Tải bản đầy đủ (.doc) (206 trang)

THU HÚT VỐN HỖ TRỢ CHÍNH THỨC DOA TỪ NGHÂN HÀNG THẾ GIỚI WB PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (906.33 KB, 206 trang )

MỤC LỤC
Danh mục bảng, biểu

4

Từ viết tắt

5

Phần mở đầu

7

CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH

10

THỨC (ODA) VÀ NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WB)
I. TỔNG QUAN VỀ ODA TRÊN THẾ GIỚI

10

1. Khái niệm và quá trình phát triển của ODA

10

2. Đặc điểm của ODA

14

3. Phân loại ODA



17

4. Vai trò của ODA trong chiến lược phát triển kinh tế xã

19

hội của các nước đang và chậm phát triển
II. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WB) VÀ ODA CỦA WB

23

1. Lịch sử hình thành và chức năng hoạt động

23

2. Các tổ chức trong Nhóm Ngân hàng Thế giới (World

24

Bank Group)
3. Cơ chế cho vay của Ngân hàng Thế giới

26

4. ODA của Ngân hàng Thế giới qua kênh IDA

27

a. Các khoản vay ưu đãi của IDA


28

b. Viện trợ không hoàn lại của IDA

29

c. Các quốc gia hợp lệ đối với tín dụng IDA

30

d. Nguồn vốn của IDA

30

CHƯƠNG II: THU HÚT VỐN HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH
THỨC (ODA) TỪ NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WB) PHỤC VỤ SỰ
NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM

32

I. TỔNG QUAN VỀ THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA Ở VIỆT
NAM

32

II. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ODA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP
PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI Ở VIỆT NAM (1993-2007)

35


1


III. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA CỦA NGÂN
HÀNG THẾ GIỚI PHỤC VỤ SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH
TẾ-XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM (1993-2007)

49

1. Vài nét về ODA từ WB vào Việt Nam trong giai đoạn
trước 1993

49

2. Tình hình cam kết, ký kết, giải ngân vốn ODA của WB ở
Việt Nam giai đoạn 1993-2007

50

3. Đánh giá chung về thu hút ODA từ WB phục vụ sự
nghiệp phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam (1993-2007)

53

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM TĂNG

60

CƯỜNG THU HÚT VỐN ODA TỪ NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WB)

I. ĐỊNH HƯỚNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG ODA CỦA VIỆT
NAM THỜI KỲ 2006-2010

60

II. CHIẾN LƯỢC TÀI TRỢ CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI CHO
VIỆT NAM

65

1. Về hỗ trợ cải thiện môi trường kinh doanh

66

2. Về hỗ trợ củng cố các thành tố xã hội

68

3. Về hỗ trợ tăng cường quản lý tài nguyên thiên nhiên và

70

môi trường
4. Về hỗ trợ nâng cao năng lực quản trị
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
1. Giải pháp chung nhằm thu hút vốn ODA vào Việt Nam

70
72
72


a. Nhóm giải pháp về chính sách và thể chế

72

b. Nhóm giải pháp về tổ chức

74

c. Nhóm giải pháp về đào tạo và bồi dưỡng cán bộ thực

74

hiện dự án ODA và người thụ hưởng dự án
2. Giải pháp cụ thể để thu hút vốn ODA từ Ngân hàng Thế

75

a.giới
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án

76

b. Cải thiện quy trình lập kế hoạch dự án đầu tư của WB

76

2



c. Đẩy mạnh nỗ lực chống tham nhũng

82

d. Tăng cường quan hệ đối tác với nhà tài trợ

83

e. Tăng cường theo dõi và đánh giá của các dự án WB

83

f. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền

84

Kết luận

86

Danh mục tài liệu tham khảo

88

Danh mục bảng biểu
Bảng 1

Nguồn vốn ODA và ODA/GNI (%)

3



Bảng 2

ODA cam kết, ký kết và giải ngân thời kỳ 1993 - 2007

Bảng 3

Cơ cấu sử dụng vốn ODA thời kỳ 1993-2007 phân chia theo
ngành, lĩnh vực

Bảng 4

Cơ cấu sử dụng vốn ODA thời kỳ 1993-2007 theo vùng lãnh thổ

Bảng 5

Tóm tắt tình hình giải ngân ODA của WB ở Việt Nam trong các
năm 2000-2007

Bảng 6

Cơ cấu vốn ODA theo ngành, lĩnh vực thời kỳ 2006-2010

Biểu 1

Số dự án từ năm tài chính 1994-2008

Biểu 2


Cam kết dự án từ năm tài chính 1994-2008

Từ viết tắt
ADB
CAS
CG
CPRGS

Ngân hàng Phát triển Châu Á
Chiến lược Hỗ trợ quốc gia
Nhóm Tư vấn các nhà tài trợ
Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo

4


CPS
CAS
DAC
KWF
EU
FDI
IBRD
ICSID
IDA
IMF
IFC
FAO
GDP
GNP

GNI
NGO
MDG
MIGA
PMU
PGAE
ODA
OECD
UNDP
UNIDO
UNESCO
UNICEF
WHO
IFAD
FAO
NIB
OPEC
JBIC
JICA
WB
WFP

của VN
Chiến lược Hợp tác Quốc gia
Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia
Uỷ ban hỗ trợ phát triển
Ngân hàng Tái thiết Đức
Liên minh Châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Ngân hàng quốc tế về Tái thiết và Phát triển

Trung tâm quốc tế Giải quyết tranh chấp về đầu tư
Hiệp hội Phát triển Quốc tế
Quỹ tiền tệ quốc tế
Công ty Tài chính quốc tế
Tổ chức nông nghiệp và lương thực thế giới
Tổng sản phẩm quốc nội
Tổng sản phẩm quốc dân
Tổng thu nhập quốc dân
Tổ chức phi Chính phủ
Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ
Cơ quan Bảo hiểm đầu tư đa phương
Ban quản lý dự án
Nhóm Quan hệ đối tác về Hiệu quả Viện trợ
Hỗ trợ phát triển chính thức
Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển
Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên hợp quốc
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
Tổ chức Y tế Thế giới
Quỹ Phát triển Nông nghiệp Quốc tế
Tổ chức Nông lương Quốc tế
Ngân hàng Đầu tư Bắc Âu
Tổ chức Các nước Xuất khầu Dầu mỏ
Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
Ngân hàng Thế giới
Chương trình Lương thực Thế giới

5



LỜI MỞ ĐẦU
Thực hiện đường lối “Đổi mới” do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi
xướng từ giữa thập niên 80 của thế kỷ trước, Việt Nam đã thoát ra khỏi khủng
hoảng để từng bước phát triển. Điều này đã được chứng minh qua những
thành tựu to lớn về kinh tế mà Việt Nam đã đạt được trong hơn 20 năm qua
thông qua các chỉ số về tăng trưởng GDP, tăng thu nhập GDP bình quân đầu
người, tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu, xuất khẩu lương thực... Để đạt
được những thành tựu to lớn như vậy một phần là nhờ chính sách đúng đắn và

6


sáng tạo của Đảng và Nhà nước ta trong việc huy động và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực của toàn xã hội vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời đại hiện nay, khi mà quan hệ hợp tác quốc tế đã mở rộng,
trong các nguồn lực được huy động để xây dựng và phát triển đất nước thì các
nguồn nội lực luôn đóng vai trò chủ chốt và quyết định, tuy nhiên các nguồn
ngoại lực như nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và nguồn vốn hỗ
trợ phát triển chính thức (ODA) luôn có vai trò hỗ trợ và bổ sung quan trọng.
Năm 1993 đã đánh dấu bước phát triển trong quan hệ hợp tác của Việt
Nam với các quốc gia và các vùng lãnh thổ, cũng như sự trở lại của cộng
đồng các nhà tài trợ sau một thời gian dài ngừng quan hệ với Việt Nam. Cho
đến nay, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) mà các tổ chức quốc
tế cũng như quốc gia tài trợ song phương dành cho Việt Nam đã lên đến 42,5
tỷ USD, chiếm khoảng 2% tổng giá trị vốn ODA của toàn thế giới. Với nhiều
ưu điểm như nguồn vốn hỗ trợ lớn, lãi suất thấp (hoặc không có lãi suất), thời
gian ân hạn dài… ODA đã thực sự trở thành một nguồn lực hết sức quan
trọng đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội

của Việt Nam.
Trong số các nhà tài trợ có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển cơ sở hạ
tầng kinh tế-xã hội của nước ta, Ngân hàng Thế giới (WB) luôn giữ vai trò
quan trọng không chỉ bởi những khoản hỗ trợ với khối lượng lớn dành cho
Việt Nam mà còn ở sự hỗ trợ quan trọng trong vai trò điều phối nguồn viện
trợ phát triển. Từ khi Hội nghị Nhóm Tư vấn các Nhà tài trợ dành cho Việt
Nam (CG) được tổ chức hàng năm tại Việt Nam, Ngân hàng Thế giới luôn
phối hợp với Chính phủ Việt Nam trong vai trò đồng chủ toạ đã điều hành
thành công các cuộc họp quan trọng này. Bên cạnh đó, Ngân hàng Thế giới
cũng luôn theo sát hỗ trợ Việt Nam thực hiện các Chiến lược Phát triển Kinh
tế Xã hội 10 năm và Kế hoạch Phát triển Kinh tế Xã hội 5 năm thông qua
cung cấp các khoản tín dụng phù hợp với những ưu tiên của Chính phủ. Do

7


vậy các chương trình, dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ đã mang lại hiệu
quả rõ rệt trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội nước ta.
Tuy vậy, việc quản lý và sử dụng ODA tại Việt Nam còn khá mới mẻ
và gặp nhiều khó khăn, nhất là đối với các chương trình, dự án đòi hỏi sự chặt
chẽ và minh bạch như các chương trình, dự án do Ngân hàng Thế giới tài trợ.
Kết quả việc thực hiện các chương trình, dự án cụ thể một trong những tiêu
chí quan trọng để các nhà tài trợ xem xét quyết định việc tiếp tục hỗ trợ cho
Việt Nam trong bối cảnh nhu cầu về ODA của các nước nghèo, các nước
chậm phát triển vẫn đang ngày một tăng cao.
Nhận thức được tầm quan trọng của ODA cũng như lợi ích từ các
khoản tín dụng ưu đãi của Ngân hàng Thế giới đối với sự phát triển của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay và giai đoạn tới, tôi đã chọn đề tài “Một số giải
pháp tăng cường thu hút vốn Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA) từ Ngân
hàng Thế giới (WB) phục vụ sự nghiệp phát triển Kinh tế-xã hội của Việt

Nam” làm đề tài khoá luận tốt nghiệp. Thông qua khoá luận này tôi mong
muốn được góp một phần nhỏ bé trong việc thu hút nguồn vốn hỗ trợ phát
triển chính thức từ WB phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của nước
ta.
Khoá luận sẽ tập trung nghiên cứu tình hình thu hút và sử dụng ODA
từ WB phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của Việt Năm trong giai
đoạn 1993-2007, phân tích những thành quả đạt được và hạn chế trong việc
thu hút và sử dụng ODA từ WB tại Việt Nam và nguyên nhân của những hạn
chế đó. Dựa trên những nguyên nhân đó, khoá luận sẽ đề xuất một số giải
pháp thu hút và sử dụng ODA từ Ngân hàng Thế giới để phục vụ sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.
Kết cấu khóa luận: Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận được kết cấu theo ba chương.

8


Chương I. Khái quát về Hỗ trợ Phát triển Chính thức (ODA) và Ngân
hàng Thế giới
Chương II: Thu hút vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) từ Ngân
hàng thế giới (WB) phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam
Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường thu hút vốn
ODA từ Ngân hàng Thế giới

CHƯƠNG I

: KHÁI QUÁT VỀ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN CHÍNH

THỨC (ODA) VÀ NGÂN HÀNG THẾ GIỚI

I.

TỔNG QUAN VỀ ODA TRÊN THẾ GIỚI

1.

Khái niệm và quá trình phát triển của ODA

a. Khái niệm ODA:
Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance), viết tắt
là ODA còn được gọi là Viện trợ phát triển và theo Ngân hàng Thế giới (WB)
thì ODA là “khoản tài trợ hoặc giải ngân vốn vay ưu đãi (sau khi đã trừ phần

9


trả nợ) được cung cấp bởi các cơ quan chính thức của các nước thuộc Tổ chức
Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD), một số quốc gia và tổ chức đa phương
khác như Ngân hàng Thế giới vì mục đích phát triển. Viện trợ quân sự không
được tính vào khái niệm này.”
Như vậy, ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, vốn vay ưu
đãi đã giải ngân trừ đi khoản nợ đã thanh toán (còn gọi là vốn ODA thuần) do
cơ quan chính thức của Chính phủ các nước và các Tổ chức quốc tế cung cấp
hỗ trợ công cuộc phát triển kinh tế, xã hội của nước tiếp nhận viện trợ. Từ
“chính thức” được sử dụng ở đây để phân biệt ODA với các khoản tài trợ của
các tổ chức tư nhân như các công ty, doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi chính
phủ (NGO) nước ngoài. Viện trợ quân sự không hỗ trợ phát triển kinh tế xã
hội, do vậy không được coi là ODA. ODA có mục đích hỗ trợ phát triển, vì
vậy các khoản viện trợ nhân đạo trong trường hợp dùng để đối phó với thiên
tai, khắc phục các thảm hoạ tự nhiên, hoặc tai nạn bất khả kháng… cũng

không được coi là ODA.
Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (Organization of Economic
Cooperation and Development viết tắt là OECD) có trụ sở và Ban thư ký
đóng tại Paris, thủ đô nước Pháp. Nòng cốt của OECD là các nước phát triển
như Vương quốc Anh, Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Canada các nước Bắc
Âu, Italia, Tây Ban Nha.. Gần đây, tham gia OECD còn có một số nước đã
đạt trình độ phát triển tương đối cao như Hàn Quốc, một số nước thành viên
mới của EU như Hung-ga-ry, Cộng hoà Séc.
Trên giỏc độ cung cấp vốn ODA, OECD không phải là tổ chức viện
trợ, song Tổ chức này thực hiện chức năng điều phối về chính sách, giám sát
việc thực thi chính sách và các quy định viện trợ phát triển. Nhiều nước thành
viên OECD là các quốc gia cung cấp ODA chủ yếu của thế giới.
Để thực hiện vai trò hướng dẫn viện trợ, OECD có Uỷ ban Hỗ trợ Phát
triển (Development Assistance Committee - DAC) chuyên trách nghiên cứu

10


và khuyến nghị các quốc gia thành viên OECD về chính sách viện trợ phát
triển cũng như tổng kết và phổ biến kinh nghiệm, bài học thực tiễn tốt nhất về
tiếp cận, sử dụng và quản lý viện trợ trên thế giới.
b. Quá trình phát triển của ODA trên thế giới
+ Giai đoạn 1948 - 1960:
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ 2, năm 1948, Hoa Kỳ đã triển khai
thực hiện Kế hoạch Marshall nhằm tái thiết Châu Âu bị tàn phá năng nề bởi
cuộc chiến này và ngăn chặn ảnh hưởng to lớn của Liên Xô. Trong vòng bốn
năm, châu lục này đã nhận được khoảng 13 tỷ USD viện trợ từ Hoa Kỳ, trong
đó có 90% là viện trợ không hoàn lại. Mặc dù bị tổn thất nặng nề bởi cuộc
chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít, sau chiến thắng, Liên Xô đã
nhanh chóng khụi phục lại đất nước, đồng thời cung cấp những khoản viện trợ

lớn hỗ trợ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu. Đây
chính là những khoản ODA đầu tiên có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử phát
triển ODA trên thế giới.
+ Giai đoạn 1961 - 1991:
Về kinh tế, đây là thời kỳ thế giới chia làm hai hệ thống: hệ thống kinh
tế kế hoạch hoá tập trung điều hành sự phát triển kinh tế của các nước đi theo
con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN) và hệ thống kinh tế thị trường gắn với
các nước tư bản chủ nghĩa (TBCN). Trong bối cảnh như vậy, ODA được hình
thành từ hai nguồn chính. Một nguồn từ các nước XHCN, chủ yếu từ Liên Xô
và một số nước XHCN phát triển ở Đông Âu để hỗ trợ các nước trong phe
XHCN và các nước mới giành được độc lập, thân thiện với lý tưởng XHCN.
Nguồn thứ hai từ một số nước tư bản phát triển, dành cho các nước hướng
theo phát triển kinh tế thị trường, nhất là những nước mới giành được độc lập,
theo đường lối dân tộc và nền kinh tế thị trường. Trong giai đoạn này, một số
nền kinh tế ở châu Á đã làm nên kỳ tích trong phát triển như Nhật Bản. Viện
trợ phát triển của Hoa Kỳ và các tổ chức tài chính quốc tế là một trong những

11


động lực quan trọng của sự phát triển kinh tế của Nhật Bản. Mặc dù thế giới
chia thành hai phe đối lập nhau với những khoản chi phí khổng lồ để chạy đua
vũ trang và chiến tranh lạnh, song vẫn có những nước nhận được viện trợ phát
triển từ cả hai nguồn, điển hình là Ấn Độ, Ai Cập.
+ Giai đoạn từ 1991 đến nay:
Sau khi Liên Xô sụp đổ, hệ thống XHCN ở Đông Âu tan rã, thế giới đã
có nhiều thay đổi với trọng tâm hướng vào hội nhập, toàn cầu hoá và phát
triển kinh tế thị trường. Trong môi trường đó, viện trợ phát triển đã và đang
có những thay đổi sâu sắc về chính sách, cách ứng xử với viện trợ phát triển
cũng như sự phối hợp chung trên bình diện khu vực và thế giới trong các hoạt

động thu hút và sử dụng ODA từ cả hai phía là nước, tổ chức tài trợ và nước
tiếp nhận viện trợ.
Số lượng các nước tài trợ ODA gia tăng đáng kể, đặc biệt một số nước
trước đây đã từng là nước tiếp nhận ODA, nay đã trở thành nước tài trợ hàng
đầu của thế giới như Nhật Bản. Bên cạnh đó, một số nước trước đây tiếp nhận
ODA với quy mô lớn, nay đã trở thành nước có thu nhập khá và hiện không
thuộc diện các nước tiếp nhận ODA quy mô lớn như Thái Lan. Có những
nước đã từng là nước tiếp nhận viện trợ phát triển quy mô lớn như Trung
Quốc với cam kết lên đến 39 tỷ USD từ WB trong giai đoạn 1980 đến 2005
thì nay đã trở thành một trong những nền kinh lớn của thế giới, có dự trữ
ngoại tệ khá lớn và bắt đầu cung cấp viện trợ phát triển cho các nước khác,
nhất là các nước Châu Phi. Ngoài ra, một số quốc gia mới là thành viên của
Liên minh Châu Âu (EU) cũng là những nước cung cấp viên trợ phát triển.
Các nước này được gọi chung là Nhóm các nước tài trợ “mới nổi lên”.
So với nhiều thập kỷ trước, tổng nguồn ODA của thế giới đang trong
xu hướng gia tăng: từ 52 tỷ USD năm 2001 lên 68 tỷ USD năm 2003 và
khoảng 90 tỷ USD năm 2005 [22]; song nhu cầu ODA của các nước nghèo

12


vẫn đang tiếp tục tăng lên để hỗ trợ cho nhiệm vụ hoàn thành Mục tiêu phát
triển Thiên niên kỷ (MDGs).
Để đo lường sự đóng góp của các quốc gia phát triển vào nguồn Quỹ
ODA của thế giới, người ta sử dụng chỉ tiêu về tỷ lệ phần trăm (%) Tổng thu
nhập quốc dân (GNI) của các quốc gia này dành để tài trợ trực tiếp cho các
nước tiếp nhận tài trợ hoặc đóng góp cho các quỹ của các tổ chức tài trợ quốc
tế. Tổng vốn ODA của 10 quốc gia có quy mô cung cấp ODA lớn nhất thế
giới và tỷ lệ (%) ODA trên tổng thu nhập quốc dân (ODA/GNI) cao nhất của
10 quốc gia tài trợ ODA được thể hiện trong bảng dưới đây:

Bảng 1: Nguồn vốn ODA và ODA/GNI (%)
Quốc gia
1. Hoa Kỳ
2. Nhật Bản
3. Pháp
4. Anh
5. Đức
6. Hà Lan
7. Thuỵ Điển
8. Tây Ban Nha
9. Canada
10. Italy

ODA (Tr. USD)
18.999
8.859
8.475
7.836
7.534
4.235
2.772
2.547
2.537
2.462

Quốc gia
1. Nauy
2. Đan Mạch
3. Lucxemburg
4. Thuỵ Điển

5. Hà Lan
6. Bồ Đào Nha
7. Pháp
8. Thuỵ Sỹ
9. Bỉ
10. Ailen

ODA/GNI (%)
0.87
0.85
0.85
0.78
0.74
0.63
0.42
0.41
0.41
0.39

(Nguồn: Tổng quan về ODA hai mươi năm qua, Tài liệu của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư, 2007)
Bảng trên cho thấy, một số quốc gia như Hoa Kỳ, Nhật Bản đứng ở thứ
hạng cao trong số 10 nhà tài trợ hàng đầu về khối lượng cung cấp ODA thế
giới, song lại không nằm trong số 10 quốc gia có tỷ lệ cao nhất về ODA/GNI
(%). Trong khi đó có những quốc gia như Na-uy, Đan Mạch, tuy không phải
là những nhà tài trợ có quy mô ODA lớn, song lại có tỷ lệ ODA/GNI cao nhất
trong số các nhà tài trợ. Thực tế này cho thấy các nước đã đạt trình độ phát
triển cao và giàu có như Hoa Kỳ, Nhật Bản còn phải chia sẻ nhiều hơn, đóng
góp nhiều hơn cho nguồn quỹ ODA của thế giới để đạt được mục tiêu
ODA/GNI là 0,70% như lời kêu gọi của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc.


13


Nguồn vốn ODA của thế giới được phân bổ chủ yếu cho các nước châu
Phi, kế đến là châu Á, Mỹ Latinh và vùng Ca-ri-bê, và cuối cùng là châu Âu,
bao gồm các nước cộng hoà thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu.
Hiện tại, vốn ODA đang trong xu thế tăng cho châu Phi để giúp cho các
nước nghèo thuộc châu lục này thực hiện những Mục tiêu phát triển Thiên
niên kỷ (MDGs), đặc biệt là xoá đói, giảm nghèo. Hội nghị các nước G8 gồm
Anh, Pháp, Nga, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Italia, Canada và Uỷ ban Châu Âu
(EU) diễn ra vào tháng 7/2005 tại London, Anh đã quyết định tăng gấp đôi
ODA cho Châu Phi đến năm 2010 và trong tổng số 50 tỷ USD vốn ODA tăng
thêm hàng năm sẽ dành ít nhất 25 tỷ USD để viện trợ cho châu lục này. Ngoài
ra nhu cầu vốn ODA để hỗ trợ phát triển tái thiết I-rắc, Áp-ga-ni-xtan và
Libăng cũng đang tăng lên.
2.

Đặc điểm của ODA

a. Vốn ODA mang tính ưu đãi
Vốn ODA có thời gian cho vay (hoàn trả vốn) dài, có thời gian ân hạn
dài (chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc). Đây chính là sự khác biệt lớn giữa vốn ODA
và vốn vay thương mại.
Thông thường trong ODA có “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là
“thành tố hỗ trợ”). Thành tố hỗ trợ được xác định dựa vào độ dài thời gian
cho vay, thời gian ân hạn và so sánh mức lãi suất của khoản vốn ODA với
mức lãi suất tín dụng thương mại. Sự ưu đãi của ODA thể hiện trong tương
quan so sánh với tín dụng thương mại trong tập quán quốc tế. Cho vay ưu đãi
hay còn gọi là tín dụng ưu đãi (cho vay mềm). Các nhà tài trợ thường áp dụng

nhiều hình thức khác nhau để làm “mềm” khoản vay, ví dụ như cung cấp một
khoản ODA không hoàn lại gắn với khoản tín dụng gần với điều kiện thương
mại tạo thành khoản tín dụng hỗn hợp (vay ưu đãi) có “thành tố hỗ trợ” thoả
đáng mà phía bên vay có thể chấp nhận được.

14


Tính ưu đãi của ODA còn được thể hiện ở chỗ nó chỉ dành riêng cho
các nước đang và chậm phát triển, vì mục tiêu phát triển. Các nước đang và
chậm phát triển có thể nhận được ODA nếu đáp ứng hai điều kiện cơ bản nhất
là:
• Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân đầu người thấp. Nước có GDP
bình quân đầu người càng thấp thường được tỷ lệ viện trợ không hoàn lại của
ODA càng lớn và khả năng vay với lãi suất thấp và thời hạn ưu đãi càng lớn.
Khi các nước này đạt trình độ phát triển nhất định qua ngưỡng nghèo đói thì
sự ưu đãi này sẽ giảm đi.
• Mục tiêu sử dụng vốn ODA của các nước này phải phù hợp với chính sách
và phương hướng ưu tiên xem xét trong mối quan hệ giữa bên cấp và bên
nhận ODA.
Thông thường các nước cung cấp ODA đều có những chính sách và ưu
tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả
năng về kỹ thuật và tư vấn công nghệ, kinh nghiệm quản lý... Đồng thời đối
tượng ưu tiên của các nước cung cấp ODA cũng có thể thay đổi theo từng
giai đoạn cụ thể. Vì vậy nắm được hướng ưu tiên và tiềm năng của các nước,
các tổ chức cung cấp ODA là rất cần thiết.
Về thực chất, ODA là sự chuyển giao có hoàn lại hoặc không hoàn lại
một phần Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) trong những điều kiện nhất định.
Do vậy, ODA rất nhạy cảm về mặt xã hội và chịu sự điều chỉnh của dư luận
nước cung cấp cũng như tiếp nhận ODA.

b. Vốn ODA mang tính chất ràng buộc
ODA có thể ràng buộc (ràng buộc một phần hoặc không ràng buộc) đối
với nước tiếp nhận về địa điểm thực hiện, cách thức chi tiêu... Ngoài ra mỗi
nước cung cấp viện trợ cũng đều có những ràng buộc khác nhau và nhiều khi
các ràng buộc này rất chặt chẽ đối với nước tiếp nhận. Ví dụ như Nhật Bản

15


quy định ODA của Nhật Bản (kể cả hoàn lại và không hoàn lại) được thực
hiện bằng đồng Yên.
Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và
mang lại lợi ích cho nước cung cấp viện trợ. Vốn ODA luôn mang yếu tố
chính trị.
Các nước viện trợ nói chung đều không quên dành được lợi ích cho
mình, vừa gây ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ
tư vấn vào nước tiếp nhận viện trợ. Các nước Bỉ, Đức, Đan Mạch yêu cầu
khoảng 50% giá trị viện trợ phải là hàng hoá và dịch vụ của các nước này.
Đặc biêt Canada là nước yêu cầu cao nhất (tới 65%). Thuỵ Sỹ chỉ yêu cầu
1,7% và Hà Lan 2,2%. Đây là 2 nước có tỷ lệ ODA yêu cầu phải mua hàng
hoá dịch vụ của nhà tài trợ thấp. Đặc biệt có New Zealand không đòi hỏi phải
tiêu thụ hàng hoá dịch vụ của họ. Ủy ban Hỗ trợ Phát triển (DAC) yêu cầu
22% giá trị viện trợ phải được sử dụng để mua hàng hoá và dịch vụ của các
quốc gia viện trợ.
Kể từ khi ra đời đến nay, viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn
tại song song. Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm
nghèo ở những nước đang phát triển. Mục tiêu thứ hai là tăng cường vị thế
chính trị của các nước tài trợ. Các nước phát triển sử dụng ODA như một
công cụ chính trị, xác định vị trí và ảnh hưởng của mình tại các nước và khu
vực tiếp nhận ODA. Hoa Kỳ là một trong những nước dùng ODA làm công

cụ để thực hiện chính sách gây “ảnh hưởng chính trị trong thời gian ngắn”.
Nhật Bản hiện là nhà tài trợ hàng đầu thế giới và cũng là nhà tài trợ đã sử
dụng ODA như là một công cụ đa năng về chính trị và kinh tế. Những nước
cung cấp viện trợ đòi hỏi các nước tiếp nhận phải có những điều chỉnh hoặc
thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Chính vì
vậy, khi có yêu cầu viện trợ hoặc được cung cấp viện trợ, các nước tiếp nhận
viện trợ cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện đưa ra từ các nhà tài trợ,

16


không vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ
trợ phát triển chính thức phải đảm bảo tôn trọng vẹn toàn lãnh thổ của nhau,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
c. ODA là nguồn vốn có khả năng để lại gánh nặng nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA, do tính chất ưu đãi nên gánh nặng
nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng ODA có thể tạo nên
sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do
không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có khả
năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ
lại chủ yếu dựa vào xuất khẩu để thu ngoại tệ. Do đó, trong khi hoạch định
chính sách huy động và sử dụng nguồn vốn ODA phải cân nhắc phối hợp
nguồn vốn ODA với các nguồn vốn khác để tăng cường sức mạnh kinh tế và
khả năng xuất khẩu của đất nước.
3. Phân loại ODA
ODA được phân loại theo các tiêu chí khác nhau:
a. Theo tính chất tài trợ, ODA bao gồm:
+ ODA không hoàn lại: là các khoản cho không, nước nhận viện trợ không có
nghĩa vụ hoàn trả lại.
+ ODA có hoàn lại (ODA vốn vay): là các khoản vay ưu đãi (tín dụng ưu đãi).

+ ODA hỗn hợp: gồm một phần cho không, phần còn lại thực hiện theo hình
thức tín dụng (có thể là tín dụng ưu đãi hoặc tín dụng thương mại).
b. Theo mục đích sử dụng, ODA bao gồm:
+ Hỗ trợ cơ bản: là những nguồn lực được cung cấp để đầu tư xây dựng cơ sở
hạ tầng kinh tế xã hội và môi trường. Đây thường là những khoản vay ưu đãi.
+ Hỗ trợ kỹ thuật: là những nguồn lực dành cho chuyển giao tri thức, công
nghệ, xây dựng năng lực, tiến hành nghiên cứu cơ bản hay nghiên cứu tiền

17


đầu tư, phát triển thể chế và nguồn nhân lực. Loại hỗ trợ này chủ yếu là viện
trợ không hoàn lại.
c. Theo điều kiện, ODA bao gồm:
+ ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị ràng
buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng nào.
+ ODA có ràng buộc nước nhận:
- Bởi nguồn sử dụng: việc mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay dịch vụ bằng
nguồn vốn ODA chỉ giới hạn từ một số công ty do nước tài trợ sở hữu hoặc
kiểm soát (đối với viện trợ song phương), hoặc từ các công ty của các nước
thành viên (đối với viện trợ đa phương).
- Bởi mục đích sử dụng: chỉ được sử dụng nguồn vốn ODA cho một số mục
đích nhất định hoặc một số dự án cụ thể.
+ ODA có ràng buộc một phần: một phần chịu ràng buộc, phần còn lại không
phải chịu bất kỳ ràng buộc nào.
d. Theo đối tượng sử dụng, ODA được chia thành:
+ Hỗ trợ Dự án: là hình thức chủ yếu của ODA để thực hiện các dự án cụ thể.
Nó có thể là hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật, có thể là viện trợ không hoàn
lại hoặc cho vay ưu đãi.
+ Hỗ trợ phi dự án:

- Hỗ trợ cán cân thanh toán: thường là hỗ trợ tài chính trực tiếp (chuyển
giao tiền tệ) hoặc hỗ trợ hàng hóa, hỗ trợ qua nhập khẩu (ngoại tệ hoặc
hàng hóa được chuyển qua hình thức này có thể được sử dụng để hỗ trợ
ngân sách).
- Hỗ trợ trả nợ: giúp thanh toán các khoản nợ quốc tế đến hạn
- Viện trợ chương trình: là khoản ODA dành cho một mục đích tổng quát
với thời gian nhất định mà không yêu cầu phải xác định một cách chính
xác nó sẽ được sử dụng như thế nào.
e. Theo nhà cung cấp, ODA được chia thành:

18


+ ODA song phương: là ODA của một quốc gia (Chính phủ) tài trợ trực tiếp
cho một quốc gia (Chính phủ) khác.
+ ODA đa phương: là ODA của nhiều quốc gia (Chính phủ) tài trợ cho một
quốc gia (Chính phủ), thường được thực hiện thông qua các tổ chức quốc tế
và liên chính phủ (WB, IMF, ADB, Ủy ban Châu Âu EU, Các tổ chức thuộc
Liên Hợp quốc, Quỹ OPEC...).
4. Vai trò của ODA trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của các
nước đang và chậm phát triển.
a. ODA là một nguồn vốn có vai trò quan trọng đối với các nước đang và
chậm phát triển
Vốn đầu tư cùng với tài nguyên thiên nhiên, lao động và kỹ thuật tạo
thành bốn yếu tố vật chất xã hội cho sự phát triển nhanh và bền vững của mỗi
quốc gia. Tất cả các nước khi tiến hành công nghiệp hóa đều cần vốn đầu tư
lớn. Đó chính là trở ngại lớn nhất để thực hiện chương trình công nghiệp hóa
đối với các nước nghèo. Trong điều kiện hiện nay, với những thành tựu mới
của khoa học công nghệ, các nước có thể tiến nhanh không chỉ bằng khả năng
tích lũy trong nước mà còn kết hợp với tận dụng khả năng của thời đại. Bên

cạnh nguồn vốn trong nước còn có thể huy động nguồn vốn nước ngoài.
Đối với các nước đang phát triển, các khoản viện trợ và các khoản vốn
vay theo điều kiện ODA là nguồn tài chính quan trọng để phát triển. Nhiều
nước đã tiếp thu được lượng vốn ODA khá lớn bổ sung cho nguồn lực trong
nước để thực hiện các chương trình phát triển của mình.
Trên thực tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở những nước đang phát
triển đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, song tỷ suất lợi nhuận thu đựợc
thường thấp, thời gian thu hồi vốn dài và thường gặp nhiều rủi ro. Vì vậy,
việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào lĩnh vực này là điều
hết sức khó khăn. Trong trường hợp này, tranh thủ được nguồn vốn ODA từ

19


các nước giàu có là biện pháp tối ưu giúp các nước đang phát triển thực hiện
công cuộc công nghiệp hóa.
Do tính chất ưu đãi, vốn ODA thường dành cho đầu tư vào vào cơ sở
hạ tầng kinh tế xã hội như hệ thống đường giao thông, cầu cảng, công trình
điện, công trình cấp thoát nước và các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa và phát
triển nguồn nhân lực. Vào đầu những năm 1970, cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội
của các nước trong khu vực Đông Nam Á còn hết sức lạc hậu. Các nước này
đã sớm nhận thức được vai trò quan trọng của việc phát triển các hoạt động
giao thông vận tải, thông tin liên lạc và bưu chính viễn thông... Nhiều công
trình hạ tầng kinh tế xã hội như sân bay, bến cảng, đường cao tốc, trường học,
bệnh viện, trung tâm nghiên cứu khoa học mang tầm cỡ quốc tế ở Thái Lan,
Sing-ga-po, In-đô-nê-sia, Phi-lip-pin đã được xây dựng bằng nguồn vốn ODA
của Nhật Bản, Hoa Kỳ, Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu
Á (ADB)...
b. ODA giúp các nước đang phát triển điều chỉnh cơ cấu kinh tế
Do dân số tăng nhanh, sản xuất tăng chậm và cung cách quản lý kinh

tế, tài chính kém hiệu quả, các nước đang phát triển đặc biệt là các nước Châu
Phi đang vấp phải nhiều khó khăn kinh tế như nợ nước ngoài và thâm hụt cán
cân thanh toán quốc tế ngày càng tăng. Để giải quyết vấn đề này, các quốc gia
đang cố gắng hoàn thiện cơ cấu kinh tế bằng cách phối hợp với Ngân hàng
Thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), các tổ chức quốc tế khác tiến hành chính
sách điều chỉnh cơ cấu quốc gia theo xu hướng chuyển chính sách kinh tế Nhà
nước đóng vai trò trung tâm sang chính sách khuyến khích nền kinh tế phát
triển theo định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân. Thế giới đã thừa
nhận sự cần thiết của loại hình viện trợ này đối với các nước đang phát triển
và Nhật Bản cũng chú trọng tới loại hình này. Trong giai đoạn 3 năm 19931995, Nhật Bản đã dành một khoản viện trợ tổng cộng khoảng gần 700 triệu
USD để hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu kinh tế ở các nước đang phát triển.

20


c. ODA giúp các nước đang phát triển tiếp thu những thành tựu khoa học,
công nghệ hiện đại và phát triển nguồn nhân lực
Những lợi ích quan trọng mà ODA mang lại cho các nước tiếp nhận tài
trợ là tiếp cận và dần từng bước làm chủ công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo
chuyên môn và trình độ quản lý tiên tiến. Các nhà tài trợ còn ưu tiên đầu tư
cho phát triển nguồn nhân lực vì họ tin tưởng rằng sự phát triển bền vững của
một quốc gia không thể thiếu sự phát triển nguồn nhân lực. Đây chính là
những lợi ích căn bản, lâu dài đối với nước nhận tài trợ ODA. Tuy nhiên
những lợi ích này khó có thể lượng hóa.
Nhật Bản được biết đến là nước đứng đầu thế giới về cung cấp ODA.
Hợp tác kỹ thuật Nhật Bản là một ví dụ minh họa điển hình về vai trò của hỗ
trợ phát triển chính thức trong việc giúp các nước đang phát triển tiếp thu
những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến và phát triển
nguồn nhân lực. Hợp tác kỹ thuật được coi là một bộ phận quan trọng trong
ODA của Nhật Bản. Các chương trình hợp tác kỹ thuật do Chính phủ Nhật

Bản thực hiện được tiến hành dưới các hình thức: tiếp công dân các nước tới
học tập ở Nhật Bản, cung cấp các chuyên gia, các nhân viên tình nguyện
người Nhật Bản cùng trang thiết bị, vật liệu cho các nước tiếp nhận ODA của
nhật Bản. Ngoài ra Nhật Bản còn thực hiện hợp tác kỹ thuật theo thể loại từng
dự án với mục đích chuyển giao công nghệ cho các kỹ sư, kỹ thuật viên và
nhân viên y tế... của các nước nhận viện trợ bằng cách cho họ tham gia vào
các dự án phát triển thuộc các lĩnh vực cụ thể và các hoạt động nghiên cứu
liên quan đến lĩnh vực đó. Gần đây hợp tác kỹ thuật theo thể loại này ngày
càng được áp dụng phổ biến hơn, toàn diện hơn.
d. ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện để mở rộng
đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển

21


Các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào
một nước trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước
đó. Họ luôn cảnh giác với những nguy cơ làm tăng các phí tổn của đầu tư.
Nếu như một quốc gia, trên quy mô rộng, hay một địa phương cụ thể,
có cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh, phương
tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng
(điện, nhiên liệu) không đủ cho nhu cầu sản xuất, kinh doanh sẽ làm nản lòng
các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải trả để sử dụng những tiện nghi hạ
tầng sẽ cao hơn rất nhiều, chưa kể đến thiệt hại như hoạt động của nhà máy,
xí nghiệp phải dừng vì các sự cố như mất điện, công trình xây dựng bỏ dở vì
không có nước...
Một hệ thống ngân hàng lạc hậu cũng là lý do dẫn đến sự dè chừng của
các nhà đầu tư vì những chậm trễ, ách tắc trong hệ thống thanh toán và sự
thiếu các dịch vụ ngân hàng hỗ trợ cho đầu tư sẽ làm phí tổn đầu tư gia tăng,
dẫn tới hiệu quả đầu tư giảm sút.

Như vậy việc đầu tư của Chính phủ vào việc nâng cấp, cải thiện và xây
dựng mới các cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hệ thống tài chính, ngân hàng đều hết
sức cần thiết, nhằm làm cho môi trường đầu tư trở nên hấp dẫn hơn. Nhưng
vốn đầu tư cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật rất lớn, bởi vậy nhiều
nước đang phát triển cần phải dựa vào nguồn vốn ODA để bổ sung cho vốn
đầu tư hạn hẹp từ ngân sách Nhà nước. Một khi môi trường đầu tư được cải
thiện sẽ làm tăng sức hút dòng vốn FDI. Nguồn vốn ODA của Hoa Kỳ, Nhật
Bản và một số nước khác chủ yếu được đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng của
các nước Đông Á. Nhờ cơ sở hạ tầng phát triển mà các nước này có điều kiện
thuận lợi trong việc thu hút FDI của nước ngoài.
Mặt khác, việc sử dụng vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ
thuật sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước tập trung đầu tư

22


vào các chương trình sản xuất kinh doanh và dịch vụ có khả năng mang lại lợi
nhuận.
Rõ ràng ODA ngoài việc bản thân nó là một nguồn vốn bổ sung quan
trọng cho các nước đang phát triển, nó còn có tác dụng làm tăng khả năng thu
hút vốn từ nguồn FDI và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong
nước, góp phần thực hiện thành công chiến lược hướng ngoại. Tất cả các
nước theo đuổi chiến lược hướng ngoại đều có nhịp độ tăng trưởng cao và
chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nước mạnh mẽ trong một thời gian ngắn để
chuyển từ nước nông - công nghiệp thành những nước công - nông nghiệp
hiện đại, có mức thu nhập bình quân đầu người cao.
II. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WB) VÀ ODA CỦA WB
1. Lịch sử hình thành và chức năng hoạt động
Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (International Bank for
Restruction and Development- IBRD) - được biết đến nhiều hơn với cái tên

Ngân hàng Thế giới (WB) được thành lập tháng 7 năm 1944 nhằm giúp đỡ
Châu Âu phục hồi sau Thế chiến thứ II. Thành công trong tài trợ khôi phục và
phát triển các nước châu Âu đã khiến Ngân hàng, chỉ trong vòng vài năm đã
chuyển hướng sang hỗ trợ các nước đang phát triển. Đến những năm 1950,
thế giới nhận thấy các quốc gia nghèo nhất cần có những điều khoản “mềm”
hơn những điều khoản WB đưa ra để họ có thể vay vốn phục vụ tăng trưởng
và phát triển.
Với sáng kiến khởi đầu của Hoa Kỳ, một nhóm các nước thành viên
của WB quyết định thành lập một cơ quan chuyên cho vay các quốc gia nghèo
nhất dựa trên các điều kiện ưu đãi nhất có thể. Cơ quan này có tên là “Hiệp
hội Phát triển Quốc tế” (International Development Association -IDA). Các
nước sáng lập đã coi IDA là cơ quan mở đường cho những nước “có” giúp đỡ

23


các nước “không có”, nhưng đồng thời họ cũng muốn IDA hoạt động với điều
lệ của WB.
2. Các tổ chức trong Nhóm Ngân hàng Thế giới (World Bank Group)
a. Ngân hàng Tái thiết và Phát triển Quốc tế - IBRD
Ngân hàng Tái Thiết và Phát triển Quốc tế được thành lập nhằm hỗ trợ
các nước có thu nhập trung bình và các nước nghèo có khả năng trả nợ thông
qua thúc đẩy phát triển bền vững bằng các khoản vay, bảo lãnh, quản lý rủi ro
và các dịch vụ phân tích và cố vấn. Được thành lập tháng 7 năm 1944, có trụ
sở tại Washington DC- Thủ đô Hoa Kỳ, và là Tổ chức đầu tiên của Nhóm
Ngân hàng Thế giới, IBRD là một định chế tài chính quốc tế hoạt động vì lợi
ích của 185 nước thành viên.
Nguồn vốn của IBRD chủ yếu là vốn cổ phần đóng góp của các nước
thành viên (tỷ trọng cổ phần lớn nhất thuộc về các nước có nền kinh tế phát
triển cao như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Đức,…). IBRD dành phần lớn

nguồn tài chính của mình cho các thị trường tài chính thế giới và đã trở thành
một bên vay uy tín nhất kể từ khi phát hành trái phiếu năm 1947. Thu nhập
của IBRD trong vòng những năm qua đã cấp vốn cho các hoạt động phát triển
và đảm bảo thế mạnh về tài chính giúp nó có thể vay vốn với mức chi phí
thấp và cung cấp cho khách hàng (chủ yếu là các nước đang phát triển) thông
qua các khoản vay cho các chương trình, dự án phát triển với điều khoản ưu
đãi hơn tín dụng thương mại (thường thời hạn hoàn vốn 15-20 năm, thời gian
ân hạn 5 năm; lãi suất gần sát với lãi suất thương mại) Tại Hội nghị Thường
niên tháng 9/2006, với sự khuyến khích của các Chính phủ các quốc gia thành
viên, WB đã cam kết cải thiện hơn nữa các dịch vụ dành cho các thành viên.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các nước có thu nhập trung bình,
IBRD sức nỗ lực cải thiện các sản phẩm tài chính và quản lý rủi ro, mở rộng

24


các dịch vụ tư vấn độc lập và tạo điều kiện cho các khách hàng làm việc với
Ngân hàng.
b. Hiệp hội Phát triển Quốc tế (International Development Association- IDA)
Hiệp hội Phát triển Quốc tế (IDA) thành lập năm 1960, cùng chung trụ
sở với IBRD, là một Tổ chức thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới. IDA
hiện có 168 nước hội viên. Nguồn vốn hoạt động của IDA chủ yếu dựa vào
vốn đóng góp của các nước công nghiệp phát triển và một phần lợi nhuận của
IBRD. Mục đích hoạt động của IDA là tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế của các nước hội viên thông qua việc huy động vốn và cung cấp
tín dụng theo các chương trình, dự án phát triển của các nước hội viên nhằm
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giảm tình trạng bất công bằng và cải thiện đời
sống cho nhân dân.
IDA là một trong trong số những tổ chức cung cấp ODA lớn nhất đối
với 78 nước nghèo nhất thế giới, trong đó có 39 nước Châu Phi. Đây là nguồn

vốn tài trợ duy nhất và lớn nhất hỗ trợ các dịch vụ xã hội cơ bản cho những
nước nghèo nhất.
IDA cho vay (tín dụng) theo các điều khoản nhượng bộ có tính ưu đãi
cao. Các khoản tín dụng của IDA không thay đổi về lãi suất (rất thấp) và thời
gian hoàn trả kéo dài từ 35 đến 40 năm, trong dó có 10 năm ân hạn; phí dịch
vụ và phí cam kết thấp. Trong một số trường hợp cụ thể, IDA cũng cung cấp
tín dụng cho các nước ở tình trạng không trả được nợ.
Từ khi thành lập, tổng giá trị tín dụng và viện trợ không hoàn lại của
IDA là 182 tỷ USD, trung bình 10 tỷ USD/năm trong thời gian gần đây và
phần lớn nhất (khoảng 50%) là dành cho châu Phi.
c. Công ty Tài chính Quốc tế (International Finance Corporation -IFC)
Là một Tổ chức thành viên của Nhóm Ngân hàng Thế giới, IFC được
thành lập năm 1956, hiện có 181 quốc gia thành viên với mục đích hỗ trợ thúc
đẩy đầu tư khu vực tư nhân tại các nước đang phát triển. Các hình thức hỗ trợ

25


×