Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Nghiên cứu đề xuất hệ thống quản lý chất thải rắn công nghiệp tại Công ty cổ phần Môi trường Đô thị và Công nghiệp Bắc Sơn, Sóc Sơn, Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.28 KB, 41 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển công nghiệp đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế của một quốc, gia thông qua việc thúc đẩy sự phát triển các ngành kinh tế
khác. Tuy nhiên, phát triển công nghiệp cũng đang gây ra nhiều sức ép về môi
trường ở hầu hết các quốc gia. Hàng ngày, các khu công nghiệp thải ra hàng
nghìn tấn chất thải, trong đó chất thải rắn chiếm một phần không nhỏ. Hiện nay,
việc quản lý chất thải nói chung và chất thải rắn công nghiệp nói riêng sao cho
không gây tác động tiêu cực tới môi trường và cuộc sống của con người đang là
vấn đề cấp thiết, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Ở nhiều quốc gia, các cơ quan
quản lý và xử lý chất thải được thành lập, song hiệu quả về kinh tế và môi trường
sinh thái của các hoạt động này vẫn đang là câu hỏi chưa có lời đáp.
Việt Nam là một quốc gia đang trong giai đoạn thực hiện mục tiêu Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm và tạo nền tảng để đưa Việt Nam cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Đại hội
Đảng XI – 2011 đã đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh sự chú trọng về việc phát triển
kinh tế, đất nước ta đang phải đối mặt nhiều vấn đề về môi trường. Đăc biệt là
những khó khăn trong việc quản lý và xử lý chất thải nói chung và chất thải rắn
nói riêng. Ở nhiều nơi trong cả nước, như ở các thành phố lớn, rác thải đang là
một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu
đến môi trường sinh thái và sức khỏe con người. Ở các khu công nghiệp, việc
quản lý và xử lý chất thải rắn công nghiệp hiện nay đang là một thách thức lớn
đối với các cơ quan chức năng và cơ quan quản lý của nhiều đô thị, nhất là
những đô thị có khu công nghiệp tập trung như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương... Mặc dù, các Khu công nghiệp đã có hệ thống thu gom
chất thải rắn nhưng cũng không tránh khỏi sự ô nhiễm mà chúng gây ra cho môi
trường xung quanh.
1
Hà Nội là một đô thị lớn của cả nước. Hằng ngày, toàn thành phố thải ra
một lượng lớn rác thải, bao gồm cả rác sinh hoạt và rác thải công nghiệp. Trong
đó, một phần lớn rác thải từ các khu công nghiệp đều được thu gom, vận chuyển
và xử lý tại Công ty môi trường đô thị và Công nghiệp Bắc Sơn, Sóc Sơn. Công


ty đã được đầu tư công nghệ hiện đại, đi vào hoạt động được hàng chục năm nay
và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu
đó công ty đã gây ra nhiều tác động tiêu cực tới môi trường xung quanh. Để tìm
hiểu tình hình quản lý rác ở đây và làm cơ sở đề xuất xây dựng hệ thống quản lý
chất thải rắn công nghiệp có hiệu quả hơn, tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “
Nghiên cứu đề xuất hệ thống quản lý chất thải rắn công nghiệp tại Công ty cổ
phần Môi trường Đô thị và Công nghiệp Bắc Sơn, Sóc Sơn, Hà Nội”
2
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm và phân loại chất thải
1.1.1. Khái niệm về chất thải, chất thải rắn, chất thải rắn công nghiệp
 Chất thải: là toàn bộ các loại vật chất được con người loại bỏ trong
mọi hoạt động kinh tế- xã hội, từ quá trình khai thác, chế biến và sản xuất đến
các hoạt động tiêu dùng và duy trì sự tồn tại của cộng đồng. Như vậy, chất thải
là những sản phẩm tồn tại ở dưới dạng rắn, lỏng và khí, được phát sinh và thải
bỏ trong quá trình sinh hoạt của con người, sản xuất công nghiệp, xây dựng,
nông nghiệp, thương mại, du lịch, giao thông, sinh hoạt tại các gia đình, trường
học, các khu dân cư, nhà hàng, khách sạn,,,
 Chất thải rắn: là một dạng của chất thải tồn tại ở trạng thái rắn được
con người loại bỏ trong hoạt động kinh tế - xã hội của mình. Trong đó, quan
trọng nhất là các loại sinh ra từ các hoạt động sản xuất và hoạt động sống.
 Chất thải rắn công nghiệp: là chất thải rắn được phát sinh từ các hoạt
động sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
1.1.2. Phân loại chất thải
Có nhiều tiêu chí phân loại chất thải, cụ thể:
 Theo nguồn phát sinh, chất thải được phân chia thành:
- Chất thải sinh hoạt: phát sinh hàng ngày tại các đô thị, làng mạc, khu dân cư,
các trung tâm dịch vụ, công viên...
- Chất thải công nghiệp: bao gồm những loại vật chất ở trạng thái rắn, lỏng và

khí, phát sinh từ trong quá trình sản xuất công nghiệp và thủ công nghiệp.
3
- Chất thải xây dựng: là các phế thải như đất đá, gạch ngói, bê tông vỡ, vôi vữa,
đồ gỗ, nhựa, kim loại do các hoạt động xây dựng tạo ra.
- Chất thải nông nghiệp: sinh ra do các hoạt động nông nghiệp như trồng trọt,
chăn nuôi, chế biến nông sản trước và sau thu hoạch.
 Theo mức độ nguy hại, chất thải bao gồm:
- Chất thải nguy hại: là chất thải dễ gây phản ứng, dễ cháy nổ, ăn mòn, nhiễm
khuẩn độc hại, chứa chất phóng xạ, các kim loại nặng. Các chất thải này tiềm
ẩn nhiều khả năng gây sự cố rủi ro, nhiễm độc, đe doạ sức khoẻ con người và
sự phát triển của động thực vật, đồng thời là nguồn lan truyền gây ô nhiễm môi
trường đất, nước và không khí.
- Chất thải không nguy hại: là các chất thải không chứa các chất và các hợp
chất có các tính chất nguy hại. Thường là các chất thải phát sinh trong sinh hoạt
gia đình, đô thị…
 Theo thành phần, chất thải rắn được phân loại thành:
- Chất thải vô cơ: là các chất thải có nguồn gốc vô cơ như tro, bụi, xỉ, vật liệu
xây dựng như gạch, vữa, thuỷ tinh, gốm sứ, một số loại phân bón, đồ dùng thải
bỏ gia đình.
- Chất thải hữu cơ: là các chất thải có nguồn gốc hữu cơ như thực phẩm thừa,
chất thải từ lò giết mổ, chăn nuôi cho đến các dung môi, nhựa, dầu mỡ và các
loại thuốc bảo vệ thực vật.
 Theo dạng tồn tại, chất thải bao gồm:
- Chất thải trạng thái rắn: bao gồm chất thải sinh hoạt, chất thải từ các cơ sở
chế biến, sản xuất và xây dựng như kim loại, da, hoá chất sơn, nhựa, thuỷ tinh,
vật liệu xây dựng…
- Chất thải ở trạng thái lỏng: phân bùn từ cống rãnh, bể phốt; nước thải từ nhà
máy lọc dầu, rượu bia, nước từ nhà máy sản xuất giấy, dệt nhuộm và vệ sinh
công nghiệp...
4

- Chất thải ở trạng thái khí: bao gồm các khí thải và bụi sinh ra từ các động cơ
đốt trong các máy động lực, giao thông, ô tô, máy kéo, tàu hoả, nhà máy nhiệt
điện, sản xuất vật liệu…Các loại khí thải chủ yếu: SO
2
, NO
x
, CO
2,
...
1.2. Tổng quan về chất thải rắn công nghiệp
1.2.1. Nguồn gốc phát sinh
Sự hình thành chất thải rắn là quy luật tất yếu của sản xuất. Chất thải rắn
có thể sinh ra trong bất cứ giai đoạn nào của qua trình sản xuất và tiêu thụ hàng
hóa. Nguyên nhân cụ thể của sự gia tăng chất thải rắn rất đa dạng. Trong đó, có
những nguyên nhân có thể được khắc phục một cách dễ dàng và nhanh chóng,
nhưng cũng có nhiều nguyên nhân để khắc phục cần có thời gian và chi phí lớn.
Sự phân loại chất thải rắn có thể theo ngành sản xuất như chất thải ngành
hóa chất, luyện kim, nhiên liệu…, hoặc theo nhóm sản xuất cụ thể như chất thải
rắn của ngành sản xuất axit sunphuaric, soda, axit foctoric). Tuy nhiên, do tính
đa dạng của chất thải và thành phần rất khác nhau, ngay cả với chất thải có cùng
tên, nên chưa thể có sự phân loại chính xác và trong trường hợp cụ thể phải tìm
phương án xử lý riêng biệt. Mặc dù, các phương pháp được ứng dụng là giống
nhau trong công nghệ chế biến vật liệu.
Nguồn gốc của chất thải rắn công nghiệp là từ các khu công nghiệp, các cơ
sở sản xuất trong cả nước. Nó sinh ra trong quá trình sản xuất, là các phế thải dư
thừa. Các nghành sản xuất khác nhau thì sinh ra lượng chất thải khác nhau,
thành phần và tính chất của chất thải cũng khác nhau. Nguồn phát sinh chủ yếu
chất thải công nghiệp bao gồm:
+ Các quá trình sản xuất công nghiệp, bao gồm từ các công đoạn chế biến và gia
công nguyên - vật liệu cho đến giai đoạn sản xuất và đóng gói hoàn thiện sản

phẩm;
+ Các nhà máy nhiệt điện;
+ Quá trình cung cấp nhiên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất;
5
+ Quá trình chuyển đổi công nghệ.
1.2.2. Đặc điểm của chất thải rắn công nghiệp
Chất thải rắn công nghiệp là các sản phẩm dư thừa và được loại bỏ phát
sinh trong quá trình sản xuất công nghiệp và hoàn thiện sản phẩm. Chúng đa
dạng theo thành phần và tính chất hóa lí, được đặc trưng bởi giá trị sử dụng và
theo bản chất tự nhiên là tài nguyên thứ cấp, mà việc sử dụng trong sản xuất
hàng hóa yêu cầu một số công đoạn bổ sung xác định với mục đích tạo cho
chúng các tính chất cần thiết. Chất thải công nghiệp thường được phân chia
thành 2 loại: không nguy hại và nguy hại. Chất thải rắn công nghiệp sinh ra trong
nhà máy có những đặc điểm thuận lợi trong việc quản lý chất thải là:
- Nguồn thải tập trung nằm ngay trong nhà máy;
- Cơ sở sàn xuất có trách nhiệm, có nhân viên thu gom tại nhà máy;
- Có dụng cụ chứa chuyên dùng được nhà máy đầu tư;
- Chi phí cho xử lý và quản lý chất thải được hạch toán và nằm trong giá
thành của sản phẩm;
- Đã có luật môi trường, quy chế về quản lý chất thải nguy hại.
Tuy nhiên, chất thải rắn công nghiệp có đặc điểm là có tính độc hại cao
hơn rác sinh hoạt. Do đó, chúng cần được kiểm soát chặt chẽ theo quy định.
1.3. Tổng quan về thực trạng quản lý chất thải rắn
1.3.1. Quản lý chất thải rắn trên thế giới
Nhật và Singapo là những nước có kỹ thuật và trình độ quản lý tiên tiến nhất
trên thế giới. Vì vậy, hệ thống quản lý chất thải của họ được coi là khoa học và đạt
hiệu quả cao.
1.3.1.1. Quản lý chất thải ở nước Nhật
6
Hình 1.1. Quản lý chất thải nước nhật

Nhìn vào hình 1.1 có thể thấy cơ quan đứng đầu trong công tác quản lý
chất thải của nước Nhật là Bộ Môi trường. Bộ Môi trường có rất nhiều phòng
ban, trong đó có Sở Quản lý Chất thải và Tái chế có nhiệm vụ quản lý sự phát
sinh chất thải, đẩy mạnh việc tái sử dụng tái chế và sử dụng những nguồn tài
nguyên có thể tái tạo một cách thích hợp với quan điểm là bảo tồn môi trường
sống và sử dụng một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Tiếp theo
là Sở Quản lý Chất thải và Tái chế có nhiệm vụ phân công, hướng dẫn chiến
lược bảo vệ môi trường của quốc gia. Dưới sự chỉ đạo của sở là Phòng Hoạch
định chính sách có nhiệm vụ là thực hiện các chính sách và chiến lược quản lý,
đơn vị quản lý chất thải là cơ quan trực tiếp điều hành việc quản lý chất thải,
phòng quản lý chất thải công nghiệp có nhiệm vụ thực hiện và quản lý việc xử
lý chất thải tại các KCN trong cả nước. Theo sơ đồ này, Nhật là một nước có
công tác quản lý chất thải rất tốt.
Bộ Môi trường
Sở quản lý chất
thải và tái chế
Phòng hoạch
định chính
sách
Đơn vị quản
lý chất thải
Phòng quản lý
chất thải công
nghiệp
7
1.3.1.2. Quản lý chất thải ở Singapo
Hình 1.2. Quản lý chất thải ở Singapo
Ở Singapo hệ thống quản lý chất thải rất chi tiết theo các cấp nghành,
đứng đầu là BMTVTNN chịu trách nhiệm chỉ đạo công tác quản lý cho sở môi
trường và sở tài nguyên nước có nhiệm vụ quản lý và hướng dẫn cho các phòng

ban thực hiện các chiến lược BVMT của quốc gia, tiếp theo là các phòng sức
khỏe môi trường, phòng bảo vệ môi trường và phòng khí tượng có nhiệm vụ vừa
giám sát và chỉ dẫn cho các bộ phận quản lý (Hình 1.2). Bộ phận kiểm soát ô
nhiễm, bộ phận bảo tồn tài nguyên, trung tâm khoa học bảo vệ phóng xạ và hạt
nhân và bộ phận quản lý chất thải, bộ phận kiểm soát ô nhiễm chịu trách nhiệm
thực hiện các chiến lược BVMT của quốc gia đồng thời giám sát các KCN thực
hiện công tác quản lý môi trường.
1.3.2. Quản lý chất thải ở Việt Nam
Hoạt động quản lý chất thải rắn bao gồm các hoạt động quy hoạch quản lý,
đầu tư xây dựng cơ sở quản lý chất thải rắn, các hoạt động phân loại, thu gom,
Bộ Môi trường
và Tài nguyên
nước
Sở Môi trường Sở Tài nguyên
nước
8
Phòng sức
khỏe môi
trường
Phòng
bảo vệ
môi
trường
Phòng khí
tượng
lưu giữ, vận chuyển, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải rắn nhằm ngăn ngừa,
giảm thiểu những tác động có hại đối với môi trường và sức khoẻ con người.
Hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị là một cơ cấu tổ chức quản lý chuyên
trách về CTR đô thị có vai trò kiểm soát các vấn đề có liên quan đến CTR liên
quan đến vấn đề về quản lý hành chính, tài chính, luật lệ, quy hoạch và kỹ thuật.

Việc thu gom xử lý chất thải chủ yếu do các công ty Môi trường đô thị
của các tỉnh/thành phố (URENCO) thực hiện. Đây là cơ quan chịu trách nhiệm
thu gom và tiêu huỷ chất thải sinh hoạt, bao gồm cả chất thải sinh hoạt gia
đình, chất thải văn phòng, đồng thời cũng là cơ quan chịu trách nhiệm xử lý cả
chất thải công nghiệp và y tế trong hầu hết các trường hợp. Về mặt lý thuyết,
mặc dù các cơ sở công nghiệp và y tế phải tự chịu trách nhiệm trong việc xử lý
các chất thải do chính cơ sở đó thải ra, trong khi Chính phủ chỉ đóng vai trò là
người xây dựng, thực thi và cưỡng chế thi hành các quy định/văn bản quy
phạm pháp luật liên quan, song trên thực tế Việt Nam chưa thực sự triển khai
theo mô hình này. Chính vì thế, hoạt động của các công ty môi trường đô thị
liên quan đến việc xử lý chất thải sinh hoạt là chính do có quá ít thông tin về
thực tiễn và kinh nghiệm xử lý các loại chất thải khác.
Hệ thống quản lý chất thải rắn ở một số đô thị lớn ở Việt Nam được mô tả ở
hình 1.3.
9

Hình 1.3. Hệ thống quản lý chất thải rắn đô thị
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm vạch chiến lược cải thiện môi
trường chung cho cả nước, tư vấn cho Nhà nước để đưa ra các luật, chính sách
quản lý môi trường quốc gia;
- Bộ Xây dựng hướng dẫn chiến lược quản lý và xây dựng đô thị, quản lý chất
thải;
- Ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, chỉ đạo Ủy ban
nhân dân các quận, huyện, sở Tài nguyên và Môi trường và sở Giao thông
Công chính thực hiện nhiệm vụ bảo vệ môi trường đô thị, chấp hành nghiêm
chỉnh chiến lược chung và luật pháp chung về bảo vệ môi trường của Nhà nước
thông qua xây dựng các quy tắc, quy chế cụ thể;
- URENCO là đơn vị trực đảm nhận nhiệm vụ xử lý chất thải, bảo vệ môi
trường thành phố theo chức trách được sở Giao thông Công chính thành phố
giao nhiệm vụ.

1.3.3. Quản lý chất thải rắn công nghiệp
Chất thải công nghiệp, đặc biệt là chất thải công nghiệp nguy hại, là một
thách thức lớn đối với công tác quản lý môi trường của nhiều đô thị, nhất là
BTNVMT
Bộ xây
dựng
UBND
tỉnh, thành
phố
URENCO
10
những đô thị có khu công nghiệp tập trung như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Đồng Nai, Bình Dương...
Theo thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn cả nước có 260 KCN đã được
thành lập với tổng diện tích hơn 71.000 ha, trong đó có 173 KCN đã đi vào hoạt
động, 87 KCN đang giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ bản. Thực hiện chủ
trương bảo vệ môi trường, đặc biệt là tăng cường xử lý chất thải, 105 KCN đã
xây dựng và đi vào vận hành công trình xử lý nước thải tập trung, chiếm 60%
tổng số các KCN đã đi vào hoạt động. Ngoài ra, còn 43 KCN đang xây dựng
công trình xử lý nước thải tập trung và dự kiến đưa vào vận hành trong thời gian
tới. Như vậy, so với những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2006-2010, tỷ lệ các
KCN đã đi vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đi vào vận hành
đã tăng lên đáng kể, từ gần 35% trong năm 2006 lên 60% năm 2011. Dự kiến Kế
hoạch 5 năm 2011-2015 đã đặt ra mục tiêu đến năm 2015, 100% các KCN đã đi
vào hoạt động có công trình xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Ngoài việc tăng số lượng KCN xây dựng và vận hành công trình xử lý
nước thải tập trung, theo báo cáo của nhiều địa phương, đặc biệt là các địa
phương tập trung nhiều KCN như Đồng Nai, Bình Dương, Thành phố Hồ Chí
Minh, ý thức bảo vệ môi trường của các chủ đầu tư hạ tầng KCN cũng như của
các doanh nghiệp thứ cấp trong KCN cũng đã được cải thiện theo hướng tích

cực. Các sở, ngành ở địa phương đã tập trung chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc doanh
nghiệp thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường.
Địa phương Khối lượng(tấn/năm)
Vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc 28.739
- Hà Nội
24.000
- Hải Phòng
4.620
- Quảng Ninh
119
Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung 4.117
- Đà Nẵng
2.257
11
- Quảng Nam
1.768
- Quảng Ngãi
92
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam 80.332
- TP Hồ Chí Minh
44.413
- Đồng Nai
33.976
- Bà Rịa- Vũng Tàu
1.943
Tổng 113.188
Nguồn: Báo cáo của Cục Môi trường,
2002
Bảng 1.2. Lượng phát sinh chất thải công nghiệp nguy hại
Tổng lượng chất thải rắn công nghiệp tăng nhanh trong những năm vừa

qua, đặc biệt là chất thải nguy hại. Theo báo cáo của Cục Môi trường năm 2002
tổng lượng chất thải công nghiệp nguy hại phát sinh mỗi năm tại 3 vùng phát
triển kinh tế trọng điểm phía Bắc, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam là khoảng 113.118 tấn (bảng 1.2). Từ số liệu thống
kê nêu trên cho thấy, lượng chất thải nguy hại phát sinh ở Vùng Kinh tế trọng
điểm phía Nam lớn khoảng gấp ba lần lượng chất thải nguy hại phát sinh ở Vùng
Kinh tế trọng điểm phía Bắc và lớn gấp khoảng 20 lần lượng chất thải nguy hại
phát sinh ở Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung. Lượng chất thải nguy hại
thống kê được vào năm 2003 tăng lên 160.000 tấn, tương ứng khoảng 40% so
với năm 2002. Trong đó 130.000 tấn phát sinh từ ngành công nghiệp, chất thải y
tế nguy hại từ các bệnh viện, cơ sở y tế và điều dưỡng chiếm cỡ 21.000 tấn/năm,
trong khi các nguồn phát sinh chất thải nguy hại từ hoạt động nông nghiệp chỉ
khoảng 8.600 tấn/năm. Cũng như số liệu thống kê của những năm trước đó, phần
lớn chất thải công nghiệp nguy hại phát sinh ở miền Nam, chiếm khoảng 64%
tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh của cả nước, trong đó một nửa là lượng
chất thải phát sinh từ Thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp theo là các tỉnh miền Bắc,
với lượng chất thải nguy hại phát sinh chiếm 31%.
12
1.3.3.1. Một số biện pháp quản lý chất thải rắn công nghiệp đã thực hiện
Ở nước ta, tại các KCN đã thực hiện công tác quản lý chất thải được thực
hiện bởi nhiều bên liên quan (hình 1.4).
Hình 1.4. Quản lý chất thải ở các KCN
Hình 1.4 chỉ ra, cơ quan đứng đầu trong bộ máy quản lý chất thải công
nghiệp là chính phủ, tiếp theo là UBND cấp tỉnh và các bộ nghành khác. Bộ
TNMT là cơ quan trực tiếp quản lý môi trường và có trách nhiệm quản lý môi
trường chung của các nghành nghề. Ở mỗi KCN đều có ban quản lý môi trường,
có nhiệm vụ là xem xét và hướng dẫn cho các công ty trong KCN thực hiện các
biện pháp BVMT. Sau đó là do các KCN tự thực hiện và có liên kết với UBND
tỉnh và các bộ nghành khác.
Để có được những kết quả nêu trên, trong thời gian qua, các cơ quan quản

lý Nhà nước đối với lĩnh vực môi trường KCN đã nỗ lực xây dựng và ban hành
Chính phủ
UBND cấp tỉnh Bộ, ngành khác
Bộ Tài nguyên
Môi trường
Ban quản lý
KCN
KCN
Chủ đầu tư xây dựng
và kinh doanh kết cấu
hạ tầng KCN.
Các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất.
KCN
Chủ đầu tư xây dựng và
kinh doanh kết cấu hạ
tầng KCN.
Các doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất.
13
cơ chế, chính sách và triển khai thường xuyên nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra,
hướng dẫn doanh nghiệp thực hiện pháp luật về bảo vệ môi trường. Một số công
việc cụ thể đã triển khai là:
+ BTNVMT đã ban hành Thông tư số 08/2009/TT-BTNMT ngày 15/7/2009 quy
định về bảo vệ môi trường khu kinh tế, khu công nghệ cao, khu công nghiệp và
cụm công nghiệp.
+ Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 quy
định về KCN, KCX và KKT, trong đó quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của
Ban quản lý KCN, KKT trong công tác thẩm định, phê duyệt báo cáo đánh giá
tác động môi trường, xác nhận bản cam kết bảo vệ môi trường theo hướng tăng

cường phân cấp, ủy quyền cho Ban quản lý KCN, KKT trong thực hiện một số
nhiệm vụ bảo vệ môi trường KCN, KKT.
+ Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 43/2009/QĐ-TTg ngày
19/3/2009 về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương cho xây dựng cơ sở hạ
tầng KCN ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (thay thế Quyết
định 183/2004/QĐ-TTg ngày 19/10/2004). Theo đó, các KCN ở địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội khó khăn được ngân sách Trung ương hỗ trợ một phần cho
xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung cho KCN.
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư cũng thường xuyên có văn bản chỉ đạo, đôn đốc,
hướng dẫn các địa phương tăng cường quản lý môi trường KCN, KKT; phối hợp
với Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai thanh tra, kiểm tra tình hình hoạt
động của các KCN, KCX, KKT.
1.3.3.2. Một số tồn tại trong công tác quản lý chất thải rắn công nghiệp
Hiện nay, việc quản lý chất thải rắn, trong đó có chất thải rắn công nghiệp
chưa đáp ứng được yêu cầu về bảo vệ môi trường. Đặc biệt là chất thải hữu cơ
khó phân hủy chưa được quản lý, xử lý một cách phù hợp chính là một trong
những nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí của nước ta.
14
Các hoạt động phân loại chất thải rắn mới chỉ dừng lại ở mức thí điểm, do cơ sở
hạ tầng chưa được đầu tư đồng bộ và chưa có cơ chế, chính sách phù hợp khuyến
khích sự tham gia của người dân vào các hoạt động phân loại tại nguồn.
Trên thực tế chưa có văn bản nào quy định các danh mục, quy chuẩn về
chất thải rắn công nghiệp. Nhất là không rõ cơ quan đứng ra cấp phép việc thu
gom, vận chuyển và xử lý chất thải rắn công nghiệp thông thường. Hiện cũng
chưa có quy định về việc thông tin báo cáo định kỳ tình hình phát sinh chất thải
rắn của các chủ nguồn thải, của các địa phương, các chủ thu gom, vận chuyển và
xử lý chất thải rắn thông thường, dẫn đến việc không nắm bắt được kịp thời tình
hình phát sinh chất thải rắn tại các địa phương trên toàn quốc để có cơ sở tham
mưu cho các cấp, ngành có giải pháp quản lý. Hơn nữa, việc phân loại chất thải
rắn công nghiệp tại nguồn còn hạn chế, thường chỉ được thực hiện đối với những

chất thải mang lợi ích kinh tế, còn lại những chất thải công nghiệp khác đều
được thu gom và đem đổ thải chung cùng với chất thải sinh hoạt, thậm chí còn
lẫn cả với chất thải nguy hại. Chất thải rắn công nghiệp thường được chất thành
đống trong kho chứa, hoặc tại các khu vực trống trong các khuôn viên cơ sở. Tại
nhiều cơ sở sản xuất hệ thống kho chứa chất thải rắn còn chưa đạt yêu cầu,
không có mái che, để lộ thiên trong khuôn viên cơ sở. Việc thu gom chất thải rắn
trong nội bộ các nhà máy, xí nghiệp trong khu, cụm công nghiệp do đội vệ sinh
của nhà máy, xí nghiệp đó đảm nhiệm và Ban quản lý khu, cụm công nghiệp
chịu trách nhiệm quản lý chung.
Cả nước đang thiếu các khu xử lý chất thải rắn công nghiệp, đặc biệt là
khu xử lý chất thải nguy hại tập trung quy mô lớn. Việc xử lý chất thải rắn công
nghiệp mới chỉ thực hiện ở các đơn vị có quy mô nhỏ. Tính đến tháng 11 năm
2010, Bộ TN&MT đã cấp phép cho 75 cơ sở có chức năng thu gom, vận chuyển
và xử lý chất thải rắn công nghiệp nguy hại. Bên cạnh đó, còn một số cơ sở do
địa phương cấp nhưng các cơ sở này hầu hết có quy mô nhỏ và vừa. Vì vậy, các
15
cơ sở này chỉ đáp ứng được một phần tổng lượng chất thải nguy hại phát sinh
trên toàn quốc.
Ngoài ra có một số cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài cụm công nghiệp, khu
công nghiệp hợp đồng với các tổ chức, cá nhân không có chức năng thu gom, vận
chuyển, dẫn đến việc đổ chất thải không đúng nơi quy định, gây ô nhiễm môi trường
và ảnh hưởng đến sức khỏe người dân. Việc tái chế, tái sử dụng chất thải rắn công
nghiệp diễn ra khá phổ biến chủ yếu là tự phát tại các cơ sở công nghiệp. Các chất
thải có thể tái sử dụng được các cơ sở thu hồi để quay vòng sản xuất hoặc được bán
cho các đơn vị khác để tái chế. Chất thải rắn ở hầu hết các làng nghề chưa được thu
gom và xử lý triệt để, nhiều làng nghề xả thải bừa bãi tại các khu đất công cộng, ven
sông, ao, hồ gây ô nhiễm môi trường.
1.4. Những công trình nghiên cứu về chất thải rắn công nghiệp.
Một số công trình nghiên cứu về chất thải rắn công nghiệp ở nước ta:
Quy hoạch hệ thống thu gom vận chuyển chất thải rắn công nghiệp và chất

thải công nghiệp nguy hại cho các KCN, KCX tại thành phố Hồ Chí Minh –
Trịnh Ngọc Đào, Nguyễn Văn Phước trường Đại học Bách khoa TPHCM.
Nghiên cứu các biện pháp tổng hợp, khả thi nhằm quản lý chất thải rắn
công nghiệp nguy hại tại Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam do GS. TS. Lâm
Minh Triết và TS. Nguyễn Trung Việt thực hiện.
Đề tài Quản lý và tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp của Ma Thành
Dược, khoa Công nghệ Lương thực Thực phẩm, trường đại học Lương thực –
Thực phẩm TPHCM.
Đề tài Nghiên cứu hiện trạng quản lý chất thải rắn công nghiệp tại khu chế
xuất Tân Thuận, trường Đại học Bách khoa TPHCM.
Hiện nay ở khu vực Hà Nội chỉ có Công ty Môi trường Đô thị và Công
nghiệp Bắc Sơn là công ty thu gom và xử lý chất thải công nghiệp. Cùng với
nguồn gốc phát sinh của chất thải công nghiệp là từ các KCN, một khu vực rất
16

×