Tải bản đầy đủ (.docx) (137 trang)

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xâydựng giai cấp nông dân trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.5 KB, 137 trang )

LUẬN VĂN:

Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây
dựng giai cấp nông dân trong giai đoạn
hiện nay


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân (GCND) Việt Nam
thông qua tổ chức của mình với những tên gọi khác nhau (Nông Hội đỏ, Hội Nông dân
Việt Nam) đã luôn luôn chứng tỏ là một lực lượng đông đảo, trung thành với Đảng, liên
minh chặt chẽ với giai cấp công nhân, đấu tranh kiên cường, bất khuất, cống hiến to lớn và
quan trọng cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ
nghĩa xã hội (CNXH) và bảo vệ Tổ quốc. Bộ Chính trị Khóa VI ban hành Quyết định số
42-QĐ/TW ngày 1 tháng 3 năm 1988 về đổi tên Hội liên hiệp Nông dân tập thể Việt Nam
thành Hội Nông dân Việt Nam. Đồng thời, nhằm đáp ứng nguyện vọng tha thiết của
GCND Việt Nam, Bộ Chính trị đã quyết định lấy ngày 14-10-1930 làm ngày thành lập Hội
Nông dân Việt Nam.
Gần 25 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, GCND ngày càng khẳng định được vị trí, vai trò quan trọng của mình trong khối liên
minh giữa giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức. Nghị quyết Đại hội X của
Đảng, khi đề ra nhiệm vụ phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đã khẳng định: “Đối với
giai cấp nông nhân, phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”1. Để đạt điều đó phải xây dựng giai cấp nông
nhân vững mạnh. Điều này chỉ có thể đạt hiệu quả khi có sự lãnh đạo của Đảng.
Đánh giá vị trí, tầm quan trọng của GCND, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
lần thứ 7 khoá X nhấn mạnh: Trong lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN), nông nghiệp, nông dân, nông thôn luôn có vị trí quan trọng, là cơ sở và lực
lượng để phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) bền vững, ổn định chính trị, đảm bảo an ninh,


quốc phòng; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái.
Trong công cuộc đổi mới, GCND Việt Nam đã đóng góp quan trọng vào tăng
trưởng kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Những đóng góp
ấy đã khẳng định vị trí, vai trò và sức mạnh to lớn của GCND trong sự nghiệp đổi mới do
Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo.
Song trước yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, trong điều
kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, GCND Việt Nam đang đứng trước
những thách thức rất to lớn. Tình trạng trạng thất nghiệp, lao động không ổn định, điều
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 118. .


kiện làm việc ít được cải thiện, tai nạn lao động gia tăng… Bên cạnh đó, điều kiện sinh
hoạt tinh thần cũng rất thiếu thốn. Nông dân lao động không có thời gian, điều kiện sinh
hoạt, học tập nâng cao nhận thức chính trị và trình độ mọi mặt. Do vậy, trình độ học vấn
của một bộ phận nông dân còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp, nông thôn; ý thức chính trị, hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế. Có một
bộ phận nông dân sống thiếu lý tưởng, niềm tin, sa vào các tệ nạn xã hội, giảm lòng tin và
sự gắn bó với Đảng và Hội Nông dân.
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, song một trong những nguyên nhân cơ bản là
những năm qua, Đảng và Nhà nước chưa quan tâm thoả đáng đến xây dựng, phát huy vai trò
GCND, đặc biệt, sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề xây dựng GCND còn nhiều điểu cần
được quan tâm hơn, từ nhận thức về vai trò, nội dung, phương thức lãnh đạo xây dựng GCND
đến sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong tổ chức thực hiện; từ sự định hướng của Đảng về
chủ trương, chính sách xây dựng GCND đến chiến lược về xây dựng và phát triển GCND hiện
đại…
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, mà trước hết là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Đảng
phải coi trọng lãnh đạo xây dựng GCND. Song việc nghiên cứu tìm giải pháp cho vấn đề
này vãn còn là một khoảng trống khá lớn. Vì thế, việc triển khai thực hiện đề tài cấp bộ
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng giai cấp nông dân trong giai đoạn hiện

nay thực sự là vấn đề cần thiết và cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xây dựng và vận động GCND đáp ứng yêu cầu của cách mạng là một nhiệm vụ
quan trọng có ý nghĩa chiến lược được Đảng coi trọng lãnh đạo trong mọi thời kỳ cách
mạng, với những chủ trương, giải pháp phù hợp, đem lại kết quả to lớn. Trong công cuộc
đổi mới, nhất là những năm gần đây, vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn đã thu hút
những cơ quan, nhà khoa học nghiên cứu, trong đó, nhiều công trình khoa học nghiên cứu
vấn đề xây dựng GCND và Đảng lãnh đạo xây dựng GCND:
a. Các văn kiện của Đảng, của Nhà nước và của Hội Nông dân Việt Nam
1.Nghị quyết số 05 - NQ/HNTW Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khoá VII tiếp tục đổi mới và phát triển KT-XH nông thôn, ngày 10 tháng 6 năm
1993.


2.Chỉ thị 59-CT/TW, ngày 15-12-2000 của Bộ Chính trị khoá VIII “về tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Hội Nông dân Việt Nam trong thời kỳ Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn”.
3.Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 5 khóa IX Về đẩy nhanh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 – 2010.
4.Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 khóa IX Về phát huy
sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X.
6. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khoá X về vấn đề
nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
7. Chỉ Thị Số 26 /2001/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ, ngày 09 tháng 10 năm
2001 Về việc tạo điều kiện để Hội Nông dân các cấp tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo
của nông dân.
b. Sách, Báo, Tạp chí
1.Ban Dân vận Trung ương, Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước

ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000.
2.Vũ Oanh, Nông nghiệp và nông thôn trên con đường CNH, HĐH và hợp tác hóa, dân
chủ hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
3.Nguyễn Thanh Bạch, Chính sách và giải pháp cho nông dân, nông nghiệp và nông
thôn hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, 1-1999.
4.Phạm Xuân Dũng, Một số vấn đề về lao động và việc làm trong nông nghiệp, nông
thôn nước ta hiện nay, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 6-2000.
5. Nguyễn Sinh Cúc, Thực trạng và giải pháp xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn hiện
nay, Tạp chí Cộng sản, số 25-2002.
6. Vũ Ngọc Kỳ, GCND và Hội Nông dân Việt Nam tiếp tục góp phần thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Tạp chí Cộng sản tháng 10/2005.
7. Vũ Ngọc Kỳ, Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Tham luận
tại Đại hội Đảng lần thứ X.
8. Nguyễn Đức Triều, GCND là lực lượng hùng hậu trong sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn, Báo Nhân dân, ngày 9-10-2000.


9. Nông Đức Mạnh, bài phát biểu bế mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần
thứ bảy khóa X.
c. Đề tài nghiên cứu khoa học
Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học KHBĐ 12: Công
tác vận động nông dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Nxb. Nông nghiệp, Hà Nội, 1999.
Cuốn sách là kết quả nghiên cứu của đề tài khoa học nêu trên, gồm các bài viết
chọn lọc trong các cuộc hội thảo vừa mang tính khoa học vừa mang tính thực tiễn của
nhiều đồng chí lãnh đạo, quản lí, cán bộ nghiên cứu khoa học và chỉ đạo thực tiễn của
nhiều cơ quan trung ương và địa phương. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đề tài làm rõ thực
trạng công tác vận động nông dân từ 1986 gắn với việc nghiên cứu một số vấn đề lí luận,
làm rõ ưu điểm, khuyết điểm của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cũng
như thực trạng GCND.

Mặt khác, nội dung của đề tài cũng tập trung làm rõ yêu cầu cơ bản của công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân; dự báo những xu
hướng phát triển trong 10 năm tiếp theo; đề xuất, kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động nông dân trong tình hình gồm: làm rõ
trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng các cấp trong việc
chăm lo và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần đối với nông dân; tăng cường tuyên
truyền, giáo dục nông dân về ý thức chính trị, nâng cao dân trí; phát huy vai trò của Hội
Nông dân trong công tác vận động nông dân; quan tâm xây dựng cơ sở vật chất đối với
nông nghiệp, nông thôn…
Các chuyên đề được quan tâm: Công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn (PGS. TS.
Nguyễn Sinh Cúc), Thực trạng tổ chức đảng ở cơ sở nông thôn, những giải pháp để lãnh
đạo cuộc vận động nông dân thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước (PTS. Lê
Văn Yên), Xoá đói giảm nghèo ở nông thôn Việt Nam - thực trạng và giải pháp (PTS.
Đàm Văn Thọ), Công tác giáo dục – đào tạo đối với nông dân, những giải pháp để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn (PGS, PTS. Đặng Quốc Bảo),
Những vấn đề cơ bản và cấp bách cần giải quyết về nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Ninh
Thuận (Chamalea Điêu), Một số vấn đề vận động nông dân trong thời kỳ đổi mới ở tỉnh
Trà Vinh (Trần Quang Thiện), Phối hợp với chính quyền và các ngành để nâng cao hiệu
quả hoạt động của Hội và phong trào nông dân.


d. Luận văn, luận án:
1.Lê Kim Việt, Công tác vận động nông dân của Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước", Luận án tiến sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2002.
2.Đặng Trí Thủ, Công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh Cà Mau thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, Luận văn thạc sĩ chính trị học, chuyên ngành Xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2005.
3.Giang Văn Phục, Công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh Kiên Giang
trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2000.
4.Phạm Đức Hóa, Nâng cao chất lượng công tác vận động nông dân của các Đảng
bộ xã ở tỉnh Thái Bình trong giai đoạn hiện nay", Luận văn thạc sĩ khoa học Lịch sử, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2003.
Các luận văn, luận án trên đã làm rõ cơ sở lý luận, quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vấn đề nông dân và công tác vận động nông
dân; đánh giá đúng thực trạng nông dân và công tác vận động nông dân Đảng bộ một số tỉnh,
tìm ra một số nguyên nhân của thực trạng ấy. Đồng thời, đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao chất lượng công tác vận động nông dân của Đảng bộ tỉnh thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
Tóm lại, các công trình khoa học nêu trên đã đề cập nhiều nội dung với các độc độ
khác nhau, có những đóng góp quan trọng đối với sự lãnh đạo về xây dựng GCND của
Đảng. Tuy nhiên, tùy theo mục đích, yêu cầu của từng công trình, nên các nhà khoa học
chưa có điều kiện luận bàn sâu về các vấn đề cụ thể về Đảng lãnh đạo xây dựng GCND.
Hầu hết các công trình nghiên cứu đề cập chưa trực tiếp đi sâu luận bàn về phương
thức lãnh đạo của các cấp uỷ đảng đối với GCND, chưa chỉ rõ nội dung lãnh đạo gồm
những vấn đề gì? trách nhiệm của các cấp uỷ đảng trong việc tổ chức thực hiện và kiểm
tra, giám sát tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và chỉ đạo các cơ quan chức năng kiểm tra,
giám sát chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội triển khai chủ trương của Đảng và
chính sách của Nhà nước đối với GCND. Trong đó, lãnh đạo phát huy vai trò của hội nông
dân các cấp và các loại hình hợp tác xã, tổ hợp tác trong việc góp phần xây dựng GCND
vững mạnh chưa được cụ thể hoá, chưa coi trọng tổng kết thực tiễn.


Còn ít các công trình nghiên cứu về GCND Việt Nam trước những thách thức
mới, nhất là khi nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Một vấn đề rất cần thiết với việc lãnh đạo xây dựng GCND là đặc điểm của
GCND Việt Nam hiện nay chưa được làm rõ.
Các công trình nghiên cứu còn nghiêng về nghiên cứu lý thuyết. Nên việc áp
dụng các giải pháp đó đối với các cấp ủy địa phương còn khó khăn, lúng túng.
Việc ban hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng

GCND còn có điểm chưa thực sự chú ý đến các chính sách cụ thể đối với nông dân từng
vùng, miền. Chưa có được những dự báo có độ tin cậy cao về sự biến đổi trong GCND
Việt Nam để làm cơ sở để hoạch định chủ trương, chính sách mới phù hợp với yêu cầu của
sự phát triển.
Qua tổng quan các công trình nghiên cứu trên đây, đề tài sẽ kế thừa có chọn lọc kết
quả nghiên cứu của các công trình nghiên cứu đó, phát triển và đưa ra những kết luận,
cung cấp những luận cứ để đánh giá đúng thực trạng GCND, thực trạng sự lãnh đạo của
Đảng đối với xây dựng GCND ở nước ta, chỉ rõ những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân;
đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng
GCND Việt Nam trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và toàn cầu.
3.Mục tiêu của đề tài
Làm rõ cơ sở lý luận về Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng GCND trong
giai đoạn hiện nay; đánh giá đúng thực trạng Đảng lãnh đạo xây dựng GCND, chỉ ra
nguyên nhân; đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu để tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với việc xây dựng GCND Việt Nam hiện nay.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: Đề tài khảo sát, nghiên cứu sự
lãnh đạo của Đảng về xây dựng GCND Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
5. Nhiệm vụ của đề tài
- Khái quát nông nghiệp, nông thôn từ 1986 đến nay.
- Phân tích vai trò, đặc điểm của GCND Việt Nam.
- Trên cơ sở quan niệm, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng về xây dựng
GCND, đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng GCND từ 1986 đến nay.


- Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
về xây dựng GCND Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật
lịch sử, đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp sau: Phương pháp phân tích, tổng hợp,
lịch sử - lôgic: Phương pháp này cho phép đi sâu phân tích sự biến đổi, phát triển của

GCND trong những năm vừa qua, đánh giá, nhận xét được ưu, khuyết điểm của GCND
hiện nay.
+ Phương pháp điều tra, khảo sát và tổng kết thực tiễn về GCND; sự lãnh đạo xây
dựng GCND của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
+ Phương pháp so sánh: So sánh với tính chất, quy mô, cơ cấu, bản chất và các giải
pháp xây dựng GCND của các nước, các khu vực… Từ đó rút ra những đặc điểm chung,
phổ biến và đặc thù, tìm kiếm những giá trị tham khảo cho nghiên cứu tăng cường sự lãnh
đạo của đảng đối với việc xây dựng GCND ở Việt Nam.
+ Phương pháp điều tra xã hội học: Điều tra thái độ của các nhóm xã hội đối với vị
trí, vai trò và sự biến đổi của GCND. Kết quả điều tra là căn cứ cho việc nhận diện vị trí,
vai trò, bản chất của GCND Việt Nam hiện nay, nhận xét mặt tích cực và hạn chế của một
số chủ trương, chính sách hiện hành của Đảng và Nhà nước về GCND, đề ra các giải pháp
mang tính cụ thể hơn.
+ Phương pháp thống kê và một số phương pháp mang tính bổ trợ khác (khoa học
kinh tế, khoa học pháp lý, khoa học quản lý,…).
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
+ Về mặt lý luận, đề tài góp phần làm rõ vai trò, đặc điểm của GCND hiện nay. Đặc
biệt, đề tài nghiên cứu chuyên sâu về góc độ Đảng lãnh đạo xây dựng GCND, do đó khung
lý thuyết của đề tài sẽ tập trung định nghĩa và xác định nội dung, phương thức Đảng lãnh
đạo xây dựng GCND, cụ thể hóa nội dung, phương thức lãnh đạo vấn đề này đối với từng
đối tượng: Nhà nước, Hội Nông dân, các đoàn thể chính trị - xã hội, các trung tâm khuyến
nông… Xác định trách nhiệm cụ thể của tổ chức đảng các cấp trong lãnh đạo xây dựng
GCND.


Vận dụng khung lý thuyết vào khảo sát, đánh giá thực trạng Đảng lãnh đạo xây
dựng GCND, đề tài sẽ bổ sung một hệ tiêu chí nhận dạng, đánh giá việc Đảng lãnh đạo xây
dựng GCND.
Những đề xuất về quan điểm, giải pháp đổi mới sự Đảng lãnh đạo xây dựng GCND
của Đảng trong giai đoạn hiện nay.

+ Về thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học cho hoạt động thực tiễn lãnh đạo xây dựng GCND của Đảng. Khi được xã hội hóa, kết
quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu góp phần nâng cao nhận thức, kỹ năng lãnh đạo xây
dựng và vận động GCND của cán bộ, đảng viên, cấp uỷ và tổ chức đảng các cấp.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo cho các hoạt động nghiên
cứu, giảng dạy, học tập trong hệ thống Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh và trường chính trị các địa phương về Đảng lãnh đạo xây dựng GCND trong giai
đoạn hiện nay.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương 7
tiết.


Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG GIAI CẤP NÔNG DÂN – MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Khái quát về nông nghiệp, nông thôn nước ta từ 1986 đến nay
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, nông dân nước ta luôn luôn là lực
lượng chủ lực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và
Nhà nước ta đã luôn luôn coi trọng giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông
dân. Với chủ trương "Nông nghiệp là mặt trận hàng đầu"; "lấy nông nghiệp làm khâu đột
phá", "lấy nông thôn là địa bàn trọng điểm", Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính
sách về đổi mới nông nghiệp, nông thôn và phát huy cao vai trò làm chủ và sức sáng tạo
của nông dân. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2000 - 2007 đã có 34 nghị định và quyết
định về chính sách đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn được ban hành và
thực hiện. Những chủ trương, chính sách đó đã nhanh chóng đi vào đời sống nông dân,
được nông dân rất hoan nghênh, hưởng ứng; tạo ra động lực thúc đẩy mạnh mẽ các phong
trào thi đua yêu nước trong GCND, khơi dậy các tiềm năng thế mạnh của từng hộ gia
đình, từng địa phương, từng vùng sinh thái; làm cho nông nghiệp, kinh tế và đời sống
nông dân, nông thôn phát triển có tính đột phá.

Thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp, nông thôn
liên tục phát triển góp phần quan trọng ổn định tình hình chính trị, KT-XH, xoá đói, giảm
nghèo, nâng cao đời sống của nhân dân. Nghị quyết Trung ương bảy khóa X đánh giá
“Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông nghiệp,
nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được thành tựu khá toàn diện và to lớn. Nông nghiệp
tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất,
chất lượng và hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia; một số mặt hàng
xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn chuyển dịch theo
hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi
mới. Kết cấu hạ tầng KT-XH được tăng cường; bộ mặt nhiều vùng nông thôn thay đổi.
Đời sống vật chất và tinh thần của dân cư ở hầu hết các vùng nông thôn ngày càng được
cải thiện. Xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn. Hệ thống chính trị (HTCT) ở nông thôn
được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội được giữ vững”1.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2008, tr. 121-122.


Thành tựu về phát triển nông nghiệp, nông thôn, xoá đói, giảm nghèo là một trong
những thành tựu kinh tế nổi bật của nước ta trong thời kỳ đổi mới. Tuy vậy, hiện nay đang
xuất hiện nhiều thách thức mới trong nông nghiệp, nông thôn và nông dân, ảnh hưởng tới
sự phát triển bền vững của quá trình cống nghiệp hoá đất nước. Đặc biệt, sau khi Việt Nam
đã là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới, tạo cơ hội, thời cơ cho sự phát triển
của đất nước, song cũng là thách thức lớn đối với kinh tế nước ta nói chung, nông nghiệp,
nông dân và nông thôn nói riêng trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế thế giới.
Điều này thể hiện khá rõ trong ba năm đầu gia nhập WTO (2006 - 2009). Để tận dụng thời
cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, cần phải xem xét, đánh giá đúng tình hình nông nghiệp,
nông thôn làm cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển GCND đến năm 2020.
1.1.1. Những thành tựu chủ yếu
Sau gần 25 năm đổi mới, việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp

và nông thôn theo hướng chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp là chính sang sản xuất hàng
hoá gắn với thị trường thế giới và khu vực dựa trên cơ sở đơn vị sản xuất là kinh tế nông
hộ ở khu vực nông thôn đã đạt được những thành tự mới. Nông nghiệp Việt Nam đã có
nhiều thay đổi so với thời kỳ trước đổi mới. Từ một nền nông nghiệp độc canh, tự cung tự
cấp lương thực là chủ yếu, đã từng bước chuyển thành nền nông nghiệp đa canh, có tỷ suất
hàng hoá ngày càng cao trong nền kinh tế quốc dân, gắn với thị trường trong nước và xuất
khẩu. Nông nghiệp nước ta đã bước đầu mang tính chất của một nền nông nghiệp hàng hoá
từng bước đáp ứng các yêu cầu của thị trường trong nước với nhu cầu cao hơn và có lượng
lớn nông sản, thuỷ sản xuất khẩu. Những chuyển biến quan trọng đó thể hiện ở:
Thứ nhất, nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả với cơ cấu ngày càng hợp lý và và coi trọng áp dụng
thành tựu khoa học công nghệ.
Cả nước đã hình thành các vùng sản xuất nông sản hàng hoá quy mô lớn, chuyên
canh và thâm canh cao, như: cây chè ở miền núi phía Bắc, lúa gạo vùng đồng bằng sông
Cửu Long và đồng bằng sông Hồng; cây ăn trái ở đồng bằng sông Cửu Long và Đông
Nam Bộ; cây cà phê và cao su ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, thuỷ sản ở Nam Trung Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long... Các vùng sản xuất hàng hoá lớn tập trung đó, đã cung cấp
nông sản hàng hoá và xuất khẩu trong những năm qua và là biểu hiệu của sự hình thành
phát triển nền nông nghiệp hàng hoá lớn, khác hẳn thời kỳ trước đổi mới. Trong nhiều năm


liền tốc độ tăng trưởng nông, lâm, thuỷ sản được duy trì và phát triển với giá trị gia tăng
đạt bình quân 3,71%/năm, giá trị tổng sản lượng tăng bình quân 5,24%/năm.
Theo số liệu thống kê, đến năm 2008, tổng sản lượng cây có hạt đạt 43,258 triệu tấn
(tăng gần 10 triệu tấn so với năm 2000). Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 2008 theo giá so
với năm 1994 là 156. 6819 tỉ đồng1. Bình quân lương thực đầu người đạt 470 kg, an ninh
lương thực được đảm bảo; mỗi năm nước ta xuất khẩu trên 4 triệu tấn gạo, với kim ngạch
trên 1 tỉ USD, cao hơn giai đoạn 1996 - 2000 là 13,8% về lượng và 14,4% về giá trị. Về
chăn nuôi: Chăn nuôi vẫn phát triển với tốc độ khá cao 7 – 8%/năm. Sản lượng thịt hơi
năm 2007 đạt 4,6 triệu tấn, tăng 22% so với năm 2000. Sản xuất thức ăn công nghiệp tăng

mạnh, đến nay có 241 nhà máy, tổng công suất 7,8 triệu tấn, tăng hơn 38% so với năm
2001.Chăn nuôi công nghiệp theo mô hình gia trại, trang trại đang thay thế dần chăn nuôi
nhỏ lẻ ở từng hộ gia đình. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam hiện đã đứng
hàng nhất, nhì thế giới, trong đó hạt tiêu thứ nhất, gạo, cà phê thứ 2, hạt điều, cao su tự
nhiên thứ 3, thuỷ sản đạt kim ngạch trên 3,363 tỷ USD năm 2006, nhiều loại nông sản xuất
khẩu được các trường khó tính như Bắc Mỹ, EU, Nhật Bản, Singapore... chấp nhận. Năm
2006, lượng gạo thơm Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản đã tăng gấp hơn 2 lần
năm 2005. Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2009 ước tăng 3% so với
năm 2008; trong đó, nông nghiệp tăng 2,2%, lâm nghiệp tăng 3,8%, thủy sản tăng 5,4%.
Tổng sản lượng lương thực có hạt ước đạt 43,33 triệu tấn, tăng 24 nghìn tấn (0,1%) so với
năm 2008; trong đó sản lượng lúa đạt 38,9 triệu tấn, vượt mức kỷ lục của năm 2008 là
0,4%; chủ yếu do tăng diện tích gần 40 nghìn ha. Diện tích rừng trồng mới tập trung, năm
2009 ước đạt 212 nghìn ha, tăng 12 nghìn ha (5,9%) so với năm 20082.
Ngành thuỷ sản tăng trưởng với tốc độ cao 8 - 12%/năm. Năm 2008 diện tích nuôi
trồng thuỷ sản cả nước đạt 1052,6 nghìn ha, tăng 4113 nghìn ha so với năm 2000; bình
quân mỗi năm mở thêm 74 nghìn ha. Tổng sản lượng thủy sản năm 2009 tăng 5,3% so với
năm 2008; trong đó đánh bắt tăng 6,6% và nuôi trồng tăng 4,2%. Tốc độ tăng trưởng sản
lượng thủy sản đánh bắt tăng nhanh so với các năm trước do thời tiết thuận lợi và thị
trường tiêu thụ khá ổn định4. Giá trị sản xuất thuỷ sản tăng nhanh, năm 2008 đạt 115. 527
tỷ đồng (tăng hơn 4 lần so với năm 2000),

http://www. gso. gov. vn/default. aspx?tabid=430.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2009, Tài liệu phục vụ họp báo Chính phủ thường kỳ ngày 05
tháng 01 năm 2010.
http://www. gso. gov. vn/default. aspx?tabid=430.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 12 và cả năm 2009, Tài liệu phục vụ họp báo Chính phủ thường kỳ ngày 05
tháng 01 năm 2010.


Theo Tổng cục Thống kê, tổng diện tích có rừng đến 31/12/2008 là 13118,8 ngàn

ha, trong đó rừng tự nhiên chiếm 10348,6 ngàn ha, rừng trồng 2770,2 ngàn ha 1. Dự án
trồng mới 5 triệu ha rừng tiếp tục được quan tâm thực hiện. Bước đầu ngăn chặn được tình
trạng phá rừng trái phép. Chất lượng rừng được nâng lên, tỉ lệ che phủ rừng năm 2006 đạt
38%, năm 2008 là 38,7%. Cùng với việc giao rừng, khoán bảo vệ rừng, nhiều nơi đã khai
thác kinh doanh tổng hợp (du lịch sinh thái), phát triển chế biến lâm sản, tạo nhiều việc
làm mới và tăng thu nhập cho người làm rừng.
Quan hệ sản xuất trong nông nghiệp đã chuyển mạnh theo hướng phát triển kinh tế
hộ và trang trại phù hợp với yêu cầu giải phóng sức sản xuất, thích ứng với cơ chế thị
trường. Năm 2006 cả nước có trên 113,7 nghìn trang trại hoạt động trong các lĩnh vực
trồng trọt chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản, kinh doanh lâm nghiệp. Các trang trại là đơn vị
sản xuất nông sản hàng hoá lớn cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu. Do đó,
cơ cấu nông nghiệp đã có sự chuyển dịch theo hướng phát triển các cây trồng, vật nuôi có
thị trường, có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao hơn. Trong cơ cấu nông, lâm, thuỷ
sản, giá trị gia tăng ngành trồng trọt giảm từ 69% năm 2000 xuống 63% năm 2007, tương
ứng giá trị gia tăng chăn nuôi, thuỷ sản tăng từ 22% lên 25%. Trong trồng trọt, tỉ lệ đóng
góp của hoa màu, cây công nghiệp và cây ăn quả tăng lên.
Việc áp dụng và chuyển giao khoa học công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp có
tiến bộ đáng kể: Khoa học kỹ thuật phục vụ nông nghiệp đã đáp ứng khá đầy đủ các yêu
cầu của nền nông nghiệp hàng hoá gắn với xuất khẩu. Công nghệ sinh học, tưới tiêu, làm
đất, phân bón, bảo quản sau thu hoạch... ngày càng tiến bộ và đã góp phần tích cực vào
thâm canh tăng năng suất cây trồng, vật nuôi theo yêu cầu thị trường. Năng suất lúa của
Việt Nam những năm gần đây đã gấp 2 lần của Thái Lan, Philippines và vượt cả
Indonesia... nhờ ứng dụng công nghệ sinh học và phân bón. Tỷ lệ đất nông nghiệp được
tưới tiêu của Việt Nam cao hơn nhiều so với Thái Lan và Philippines 2.
Trong trồng trọt và chăn nuôi: việc áp dụng giống mới và các quy trình canh tác
tiên tiến, chương trình "3 giảm, 3 tăng", IPM, GAP được đẩy mạnh. Bên cạnh đó, giống
mới, thức ăn công nghiệp và phương pháp chăn nuôi kiểu công nghiệp, bán công nghiệp,
an toàn sinh học được phổ biến ngày càng rộng hơn. Trong thuỷ sản, công nghệ sinh sản
nhân tạo một số loài thuỷ sản có giá trị kinh tế cao là những biểu hiện của cuộc cách mạng
http://www. gso. gov. vn/default. aspx?tabid=430.

http://www. hids. hochiminhcity. gov. vn/Hoithao/VNHOC/TB9/cuc. pdf


thực sự trong nuôi trồng thuỷ sản. Công nghệ mới được áp dụng trong các nghề khai thác
như đánh bắt cá ngừ, câu cá mực, điều chỉnh kích thước mắt lưới trong khai thác để bảo vệ
nguồn lợi; áp dụng công nghệ làm lạnh nước biển để bảo quản cá, tôm và các sản phẩm
khai thác sau thu hoạch...
Trong lâm nghiệp, nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới, nhất là trong tuyển chọn,
tạo giống mới, nhân nhanh giống bằng công nghệ mô, hom được đưa vào sản xuất, góp
phần cải thiện năng suất, chất lượng rừng. Hiện nay, nhiều diện tích rừng kinh tế được
trồng bằng giống mới. Tỉ lệ rừng trồng tăng từ 50% bình quân vào những năm 1990 lên
trên 80%.
Trong chế biến nông, lâm, thuỷ sản, ngoài việc chủ động đổi mới công nghệ, thiết
bị, đa dạng hoá sản phẩm, còn tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát vệ sinh an toàn thực
phẩm tại vùng nguyên liệu và các cơ sở sơ chế, bảo đảm chất lượng nguyên liệu và sản
phẩm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong thuỷ lợi, nhiều công
nghệ mới được áp dụng trong xây dựng và quản lý, như công nghệ bê tông đầm lăn, kè bản
nhựa, van nhựa tổng hợp, đập xà lan di động, đập cao su, bơm di động trên ray, công nghệ
điều khiển từ xa trong quản lý, điều hành các công trình thuỷ lợi. .
Cơ khí hoá nông nghiệp có bước tiến bộ: Đến năm 2007, nhiều khâu trong sản xuất
nông nghiệp đạt tỉ lệ cơ giới hoá cao, như: làm đất đạt 70%, tưới tiêu nước 85%, tuốt lúa
83,6%; xay xát lúa gạo đạt 95%; phát triển mạnh máy gặt đập liên hợp phục vụ thu hoạch
lúa ở đồng bằng sông Cửu Long (trong năm 2005, 2006 tăng trên 10%). Tổng công suất
tàu, thuyền đánh bắt thuỷ sản năm 2006 đạt 5,8 triệu CV; công suất trung bình máy tàu
tăng từ 17,5 CV/tàu (năm 1990) lên 60,6 CV/tàu (năm 2006).
Năng suất và giá trị sản xuất trong nông nghiệp tăng nhanh: Do được ứng dụng
khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, trực tiếp là giống cây trồng, vật nuôi, nên hầu hết các
cây trồng, vật nuôi đều đạt năng suất và chất lượng cao hơn các năm trước. Giá trị sản xuất
trên một đơn vị diện tích canh tác ngày càng tăng. Nếu năm 2002 giá trị sản xuất theo giá
thực tế đạt trên 17 triệu đồng/ha, năm 2007 đạt 29,2 triệu đồng/ha/năm (tăng gần gấp đôi);

vùng đồng bằng sông Hồng đạt mức cao nhất (38,5 triệu đồng/ha, tăng 35%), thấp nhất là
vùng Tây Bắc (đạt 10,6 triệu đồng/ha, tăng 19% so với năm 2002). Xuất hiện nhiều cánh
đồng đạt 50 triệu đồng/ha/năm, một số huyện đạt trên 50 triệu đồng. Ví dụ trồng cà rốt ở
một số huyện của tỉnh Bắc Ninh trên 100 triệu/ha; một số tỉnh đạt bình quân trên 40 triệu
đồng/ha như Hải Dương, An Giang... .


Tỉ suất hàng hoá và xuất khẩu tăng nhanh: Sự chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp đã
làm tăng nhanh tỉ trọng sản phẩm hàng hoá (gạo 20%, cà phê 95%, cao su 85%, chè 75%,
hạt điều 90%, hồ tiêu 98%). Giá trị xuất khẩu các loại nông, lâm sản tăng nhanh, bình quân
16,85%/năm, một số có vị thế quan trọng trên thị trường thế giới như: gạo, cao su, cà phê,
hồ tiêu, hạt điều, sản phẩm đồ gỗ, thuỷ sản... Riêng năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu
nông, lâm, thuỷ sản đạt 12,5 tỉ USD. Đến nay đã có 5 mặt hàng xuất khẩu đạt mức trên 1 tỉ
USD/năm là thuỷ sản, cà phê, gạo, cao su, đồ gỗ.
Thị trường xuất khẩu mở rộng, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu nông sản tăng cao cả
về lượng và giá. Theo các cam kết của WTO về mở cửa thị trường, xuất khẩu nông sản
theo hướng tăng chất lượng, đảm bảo an toàn thực phẩm đi đôi với xoá dần sự bảo hộ của
Nhà nước về xuất khẩu các mặt hàng này đã được thực hiện khá tốt trên phạm vi toàn
ngành từ sản xuất đến chế biến và tiêu thụ nông sản. Nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu,
đã đứng vững trên thị trường cũ đồng thời mở rộng vào các thị trường mới để góp phần
giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hoá bằng đẩy mạnh xuất khẩu. Các mặt hàng nông sản
xuất khẩu chủ lực không chỉ giữ vững vị trí hàng nhất, nhì thế giới về số lượng mà bước
đầu vươn tới cả chất lượng, giá cả và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ hai, hình thức tổ chức sản xuất ở nông nghiệp, nông thôn được đổi mới, từng bước
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động trong nông thôn.
Về tổ chức sản xuất: Kinh tế hộ tiếp tục phát triển theo hướng mở rộng quy mô sản
xuất. Đến năm 2006 cả nước có 10,46 triệu hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (giảm 766
nghìn hộ, giảm 6,8% so với năm 2001). Về quy mô sử dụng đất, bình quân một hộ nông
nghiệp sử dụng 0,63 ha đất sản xuất nông nghiệp (tăng 12% so với năm 2001); 1 hộ thuỷ
sản sử dụng 0,66 ha đất nuôi trồng thuỷ sản (tăng 16% so với năm 2001). Thực hiện "dồn

điền đổi thửa", số thửa bình quân/hộ giảm, nhiều nơi giảm còn 4 - 5 thửa. Nhiều hộ có
kinh nghiệm và sản xuất nông nghiệp có lãi đã thuê, mượn thêm đất sản xuất. Năm 2007
có 19% hộ thuê, mượn đất so với 3,6% năm 2004.
Kinh tế trang trại phát triển theo hướng đa dạng và hiệu quả hơn: Đến cuối năm
2008 cả nước có 120699 trang trại so với 57069 năm 2000 1; trong đó, đồng bằng sông Cửu
Long chiếm 50%; hai vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ chiếm 20,4% số trang trại cả
nước. Xu hướng từ năm 2001 đến nay tăng mạnh trang trại chăn nuôi, thuỷ sản và sản xuất
kinh doanh tổng hợp. Quy mô trang trại ngày càng mở rộng, góp phần tích cực vào chuyển
đổi cơ cấu sản xuất; là mô hình sản xuất hàng hoá có hiệu quả, góp phần tạo việc làm và
tăng thu nhập cho lao động nông thôn.

http://www. gso. gov. vn/default. aspx?tabid=430.


Kinh tế hợp tác có chuyển biến tích cực: Về tổ hợp tác, cả nước hiện có 837. 500 tổ
hợp tác, đáp ứng một phần nhu cầu dịch vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân.
Nhiều tổ hợp tác mới được thành lập ở các vùng, nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Một số tổ hợp tác đã huy động được vốn của các thành viên tham gia xây dựng hạ tầng
(nhất là thuỷ lợi), mua sắm máy móc, thiết bị làm dịch vụ sản xuất cho hộ thành viên và
nông dân trong vùng. Hợp tác xã nông nghiệp, đã cơ bản chuyển đổi các hợp tác xã có
trước đây và phát triển một số hợp tác xã mới theo Luật Hợp tác xã. Thống kê năm 2008,
cả nước 7592 hợp tác xã nông, lâm, ngư nghiệp. Các hợp tác xã nông nghiệp đã chú trọng
đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ cho kinh tế hộ và phát triển một số loại hình kinh
doanh. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhiều hợp tác xã đã có tiến bộ rõ nét so với năm
2000. Năm 2005 có 88,77% số hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có lãi (năm 2000 là
66,6%). Lợi nhuận thuần từ hoạt động dịch vụ sản xuất bình quân 1 hợp tác xã nông
nghiệp đạt 41,4 triệu đồng, tăng 39,4% so với năm 2000.
Những kết quả nêu trên, là kết quả của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động
trong nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Năm 2007 trong cơ cấu kinh tế chung

của cả nước, công nghiệp và dịch vụ chiếm gần 80%, riêng ở khu vực nông thôn chiếm
khoảng 60%. Ở nhiều địa phương thuần nông trước đây, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển
dịch khá nhanh theo hướng công nghiệp hoá, tỉ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ trong
GDP ngày càng tăng. Tỉ trọng giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nông thôn tăng từ
17,34% năm 2001 lên 19,3% năm 2007. Số lượng các cơ sở sản xuất công nghiệp nông
thôn tăng từ 4.574 cơ sở năm 2001 lên 11.238 cơ sở năm 2005 (tăng gấp 2,5 lần). Đã hình
thành và phát triển nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp, dịch vụ, cụm công nghiệp,
làng nghề ở nông thôn.
Chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn thời kỳ 2001 - 2006 nhanh và rõ hơn so với trước. Tỉ
lệ hộ nông, lâm nghiệp, thuỷ sản giảm 9,87%, tỉ lệ hộ công nghiệp và dịch vụ tăng lên 8,78%;
trong đó, đồng bằng sông Hồng chuyển dịch nhanh nhất, tiếp đó là vùng Đông Nam Bộ. Năm
2007, số hộ công nghiệp và dịch vụ trên địa bàn nông thôn có 3,46 triệu hộ, tăng 62% so với
năm 2000. Tổng lao động đang làm việc ở khu vực nông thôn hiện chiếm 75% lao động cả
nước, trong đó số đang làm việc trong các ngành nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và thuỷ sản là
25,3 triệu người, chiếm 55,7% tổng lao động xã hội; hàng năm số lao động chuyển sang làm
các ngành nghề phi nông nghiệp khoảng 22 - 25 vạn lao động.
Thứ ba, kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn được tăng cường.


Về thuỷ lợi: đã xây dựng được nhiều hồ chứa kết hợp thuỷ điện, nhất là vùng miền
Trung và Tây Nguyên. Trong giai đoạn 2001 - 2005, năng lực tưới đã tăng thêm 575 ngàn
ha, năng lực tiêu tăng thêm 235 ngàn ha. Đã kiên cố hoá trên 15. 000 km kênh mương.
Thanh Hoá, Nghệ An, Tuyên Quang, Sơn La… là những địa phương thực hiện tốt chương
trình kiên cố hoá kênh mương theo phương châm: “Trung ương, địa phương; nhà nước và
nhân dân cùng làm”. Năng lực quản lý vận hành hệ thống thuỷ lợi được củng cố và tăng
cường. Hệ thống thuỷ lợi cả nước được vận hành do 100 công ty thuỷ nông với tổng số
22.569 cán bộ, công nhân viên và 12.000 hợp tác xã, tổ hợp tác. Vùng ven biển đã tăng
cường xây dựng hệ thống các cống đập ngăn mặn, giữ ngọt, nhiều công trình đã đưa vào
sử dụng và phát huy tác dụng. Vùng đồng bằng sông Cửu Long tập trung thực hiện chương
trình kiểm soát lũ, phát triển thuỷ lợi, giao thông và dân cư. Bước đầu thực hiện các công

trình thuỷ lợi ven biển phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, gắn ngọt hoá với việc nuôi trồng thuỷ
sản nước mặn, nước lợ và tận dụng, khai thác thuỷ sản mùa lũ. Về hệ thống đê, từ năm
2000 đến nay đã tập trung thực hiện tu bổ, củng cố đê biển, đê sông từ cấp III trở lên; cứng
hoá mặt đê kết hợp giao thông và phòng chống lũ; trồng tre chắn sóng bảo vệ đê.
Về giao thông nông thôn: Với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm",
giao thông nông thôn có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Ngoài việc phát
triển hệ thống đường giao thông nông thôn, các địa phương đã tích cực huy động các
nguồn lực tham gia xây dựng các cống qua đường, nâng cấp và xã hội hoá hệ thống đường
nội bộ xã, liên thôn, xoá cầu khỉ ở đồng bằng sông Cửu Long... Đến năm 2007 cả nước có
8790 xã có đường ô tô đến được trụ sở UBND xã, chiếm 96,9% tổng số xã (năm 1994 là
87,9% và năm 2001 là 94,2%); trong đó, có 8488 xã (chiếm 96,6%) có đường ô tô đi lại
được quanh năm, và có 6356 xã (chiếm 70%)… góp phần thu hút các nhà đầu tư về nông
thôn, tạo công ăn việc làm, xoá đói, giảm nghèo và giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, xã hội
khác.
Điện nông thôn: Đến cuối năm 2006, mạng lưới quốc gia đã cấp điện cho 525/536
huyện, đạt 97,95%; 10. 522 xã, phường đạt 96,8% và 93,34% số hộ, trong đó hầu hết các
xã có giá điện lưới thấp hơn 700 đồng/kwh. Năm 2007 có tới 98,9% số xã, 92,4% số thôn
có điện (trong đó 87,8% số thôn có điện lưới quốc gia) và tỷ lệ hộ nông thôn sử dụng điện
đó lên tới 94,2%1.

http://www. hids. hochiminhcity. gov. vn/Hoithao/VNHOC/TB9/cuc. pdf


Nhà ở nông thôn: Cùng với kinh tế phát triển, những năm qua nhà ở nông thôn đã
được đầu tư xây dựng mới một cách nhanh chóng. Đến nay, đã có 16% hộ có nhà kiên cố,
57,6% nhà bán kiên cố; nhiều xã, thôn ở nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ, vùng miền
Trung đã cơ bản hoàn thành việc "xoá" nhà tranh tre, nứa lá; vùng đồng bằng sông Cừu
Long cơ bản hoàn thành việc "xoá" nhà tạm, nhà dột nát... nhiều huyện, xã ở miền Bắc và
miền Trung đã cơ bản "ngói hoá" nhà ở. Riêng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến nay đã
xây dựng trên 1.100 cụm, tuyến dân cư, bố trí được 108 ngàn hộ dân có nơi cư trú an toàn

trong mùa lũ.
Trường học, lớp học: Hệ thống trường học các cấp ở nông thôn tiếp tục được mở rộng
và phát triển, đến năm 2007 có 88,3% số xã có trường mẫu giáo/mầm non, 99,3% số xã có
trường tiểu học, 90,8% số xã có trường trung học cơ sở (năm 1994 là 76,6%, năm 2001 là
84,4%), 10,8% số xã có trường trung học phổ thông (năm 1994 là 7%, năm 2001 là 8,5%).
Điểm tiến bộ về giáo dục tiểu học là số trường bình quân 1 xã 1,44 trường. Việc mở thêm các
điểm trường ở các thôn, đã tạo điều kiện thuận lợi để học sinh không phải đi học xa, giảm
được tình trạng học sinh bỏ học. Các cơ sở nhà trẻ, mẫu giáo phát triển, mở rộng đến cấp thôn,
đến nay có 54,5% số thôn có lớp mẫu giáo, 16,1% số thôn có nhà trẻ 1.
Trạm y tế: Đến năm 2007, có 9013 xã có trạm y tế, chiếm 99,3% tổng số xã và tăng
128 xã so với năm 2001.Bình quân 1 trạm y tế xã có 0,63 bác sỹ và 1 vạn dân có 1 bác sỹ
(năm 2001 các con số tương ứng là 0,51 và 0,8). Khu vực nông thôn có 3964 trạm y tế xã,
chiếm 44%, đó được xây dựng kiên cố2.
Văn hoá, thể thao: Việc phát triển cơ sở hạ tầng văn hoá, thể thao đã được quan tâm
hơn. Tới năm 2006, đã có 30,6% số xã có nhà văn hoá; 9,7% xã có thư viện; 43,8% thôn
có nhà sinh hoạt cộng đồng và 57,6% xã có trụ sở kiên cố. Đồng thời 85,5% xã có điểm
bưu điện văn hoá. Nhiều xã đã bố trí đất làm sân vận động, nơi luyện tập thể thao cho
thanh thiếu niên.
Thông tin liên lạc: Ngành Bưu chính - Viễn thông đã phát triển được hơn 11.000
điểm phục vụ thông tin liên lạc; trong đó có 2.390 bưu cục đảm bảo 91% xã được chuyển
phát báo chí đến trong ngày. Đến năm 2007, khu vực nông thôn có 7757 xã, chiếm 85,5%
số xã có điểm bưu điện văn hoá (năm 2001 là 71,9%). Tỷ lệ xã có điểm bưu điện văn hoá
được nối mạng internet đạt 20,7%. Ngoài ra khu vực nông thôn còn có 2022 xã, chiếm
22,3%, có trạm bưu điện xã. Cả hai loại hình điểm bưu điện văn hoá xã và trạm bưu điện
http://www. hids. hochiminhcity. gov. vn/Hoithao/VNHOC/TB9/cuc. pdf
http://www. hids. hochiminhcity. gov. vn/Hoithao/VNHOC/TB9/cuc. pdf


xã về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu thông tin liên lạc ở khu vực nông thôn. Những năm
gần đây trên địa bàn xã phát triển nhanh các điểm dịch vụ internet tư nhân phục vụ nhu cầu

truy cập thông tin của nhân dân, đến năm 2007 đó có 2952 xã (chiếm 32,5%), với 7752
điểm internet tư nhân, bình quân 1 xã có 0,85 điểm. Số hộ có máy điện thoại (cố định/di
động) là 2,924 triệu hộ, chiếm 21,2% số hộ, tăng 15,9% so năm 2001; bình quân cứ 4,7 hộ
thì có 1 hộ có máy điện thoại.
Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn: Đến năm 2007 có 70% dân cư nông
thôn có nước sinh hoạt hợp vệ sinh (trong đó khoảng 30% người dân được dùng nước đạt
tiêu chuẩn 09 của Bộ Y tế); 12% số xã có hệ thống thoát nước thải chung; 28% xã có tổ
chức thu gom rác thải và 51% người dân nông thôn sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.
Thứ tư, về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở.
Đến năm 2007, có 100% xã, thị trấn; 97% cơ quan hành chính và 88% doanh
nghiệp nhà nước đã triển khai và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở theo tinh thần các nghị
quyết của Trung ương. Chủ trương "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" được tổ chức
khá đa dạng, với nhiều hình thức phong phú, công khai, minh bạch ở nông thôn, trong đó
tập trung trên một số mặt như: công tác quy hoạch, giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở
hạ tầng; chuyển dịch cơ cấu sản xuất; huy động sự đóng góp của người dân; hỗ trợ nhân
dân khi bị lũ lụt bão, tai nạn; phát triển văn hoá, tinh thần của người dân ở nông thôn... Do
đó, đã bước đầu phát huy sức sáng tạo, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần của nhân
dân trong phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, từng bước cải thiện đời sống, nâng
cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng đảng bộ, chính quyền và các
đoàn thể ở cơ sở trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục tình trạng suy thoái,
quan liêu, tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ngày càng đi vào chất lượng, góp phần
quan trọng làm chuyển biến phương thức lãnh đạo, công tác điều hành, quản1ý và lề lối
làm việc của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân;
nâng cao thêm tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức trên địa bàn; tạo
dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở và tăng cường sự đồng thuận trong xã hội.
Thứ năm, về an ninh, trật tự ở nông thôn: Mặc dù tình hình chính trị trên thế giới và
khu vực có những diễn biến phức tạp; kinh tế nông nghiệp, nông thôn còn những khó
khăn, xã hội có những bức xúc, nhưng nhìn chung tình hình an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn nông thôn vẫn được giữ vững. Nông dân tham gia tích cực trong

việc vừa đẩy mạnh phát triển kinh tế, vừa phối hợp với các lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ
trật tự an ninh trên địa bàn, ngăn chặn và đấu tranh có hiệu quả các hành động phá hoại sản


xuất, giữ gìn vững chắc chủ quyền an ninh quốc gia, nhất là khu vực biên giới, hải đảo và
trên các vùng biển.
Người dân nông thôn vẫn giữ được truyền thống lao động cần cù, sáng tạo, sẵn sàng
chia sẻ, giúp đỡ người khó khăn và đóng góp cho đất nước. Tình đoàn kết giữa các dân
tộc, các tôn giáo và các vùng, miền tiếp tục được bảo vệ và phát triển.
Thứ sáu, đời sống vật chất, tinh thần của người dân ở hầu hết các vùng nông thôn
ngày càng được cải thiện; xoá đói, giảm nghèo đạt thành tựu lớn.
Do sản xuất phát triển, thu nhập tăng, đời sống nông dân ở đa số các vùng được cải
thiện rõ rệt. Từ năm 1996 đến nay, thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn tăng lên hơn
2,7 lần (năm 2006, bình quân đạt 6,1 triệu đồng/người, theo giá hiện hành); thu nhập bình
quân 1 hộ nông thôn đạt 26,1 triệu đồng, tăng 11,3 triệu đồng (tăng 75,8% so với năm
2002). Nhờ thu nhập của hộ nông dân tăng, nên vốn tích luỹ trong dân tăng khá; năm 2006
vốn tích luỹ bình quân 1 hộ nông thôn là 6,7 triệu đồng (tăng 3,5 triệu đồng, gấp 2,1 lần so
với năm 2001).
Nông nghiệp vẫn là nguồn thu lớn nhất của hộ gia đình ở nông thôn; năm 2006 có
đến 68% hộ ở nông thôn dựa chủ yếu vào sản xuất nông, lâm, thuỷ sản, tiếp đến là các hộ
làm dịch vụ và công nghiệp, xây dựng, tương ứng là 15% và 11%. Nhờ thu nhập của người
dân tăng nên điều kiện sinh hoạt của hộ nông thôn ngày càng được cải thiện, nhất là về nhà
ở, mua sắm vật dụng lâu bền, phương tiện đi lại và các vật dụng đắt tiền.
Chiến lược xoá đói, giảm nghèo được thực hiện từ những năm 2000, thông qua
nhiều chính sách và các chương trình cụ thể. Đến nay, về cơ bản, nước ta đã xoá được đói.
Công tác giảm nghèo được tập trung đẩy mạnh, hướng vào các đối tượng khó khăn, vùng
sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số. Tỉ lệ hộ nghèo ở khu vực nông thôn giảm nhanh,
từ 66,4% năm 1993, 45,5% năm 1998, 35,6% năm 2002, 27,5% năm 2004 xuống còn 18%
năm 2007, mặc dù chuẩn nghèo đã tăng lên. Xoá đói, giảm nghèo nhanh là thành tựu lớn
của nước ta được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Do đa số người nghèo sống ở nông thôn

nên phát triển nông nghiệp có giai đoạn đã đóng góp tới 80% thu nhập tăng thêm giúp các
hộ thoát nghèo.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá, cùng với việc mở mang mạng lưới y tế công, hệ
thống khám, chữa bệnh tư nhân được hình thành và phát triển, góp phần quan trọng vào
chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Hầu hết các xã có sổ khám bệnh cho người nghèo, nhiều
bệnh dịch được phát hiện và khống chế kịp thời. Năm 2006, tỉ lệ người được khám, chữa
bệnh là 38,1% (cao gấp 2,07 lần năm 2002); có 51,6% cư dân nông thôn có bảo hiểm y tế.


Nhà nước đã chú trọng đầu tư nâng cấp hệ thống trường học các cấp ở nông thôn và
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Số người 10 tuổi trở lên biết chữ tăng từ 90,9%
năm 2002 lên 92% năm 2006. Từ năm 2007 Nhà nước đã có chính sách cho con em các hộ
nghèo, hộ chính sách được miễn giảm học phí, được vay vốn với lãi suất ưu đãi để học tập.
Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao được tăng cường, nâng cao
mức hưởng thụ về văn hoá cho nhân dân.
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá" khơi dậy tinh thần đoàn
kết ở cộng đồng dân cư, bước đầu đã có tác động hiệu quả đến xây dựng đời sống văn hoá
ở vùng nông thôn. Gia đình văn hoá, làng văn hoá được công nhận đảm bảo chất lượng đã
có tác động tích cực đến việc xây dựng nông dân về tư tưởng, đạo đức, lối sống, nếp sống;
tạo ra bộ mặt nông thôn mới, ổn định về chính trị, từng bước phát triển về kinh tế - văn hoá
- xã hội. Nhiều hình thức văn hoá dân gian truyền thống được duy trì, phục dựng, góp phần
bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của các dân tộc ở cộng đồng nông thôn, miền
núi, vùng đồng bào dân tộc. Đến năm 2006, đã có trên 70% khu dân cư thực hiện nếp sống
văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội.
1.1.2. Những khuyết điểm, yếu kém
Bên cạnh những thành tựu nêu trên, nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn còn
những yếu kém, khuyết điểm. Nghị quyết Trung ương bảy khóa X khẳng định: “những
thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế và chưa đồng đều giữa các
vùng. Nông nghiệp phát triển còn kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm
dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển sản xuất; nghiên cứu,

chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông nghiệp còn chậm, phổ biến
vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán; năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng thấp.
Công nghiệp, dịch vụ và ngành nghề phát triển chậm, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch
cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức sản xuất chậm đổi mới,
chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp và nông thôn phát
triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng KT-XH còn yếu kém, môi trường ngày càng ô
nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và
tinh thần của người dân nông thôn còn thấp, tỉ lệ hộ nghèo cao, nhất là vùng đồng bào dân
tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng
còn lớn, phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc”1. Cụ thể:
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2008, tr. 122-123.


Thứ nhất, nông nghiệp phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng có xu hướng
giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt các tiềm năng và nguồn lực, chuyển dịch
cơ cấu và đổi mới cách thức sản xuất còn chậm, phổ biến vẫn là sản xuất nhỏ, phân tán;
năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng nhiều loại nông sản thấp.
Tốc độ tăng giá trị gia tăng bình quân nông, lâm, thuỷ sản giảm từ 4,42% (giai đoạn
1996 - 2000), 3,83% (giai đoạn 2001 - 2005) xuống còn 3,55% vào các năm 2006, 2007;
tương ứng tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất giảm từ 7,87%, 5,44% xuống còn 4,78%.
Nguyên nhân chính của tình trạng trên là do các nguồn lực chính để phát triển nông nghiệp
bị suy giảm, bao gồm đất đai, lao động và đầu tư, trong khi khoa học công nghệ chậm phát
huy tác dụng cao để tăng năng suất lao động; thiên tai, dịch bệnh xảy ra nhiều và gây ảnh
hưởng nghiêm trọng tới sản xuất.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, trong nông nghiệp, ngành trồng trọt vẫn chiếm tỉ
trọng lớn (chiếm trên 57% giá trị sản lượng); tỉ trọng của lâm nghiệp còn rất thấp, kể cả ở
các vùng trung du, miền núi; chăn nuôi, thuỷ sản phát triển kém ổn định. Giá trị thu được
trên đơn vị diện tích canh tác bình quân mới đạt 29,2 triệu đồng/ha, trong đó thấp nhất là

vùng Tây Bắc chỉ đạt 10,9 triệu đồng/ha.
Cách thức sản xuất trong nhiều lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp chậm được đổi
mới theo hướng hiện đại, phổ biến tình trạng sản xuất nhỏ, phân tán, nổi bật nhất là trong
sản xuất rau, quả, chăn nuôi, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản. Việc xây dựng các vùng
nguyên liệu lớn, tập trung cho chế biến công nghiệp tiến hành chậm. Mô hình chăn nuôi
công nghiệp phát triển chưa mạnh. Do cách thức sản xuất lạc hậu, hệ thống phòng chống
còn yếu, giao lưu kinh tế gia tăng nên trong những năm gần đây dịch bệnh xảy ra liên tiếp,
đe doạ nghiêm trọng sự phát triển nông nghiệp (năm 2003 - 2004 và năm 2007, dịch cúm
gia cầm đã gây thiệt hại cho nền kinh tế khoảng 0,5% GDP; năm 2006, dịch rầy nâu và
bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá làm mất đi gần 1 triệu tấn lúa ở đồng bằng sông Cửu Long... ).
Việc ứng dụng khoa học, công nghệ tuy đã có bước tiến bộ, nhưng đa số năng suất
cây trồng, vật nuôi còn thấp, chậm được cải thiện về chất lượng nên khó cạnh tranh với các
sản phẩm cùng loại của các nước. Ở miền Bắc 85% giống lúa có nguồn gốc từ Trung
Quốc. Nhiều loại cây ăn quả của nước ta thua kém về chất lượng so với Thái Lan... Phần
lớn nông sản xuất khẩu ở dạng sơ chế, sản phẩm có giá trị gia tăng rất thấp; chưa có
thương hiệu, mẫu mã, bao bì chưa phù hợp. Chỉ số cạnh tranh của các ngành hàng nông,
lâm, thuỷ sản chỉ ở mức trung bình hoặc dưới trung bình của thế giới (hồ tiêu 68,7; cao su
58,5; điều 51,9; chè 47,4; rau quả 47,1; lâm sản 44,6; cà phê 43,4; lương thực 42,9; chăn
nuôi 40).


Mặt khác, vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, nạn
bơm chích tạp chất vào nguyên liệu thuỷ sản chưa được ngăn chặn có hiệu quả; việc thực
hiện các biện pháp để bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm ở nhiều địa phương chưa tốt,
đang gây bức xúc cho người tiêu dùng và là thách thức lớn trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
Thứ hai, công nghiệp, dịch vụ nông thôn phát triển chậm, thiếu quy hoạch, quy mô
nhỏ, chưa thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn.
Nhìn chung các nhà máy, doanh nghiệp công nghiệp mới tập trung ở ven đô thị lớn
và các thị xã, thị trấn, sự phát triển của các doanh nghiệp trên địa bàn nông thôn còn ít và

chủ yếu là quy mô nhỏ (trên 70% có vốn dưới 5 tỉ đồng), số doanh nghiệp tham gia chế
biến nông, lâm, thuỷ sản còn ít. Nhiều doanh nghiệp áp dụng công nghệ mới, hiện đại vào
sản xuất nhưng việc đào tạo lao động có tay nghề còn quá ít nên việc thu hút lao động vốn
là nông dân vào làm việc rất hạn chế (chủ yếu là nông dân bị thu hồi đất sản xuất có độ
tuổi dưới 35 tuổi).
Nhiều khu công nghiệp xây dựng ở những vùng nông thôn đã lấy đất nông nghiệp,
làm phá vỡ hệ thống thuỷ lợi, gây ô nhiễm nguồn nước và đất ở các khu vực nông nghiệp
lân cận, nhưng chỉ có số ít nhà máy phục vụ trực tiếp sản xuất nông nghiệp trong vùng,
đóng góp cho ngân sách của xã, huyện, thu hút lao động sở tại. Trong khi đó phần lớn
phân bón, máy móc nông nghiệp, thuốc thú y bảo vệ thực vật lại không sản xuất mà vẫn
phải nhập khẩu (năm 2007 nhập khẩu khoảng 5,5 tỉ USD).
Tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông thôn còn chiếm hơn 40% so với
20% cơ cấu kinh tế chung của cả nước. Nhiều vùng chủ yếu vẫn là sản xuất nông nghiệp.
Cơ cấu lao động ở nông thôn chuyền dịch còn khá chậm. Trong giai đoạn 2001 - 2006, tỉ lệ
lao động nông nghiệp giảm được 10,4% (bình quân 1 năm mới chuyển được gần 2%), lao
động trong nông nghiệp đến năm 2006 vẫn chiếm 55,7% trong tổng số lao động của cả
nước. Chuyển dịch cơ cấu lao động của cả hai nhóm hộ công nghiệp, xây dựng và dịch vụ
cũng không đồng đều giữa các vùng.
Do đất đai bình quân thấp, manh mún, lại chưa tạo được nhiều việc làm tại chỗ
trong nông thôn nên năng suất lao động và thu nhập của nông dân còn khá thấp, tăng chậm
(4,8%/năm). So với các nước trong khu vực và trên thế giới thì năng suất lao động nông
nghiệp nước ta còn thấp, chưa bằng 1/2 của Thái Lan, Inđônêxia và Philippin.
Thứ ba, các hình thức tổ chức sản xuất đổi mới chậm, chưa đủ sức phát triển mạnh
sản xuất hàng hoá ở nông thôn.


Mặc dù Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều chủ trương và chính sách để thúc đẩy
phát triển quan hệ sản xuất ở nông thôn, nhưng quá trình này vẫn diễn ra rất chậm.
Kinh tế hộ nhỏ vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong nông nghiệp nước ta. Tới năm
2007, mặc dù đã bắt đầu giảm xuống, cả nước vẫn có tới 10,46 triệu hộ nông, lâm nghiệp

và thuỷ sản. Mặc dù sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp đã tăng lên nhanh, nhưng đa số
nông hộ sản xuất quy mô nhỏ, 73% hộ có dưới 0,5 ha đất nông nghiệp. Các hộ này chủ yếu
sản xuất tự cung, tự cấp, số nông sản hàng hoá bán ra rất ít. Hơn nữa ruộng đất lại manh
mún nên hiệu quả canh tác không cao. Đồng thời, gần 60% hộ lâm nghiệp có dưới 3 ha;
51,3% hộ thuỷ sản có dưới 1 ha mặt nước; đa số gia súc, gia cầm chăn nuôi ở các hộ nên
rất kém an toàn dịch bệnh (năm 2006 vẫn có tới 56% hộ nuôi dưới 3 con lợn/hộ).
Trang trại là hình thức sản xuất kinh tế hàng hoá có hiệu quả lớn hơn trong điều
kiện hiện nay nhưng chưa được hỗ trợ thiết thực để phát triển (về đất đai, hạ tầng, xử lý
dịch bệnh, đào tạo kiến thức... ). Các chủ trang trại, gia trại chủ yếu tự mò mẫm sản xuất.
Kinh tế trang trại mới chỉ chiếm hơn 1% tổng số hộ nông, lâm, ngư nghiệp của cả nước,
quy mô nhỏ bé.
Trong khi đó, kinh tế tập thể, chủ yếu là các hợp tác xã, tổ hợp tác còn thiếu động
lực và chưa có môi trường tốt để phát triển. Do vốn ít, hoạt động kinh doanh của nhiều hợp
tác xã chỉ bảo đảm nguyên tắc "thu đủ bù chi". Nhiều hợp tác xã mang tính hình thức, trên
54% số hợp tác xã hoạt động ở mức trung bình và yếu. Các mô hình kinh tế tập thể mới
còn ít sức thuyết phục đối với nông dân. Tổ hợp tác còn ít được quan tâm trong các chính
sách, thiếu chặt chẽ trong tổ chức nên gặp nhiều khó khăn trong các giao dịch kinh tế.
Đa số các doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ nên năng lực hoạt động thấp.
Hoạt động của nhiều doanh nghiệp kém hiệu quả, 27% làm ăn thua lỗ. Các nông, lâm
trường chưa có chuyến biến đáng kể. Hiện cả nước có 355 lâm trường quốc doanh, quản lý
4,085 triệu ha đất với 20,3 nghìn lao động; 342 nông trường quốc doanh quản lý 526,5
nghìn ha, trong đó có 368,86 nghìn ha đất nông nghiệp với khoảng 227,8 nghìn lao động.
Dự kiến sắp xếp lại thành 314 công ty nông nghiệp, 266 lâm trường hoặc công ty lâm
nghiệp, 97 ban quản lý rừng, giải thể 29 nông, lâm trường, bàn giao lại cho địa phương
quản lý 757,3 nghìn ha, thực tế hết quý I-2008 mới bàn giao 24.461 ha. Nhiều diện tích đất
quản lý thiếu chặt chẽ, sử dụng kém hiệu quả. Riêng trong các lâm trường còn khoảng 785
nghìn ha đất quy hoạch phát triển tăng nhưng chưa có rừng.


Đầu tư của tư nhân vào nông nghiệp, nông thôn còn rất thấp, chỉ có khoảng 16%

đầu tư mới hàng năm của tư nhân trong nước, dưới 5% FDI đầu tư vào nông nghiệp, nông
thôn nên nguồn lực còn rất thiếu để phát triển mạnh mẽ kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Thứ tư, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội còn
yếu kém, môi trường ngày càng bị ô nhiễm, năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn
thấp.
- Về công tác quy hoạch:
Công tác quy hoạch phát triển KT-XH và hạ tầng cơ sở ở các vùng nông thôn nhìn
chung còn nhiều bất cập. Nhiều nơi nông dân vẫn lúng túng trong việc lựa chọn cây trồng,
vật nuôi, ngành nghề. Việc hình thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung gắn với chế
biến và xuất khẩu còn nhiều hạn chế.
Quy hoạch phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn nhiều nơi còn thiếu thận
trọng, đất trồng cây lương thực bị thu hẹp nhanh, có nguy cơ suy giảm nghiêm trọng. Quy
hoạch xây dựng thiếu đồng bộ. Tới năm 2007, mới chỉ có khoảng 20% xã có quy hoạch
xây dựng, nhưng nhiều quy hoạch chất lượng thấp, cảnh quan và văn hoá truyền thống bị
phá vỡ.
- Về kết cấu hạ tầng nông thôn:
Thủy lợi: Còn 17% diện tích lúa, khoảng 50% diện tích cà phê, 80% diện tích rau
màu chưa được tưới tiêu chủ động. Nhiều hệ thống xuống cấp, không đồng bộ nên hiệu
quả thấp, chỉ phát huy được 60 - 70% công suất thiết kế. Mới có 19% kênh mương được
kiên cố hoá, tình trạng thẩm thấu, lãng phí nước còn khá phổ biến. Hệ thống đê điều đã
được gia cố, nhưng nhiều nơi chưa đáp ứng được yêu cầu, có tới 500 km đê sông cần bồi
trúc, gia cố thân đê; cần tu bổ 600 cống dưới đê; gia cố nâng cấp 2.800 khi đê biển và đê
cửa sông, 100 cống trên đê biển để bảo vệ sản xuất và dân sinh trước mắt và về lâu dài
phải đối phó với tình trạng nước biển dâng. Nhiều vùng còn thiếu nước sinh hoạt gay gắt
vào mùa khô, chủ yếu là các vùng cao và ven biển. Chất lượng nước sinh hoạt ở đồng bằng
sông Cừu Long chưa cao.
Giao thông: Đến năm 2007, tỷ lệ xã chưa có đường ô tô đến được trụ sở UBND xã
ở một số tỉnh vẫn còn cao, như Cà Mau còn 74,1%, Sóc Trăng 26,4%, Bạc Liêu 29,2%,
Kiên Giang 25%, thành phố Cần Thơ 30,3%,... Tỷ lệ xã có đường liên thôn được nhựa,
bê tông hóa nhìn chung còn thấp, một số địa phương còn quá thấp (dưới 20%) như Cao

Bằng, Lai Châu, Điện Biên, Yên Bái, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Lào Cai, Sơn
La. Hiện chỉ còn 281 xã chưa có đường ô tô đến khu trung tâm, nhưng phần lớn đường


×