Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.32 KB, 29 trang )

^Đề án ~Kinh tê chính tri

MỤC LỤC

A.............................................................................................
GIỚI THIỆU ĐỂ TÀI
A. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
2
B. NỘI DƯNG........................................................................................................... 3
I. cơ SỞ LÍ LUẬN .....................................................................................................................3

Trong nền kinh tế thị trường phân phối thu nhập đóng một vai trò rất quan
trọng. Phân phối thu nhập nối liền sản xuất với sản xuất , sản xuất với tiêu dùng,
1. các
Vị trí
phân phối
nềndịch
kinhvụ
tế thị
................................
3
nối liền
thịcủa
trường
hàngthu
hóanhập
tiêutrong
dùng,
vớitrường
thị trường
yếu tố sản xuất,


làm cho sự vận động của kinh tế thị trường diễn ra thông suốt.
2. Nguyên tắc thực hiện phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường.............4
Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có
qyu luật
phốikinh
củatếcải
ứngphân
vớiphối
nó. thu
ở mỗi
hộikinh
có tế
quan
hệ phân5 phối
3. phân
Tác động
- xãthích
hội của
nhậpxã
trong
thị trường..
riêng phù họp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội ấy. Lí luận về phân
phối có vị trí quan trọng trong kinh tế chính trị. Nó là vấn đề rộng lớn, liên quan
đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của nhà nước và nhân dân lao động.
4 . Các
thuđộ
nhập
thời kì
đi lên


Phân phối
thu hình
nhậpthức
trongphân
thờiphối
kì quá
lên trong
chủ nghĩa
xã quá
hội độ
là một
vấnchủ
đề nghĩa
vô cùng
quan hội.....................................................................................................................5
trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát
triển, ổn định tình hình kinh tế-xã hội,thự hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
II. THƯC TRẠNG PHÂN PHOI THƯ NHÂP TRONG NEN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH

HƯỚNG
HỘItốt
CHỦ
Ở VIỆT
Giải XÃ
quyết
vấnNGHĨA
đề phân
phối NAM..........................................................................8
thu nhập có y nghĩa to lớn đối với sự ổn định


tăng trưởng và phát triển kinh tế. Thực tiễn Việt nam đã chỉ rõ trong quá trình đi tới
ổn định và tăng trưởng nền kinh tế, trước hết chung ta phải cải cách lưu thông và
phân 1.
phối.
Nhờtrang
tháovàgỡ
ách lương
tắc trong
lĩnh
vực này mà nền kinh tế nước 8ta
Thực
giảinhững
pháp tiền
ở nước
ta......................................................
đang dần dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, lạm phát và từng bước có sự tăng
trưởng, phát triển.

Tuy nhiên, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hàng loạt vấn đề thuộc
lĩnh vực phân phối thu nhập như tiền lương, lợi nhận,lợi tức, địa tô phù hợp với
nguyên lí kinh tế thị trường cũng như tác động của chúng đối với sự phát triển kinh
tế xã hội ở nước ta đòi hỏi có sự nghiên cứu nghiêm túc công phu. Phân phối có thế
được coi là một công cụ để xây dựng chế độ mới để phát triển kinh tế theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy nghiên cứu lí luận phân phối thu nhập trong nền
kinh tế thị dtrường và vận dụng vào Việt Nam là hết sức cấp bách, có ý nghĩa cả về
mặt lí luận và thực tiễn.
Vì những lí do nêu trên, em đã chọn đề tài: "Phân phối thu nhập trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - thực trạng và giải
pháp ".


(ìliỊuiịễn
íìlụnụễn ^7hi @ấm 77ú

21

r
DCiém
OKlỀmtoán
toán4Ọ
4ỌrẨỈ
ẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

B.NỘI DUNG

I. cơ sở LÍ LUẬN

l.VỊ trí của phân phôi thu nhập trong nền kinh tê thị trường
a) Khái niệm

Ngày nay tuy còn nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhiều nhà kinh tế đã thống
nhất với nhau rằng kinh tế thị trường là nền kinh tế vận dộng theo cơ chế thị trường.
Cơ chế thị trường là cơ chế mà trong đó tổng thể các nhân tố , các quan hệ cơ bản
tự do vận động dưới sự chi phối của các qui luật thị trường, trong môi trườns cạnh
tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận, thị trương là một quá trình mà người mua và người
bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và sản lượng, thị trường bao gồm
hai loại: thị trường các yếu tố sản xuất va thị trường hàng hóa tiêu dùng. Hàng hóa

trên thị trường có giá cả và giá cả mang lại thu nhập cho những chủ của nó. Các hộ
doanh nghiệp bán hàng có được thu nhập sọi là doanh thu của các doanh nghiệp.
Hộ gia đình bán hàng có được thu nhập.

Theo nghĩa rộng, thu nhập trong nền kinh tế thị trường bao gồm doanh thu
của các chủ doanh nghiệpvà thu nhập của chủ các yếu tố sản xuất. Còn theo nghĩa
hẹp, thu nhập là phần trả công cho chủ các yếu tố sản xuất như tiền lương, lợi
nhuận, lợi tức, địa tô.

Vậy phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường là phân phối về tiền
lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô cho chủ các yếu tố sản xuất . từ đó hình thành nên
thu nhập. Đó là tổng số tiền mà chủ các yếu tố sản xuất kiếm được nhoặc thu góp
trong một thời gian nhất định.
b) Vị trí của phân phôi thu nhập trong kinh tế thị trường

Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò quan trọng trong
quá trình phát triển kinh tế. Vai trò của nó thể hiện dưới hai phương diện. Thứ
nhất, phân phối thu nhập có ảnh hưởna to lớn đối với sản xuất. Mác đã từng nói tới
vai trò của phân phối đối với sản xuất . trên phươns diện phân phối trực tiếp các
yếu tố cho quá trình sản xuất, nó nối liền sản xuất với sản xuất, điều này có nghĩa
là nó đảm bảo các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệpđảm bảo các nguồn lực phục vụ
(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

3

OKlêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri


phối các nguồn lực diễn ra thông suốt diễn ra thông suốt sẽ đảm bảo quá trình tái
sản xuất được tiến hành một cách liên tục. Thứ hai, phân phối thu nhập quyết định
sự tiêu dùng của các chủ yếu tố sản xuất. Thông qua phân phối thu nhập các chủ
thể yếu tố sản xuất có được thu nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thi
trường sản phẩm, dịch vụ. về cơ bản,qui mo phân phối quyết định qui mô tiêu
dùng. Các chủ thể nhận dược thu nhập nhiều thì mức tăng tiêu dùng ngày cang cao
hơn về mặt giá trị tuyệt đối.
2. Nguyên tắc thực hiện phân phối thu nhập trong nền kinh tê thị trường
a)

Nguyên tắc sở hữu trong phân phối thu nhập

Trong nền kinh tế thị trường có nhiều chủ thể tham gia đó là những người lao
động, các chủ vốn, chủ đất đai và chủ kinh doanh. Mỗi người có quyền sở hữu về
các yêu tố sản xuất của mình. Người lao động có quyền sở hữu về sức lao động,
chủ vốn có quyền sở hữu về vốn , chủ đất đai có quyền sở hữu về đất đai, nhà kinh
doanh có quyền sỏ hữu về năng lực kinh doanh. Quyền sở hữu các yếu tố sản xuất
này mang lai thu nhập cho những chủ của nó.

Rõ ràng thu nhập là quyền sở hữu được thực hiện về mặt kinh tế, nói quyền
sở hữu mà không nói đến quyền thu nhập thì chỉ là quyền sỏ' hữu suông. Mác đã
từng nói: "địa tô là quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế". Người
ta có thể nói như vậy với các yếu tố sản xuất khác . chẳng hạn tiền lương là quyền
sở hữu lao động được thực hiện về mặt kinh tế, lợi tức là quyền sở hữu vốn được
thực hiện về mặt kinh tế , lơij nhận là quyền sở hữu kinh doanh được thực hiện về
mặt kinh tế.
b)
Nguyên tác năng suất giới hạn

Năng suất giới hạn là năng suất của yếu tố sản xuất cuối cùng được sử dung

trong quá trình sản xuất. chẳng hạn, năng suất của người công nhân cuối cùng, của
đơn vị tư bản cuối cùng, của đơn vị tư bản sử dung cuối cùng, của đơn vị dất đai sử
dụng cuối cùng. Năng suất đó là nhỏ nhất và nó quyết định năng suất của các đơn
vị khác của yếu tố sản xuất.

Sở dĩ phải phân phối theo năng suất của yếu tố sản xuấtđược sử dụng cuối
cung vì khi người ta tăng thêm đều đặn các đơn vị của yếu tố sản xuất nào đó vào
quá trình tạo ra sản phẩm còn các yếu tố khác không thay đổi thì năng suất của các
đơn vị sản xuất tăng thêm có xu hướng giảm sút. Vì vậy đơn vị yếu tố sản xuất cuối
cùng được coi là yếu tố sản xuất giới hạn. năng suất của nó gọi là năng suất giới

(ìliỊuiịễn ^7hi

(yấtn 77ú

4

OKlêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinlt tê chính tri

hạn. năng suất này trở thành năng suất chung quyết định năng suất của các đơn vị
khác của yếu tó sản xuất
c) Công cụ thực hiện phân phối thu nhập trong kinh tê thị trường là cầu
và giá cả hàng hóa trên các thị trường

Ta đã biết là trên thị trường yếu tố sản xuất, các hàng hóa mua bán có giá
cả là tiền lương, lợi tức, địa tô


Giá cả các yếu tố sản xuất là sự cân bằng giữa cung và cầu các yếu tố
sản xuất. Sức cầu của nhà sản xuất là nhu cầu của các nhà kinh doanh về số lượng
lao động, đất đai,vốn với mỗi giá cả nhất định. Sức cung của các yếu tố sản xuất là
số lượng lao động, vốn , đất đai có thể. Cung ứng trên thị trường với một giá cả
nhất định. Lao động, vốn đất đai vốn là những yếu tố sản xuât khan hiếm. Trong
điều kiện nhất định nguồn lao động vốn , đát đai là một lượng nhất định mà chúng
ta không thê tăng các yếu tố sản xuất này lên được.
3. Tác động kinh tê - xã hội của phân phôi thu nhập trong kinh tê thị
trường
a) Tác động tích cực

• Phân phối thu nhập đảm bảo thục hiện quyến sở hữu về kinh tế của các
chủ thể yếu tố sản xuất góp phần vào việc bảo vệ, tăng cường quyền sở hữu của các
chủ thể tham gia kinh tế thị trường

• Phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trưòng đánh giá đúng đắn các yếu
tố sản xuát đến trả công

• Phân phối thu nhập đảm bảo được quyền tự do của các chủ thể kinh tế,
đồng thời nó đảm bảo tính năng động , thích ứng nhanh chóng để tạo ra sự cân
bằng tổng quát trên các thị trường
b) Tác động tiêu cực

Phân phối thu nhập cung có nhiều khuyết tật như bản thân nền kinh tế thị
trường đó là sự phân hóa giàu nghèo bất bình đẳng dẫn đến những xung đột, những
(ìliỊuiịễn '7/í/ Cấm £7«

5

OKlỀm toán 4ỌrẨỈ



^Đề án ~Kinh tê chính tri

Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan và từ đặc
điểm kinh tế xã hội nước ta, trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
tồn tại nhiều hình thúc phân phối thu nhập, đó là vì:

Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều
hình thúc sở hữu khác nhau.

Thứ hai, trong nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thúc kinh
doanh khác nhau.

Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong nền kinh tế này có nhiều chủ thê sản xuất , kinh doanh thuộc nhiều thành
phần kinh tế tham gia. Mỗi thành phần kinh tế có phương thức tổ chức sản xuát
kinh doanh khác nhau. Ngay trong mỗi thời kì , kể cả thành phần kinh tế nhà nước
cũng có các phương thức kinh doanh khác nhau, do đó, kết quả thu nhập là khác
nhau.

Hơn nữa, trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, các chủ thể sảnxuất,
kinh doanh tham gia vào nền kinh tế đêùu có sự khác nhau về sỏ’ hữu của cải , tiền
vốn trình độ chuyên môn, tay nghề, năng lực sở trường. Do đó, khác nhau về phân
phối thu nhập, vì vậy khong thể có một hình thúc phân phối thu nhập thống nhất,
trái lại có nhiều hình thức khác nhau.
b)
Các hình thức phán phôi thu nhập

Trong mục tiêu và phương hướng phát triển đất nước năm năm 2006- 2010,

đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nêu rõ:" thực hiện chế độ phân phối chủ yếu
theo kết quả lao động , hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội".

Một là, phân phối theo lao động: Phân phối theo lao động là phân phối trong
các đơn vị kinh tế trên cơ sở sở hữu công công về tư liệu sản xuất hoặc các hợp tác
xã cổ phần mà phần góp vốn của các thành viên băng nhau. Các thanh phần kinh tế
nay đêùu dựa trênchế độ cong hữu về tư liệu sản xuát ở trình độ khác nhau. Người
lao động làm chủ những tư liệu sản xuất, nên tất yếu cũng phải làm chủ phân phối
thu nhập vì vậy phân phối phải vì lợi ích của người lao động.

(ìliỊuiịễn '7/í/ (ỉ?utn Tĩú

6

OKlỀm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

Tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh té
thuộc thành phần kinh tế dựa trên công hữu về tư liệu sản xuất vì:


Lực lượng sản xuất phát triển chưa cao, chưa đến mức có đủ sản phẩm
để phân phối theo nhu cầu. Vì phân phối do sản xuất quyết định nên Mác đã viết
: "quyền khong bao giờ được ở một mức cao hơn chế đọ kinh tế và sự phát triển
kinh tế và sự phát triển văn hóa xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định".



Sự khác biệt về tính chất và trình độ lao động dẫn tới việc mỗi người có
sự cống hiến khác nhau , do đó phải căn cứ vao sự cống hiến của mỗi người để
phân phối.


Lao động chưa trở thành một nhu cầu của cuộc sống, nó còn là phương
tiện để kiếm sống, là nghĩa vụ quyền lợi. Hơn nữa, còn những tàn dư ý thúc, tư
tưởng của xã hội cũ để lại, như: coi khinh lao động, ngại lao động chân tay, so bì
cống hiến và hưởng thụ...

Trong những điều kiện đó, phải phân phối theo lao động để khuyến khích
người chăm, người giỏi ,giáo dục kẻ lười, người xấu, gắn sự hưởng thụ của mỗi
người với sự cống hiến của họ.

Phân phối theo lao động là hình thúc phân phối thu nhập căn cứ vao số lượng
và chất lượng lao động của từng người đóng góp cho xã hội . theo quy luật này,
người làm nhièu hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, lao đong kĩ thuật cao. Lao động
trong điều kiện độc hại, khó khăn phải được hương phần thu nhập xứng đáng

Căn cứ cụ thể để phân phối theo lao động là:


Số lượng lao động được do bằng thời gian lao động hoặc số lượng sản
phẩm làm ra;



Trình độ thành thao và chất lượng sản phẩm làm ra;

(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú


7

OKlêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri



thúc đây moi người nâng cao năng suất lao động, xây dựng tinh thần

trách nhiệm, thúc dây nâng cao năng suất lao động,xây dựng tinh thần trách nhiệm
và thái độ lao động đúng đắn



thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hóa ,ổn

định lao động tạo điều kiện thuân lợi cho việc tổ chức lao động xã hội


tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hóa của người lao động, vừa
tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện.

Phân phối theo lao động là hợp lí nhất công băng nhất so vơi các hình thúc
phân phối đã có trong lịch sử . cơ sỏ của sự cong băng trong xã hội của sự phân
phối đó là sự bình đẳng trong quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất.

Hai là, phân phối theo vốn và các nguồn lực khác ở nước ta đang tồn tại

nhiều thành phần kinh tế với sự đa dạng các hình thúc sở hữu và các hình thức tổ
chức, kinh doanh. Do đó, ngoài hĩnh thúc phân phối theo lao động, trong thời kì
quá độ còn tòn tại các hình thức thu nhập khác, dó là:



Trong các đơn vị kinh tế tập thể bậc thấp có sự kết hợp phân phối theo

vốn và theo lao động



Trong thành phần kinh tế tiểu chủ thì thu nhập phụ thuộc vào sở hữu tư

liệu sản xuất ,vốn đầu tư sản xuất và khả năng sản xuất kinh doanh của chinh
nhũng người lao động



Trong kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước ,việc phân phối dựa trên

cơ sở sở hữu vốn cổ phần , sỏ’ hữu sức lao động ,sở hữu tư bản ...

(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

8

OKlêm toán 4ỌrẨỈ



^Đề án ~Kinh tê chính tri

• Tiền lương là hình thức thu nhập tương ứng với nguyên tắc phân phối theo
lao động

Nhận định chung về chính sách tiền lương của công nhân viên chức trước
tháng 9/1985

Chế độ tiền lương đến trước tháng 9/1985 là chế độ tiền lương ban hành năm
1960 và được bổ sung năm 1963 băng chế độ cung cấp một số mặt hàng thiết yếu
định lượng theo tem phiếu. Nói cách khac lương mang tinh chất hiện vật. đồng thời
nhà nước duy trì chế độ bán cung cấp về nhà ở, điện, nước sinh hoat. Nhìn chung,
chế độ lương trong thời kì này, vừa bằng tiền vừa bằng hiện vật với giá quá thấp,
vừa chăp vá và bình quân kéo dài quá lâu, nên đã gây nhiều tiêu cực, trong tỏ chức,
quản li lao động, trong lĩnh vực phân phối lưu thông không thê phát huy hết tiem
lực sáng tạo của những người lao động cũng như các tập thể sản xuất.

• Diễn biến quá trình điều chỉnh tiền lương sau khi ban hành Nghị định
235/HĐBT

Sau khi có nghị định 235/HĐBT, nhà nước tếp tục có những biện pháp về tiền
lương cụ thế như sau:

- Năm 1986: 2 lần điều chỉnh tiền lương danh nghĩa bằng chế độ phụ cấp đắt
đỏ 15% và 40%. Ngoài ra, áp dụng trở lại bán 6 mặt hàng định lượng (gạo, thịt,
nước mắm, nước mắm, đường, chất đốt và xà phòng) theo giá thấp và theo 3 nhóm
mức lương.

- Năm 1987: trợ cấp thêm bằng 100% trên mức lương cấp bậc(chức vụ) từ
tháng 5 đến tháng 9/1987. từ tháng 10/1987 điều chỉnh lại mức lương theo giá một

số mặt hàng tính lương, đối với các đơn vị sản xuất kinh doanhhệ số điều chỉnh
bằng 13-15 lần, hành chính sự nghiệp băng 10-68 lần , các lực lượng vũ trang băng
11-51 lần

- Năm 1988; sau khi điều chỉnh thống nhất hệ số tiền lương của công nhân
viên chức hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang lên 13-15 lần , nhà nước còn
thực hiện 3 lần phụ cấp với mức 30%, 60%, 90%trên tiền lương dã tính lại theo hệ
(ìliỊuiịễn 7/í/ @ấm ^7ú

9

OKlỀm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

giá tiền lương theo sản phẩm hoặc dịch vụ và tính nộp bảo hiểm xã hội ; còn quĩ
lương đơn vị , mức thu nhập thực tế của mỗi cán bộ công nhân viên cũng như phân
phối và hạch toán giá thành vẫn thực hiện theo đúng các quyết định 217HĐBT và
nghị định 50/HĐBT của hội đồng bộ trưởng. Mặc dù chỉ số tăng giá lương vào
khoảng 204.5 lần nhưng chỉ số giá tinh cho 44 mặt hàng trong cơ cấu lương tối
thiểu đã tăng xấp xỉ 700 lần.

- Năm 1990 bù giá những mặt hàng nhà nước điều chỉnh giá( điện, dàu thắp
sáng ), bổ sung sửa đổi một số chế đọ bất hợp lí qui định tại nghị định235/HĐBT;
bổ sung một số chế độ đối với một số đối tượng chính sách xã hội.

- Tháng 5.1993,Đảng,Nhà nước tiến hành cải cách tiền lương, ban hành hệ
thống lương mới theo hướng , thiết lập hệ thống tiền lương theo hệ số với mức
lương tối thiểu la 120000 đồng/tháng, tương đương vói 60 kg gạo đảm bảo cho mỗi

người 2100 calo/ngày... nhưng mức lương tối thiểu này không thể duy trì được năng
lực lao động cho banr thân người lao động chưa nói gì tới việc nuôi con cái và học
hành. Do đó đầu năm 2000, Nhà nước đã nâng mức lương tối thiểu lên 180000
đồng/tháng, đến năm 2001, mức lương này được nâng lên 210000 đồng/tháng, năm
2003 nâng lên 290000 đồng/ tháng, năm 2006 là 360000 đồng/tháng, năm 2007 là
450000 đồng/ tháng, năm 2008 là 540000 đồng/tháng. Sở dĩ phải nâng mức lương
tối thiểu lên một cách liên tục là để bù vào sự trượt giá vào lương nhằm đảm bảo
lương thực tế cho người lao động

Ngoài việc tiền lương thực tế bị hạ quá thấp, hệ thống tiền lương còn bộc lộ
sự chênh lệch bất hợp lí giữa lương của các loại lao động, của các ngành nghề các
đơn vị khác nhau, thí dụ có trương hợp thu nhập của lao động giản đơn cao hơn thu
nhập của lao động phức tạp; thu nhập của doanh nghiệp trung ương cao hơn thu
nhập của doanh nghiệp đĩa phương... Điều này được phản ánh qua số liệu diều tra
về tiền lương của 637 doanh nghiệp do sở lao động thương binh xã hội thành phố
Hồ Chí Minh tiến ành năm 1999: doanh nghiệp Nhà nước trung ương 1,5-1,9 triệu
đồng/ người/ tháng, con số đó đối với các doanh nghiệp thành phố là 1-1,5; doanh
nghiệp Nhà nước quận, huyện là 0,6-0,8, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài la
0,975, đơn vị hành chính sự nghiệp là 0,6-0,8.

Tính chung từ năm 2003-2007 đã qua 4 lần điều chỉnh mức lương tối thiểu
bình quân tăng 38,2%, trong khi giá tiêu dùng tăng 6,8%/năm, GDP bình quân tăng
7,96%/năm, giá tiền công bình quân tăng 10%/năm.

Về thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp, qua điều tra 1000
(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

10

DCiêtn toán 4ỌrẨỈ



^Đề án ~Kinh tê chính tri

với SỐ liệu của các tổng công ty hạng đặc biệt, các tập đoàn kinh tế đạt gần 4 triệu
đồng/tháng, trong doanh nghiệp doanh dân đạt 1,85 triệu đồng/tháng, các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 2,5 triệu đồng/tháng. Có một thực tế là tiền lương
thấp nhất bình quân thực trả cho các doanh nghiệp năm 2007 đều cao hơn so với
qui định của Nhà nước khoảng 1 triệu đồng/tháng.

Theo Vụ Tiền lương, tiền công( Bộ LĐTB&XH), mức lương tối thiểu nói
chung còn thấp, chưa đạt mục tiêu đảm bảo nhu cầu sống tối thiểu của người lao
động. Mức lương tối thiểu áp dụng đối với khu vực doanh nghiệp chưa được điều
chỉnh theo nguyên tắc thị trường , cơ bản vẫn phụ thuộc ngân sách nhà nướ, ngoài
ra đó là sự phân biệt theo loại hình doanh nghiệp tạo ra sự chênh lệch, không bình
đẳng. Hệ thống bảng lương của công ty nhà nước chưa trở thành thước đo giá trị để
trả lương cho người lao động mà chí là cơ sở dể hưởng đống bảo hiểm xã hội.

Đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, mới chỉ có khoảng 305 đăng kí bảng
lương theo qui định, nhiều doanh nghiệp chỉ đăng kí để đối phó, xây dựng bảng
lương không theo qui định, kéo dài số bậc lương, có trường hợp tới hơn 40 bậc
lương, khoảng cách bậc lương quá thấp chỉ khoảng 2-3%, gây thiệt thòi cho người
lao động. Cơ chế phân phối tiền lương của doanh nghiệp nhà nước chưa thực sự
theo nguyên tắc thị trường , quan hệ phân phối giữa người có tiền lương cao nhất và
thấp nhất chỉ khoảng 5-6 lần, trong khi đó trên thị trường chênh lệch hàng chục lần,
thâm chí có những ngành dịch vụ khoảng cách này là 50-60 lần.

Vụ Tiền lương, tiền công cho rằng tình trạng thiếu cơ chế phù hợp để điều
tiết các yêú tố lợi thế ngành nghề khi xác định tiền lương dẫn đến nhiều công ty
nhà nước lương cao không phải do năng suất lao dộng và hiệu quả kinh doanh. Tại

nhiều doanh nghiệp nhà nước, vẫn ép mức tiền công của người lao động, nhất là
những ngành sử duụng lao động trình độ chuyên môn không cao như da giày, dệt
may, chế biến... Một số doanh nghiệp có lợi dụng chia thu nhập của người lao động
thành phụ cấp, trợ cấp, tiền thưởng để trốn đóng bảo hiểm xã hội , không đảm bảo
quyền lợi của người lao động.

Về cơ chế chính sách tiền lương, nhà nước trực tiếp định mức lao động định
mức tiền lương, duyệt quĩ lương , qui định thang lương , bảng lương bậc, bậc lương
cụ thể cho các đơn vị sản xuất kinh doanh phải thúc hiện chuyển sang một cơ chế
mới, trong đó tiền lương đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh chỉ còn là thông só
để tính toán, nhà nước chỉ không chế lương tối thiểu, không khống chế thu nhậo tối
đa.

(ìliỊuiịễn 7/í/ @ấm ^7ú

11

OKlỀm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

Trong khu vực hành chính sự nghiẹp, tiền lương vẫn thực hiện theo nghi định
235/HĐBT. đồng thời nhà nước cho phép các cơ quan thuộc lĩnh vực này được hoạt
động dịch vụ đời sống để tăng thêm thu nhập

Các cơ quan nghiên cứu khoa học ngoài phần ngân sách nhà nước cấp , được
trục tiếp kí hợp đồng với các cơ quan đơn vị có nhu cầu để tăng thêm thu nhập.

Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của

nhà nước , cố lĩnh vực chuyển nhanh như xác định tự chủ sản xuất kinh doanh của
các đơn vị cơ sở kinh tế, có lĩnh vực chưa chuyên lập như cơ chế kiểm soát và diều
tiết tiền lương, thu nhập của nhà nước khi các đơn vị kinh tế chuyên sang kinh
doanh,...

Trong các đơn vị sản xuát kinh doanh vẫn đồng thới tồn tại song song hai
kiểu hạch toán : tổng doanh thu trừ tổng chi phí và đơn giá tiền lương trên đơn sản
phẩm. Kiểu hạch toán này dẫn đến lãi thì xí nghiệp hưởng , lỗ thì Nhà nước chịu.

Chính sách tiền lương theo nghị định 235/HĐBT chỉ giữ được thời gian ngắn,
sau đó tiền lương thực tế bắt đầu giảm manh và giảm liên tục. Trên thực tế diễn ra
tình trang tốc đọ tăng lương danh nghĩa chậm hơn tốc độ tăng giá.

Từ năm 1993 đến nay, mức tăng giá đã tăng 1,79 lần, mức tăng GDP là 2,21
lần, mức tăng dân số là 1,15 lần.nếu tính ra mức tăng lương phải đạt 3,42 lần mới
có thể tương đương với mức tăng giá và tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người,
nhưng nếu tính cả mức tăng lương vao 1/10 sắp tới thì chỉ đạt 2,42 lần thấp hơn con
số 3,42 nêu trên là 17%. Như vây tính trên mặt bằng kinh tế chung thì người làm
công ăn lương đã nói chung bị thiệt. Vấn đề đặt ra ở đây là cứ khi nao tăng lương
thì giá cả lại tăng trước, tinh từ năm 1993 nước ta đã thực hiện 5 lần tăng lương,
trung bình mỗi lần khoảng 20%, mức tăng này thấp hơn mức tăng trưởng kinh tế và
lạm phát tĩnh từ lần tăng trước nhưng lại cao hơn gáp 2 lần mức tăng trưởng cộng
với lạm phát năm trước đó.

Trước tình hình biến động của giá làm cho tièn lương thực tế, đời sống dân
cư ngày càng sa sút đã gây ra phản ứng của các đối tượng trong xã hội . cu thể như
sau:

(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú


12

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

- Ớ các đơn vị sản xuất - kinh doanh; dựa vào quyền tự chủ sản xuất kinh
doanh và những sơ hởcủa cơ chế quản lí đang trong bước giao thời, đều tìm mọi
cách tăng thu nhập cho mình. Nhiều xí nghiệp làm ăn thua lỗ nhưng thu nhập của
họ vẫn cao.

Trong các đơn vị sản xuất kinh doanh,có thể phâ ra 3 loại xí nghiệp:

+ Loại xí nghiệp làm ăn thực sự có lãi, có điều kiện phát triển chưa nhiều .

+ Loại này lương và thu nhập thực sự gắn với kết quả sản xuất kinh doanh,
điều đáng quan tam là khi thu nhập của họ quá cao cũng không bị điều tiết.

+ Loại xí nghiệp ở trang thái bấp bênh, nay lãi, mai lỗ ,sản xuất không ổn
định. Loại này thường tìm mọi cách để tăng thu nhập, thậm chí xí nghiệp đang lỗ
mà thu nhập của người lao động vẫn cao, nguồn thu nhập này được tạo ra một cách
không chính đáng.

+ Loại xí nghiệp lam ăn thua lỗ liên tục, thiếu việc làm, có nguy cơ giải thể ,
thu nhập của người lao động thực chát là ăn dần vào vốn cho đến khi toàn bộ tài
sản bị khánh kiệt, nhưng không chịu phá sản như các xí nghiệp tư doanh.

+ Ó các đơn vị hành chính sự nghiệp: phải thực hiện theo Nghị định
235/HĐBT nhưng lại được nhà nước cho phép mở ra các hoạt động dịch vụ đời

sống đủ loại để tăng thu nhập.

Toàn bộ những thực tế này đã tạo nên sự chênh lệch về thu nhập rất lớn .

(ìliỊuiịễn 7/í/ @ấm ^7ú

13

OKlỀm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

+ Việc giải quyết vấn đề tiền lương ở ta trong thời gian qua chưa phù hợp với
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trương thống
nhất.

+ Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị-sức lao động , chưa đảm bảo
tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng , chưa trở thành nguồn
thu nhập chủ yếu của người lao động làm công ăn lương, điều đó dẫn đến một hiện
tượng là trong một thời gian dài (vài thập niên vừa qua ) hàng chục triệu người lao
động làm việc với một động lực mờ nhạt, không tha thiết với công việc. Nói cách
khác tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc
với sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao.

+ Tiền lương vừa mang tính chất bình quân, vừa mang tính bao cấp. Mặc dù
từ giữa cuối năm 1993 chúng ta triển khai thí điểm chính sách tiền lương mới
nhưng trong nó vẫn đang chứa đựng nhiều điều bất hợp lí đòi hỏi phải tiếp tục giải
quyết.


+ Trong nhiều năm chính sách tiền lương và các chính sách kinh tế xã hội
như nhà ở, phân phối điện, nước sinh hoạt... có liên quan mật thiết với nhau. Song
trong quá trình giải quyết vấn đề tiền lương chưa tính toán cân đối với từng chính
sách một cách cụ thể, do đó phát sinh nhiều hiện tượng mâu thuẫn khó giải quyết
gây ra sự bất bình dẳng lớn trong xã hội

+ Nhà nước chưa thực sự hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lí
tiền
lương

thu
nhập
nói
chung
của
người
lao
động.
b)Nguyên nhân của tình hình trên:

Lương tối thiểu được tính toán chỉ dựa theo yêu cầu đảm bảo tái sản xuất
sức lao động, dựa trên cân đối kế hoạch của các yếu tố đảm bảo, chưa tính
đến biến động của chúng trong quá trình thực hiện , không xác định được mức sống
tối thiểu đang tồn tại trong xã hội ở thời điểm đó.

Bội số tiền lương không phải là thước đo chung cho toàn xã hội cho toàn
xã hội, quan hệ tiền lương không phản ánh quan hệ thu nhập chung trong toàn xã

(ìliỊuiịễn ^7hi


tyấtn 77ú

14

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

Từ một hệ thống tiền lương thống nhất khi cho khu vực sản xuất kinh
doanh chuyên sang cơ chế mới, thu nhập của họ phụ thuộc vào kết quả sản xuất
kinh doanh là đúng. Nhưng tiền lương do nhà nước qui định chỉ còn là thông số
tính toán, nhà nước lại không khống chế thu nhập tối đa trong khi nhà nước chưa có
công cụ kiểm soát và điều tiết, chưa có luật chống độc quyền...

Chưa phân biệt rõ quyền tự chủ của xí nghiệp và kiểm soát và điều tiết
của nhà nước về mặt tiền lương và thu nhâp.

Việc thực hiện các chính sách điều chỉnh lương thương thiếu đồng bộ và
không thống nhất. Đặc biệt là những tác động của chính sách giá-lương-tiền năm
1985 đã ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương làm xuất hiện những chênh lệch quá
đáng, bất công xã hội trong tiền lương và thu nhập của các loại lao động.
c) Những giải pháp cơ bản về vấn đề tiền lương nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tê

Việc không ngừng đổi mới hoàn thiện chính sách tiền lương là một bộ phận
quan trọng hàng đầu trong hệ thống các quan hệ phân phối thu nhập ở nước ta hiện
nay. Sự nghiệp cách mạng trong điều kiện đổi mới đã đặt con người vào vị trí trung
tâm. Họ có thể phát huy hết tiềm năng sáng tạo của mình, khi lợi ích kinh tế của họ
được đảm bảo trước hết là tiền lương và nói rộng hơn là thu nhập, chính vì vậy để

phát huy hết khả năng sáng tạo của nhân tố con người trong nền kinh tế, tất yếu và
trước hết phải giải quyết vấn đề tiền lương - với tư cách là một trong những hình
thức phân phối thu nhập ở nước ta hiện nay

Hệ thống các quan điểm cơ bản đổi mới chính sách tiền lương ở Việt Nam

Tiền lương tối thiểu có đảm bảo phải là một trong những nội dung quan
trọng nhất của chính sách tiền lương mới.

Nội dung cơ bản của đổi mới các chính sách tiền lương phải là thay đổi
kết cấu lương ( lương tối thiểu , tiền tệ hóa tiền lương...) và thay đổi cơ chế tiền
lương ( nhà nước kiểm soát điều tiết mức lương tối thiểu, tiền thưởng...)

(ìliỊuiịễn ^7hi

tyấtn 77ú

15

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

Xây dưng cơ chế quản lí tiền lương mới phải đảm bảo vừa tăng cường vai
trò quản lí điều tiết vĩ mô của nhà nước, vừa mở rộng quyền tự chủ của các đơn vị

cơ sở,

Tiến hành lại công cuộc phân công lao động xã hội trên phạm vi toàn xã

hội, tinh giảm biên ché trong khu vực nhà nước. Trước hết thực hiện khẩn trương
mạnh mẽ chủ trương sắp xếp lại lao động trong cả hai khu vực sản xuất kinh doanh
và hành chính sự nghiệp, coi dó là một trong những điều kiện quan trọng để thực
hiện đổi mới tiền lương, chỉ có như vậy mới làm cho các đơn vị sản xuất kinh
doanh đi vào cơ chế tị trường, làm ăn có hiệu quả,, các đơn vị hành chính tăng
cường hiệu lực của bộ máy, nâng cao chất lượng công tác.

Đổi mới chính sách tiền lương phải đặt trong tổng thể nền kinh tế quốc
dân, phải tính đến các quan hệ cơ bản trong tiền lương và những cân đối trong nền
kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa việc làm, tiền lương, thu nhập; giữa cung và cầu
lao động trên thị trường; giữa sức mua và nhu cầu hàng hóa có khả năng thanh
toán, quan hệ giá, lương, tiền... tất cả các quan hệ đó phải được giải quyết theo một
quan điểm động.

Tiền lương là vấn đề kinh tế xã hội phức tạp liên quan trực tiếp đến việc
làm và đời sống của hàng chục triệu người. Vì vậy, viêc tiếp tục đổi mới và hoàn
thiện chính sách tiền lương luôn cấp bách và thiét thực nhưng rất khó khăn.cho nên
chúng ta phải giải quyết một cách thận trọng khong nóng vội.

Các giải pháp cơ bản giải quyết vấn đề tiền lương ở Việt Nam
Những tồn tại nêu trên đã đặt ra cho công cuộc cải cách tiền lương nhiều vấn
đề cần phải xử lí đê làm cho tiền lương thực sự là một đòn bẩy kunh tế và là động
lực khai thác nguồn nhân lực để phát triển kinh tế xã hội. để đạt được điều này,
trong thiết kế tiền lương cần phải quán triệt một số quan điểm. Trước hết phải nhận
thức đúng vai trò của tiền lương trong kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, tiền lương là yếu tố của sản xuất, là giá cả của lao động thông qua thỏa
thuận giữa những người lao động thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường. Tuy
nhiên cần phải tuân thủ nguyên tắc phân phối dưa trên kết quả lao động, chênh lệch
thu nhập của những người lao động thuộc các thành phần xã hội phải có quan hệ
hợp lí thông qua các cơ chế phù hợp. Bên cạnh đó chính sách tiền lương phải tăng

cường vai trò đòn bẩy kinh tế - xã hội và phải đảm bảo bình đẳng trong phân phối,
đảm bảo cho mọi người lao động được trả lương tương ứng với khả năng làm việc
(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

16

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

Đối với những người làm công ăn lương thì tiền lương phải là nguồn thu
nhập chính để nuôi sống họ, từ họ có thể hoàn toàn an tâm và say mê với nghề
nghiệp. Vì vậy việc giải quyết tốt vấn đề tiền lương sẽ có tác dụng kích thích sản
xuất phát triẻn , ổn định và cải thiện đời sống không chỉ với gia đình của cán bộ
cong nhân viên mà còn ảnh hưởng đến mức sống chung của toàn xã hội. Trên nghĩa
đó,việc giải quyết tốt vấn đề tiền lương trong khu vực nhà nước còn có tác dung to
lớn hướng đạo tiền công ra ngoài khu vực quốc doanh, chính vì vậy cần phải tiếp
tục xây dựng và hoàn thiện chính sách tiền lương

Phải làm cho tiền lương trở thành giá cả của sức lao động
Hiện nay ở Việt Namthị trường sức lao động đang được hĩnh thành, sức lao
động cũng trỏ’ thành hàng hóa, người lao động có quyền chọn lựa nơi làm việc đáp
ứng các nhu cầu và khả năng của mình theo đúng hợp đồng lao động. Trong nền
kinh tế thị trường tiền lương thực sự là giá cả của sức lao động, điều đó đòi hỏi phải
tính đúng tính đủ giá trị sức lao động để làm cơ sở cho việc xác định mức tiền
lương. Muốn vậy,mức lương cho người lao động phải thể hiện trình độ học vấn, tay
nghề, quá trình lao động, lao động giản đơn hay lao động phức tạp. mức lương đó
phải thõa mãn nhu cầu tái sản xuất 1Ĩ1Ở rộng sức lao động, đảm bảo cho người lao
đọng sống đủ... Chỉ trên cơ sở như vậy tiền lương mới khuyến khích người lao động

luôn nâng cao trình độ tay nghề, khuyến khích thế hệ trẻ ra sức học tập nâng cao
trình độ văn hóa , khoa học kĩ thuật và nghiệp vụ sản xuất kinh doanh thích ứng với
cơ chế thị trường

Để cho tiền lương thực sự trở thành một đòn bẩy thúc dẩy người lao động
làm việc với sức sáng tạo cao, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện
chính sách tiền lương. Trong việc xác định tiền lương cần quán triệt các quan điểm
sau đây:

+ Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất mở rộng sức lao động, nó phải là bộ
phậnthu nhập chủ yếu của người lao động

+ Tiền tệ hoa tiền lương một cách triệt để ( xóa bỏ tận gốc các khoản bao cấp
trong phân phối)

+ mức lương phải găn liền với trình độ phát triển kinh tế và xã hội, hiệu quả
sản xuất kinh doanh, quan hệ cung cầu lao động, mức cống hiến của từng các nhân,
sự biến đọng của giá cả vả lạm phát

(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

17

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

trỉơ thành lưới an toàn chung cho người lao động trong xã hội , không phân biệt
khu vưc hay thành phần kinh tế


+ Tiền lương tối thiểu ở đây được hiểu là tiền lương tối thiểu có đảm bảo ,
tức là một mức lương có thể đảm bảo cuộc sống tối thiểu. Tuy nhiên mức sống của
con người phải phù họp với yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế xã hội. Mức lương
đó phải đảm bảo tính toán đầy đủ các yếu tố cần thiết của quá trình tái sản xuất sức
lao động ( cả về sinh lí, nhân văn và các quan hệ xã hội).

+ Tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tính thống nhất sẽ tao điều kiện để giữ
vững vai trò điều tiết của nhà nước và phát huy quyền tự chủ của các tổ chức kinh
tế trong lĩnh vực lao động. Tiền lương tối thiẻu thống nhất là công cụ cần thiết để
bảo hộ sức lao độngcho những người lao động ko phân biệt họ là thành phần kinh
tế nào.

+ Nhà nước cần sớm luật pháp hóa tiền lương tối thiểu nhằm ngăn ngừa và
giải quyết tranh chấp giữa chủ và thợ, buộc những người chủ lao động phải tìm
cách khác để giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo vệ người làm
công ăn lương. Việc luật pháp hóa tiền lương tối thiểu bao gồm việc xác định mức
tiền lương cụ thể và phải điều chỉnh nó trong từng thời kì theo đà phát triển của sản
xuất và mức tăng năng suất lao động, đồng thời cũng điều chỉnh trong thời gian
những mức lương tối thiểu áp dụng cho từng vùng khác nhau.

+ Đối với lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể là các doanh nghiệp quốc
doanh, nguồn tiền để chi trả không phải từ ngân sach mà phải từ kết quả sản xuất,
kinh doanh của các doanh nghiệp này. Ngân sách nhà nước phải tiếp tục thực hiện
việc cắt hẳn các khoản chi phí bao cấp về tiền lương và thu nhập. Các doanh nghiệp
này sau khi bù đắp các khoản chi phí, hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách, tổng thu
nhập còn lại của doanh nghiệp do doanh nghiệp toàn quyền sử dụng phân chia cho
các quỹ xí nghiệp. Nhà nước cần thực hiện việc kiểm soát và điều tiết Tổng thu
nhập của doanh nghiệp.


+ Trong lĩnh vực hành chính sự nghiệp: Nhà nước trả lương phải trên cơ sở
biên chế nghiêm ngặt và tiếp tục thực hiện khoán quĩ lương.

Trong lĩnh vực này thực hiện khoán quĩ lương theo khối lượng công việc.

(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

18

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

học,... thì nhà nước cần có qui định riêng để một mặt tăng thu cho ngân sách, nặt
khác khuyến khích các hoạt động này phát triển.

Cuối cùng, chính sách tiền lương phải được đặt trong tổng thể các cải cách
kinh tế - xã hội liên quan mà trước hết là chính sách tài chính trong các doanh
nghiệp, đồng thời phải ban hành các chính sách hiệu quả họp lí , thực hiện các
chính sách điều tiết thu nhập thông qua nhiều biện pháp vĩ mô khác nhau, đảm bảo
sự cân đói ngang và dọc về mặt tiền lương, thu nhập giữa các ngành nghề , khu vực,
dung hòa được lợi ích của Nhà nước, người sử dụng lao động và người lao động
trong chính sách phân phối
2. Thực trạng và các giải pháp về lợi nhuận trong nền kinh tê Việt Nam
a) Lọi nhuận với tư cách là thu nhập của nhà kinh doanh

Trong nền kinh tế thị trường cái mà các nhà kinh doanh quan tâm trước hết
là lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh được thể hiện chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít.
Lợi nhuận là số chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và chi phí sản xuất. Để đạt

được lợi nhuận tất yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với
nhau tìm mọi cách giảm chi phí để thu được lợi nhuận cao nhất. Trong nền kinh tế
thị trường , lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người sản xuất.

Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu
nhập là tiền lương còn khoản thu nhập khác đó là lợi nhuận và phần này ngày càng
tăng lên và chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập mà mỗi người lao
động nói chung, mỗi nhà sản xuất kinh doanh nói riêng phản ánh kết quả lao động,
vì vây đẻ thúc đẩy tăng trươngr kinh tế cần không ngừng cải tiến cơ chế quản lí và
các chính sách kinh tế, trong đó có chính sách phân phối lợi nhuận.
b)Thực trạng vê vấn đề lợi nhuận

- Thời kì trước năm 1989: Nhà nước chưa đặt các doanh nghiệp hoạt động
trong mối quan hệ trực tiếp với thị trưòng. Kinh phí do nhà nước cấp, sản xuất kinh
doanh thua lỗ có nhà nước bù , sản xuất tiêu thụ do nhà nước định đoạt và lo liệu,
tĩnh quan liêu bao cấp gây lãng phí rất lớn . điều đó dẫn đến kinh tế tăng trưỏng
chậm và hiệu quả thấp. Quan điểm cho rằng kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ
đạo, nhà nước đã thực hiện ưu đãi đặc biệt cho các doanh nghiệp quốc doanhgây ra
sự ỷ lại của các doanh nghiệp đó vào nhà nước. Bên cạnh đó, cơ chế hình thành và
phân phối thu nhập nói chung và phân phối lợi nhuận nói riêng không phù hợp gây
ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Trong một thời gian dài chung ta chưa
chú ý đúng mức đối với đòn bẩy lợi nhuận. Lợi nhuận chưa được coi là động lực
(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

19

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri


chi phối các hoạt động sản xuất kinh doanh. Cũng trong nhiều năm trước đây do
quá nhấn mạnh phát triển kinh tế quốc doanh và phát triển nó một cách tràn lan
không có sự phân biệt đối xử rõ ràng giữa các ngành, các doanh nghiệp nên nhiều
doanh nghiệp ngay càng tạo ra nhiều lợi nhuận nhiều doanh nghiêp lại ngày càng
làm ăn thua lỗ. Có thể khẳng định trong một thời gian dài phạm trù lợi nhuận đã
xuất hiện và tồn tại trong nền kinh tế Việt Nam nhưng chưa thực sự được coi là
hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh, điều đó đã làm mất đi động
lực thúc đẩy đòn bẩy lợi nhuận, làm mất đi tĩnh chủ động sáng tạo của các dơn vị
sản xuất kinh doanh.

- Thời kì từ năm 1989 đến nay

Từ năm 1989 đến nay nền kinh tế việt nam đã có những chuyển biến quan
trọng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của nhà
nước. Để đưa nền kinh tế dần đi vào hoạt động có hiệu quả nhằm phát huy các tiềm
năng vốn có trong và ngoài nước, trong đó có sức sáng tạo của quần chúng, của các
nhà kinh doanh giỏi, nhà nước đã đưa nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước tạo
lập môi trường kinh doanh và buộc các doanh nghiệp phải hoạt động trong mối
quan hệ trực tiếp với thị trường, phải chuyển sang hạch toán kinh doanh thực sự. để
thực hiện được điều đó nhà nước mở rộng quyền tự chủ cho các doanh ngghiệp
trong kinh doanh , khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh
doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trước pháp luật.

Mặc dù đã có sự sắp xếp bố trí lại doanh nghiệp nhưng số các doanh nghiệp
làm ăn thua lỗ vẫn còn nhiều đặc biệt là các doanh nghiệp địa phương, điều này
buộc Nhà nước phải thực hiện hỗ trợ, tạo diều kiện cùng doanh nghiệp khắc phục
tình trạng đình đốn , suy thoái ngừng trệ trong kinh doanh. Nhà nước đã áp dụng
một ssó biện pháp sau đây:


+ Tập trung chỉ đạo thanh toán tình trạng nợ dây chuyền và chiếm dụng
vốn lẫn nhau của các đơn vị kinh tế nhà nước

+ Cho doanh nghiệp vay vốn tín dung với lãi suất ưu đãi
+ Trợ giá cho một số ngành công nghiệp nặng

+ Tính toán lại mức thu nhập quốc doanh; tạm hoãn hoặc miễn thu quốc
doanh đối với các doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn.
(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

20

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

địng mức nhà nước chỉ thu 20%. Tinh hình này đã dẫn đến một nghịch lí là các
doanh nghiệp tìm mọi cách để biến tướng để phải nộp ít nhất và hưởng nhiều nhất.,
trường hợp này dẫn đến tăng quĩ lương và quĩ bảo hiểm xã hội. Nhưng mức tăng
này luôn nhỏ hơn mức lợi nhuận phải nộp. Cụ thẻ tỉ lệ nộp bảo hiểm xã hội: 17%
quĩ lương nhưng thực ra trong số này 5% trả cho doanh nghiệp và công nhân viên
chức, nhà nước chỉ thu 12% lợi nhuận. Với cơ chế hình thành và phân phối lợi
nhuận như vậy tất yếu đã dẫn đến tình trạng là các doanh nghiệp có sản phẩm độc
quyền thì cán bộ công nhân viên có thu nhập rất cao nhưng một số doanh nghiệp
khác thì thưòng xuyên thua lỗ thậm chí phá sản. chính sách, cơ chế hình thành và
phân phối thu nhập còn nhiều hạn chế, bát hợp lí nên đã tạo ra sự bất bình đăng lớn
trong xã hội. Khi chuyển mạnh sang cơ chế thị trường, nhiều doanh nghiệp ngoài
quốc doanh xuất hiện và đang góp phần làm sôi động nền kinh tế. Nhìn bề ngoài
các doanh nghiệp này hoạt động rấ hiệu quả và thu nhập của những người làm công

ăn lương ở đây rất cao và thậm chi cao gấp nhiều lần so với thu nhập của các doanh
nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên chúng ta cần phải chí ra một tình hình khác thuộc góc
độ quản lí. Thực ra Nhà nước chưa quản lí được thu nhập của các doanh nghiẹp
ngoài quốc doanh, vì vậy chưa có căn cứ chính xác để tính thuế.

Như vậy , cơ chế phân phối ở nước ta chưa đủ động lực để kích thích các
doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, chính vì vậy để thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế tất yếu phải đổi mới cơ chế phân phối lợi nhuận ở nước ta.
c) Giải pháp vé lợi nhuận nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế

- Thực hiện nhất quán quan điểm kết hợp hài hòa các loại lợi ích kinh tế
trong sự phát triển kinh tê. Các mối quan hệ kinh tế cần được giải quyết tốt trong
phân phối thu nhập , nhằm tao ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế đó là:

+ Quan hệ lợi ích kinh tế giưa người lao động, tập thể, nhà nước
+ Quan hệ lợi ích kinh tế giữa các ngành kinh tế, các vùng, các địa
phương với nhà nước

+ Quan hệ lợi ích kinh tế giữa các thành phần kinh tế với nhau
(ìliỊuiịễn 7/í/ (yấtn £7«

21

OKlỀm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

Nhà nước phải tiến hành kiểm tra, kiểm soát để năm chính xác nguồn vốn của

doanh nghiệp

+ Về cơ chế phân phối lợi nhuận: phải tăng thu nhập cho người lao động
vì đây là động lực chủ yếu của sự phát triển. Nhà nước nên dành dành phần lớn thu
nhậpcho doanh nghiệp và người lao động. Muốn vậy nhà nước chỉ nên thu phần lợ
nhuận trong lợi nhuận định mức. Phần lợi nhuận ngoài định mức, Nhà nước nên đẻ
doanh nghiệp nhà nước toàn quyền sử dụng. Trong 60% lợi nhuận định mức để lai
cho doanh nghiệp không nên chia đều cho 3 quĩ: quĩ phát triển sản xuất, quĩ khên
thưởng và quĩ phúc lợi mà nên tăng tỉ lệ quĩ khen thưởng và quĩ phúc lợi để giải
quyết tốt lợi ích của người lao động nói chung.

3)

Thực

trạng



giải

pháp

về

địa



Địa tô là thu nhập của chủ sở hữu ruộng đất . địa tô bao gồm địa tô chênh

lệch địa tô tuyệt đối ,địa tô độc quyền.
a) Thực trạng phân phối địa tô

c)

Phân phối địa tô chênh lệch
Phân phối địa tô chênh lệch 1:

+ phân phối địa tô chênh lệch 1 qua giá thu mua được thưc hiện theo cơ chế
2 giá: giá nghĩa vụ và giá khuyến khích. Giá khuyến khích được Nhà nước ấn định
cao hơn giá nghĩa vụ nhưng không nhiều. Cơ chế nay tồn tai trong thời kì chiến
tranh và hòa bình cho đến khi thực hiện khoán 10

+ Phân phối địa tô chênh lệch 1 qua thuế nông nghiệp: căn cứ hạng đất để
tĩnh thuế, dựa vào năng suất trung bình đạt được trong điều kiện sản xuất bình
thường của cây trồng, thực tế thu cả thuế sử dung đất và thuế hoa lợi trên đất. điều
đó dẫn đến không khuyên khích đầu tư, thâm canh phát triển sản xuất, không đảm
bảo công bằng giữa các đối tượng nộp thuế. Biểu thuế bất hợp lí, thể hiện ở chỗ nơi
(ìliỊuiịễn ^7hi

tyấtn 77ú

22

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

hữu ruộng đất. Trong hiến pháp và luật đất đai nêu rõ "đất đai là sở hữu toàn dân

nghĩa là người nông dân chỉ có quyền sử dụng không có quyền sở hữu nhưng trên
thực tế có sự mua bán đất canh tác.

- Phải đánh giá lại ruộng đất vvề mặt kinh tế và xác định giá các loại ruộng
đất, đánh thuế vào tất cả các chủ thể sử dung tài nguyên đất đai

- Đổi mới chính sách thuễ phải dựa vào lí luận địa tô và tình hình thực tiễn
đất đai nước ta đảm bảo cho người kinh doanh nông nghiệp ở mỗi loại đất phải
được hưởng một tỉ lệ lãi tương tự như nhau.

- Về nguyên tắc căn cứ xác định thuế đất phải dựa vào hạng đất và định suất
thuế trên một đơn vị diện tích theo tưng hạng đất. Mức thu cho từng định mức thuế,
về giảm miễn thuế và mức động viên và tỉ lệ huy động thuế phải đảm bảo cho
người sản xuất kinh doanh nông nghiệp yên tâm đầu tư sử dụng tiết kiệm, có hiệu
quả đảm bảo tỉ lệ hợp lí trong phân phối kết quả sản xuất.

- Phân biệt rõ hai loại thuế đất và thuế hoa lợi.

-Tăng thu và phân phối địa tô chênh lệch 2 qua thủy lợi phí và những công
trình đầu tư trong nông nghiệp để tái đầu tư trong nông nghiệp, đé tái đầu tư nhanh
hơn.

- Cần có chính sách thuế và các chính sách khác để khuyến khích phục hồi,
mở mang phát triển đối với những cây, con, những hàng truyền thống.

III. NHỮNG KIẾN NGHỊ CHUNG VỂ PHÂN PHỐI THU NHẬP Ở VIỆT NAM

Để giải quyết đúng đắn vai trò của phân phối thu nhẩp trong nền kinh tế thị
trường trước hết phải quán triệt đặc trưng và nguyên tắc phân phối thu nhập trong
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

23

OKiêm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

giàu nghèo. Muốn vậy, phải phân bổ hợp lí nguòn lực đầu vào và có một hệ thống
điều tiết phân phối thu nhập như chương trình làm việc, phân bổ tài nguyên,
chương trình giáo dục, thuế thu nhập, hệ thống bảo hiểm và trợ cấp xã hội ... Từ đó
sự bình đăng trong phân phối thu nhập ở nước ta đòi hổi phải đảm bảo ba yêu cầu.
Một là phải trả giá đúng đắn cho các yếu tố sản xuất theo nguyên tắc năng suất giới
hạn. hai là nhà nước phải tác động tích cực tới việc phân bổ nguồn lực đầu vào
thông qua chương trình phát triển linh tế - xã hội. Ba là có được hệ thống đảm bảo
trợ giúp xã hội đối với người già, không nơi nương tựa, gặp rủi ro, khó khăn hoạn
nạn để họ có dược mức sống bình thường tìm cơ hội tham gia vào hoạt động kinh
tế.

Nói đến CNXH là phải nói đến nền kinh tế ngày càng phát triển ở đó có
nhiều hàng hóa và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Trong phân phối thu nhập, thu nhập của các yếu tố sản xuất, không chỉ bù đắp được
những hao phí đã chi ra như hao mòn máy móc , thiết bị nhà xưởng,tiêu hao sưc lao
động... mà còn thể hiện ở chỗ có được ngày càng nhiều hơn phần thu nhập giành
cho tích lũy. Điều này có nghĩa là các yếu tố sản xuất được tái sản xuất mở rộng

Văn minh là sự phản ánh toàn diện các tiêu chuẩn đặc trưng của một chế
độ xã hội có trình độ phát triển cao. Đó là thước đo, là tiêu chuẩn của xã hội sau so

với xã hội trước, văn minh thể hiện ở mọi lĩnh vực hoạt độngkinh tế xã hội trong dó
có lĩnh vực phân phối thu nhập, văn minh trong phân phối thu nhập không chỉ phản
ánh ở sự phân phối ngày càng bình đẳng hơn mà còn thể hiệnở chỗ chế đọ phân
phối ngày càng đáp ứng nhu cầu và lợi của con người

Từ những đặc trưng như vậy, phân phối thu nhập cần tuân theo những
nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, phân phối thu nhập theo quyền sở hữu của các yếu tố sản xuất
tức là người lao động nhận được tiền lương, người sở hữu đất đai nhận được địa tô,
người sở hữu vốn nhận được lơi tức, nhà kinh doanh nhận được lợi nhuận

Thứ hai, phải dựa trên nguyên lí năng suất giói hạn để đánh giá mức đóng
góp của các yếu tố sản xuất trong quá trình sản xuất làm căn cứ tính toán thu nhập
cho các yếu tố sản xuất

(ìliỊuiịễn

Tỉ hì @ấm Tĩú

24

TKiỀm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

Thứ tư, Nhà nước thông qua các chính sách và công cụ kinh tế để tác
động vào phân phối thu nhập bằng cách phân bổ nguồn lực đầu vào và điều tiết thu
nhập cuối cùng của các chủ thể tham gia kinh tế thị trường


Từ đó phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các nguyên tắc, nội dung phân
phối thu nhập cho phù hợp với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở
Việt Nam

Tăng cường nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện các công cụ kinh tế để điều
tiết phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước phải đóng vai trò
tích cực trong việc phân bổ tài nguyên, đất đai, chính sách lãi suất cho vay, chính
sách xuất nhập khẩu... Để tác động phân phối thu nhập cuối cùng Nhà nước phải
tác đọng tích cực vào tiền lương , lợi nhuận, địa tô thông qua các chính sách tiền
lương , thuế thanh toán chuyển khoản để diều hòa thu nhập.

Nhà nước phải nắm được thu nhập của mỗi người. Muốn vậy cần phải hoàn
thiện bộ máy tổ chức , quản lí của hoạt động tài chính ngân hàng để có thể nắm
được và điều tiết mọi luồng vận động của tiền tệ ra vao các doanh nghiệp cũng như
hộ dân cư

(ìliỊuiịễn

Tỉ hì @ấm Tĩú

25

TKiỀm toán 4ỌrẨỈ


^Đề án ~Kinh tê chính tri

c. KẾT LUẬN
Phân phối thu nhập đóng vai trò cực kì quan trọng trong nền kinh tế thị

trường. Nó nối liền sản xuất, sản xuất với tiêu dùng, nối liền các thị trường trong
nền kinh tế. Chế độ phân phối đúng đắn góp phần thúc đẩy tốc độ phát triển và tăng
trưởng kinh tế đồng thời đảm bảo được sự bình đẳng xã hội. Trong nền kinh tế thị
trường phân phối thu nhập được xác định theo nguyên tắc sở hữu, năng suất giới
hạn và phương tiện cung cầu. điều dó đảm bảo trả công và trả giá đúng đắn sự đóng
góp của các yếu tố sản xuất. Song phân phối thu nhập một cách tự phát dẫn đến sự
phân hóa bất bình đẳng. Vì vậy cần phải có sự can thiệp của nhà nước.

Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có qyu
luật phân phối của cải thích ứng với nó. ở mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng
phù hợp với tính chất của quan hệ sản xuất của xã hội ấy. Lí luận về phân phối có
vị trí quan trọng trong kinh tế chính trị. Nó là vấn đề rộng lớn, liên quan đến các
hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội của nhà nước và nhân dân lao động. Phân phối
thu nhập trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề vô cùng quan
trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển,
ổn định tình hình kinh tế-xã hội,thự hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.

Lí thuyết phân phối thu nhập được nghiên cứu và vận dụng vào nước ta cho
phù hợp với định hướng phát triển kinh tế của đảng và nhà nước, ở nước ta trong
những năm qua đã có nhiều cố gắng đổ giải quyết vấn đc phân phối thu nhập, đặc
biệt rõ nét là từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đến nayhàng loạt chính sách
kinh tế được áp dung để giải quyết vấn đề tiền lương, lợi nhuận, lợi tức địa tô, bảo
hiểm, trợ cấp xã hội... nhằm tháo gỡ những khó khăn trong phân phối lưu thông để

(ìliỊuiịễn ^7hi @ấm 77ú

26

OKiêm toán 4ỌrẨỈ



×