Nền kinh tế
quốc dân của một nước bao gồm các ngành, các vùng lãnh thổ, các cơ sở và
các loại hình sản xuất và bao trùm các khâu của nền sản xuất xã hội (sản xuất
- phân phối - trao đổi - tiêu dùng) trên toàn bộ lãnh thổ của đất nước. Mỗi một
phương thức sản xuất đều có nền kinh tế riêng. Mỗi nền kinh tế đều do các
quan hệ sản xuất cũng như tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất quy
định” [61, tr.17]. “Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống
của con người, các mối quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội” [61, tr.18].

Ở nội dung thứ nhất, "kinh tế", chứa đựng trong nó cả những quan hệ
giữa người với tự nhiên, lẫn những quan hệ giữa người với người trong quá
trình sản xuất, tức là quan hệ sản xuất. Kinh tế là toàn bộ hoạt động sản xuất,
phân phối, trao đổi và tiêu dùng của cải và những quan hệ giữa người với
người, giữa người và tự nhiên, giữa xã hội và tự nhiên.
Trong nội dung thứ hai, "kinh tế" chỉ tổng thể các quan hệ sản xuất của
một xã hội nhất định, tạo nên cơ sở kinh tế của xã hội đó. "Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện

10


thực trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị,
tương ứng với cơ sở thực tại đó" [61, tr.18].
Cơ sở kinh tế của một xã hội cụ thể là toàn bộ những quan hệ sản xuất
cũng như sự tác động lẫn nhau giữa các quan hệ ấy trong xã hội đó. Nói chung,
trong mỗi phương thức sản xuất, mỗi xã hội xác định thì bên cạnh quan hệ sản
xuất thống trị hay còn gọi là quan hệ sản xuất chủ đạo còn có những quan hệ sản
xuất tàn dư của xã hội cũ và những quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội
tương lai. Hai loại quan hệ sản xuất tàn dư và mầm mống này còn được gọi là
các quan hệ sản xuất quá độ. Cơ sở kinh tế của một xã hội cụ thể được đặc trưng
chủ yếu bởi kiểu quan hệ sản xuất thống trị trong cho xã hội ấy, đồng thời, cũng
bao gồm những quan hệ sản xuất quá độ trong chừng mực tùy thuộc vào trình độ
phát triển của quan hệ sản xuất chủ đạo. Trong mọi xã hội, quan hệ sản xuất
thống trị luôn giữ địa vị chi phối, có vai trò chủ đạo và có tác dụng quyết định
đối với các quan hệ sản xuất khác. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin,
quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất luôn là nhân tố quyết định trong các quan
hệ sản xuất và do vậy, trong cả cơ sở kinh tế của xã hội. Vị thế của con người
trong tổ chức quản lý sản xuất và trong phân phối sản phẩm do quan hệ sở hữu
đối với tư liệu sản xuất quyết định.

Tuy không thể đồng nhất “kinh tế” với “hạ tầng cơ sở” theo nghĩa triết
học (nghĩa rộng) bởi ở đây kinh tế rộng hơn hạ tầng cơ sở với nội dung là
tổng hợp các quan hệ sản xuất đang tồn tại trong một hình thái kinh tế - xã hội
xác định. Còn theo nghĩa hẹp thì kinh tế lại đồng nghĩa với hạ tầng cơ sở. Đây
là điều cần lưu ý khi sử dụng các cách hiểu về kinh tế để xem xét đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững ở nước ta
hiện nay.
Nói đổi mới kinh tế, hoặc cải cách kinh tế, cần phải hiểu rằng đó là làm
cho nền kinh tế khác trước, không còn khủng hoảng, trì trệ, lạc hậu như xưa
mà là phát triển năng động, tiến bộ, đáp ứng đựoc đòi hỏi của sự phát triển

11


trong điều kiện và hoàn cảnh mới, nhưng không làm thay đổi bản chất của
nền kinh tế, càng không thể làm thay đổi bản chất của chế độ xã hội. Đó là sự
thay đổi trong nền kinh tế quốc dân trên cơ sở thay đổi quan điểm, đường lối,
chính sách, cách thức tổ chức thực hiện, thay đổi các hình thức tổ chức và
quản lý sản xuất, phát triển các lực lượng sản xuất, làm tăng trưởng và phát
triển kinh tế, hay nói rộng hơn là thay đổi mô thức phát triển kinh tế.
Tóm lại, từ những quan niệm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin, có thể hiểu Kinh tế là tổng hòa các mối quan hệ tương tác lẫn nhau của
con người và xã hội liên quan trực tiếp đến việc sản xuất, trao đổi, phân phối,
tiêu dùng các loại sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, nhằm thỏa mãn nhu cầu
ngày càng cao của con người trong một xã hội với một nguồn lực có giới hạn.
Kinh tế là tổng thể các yếu tố sản xuất, các điều kiện sống của con người các
mỗi quan hệ trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nói đến kinh tế suy
cho cùng là nói đến vấn đề sở hữu và lợi ích”.
Như vậy, theo nghĩa rộng và đầy đủ nhất, kinh tế không chỉ bao gồm
những yếu tố cấu thành của phương thức sản xuất với tư cách là những điều
kiện gắn liền trực tiếp với quá trình sản xuất, mà còn gồm cả những điều kiện

tự nhiên và xã hội khác có liên quan, có vai trò tạo môi trường cho quá trình
sản xuất. Tuy nhiên trong các yếu tố cấu thành của quan hệ kinh tế, phương
thức sản xuất có vai trò quyết định, quy định tính đặc thù của quan hệ kinh tế
trong từng thời kỳ, lịch sử cụ thể của sự phát triển xã hội. Luận văn này tiếp
cận kinh tế từ góc độ là quan hệ vật chất, kinh tế; là cái thứ nhất trong quan hệ
với cái thứ hai là nhà nước với những quan hệ tư tưởng, chính trị và tính quy
định của kinh tế đối với chính trị trong xã hội Việt Nam hiện nay.
1.1.2. Khái niệm chính trị
Chính trị có gốc từ tiếng Hy Lạp, với nghĩa là các công việc nhà nước,
công việc xã hội [62], là những hoạt động liên quan đến các mối quan hệ giữa
các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là vấn đề

12


giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia vào
công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung
họat động của nhà nước. Bất cứ vấn đề chính trị nào cũng có liên quan đến
quyền lợi của các giai cấp và nhà nước [61, tr.478].
Chính trị phản ánh quan hệ về địa vị, lợi ích kinh tế giữa các giai cấp,
các cộng đồng, các tập đoàn xã hội cũng như quan hệ giữa các quốc gia, dân
tộc. Nó bao gồm các yếu tố từ tình cảm, thái độ chính trị thường ngày, mối
quan tâm chính trị cho đến quan điểm, hệ tư tưởng chính trị và các thiết chế
của nó như Nhà nước, đảng phái, phong trào chính trị cũng như sự tác động
qua lại giữa chúng. Khi xã hội phân chia thành giai cấp và mâu thuẫn giữa các
giai cấp trở nên gay gắt đến mức không thể điều hòa được thì Nhà nước,
chính trị ra đời. Và chính trị chỉ tồn tại trong những giai đoạn phát triển nhất
định của lịch sử và sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn nữa. Dấu hiệu
đặc trưng và tập trung nhất của chính trị là Nhà nước nên khi Nhà nước còn
tồn tại thì khi đó còn tồn tại chính trị, hoạt động giành, giữ và củng cố Nhà

nước là biểu hiện tập trung nhất của chính trị.
Do là một trong những lĩnh vực phức tạp nhất trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội có giai cấp; việc tiếp cận chính trị từ những phương diện và
cấp độ khác nhau, những quan điểm giai cấp khác nhau nên có nhiều cách
nhìn khác nhau về chính trị. Từ điển tiếng Việt coi “Chính trị là những vấn đề
tổ chức và điều khiển bộ máy nhà nước trong nội bộ một nước và quan hệ về
mặt nhà nước giữa các nước với nhau” (chế độ chính trị, tình hình chính trị
trong nước). Chính trị là hoạt động của một giai cấp, một chính đảng, một tập
đoàn xã hội nhằm giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước
(đường lối chính trị, hoạt động chính trị). Chính trị là những hiểu biết về mục
đích, đường lối, nhiệm vụ đấu tranh của một giai cấp, một chính Đảng nhằm
giành hoặc duy trì quyền điều khiển bộ máy nhà nước (giáo dục ý thức chính
trị, vững vàng về chính trị). Chính trị là hoạt động nhằm nâng cao giác ngộ

13


chính trị do quần chúng tổ chức, quần chúng thực hiện đường lối nhiệm vụ
chính trị nhất định (công tác chính trị, cán bộ chính trị). Chính trị là sự khéo
léo đối xử để đạt được mục đích mong muốn (thái độ chính trị). Chính trị là
khoa học nghiên cứu về tổ chức và đời sống chính trị của xã hội về những vấn
đề chính sách đối nội và đối ngoại” [60, tr.158]
Từ điển Triết học định nghĩa “Chính trị sự là tham gia vào các công việc
của Nhà nước vào việc quy định những hình thức nhiệm vụ với những nội
dung hoạt động của Nhà nước. Lĩnh vực chính trị bao hàm các vấn đề như chế
độ nhà nước quản lý đất nước, lãnh đạo các giai cấp vấn đề đấu tranh đảng
phái... Những lợi ích căn bản những quan hệ qua lại của các giai cấp biểu hiện
ra trong chính trị. Chính trị cũng biểu hiện qua quan hệ giữa các dân tộc và
giữa các quốc gia thông qua chính sách đối nội, đối ngoại. Các quan hệ giữa
các giai cấp và do đó cả chính trị của họ nữa, bắt nguồn từ địa vị kinh tế của họ.

Những tư tưởng chính trị và những thiết chế tương ứng với chúng là kiến trúc
thượng tầng bên trên cơ sở hạ tầng kinh tế. Tuy nhiên điều đó hoàn toàn không
có nghĩa rằng chính trị là hệ quả thụ động của kinh tế. Muốn chính trị trở thành
lực lượng cải tạo thì nó phải phản ánh đúng những nhu cầu phát triển của đời
sống vật chất xã hội” [62, tr.85].
Qua cách hiểu theo nghĩa rộng của khái niệm chính trị như trên, có thể coi
chính trị là một trong những lĩnh vực của đời sống xã hội kể từ khi xã hội phân
chia thành giai cấp và tổ chức thành nhà nước. Khi chính trị xuất hiện, cùng với
việc sử dụng sức mạnh sẵn có của tự nhiên, trong quá trình tìm kiếm phương
thức tổ chức và sử dụng chính trị, con người đã sáng tạo ra công cụ, sức mạnh
đặc hữu của mình là nhà nước, nhằm thỏa mãn khát vọng cai trị hoặc giải phóng.
Và cũng từ đó, cuộc đấu tranh giành, giữ, sử dụng sức mạnh chính trị, quyền lực
chính trị đã trở thành cuộc đấu tranh giai cấp, một trong những động lực của sự
phát triển xã hội.

14


Những quan điểm cơ bản về giai cấp, chính trị, nhà nước của chủ nghĩa
Mác-Lênin được thể hiện qua các tác phẩm kinh điển. Có thể coi tình cảnh
của giai cấp lao động ở Anh (1844) làm điểm khởi đầu; Vấn đề nông dân ở
Pháp và ở Đức (1894) do Ph.Ăngghen viết làm điểm kết thúc giai đoạn
C.Mác và Ph.Ăng ghen. Trong giai đoạn V.I.Lênin, có thể coi tác phẩm Hai
sách lược của Đảng Dân chủ - xã hội trong cách mạng dân chủ (1905) và tác
phẩm Thà ít mà tốt (1923) là những tác phẩm có vị trí khởi đầu và kết thúc
quá trình hình thành, phát triển đó. Những quan điểm chính trị của chủ nghĩa
Mác-Lênin thể hiện rõ nét hơn trong giai đoạn V.I.Lênin, khi đảng cộng sản
đã là đảng cầm quyền và những quan điểm chính trị đó là cơ sở lý luận trang
bị kiến thức khoa học và cách mạng, thể hiện từ nhiều khía cạnh, nhiều góc
độ trong mối liên hệ phức tạp của chính trị với các lĩnh vực, quá trình hoạt

động trong đời sống xã hội.
Khái lược nội dung chính trị trong các tác phẩm của C.Mác,
Ph.Ăngghen và V.I.Lênin, chúng ta thấy các nhà kinh điển còn sử dụng khái
niệm chính trị theo nghĩa hẹp. Đó là khi xem xét những yếu tố của chính trị
phản ánh bản chất cơ sở kinh tế của xã hội cụ thể sinh ra nó, hoặc khi xem xét
vai trò của các yếu tố ấy đối với cơ sở kinh tế thì chính trị được coi là bộ phận
quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng. Với nội hàm này, chính trị bao
gồm hệ tư tưởng chính trị, các thiết chế chính trị tương ứng đang tồn tại hiện
thực trong xã hội ở một giai đoạn lịch sử cụ thể mà yếu tố quan trọng nhất của
nó là nhà nước. Có thể coi Nhà nước và hệ tư tưởng chính trị là biểu hiện tập
trung và cô đọng của chính trị từ hai góc độ thống nhất: Nhà nước là biểu hiện
tập trung nhất của chính trị từ góc độ tổ chức thực tiễn, còn hệ tư tưởng chính
trị là biểu hiện tập trung và cô đọng của chính trị từ góc độ lý luận [14, tr.15].
Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng, chủ nghĩa duy vật biện chứng không đồng nhất
chính trị với kiến trúc thượng tầng; chỉ có một vài yếu tố, bộ phận của chính
trị thuộc về kiến trúc thượng tầng (hệ tư tưởng chính trị, nhà nước) và cũng có

15


yếu tố, bộ phận của chính trị nằm ngoài kiến trúc thượng tầng (tình cảm, dư
luận, tư tưởng, thái độ chính trị thường ngày, mối quan tâm chính trị). Quan
hệ kinh tế và chính trị là lát cắt khác với quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng.
Có thể khái quát nội dung quan niệm mácxít về chính trị vào những
điểm sau: 1) Chính trị là loại quan hệ xã hội đặc biệt bắt nguồn từ quan hệ về
lợi ích giữa các giai cấp, các nhóm xã hội, các quốc gia dân tộc; trong đó,
trước hết và cơ bản nhất là lợi ích kinh tế. 2) Vấn đề quan trọng nhất của
chính trị là tổ chức chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước, là sự tham gia
vào công việc nhà nước; định hướng cho nhà nước, xác định hình thức, nội

dung và nhiệm vụ của nhà nước. 3) Chính trị là quan hệ kinh tế được cô đọng
lại, biểu hiện tập trung của kinh tế, là việc xây dựng nhà nước về kinh tế.
Đồng thời, chính trị không thể không chiếm vị trí hàng đầu so với kinh tế. 4)
Chính trị là nguyện vọng của giai cấp không có ảnh hưởng chính trị, muốn
khắc phục sự cô lập của mình với nhà nước, với quyền thống trị. 5) Chính trị
là lĩnh vực phức tạp nhất, nhạy cảm nhất liên quan đến vận mệnh của hàng
triệu người. Giải quyết những vấn đề chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ
thuật. Chính trị là văn hoá ứng xử giao tiếp, văn hoá tiếp thu, xử lý thông tin
và các công việc khác thuộc phạm vi Nhà nước. 6) Chính trị là sự thống nhất
giữa cái khách quan với cái chủ quan, trong đó cái khách quan chính trị là các
quy luật xã hội, các quy luật kinh tế, quy luật đấu tranh giai cấp, quy luật hoạt
động của nhà nước. Còn cái chủ quan chính trị là các hoạt động của con người
chính trị, ý thức chính trị lý luận chính trị các đảng phái, nhóm chính trị. Do
xem xét nhiều góc độ khác nhau nên có nhiều định nghĩa khác nhau về chính
trị. Chúng tôi đồng tình với quan niệm coi chính trị là công việc của nhà
nước, là vấn dề của quyền lực, là vấn đề gắn với giai cấp và lợi ích giai cấp.
Vì vậy, chính trị là hiện tượng gắn liền với xã hội loài người, là công việc
quản lý xã hội, duy trì sự tồn tại xã hội trong vòng trật tự bằng nhà nước.

16


“Đổi mới chính trị”, cũng tương tự như “đổi mới kinh tế”, không hàm
nghĩa thay đổi chế độ chính trị, thay đổi bản chất của chế độ. Có thể hiểu “đổi
mới chính trị” là thay đổi những cái lạc hậu, những cái không còn thích hợp
trong lĩnh vực chính trị bằng những cái khác hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn, để
khắc phục tình trạng trì trệ, lạc hậu, để phát triển lĩnh vực chính trị tốt hơn.
Cụ thể hơn, đó là sự thay đổi trong hệ tư tưởng, tâm lý chính trị, trong các
thiết chế và tổ chức chính trị, trong hệ thống chính trị, nhằm hoàn thiện các
yếu tố, bộ phận trong đó, khắc phục sự lạc hậu, trì trệ, làm cho nó vận hành

tốt hơn, đáp ứng tốt hơn những đòi hỏi phát triển của xã hội hay nói tổng quát
hơn đó là thay đổi phương thức vận hành đời sống chính trị.
Tóm lại, từ cách tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, có thể
“chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia trong
vấn đề giành, giữ, sử dụng quyền lực nhà nước; là những phương hướng,
những mục tiêu được quy định bởi lợi ích căn bản của giai cấp, của đảng phái;
là sự tham gia của nhân dân vào công việc nhà nước và xã hội; là hoạt động
thực tiễn chính trị của các giai cấp, các đảng phái, các nhà nước để thực hiện
đường lối đã được lựa chọn nhằm đi tới muc tiêu đã đươc lựa chọn nhằm đi
tới mục tiêu đã đặt ra”.
Tuy nhiên, nếu quan niệm rằng chính trị chỉ là những hoạt động xoay
quanh vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước thì trong xã hội cộng
sản, chính trị sẽ dần trở nên thừa và mất hẳn. Bởi vậy, nên quan niệm thêm
rằng, chính trị là hoạt động của con người nhằm làm ra, gìn giữ và điều chỉnh
những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực tiếp lên cuộc sống của
những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung đó.
Với cách hiểu như vậy thì dù trong xã hội cộng sản, chính trị vẫn còn tồn tại và
vẫn giữ vai trò quan trọng đối với từng con người cũng như toàn xã hội. Trong
bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ chung để hoạt động nhịp nhàng và

17


khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản,
sức khỏe hay thậm chí tính mạng của người khác hay của cộng đồng.
Luận văn này nghiên cứu khái niệm chính trị từ góc độ là yếu tố quan
trọng cơ bản của kiến trúc thượng tầng, cái thứ hai trong mối quan hệ với cái
thứ nhất (là kinh tế) và sự tác động trở lại của nhà nước đối với kinh tế trong
xã hội Việt Nam hiện nay.
1.2. Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị

1.2.1. Quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng, mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản, bao trùm nhất, chi phối tất
cả các quan hệ khác trong toàn bộ đời sống xã hội. Với cách tiếp cận duy vật
lịch sử khi phân tích một hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác chỉ rõ “Phương
thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội,
chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định
tồn tại của họ. Trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ” [25,
tr.15]. Cơ sở hạ tầng bao giờ cũng là nhân tố cơ bản quyết định kiến trúc
thượng tầng. Khi cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn sự thay đổi của
kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị dao động ít nhiều nhanh chóng. Sự biến
đổi của cơ sở hạ tầng dẫn đến sự biến đổi của kiến trức thượng tầng là một
quá trình hết sức phức tạp. Nguyên nhân của quá trình đó xét đến cùng là sự
phát triển của lực lượng sản xuất.
Tuy nhiên kiến trúc thượng tầng không phải là sản phẩm giản đơn, thụ
động của các cơ sở hạ tầng. Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu
tố cấu thành của nó cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại cơ sở hạ
tầng, đặc biệt là các yếu tố nhà nước và các đảng phái chính trị. Sự tác động
trở lại là tích cực khi nó cùng chiều với các quy luật kinh tế - chính trị, là tiêu
cực khi nó tác động ngược chiều và gây trở ngại cho sự phát triển của sản
xuất và xã hội.

18


Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ xuyên suốt lịch sử phát
triển của xã hội có giai cấp; nó quy định sự vận động, biến đổi của các xã hội
đó. Sự thay đổi đó có nguyên nhân sâu xa từ sự phát triển của lực lượng sản
xuất, dẫn tính sự thay đổi trong quan hệ sản xuất và toàn bộ hệ thống các quan
hệ xã hội. C. Mác nhấn mạnh “Trong sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con

người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ
- tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ
nhất định của lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở trên đó dựng nên
một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội
nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó” [25, tr.14-15]. Như vậy, trong hệ
thống các quan hệ xã hội, quan hệ sản xuất là bộ phận cấu thành quan trọng
nhất. Với tư cách là cơ sở kinh tế, quan hệ sản xuất có ảnh hưởng quyết định
tới sự biến đổi của chính trị, cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ kiến trúc thượng
tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn và khi xét cuộc đảo lộn ấy, cũng cần phân biệt đảo
lộn vật chất - mà người ta có thể xác nhận với một sự chính xác của khoa học
tự nhiên - trong những điều kiện kinh tế của sản xuất... với những đảo lộn trong
tư tưởng con người về những đảo lộn vật chất ấy.
Kinh tế và chính trị tác động qua lại với nhau. Một mặt, chính trị phụ
thuộc vào kinh tế, sự chuyển biến về chế độ sở hữu gắn liền với sự chuyển
biến về chế độ chính trị, “Chính trị tức là kinh tế được cô đọng lại” [19, tr.47].
Kinh tế mạnh mới đảm bảo cho nền chính trị ổn định và ngược lại chính trị ổn
định sẽ tác động trở lại kinh tế và có “địa vị hàng đầu” do tính giai cấp, tính
đảng của các hoạt động kinh tế trong các chế độ xã hội có giai cấp. Quan hệ
biện chứng giữa kinh tế và chính trị còn thể hiện ở chỗ chúng có thể phù
hợp/không phù hợp nhau. Nếu phù hợp, quan hệ giữa chúng sẽ tạo nên sự ổn
định và phát triển của xã hội; nếu không phù hợp, chúng sẽ tạo ra sự bất ổn,
sự trì trệ, thậm chí là rối loạn xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin không tuyệt đối

19


hoá và không nhấn mạnh hoặc đề cao quá mức một trong hai yếu tố của quan
hệ mang tính biện chứng sâu sắc này. Bởi nếu đề cao vai trò của nhà nước nói
riêng, kiến trức thượng tầng nói chung và phủ nhận hoặc xem xét nhẹ tác

động quyết định của những quy luật kinh tế khách quan, phủ nhận tính tất yếu
của vận động xã hội thì sẽ rơi vào duy tâm, chủ quan duy ý chí, ngược lại nếu
chỉ đề cao, nhấn mạnh đến vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng thì sẽ rơi vào
quan điểm siêu hình, phiến diện.
Trong quan hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế giữ vai trò quyết định
với chính trị; vai trò của cơ sở kinh tế, nguyên nhân điều kiện và các quan hệ
kinh tế giữ vai trò quyết định đối với các hiện tượng chính trị thể hiện ở
những mặt sau:
Kinh tế là cơ sở của chính trị. Sự hình thành, vận động và phát triển
của các hiện tượng chính trị đều dựa trên một hệ thống lợi ích kinh tế. Các
hiện tượng chính trị đó, như Lênin đã chỉ ra đó là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế.
Những biến đổi lớn trong các quan hệ chính trị thường xuất phát từ
nguyên nhân kinh tế, sự thay đổi trong cơ sở kinh tế tất yếu đòi hỏi những
thay đổi tương ứng trong quan hệ chính trị. Các hiện tượng chính trị trở thành
tất yếu khi đã hội tụ đủ các điều kiện về kinh tế; nếu không các hiện tượng
chính trị chỉ có tính tạm thời, không chắc chắn và nhiều khi trở thành chướng
ngại vật đối với sự phát triển của xã hội. Với tư cách là yếu tố thuộc kiến trúc
thượng tầng, chính trị là nhóm quan hệ xã hội phụ thuộc vào kinh tế.
Sự phụ thuộc của chính trị vào kinh tế biểu hiện ở những mặt sau:
Quan hệ chính trị chỉ xuất hiện khi có những điều kiện kinh tế tương
ứng, Sự phân chia xã hội thành giai cấp chỉ xuất hiện khi sản xuất đã tạo ra
lượng sản phẩm thặng dư nhất định - cơ sở để thay đổi hình thức xã hội của sản
xuất. Đồng thời, sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của từng giai cấp cũng chỉ
diễn ra khi có các điều kiện kinh tế tương ứng. “Giai cấp tư sản cũng như giai

20



×