Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Quan điểm của Nho giáo về nhân cách và sự hình thành nhân cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.6 KB, 31 trang )

Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Trong sự nghiệp đổi mới của nước ta, Đảng và Nhà nước rất quan
tâm tới vấn đề con người, đặc biệt là nhân cách con người. Muốn công
nghiệp hóa và hiện đại hóa thành công thì phải có con người đạo đức và con
người trí tuệ. Đó chính là nhân cách.
Nhân cách có nhiều khoa học nghiên cứu: Triết học, Xã hội học, Văn
học, Nghệ thuật, Kinh tế học, Tâm lý học, Y học… Trong đó, với lĩnh vực
Triết học, từ gần 2000 năm trước Nho giáo đã nói nhiều tới con người, đạo
đức…
Nho giáo là một học thuyết Triết học và chính trị - xã hội lớn nhất
trong lịch sử triết học Trung hoa cổ đại. Mặc dù ra đời rất sớm nhưng học
thuyết Nho giáo đã sớm phát hiện ra vấn đề con người, bàn nhiều về con
người, đặc biệt đề cập khá sâu đến quan niệm con người và đào tạo con
người hay nói cách khác là đạo đức, nhân cách con người và quá trình hình
thành. Đây là một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho giáo.
Nho giáo đã du nhập và tồn tại ở Việt Nam gần 2000 năm, đã có tác
dụng to lớn đối với xã hội và con người nước ta trong lịch sử, đồng thời
cũng để lại những ảnh hưởng khá sâu đậm đến xã hội và con người Việt
Nam hiện nay. Vì vậy nghiên cứu quan niệm về con người và đào tạo con
người của Nho giáo có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo
con người trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy trong phạm vi bài tiểu luận nhỏ

Page 1


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sâu hơn về “Quan điểm của Nho giáo về nhân
cách và sự hình thành nhân cách”.



2. Lịch sử vấn đề
Trước hết chúng ta quan niệm nhân cách là bản tính con người hay
nhân tính, Lf cái tạo nên phẩm giá đích thực của mỗi cá nhân trong cộng
đồng, xã hội thì rõ ràng, lịch sử nghiên cứ vấn đề này luôn luôn diễn ra trong
mối quan hệ với lịch sử của tâm lí học, bao gồm cả thời kì hình thành tư duy
tâm lí học, cùng với sự phát triển nền văn hóa tinh thần nhân loại.
Khi phân tích những văn bản ban đầu thời cổ đại, nhà nghiên cứu lịch
sử thường nhắc đến các triết gia Hy Lạp như platon (khoảng 427 – 347
tc.CN), theo học Socrates 8 năm, nổi tiếng với quan niệm về tâm lí học tri
giác, tư duy và bản chất của linh hồn; Aristoteles (384 – 322 Tr. CN) với tác
phẩm “Về linh hồn” đã trở nên quen thuộc; Theophrast (khoảng 371 – 287
Tr.CN), người được coi như sáng lập ra tâm lí học nhân cách nhờ công trình
“các tính cách” phác họa 30 kiểu tính cách độc nhất vô nhị.
Nhưng xa hơn nữa là tâm lí học Ấn Độ chịu ảnh hưởng của triết học
tôn giáo của Ấn Độ giáo, Phật giáo từ khoảng năm 2000 tr. CN, được đặc
trưng bởi sự tìm kiếm những đơn vị sinh động của brahman (vĩ đại) là bản
chất của thế giới và atnan (nhỏ bé) là bản chất của con người, bởi luật nhân
qur thay vì số mệnh…; tâm lí học Trung Hoa được phát triển dần từ những
chủ thuyết của Lão tử (khoảng thế kỉ thứ 6 tr. CN) về “Đạo” là nguồn gốc
của vạn vật, của Khổng Tử (551 – 479 Tr. CN) về tính người, về sức mạnh
của đạo đức và những thói quen tốt…v.v.

Page 2


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm làm rõ hơn quan điểm của Nho giáo về nhân cách và sự hình
thành nhân cách của con người, từ đó có thể đưa ra được những bài học kinh

nghiệm hiện tại.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nhân cách, sự hình thành nhân cách.
- Phạm vi nghiên cứu: Triết học Nho giáo.

5. Phương pháp nghiên cứu
- Đọc, nghiên cứu, tổng hợp tài liệu

6. Cấu trúc tiểu luận
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương 1. Các cơ sở lí luận
1. Nguồn gốc của Nho giáo
2. Khái niệm Nhân cách

Page 3


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
Chương 2. Quan điểm của Nho giáo về nhân cách và sự hình thành nhân
cách
1. Bản chất nhân cách
2. Thành phần nhân cách
3. Động lực hình thành và phát triển nhân cách
KẾT LUẬN

Page 4



Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận
1. Nguồn gốc của Nho giáo
- Nho giáo là gì? Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho, theo Hán
Tự từ Nho gồm từ nhân (người) đứng cận chữ Nhu (cần, đợi, chờ). Nho
Giáo còn gọi là nhà nho, người đọc sách thánh hiền, được thiên hạ trọng
dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp với luân thường đạo lý.
- Người sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử (551-479 TCN), tên Khâu, Tự
Trọng Ni người nước Lỗ, Khổng Tử đã hệ thống hóa những tri thức cũng
như tư tưởng trước đây thành học thuyết gọi là Nho học hay Nho giáo.
- Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh
Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) hay Tứ Kinh (Luận ngữ, Đại
học, Trung Dung, Mạnh Tử). Quan điểm của nho giáo thể hiện trong Tam
Cương đó là các mối quan hệ vua-tôi, cha-con, vợ chồng và Ngũ Thường (
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín). Nho giáo ảnh hưởng hầu hết các nước phong
kiến phương Đông qua quá trình giao thoa và đồng hòa.
- Ở nước ta Nho giáo xuất hiện cùng với sự đô hộ của phong kiến phương
Bắc, và phát triển rất nhanh trong khoảng thời gian từ thế kỷ X-XIII. Trong
thời đại ngày nay Nho giáo được chọn lọc và cần gìn giữ để phát triển những
mặt tích cực của nó như coi trọng việc học, tôn sư trọng đạo, giữ gìn nét đẹp
văn hóa trong lối sống gia đình…
- Nói đến nền văn hóa truyền thống Trung Quốc không thể không nói đến
một nhân vật đó là Khổng Tử. Trong thập niên 70 của thế kỷ trước, một học
Page 5


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
giả Mỹ đã xếp Khổng Tử ở ngôi vị thứ 5, chỉ sau chúa Giê-xu, Thính-camâu-ni... trong số 100 nhân vật có ảnh hưởng trong lịch sử. Đối với người
Trung Quốc mà nói sự ảnh hưởng của Khổng Tử có thể phải xếp thứ nhất vì

mỗi con người ở đấy ít nhiều đều chịu sự ảnh hưởng của học thuyết Khổng
Tử.

- Hơn hai nghìn năm qua, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng đối với Trung Quốc
không chỉ về chính trị, văn hoá...mà còn thể hiện trong hành vi và phương
thức tư duy của mỗi con người Trung Quốc. Có học giả nước ngoài thậm chí
coi tư tưởng Nho giáo là tư tưởng Tôn Giáo của Trung Quốc. Trong thực tế,
trường phái Nho giáo chỉ là một trong rất nhiều trường phái thời cổ Trung
Quốc, nó là một tư tưởng triết học chứ không phải là Tôn giáo, chẳng qua là
do được coi là tư tưởng chính thống trong xã hội phong kiến hơn hai nghìn
năm ở Trung Quốc và vì người Hoa và Hoa kiều có mặt hầu như trên toàn
thế giới, có thể nói sự ảnh hưởng của tư tưởng Khổng Tử đã không còn giới
hạn ở Trung Quốc và châu Á nữa.

- Khổng Tử sống trong thời Xuân Thu (từ 722 – 481 TCN), thời kỳ này thể
chế quốc gia thống nhất bị phá vỡ, sản sinh ra nhiều nước Chư hầu lớn nhỏ.
Khổng Tử sinh sống trong nước Lỗ là nước có nền văn hóa tương đối phát
triển lúc đó. Tại sao học thuyết của Khổng Tử lại chiếm vị thế thống trị
trong thời đại phong kiến Trung Quốc ? Đây là vấn đề không dể giải thích
trong một vài câu. Nói một cách đơn giản là tư tưởng đẳng cấp nghiêm ngặt
và tư tưởng cải lương chính trị của ông phù hợp với lợi ích của giai cấp
thống trị, có lợi cho ổn định xã hội lúc bấy giờ và xúc tiến xã hội phát triển.
Page 6


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
Khổng Tử nhấn mạnh qui phạm và trật tự luân lý nghiêm ngặt, cho rằng nếu
làm trái với cấp trên hoặc trái với Cha mẹ đều là tội nghiêm trọng. Theo lý
luận này, Vương Quân phải quản lý tốt đất nước, thường dân phải trung
thành với Vương quân. Mỗi người đều có nhiều thân phận, có thể là con, có

thể là cha, có thể là thần tử... nhưng đều cần phải duy trì ranh giới Tông tôi
nghiêm khắc. Như vậy nhà nước mới thái bình, nhân dân mới có cuộc sống
yên ổn.
- Thời Xuân Thu, Khổng Tử đã san định, hiệu Đính và giải thích bộ Lục
Kinh gồm có Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh Xuân Thu và
Kinh Nhạc. Về sau Kinh Nhạc bị thất lạc nên chỉ còn năm bộ kinh thường
được gọi là Ngũ Kinh. Sau khi Khổng Tử mất, học trò của ông tập hợp các
lời dạy để soạn ra cuốn Luận ngữ. Học trò xuất sắc nhất của Khổng Tử là
Tăng Sâm, còn gọi là Tăng Tử, dựa vào lời thầy mà soạn ra sách Đại học.
Sau đó, cháu nội của Khổng Tử là Khổng Cấp, còn gọi là Tử Tư viết ra
cuốn Trung Dung.
- Đến thời Chiến Quốc, Mạnh Tử đưa ra các tư tưởng mà sau này học trò
của ông chép thành sách Mạnh Tử. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử hình thành
nên Nho giáo nguyên thủy, còn gọi là Nho giáo tiền Tần (trước đời Tần),
Khổng giáo hay "Tư tưởng Khổng-Mạnh". Từ đây mới hình thành hai khái
niệm: "Nho giáo và Nho gia". Nho gia thì mang tính học thuật, nội dung của
nó còn được gọi là Nho học; còn Nho giáo mang tính tôn giáo vì ở Nho giáo,
Văn Miếu trở thành thánh đường và Khổng Tử trở thành Giáo Chủ, giáo lý
chính là các tín điều mà các nhà Nho cần phải thực hành.
2. Khái niệm Nhân cách

Page 7


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
Hiện nay, trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về nhân
cách. Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học
nhân cách thì chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống.
Song cách hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau
đây:

1. Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và
năng lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao
động).
2. Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người
3. Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ,
yêu

nước,

tinh

thần

quốc

tế



sản,

tinh

thần

lao

động.

4. Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con

người.
Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học
đại cương (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như
sau:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá
nhân, biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng
hoà không phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm
quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân.
Đây là định nghĩa về nhân cách được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam.
Trên đây là những quan điểm cơ bản của các trường phái tâm lý học về nhân
cách. Nhìn chung quan điểm khác nhau về nhân cách xoay quanh bảy vấn
đề, quan niệm như sau:
1. Quan điểm sinh vật hoá bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là
Page 8


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
bản năng tình dục (S.Phơrơt) là đặc điểm hình thể (Krestchmer), siêu đẳng,
bù trừ (Atle), vô thức tập thể (K.Jung) là các kiểu hoạt động thần kinh cấp
cao (những người quá tôn sùng học thuyết Paplôp). Thực chất của các quan
điểm trên dù hình thức biểu hiện ở mỗi người có khác nhau, nhưng đều sinh
vật hoá bản chất nhân cách, đều mang quan điểm duy tâm siêu hình.
2. Bản chất nhân cách là nhân tính con người đã được trường phái
nhân văn nhấn mạnh. Đại diện của trường phái này là C.Rôgiơ, A.Matxlâu,
G.Ônpooc…. Những người ở trường phái này đều quan tâm đến giá trị tiềm
năng bẩm sinh của con người, đến những đặc tính riêng của mỗi người, kinh
nghiệm của con người. A.Matxlâu cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng
con người. Những nhu cầu tiếp xúc, tình yêu, lòng kính trọng đều có tính
chất bản năng, đặc trưng cho giống người. Nhân cách là động cơ tự điều
hành (G. Ônpooc), là nhu cầu (A.Murây), là tương tác xã hội (G.H.Mít) là lo

lắng (K.Hoocnây). Những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh
vật của con người, phủ nhận bản chất xã hội của nhân cách. Do đó cũng
cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.
3. Nhân cách được hiểu là toàn bộ mối quan hệ xã hội của cá nhân
(Lucien Seve, Zeigarnit, Ogordnikov). Họ lấy các mối quan hệ xã hội của cá
nhân như trong quan hệ gia đình, nhà trường, cơ quan công tác, nghề nghiệp,
bạn bè… làm chuẩn để đánh giá nhân cách. Về thực chất, quan điểm này đã
xã hội hoá nhân cách một cách giản đơn.
4. Nhân cách được hiểu đồng nghĩa với hai khái niệm con người.
Platônôp cho rằng nhân cách là con người có ý thức, có lý trí và ngôn ngữ, là
con người lao động. Loại quan điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất
của con người mà không chú ý đến cái đặc thù, cái riêng của nhân cách.
5. Nhân cách được hiểu như cá nhân của con người với tư cách là chủ
thể của mối quan hệ và hoạt động có ý thức (A.G.Kôvaliốp, I.X.Kon). Hiện
Page 9


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
nay quan điểm này được đa số các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi
nhân cách là cá nhân là cá thể so với tập thể và xã hội.
6. Nhân cách được hiểu như là các thuộc tính nào đó tạo nên bản chất
nhân cách như là các thuộc tính ổn định, các thuộc tính sinh vật hoặc thuộc
tính xã hội. P.Buêva cho rằng nhân cách là con người với toàn bộ những
phẩm chất xã hội của nó. Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và những quy
luật cá nhân (H.Hipsô, M.Phorvec), là tổng số những những đặc điểm cá
nhân con người mà không người nào giống người nào (E.P.Hôlenđơ). Nhân
cách là tâm thế (Uzơnatze) là thái độ (V.N.Miaxisev), là phương thức tồn tại
của con người tong xã hội, trong điều kiện lịch sử cụ thể (L.I.Anxưphêrôva).
Những quan điểm này chỉ chú ý đến cái đơn nhất trong nhân cách, chưa thể
hiện tính toàn diện trong định nghĩa về nhân cách.

7. Nhân cách được hiểu như cấu trúc hệ thống tâm lý cá nhân. Trong
hàng chục năm lại đây, nhiều nhà tâm lý học đều có xu hướng kiểu nhân
cách là cấu trúc, hệ thống tâm lý (A.N.Lêônchiep, K. Obuchowxki). Nhân
cách là cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mối quan hệ sống của cá
nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó (A.N.Lêônchiep). Với
quan niệm bản chất nhân cách là một hệ thống tổ chức K. Ôbuchôpxki đã
định nghĩa như sau: “Nhân cách là sự tổ chức những thuộc tính tâm lý của
con người có tính chất, điều kiện lịch sử xã hội, ý nghĩa của nó cho phép giải
thích và dự đoán hành động cơ bản của con người”
Từ bảy quan niệm trên, chúng ta thấy rằng cho đến nay vẫn chưa có
một trường phái nào giải quyết một cách thoả đáng, một cách toàn diện về
vấn đề bản chất nhân cách. Vấn đề nhân cách vẫn luôn luôn là vấn đề nóng
bỏng và hết sức quan trọng trong các khoa học về con người nói chung và
tâm lý học nói riêng.

Page 10


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN

Chương 2
Quan điểm của Nho giáo về Nhân cách và sự hình thành Nhân cách

1. Bản chất nhân cách
Nhân cách không bẩm sinh được hình thành, như Mạnh Tử nói:
“Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cập, cập tương viễn” nghĩa là con
người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tình khá đồng nhất nhưng do
môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt
nhau.
Đạo đức là gốc của Nhân cách. Nói đến con người trước hết là nói đến

đạo đức. Đúng như thiên “Học Nhi” – sách Luận ngữ đã viết: “Làm người
có nết hiếu, đễ thì ít ai dám xúc phạm bề trên. Không thích xúc phạm bề
trên mà thích làm loạn thì chưa từng có. Người quân tử chăm chú vào
việc gốc, gốc mà vững thì đạo đức sinh ra. Hiếu, đễ là cái gốc của đức
nhân…”.
Trước thời Khổng Tử đã xuất hiện khái niệm quân tử. “Nhưng
thời đó nó trỏ cái địa vị trong xã hội, chứ không trỏ cái phẩm tính con
người. Người có phận cao (tối đại đa số ở trong giai cấp quý tộc) cai trị
dân, có đức hay không đều gọi là quân tử”. Đến thời mình, Khổng Tử
đã đề ra những tiêu chuẩn về tài đức, về tư cách phẩm chất để thành
người quân tử đáng được nắm quyền trị dân, nhờ đó tiếng quân tử
Page 11


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
không còn thuần tuý chỉ người cầm quyền như trước nữa, mà chủ yếu
là có nghĩa chỉ người có đức dù họ cầm quyền hay không.
Như trên ta thấy, với Khổng Tử, hiếu, đễ là gốc của đạo đức. Làm
người trước hết phải có hiếu nghĩa, phải đền ơn sinh thành. Chính vì
vậy ông từng mắng Tể Dư là bất nhân, bất hiếu không nhớ công cha mẹ
bồng bế ba năm, mà muốn rút thời gian để tang từ ba năm xuống một
năm: “Dư là đứa bất nhân? Đứa trẻ sinh ra, sau ba năm cha mẹ mới thôi
bồng bế. Dư nó có được cha mẹ bồng bế trong ba năm hay không?”.
Khổng Tử đề cao đức hiếu bởi vì làm người phải có lòng kính yêu cha
mẹ và người thân trong nhà, thì mới biết yêu thương người ngoài, yêu
thương đồng loại. Và làm người theo Khổng Tử trước hết phải có
“đức”, tu dưỡng “đức” rồi mới học văn. Đạo hiếu quan trọng như vậy,
nhưng như thế nào là hiếu? Hãy xem Khổng Tử trả lời Tử Du hỏi về
đạo hiếu: “Ngày nay người ta cho hiếu là có thể nuôi cha mẹ, nhưng đến
chó ngựa kia người ta cũng nuôi, nếu không kính cha mẹ thì có khác

gì?”. Như vậy, theo Khổng Tử, hiếu đức không phải chỉ là nuôi dưỡng
cha mẹ mà là chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ với sự thành kính, sự yêu
thương thật sự.
Mặc dù coi trọng hiếu đức như vậy nhưng quan niệm của Khổng
Tử không khắt khe, nghiệt ngã, một chiều mà rất đúng mực “Thờ cha
mẹ, nên nhỏ nhẹ khuyên can; nếu thấy cha mẹ không theo ý mình thì vẫn
cung kính mà không xúc phạm cha mẹ; tuy khó nhọc, lo buồn nhưng
không được oán hận”. Có thể nói quan niệm này của Khổng Tử nếu đặt
trong bối cảnh xã hội hiện đại vị tất đã lỗi thời mà vẫn gợi lên cho chúng
ta nhiều suy nghĩ.
Page 12


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN

Sau hiếu, đễ, nói đến “đức” là nói đến tính thiện. Khổng Tử quan
niệm: “Bản tính tốt chẳng phải học tập theo cổ nhân mà cũng tốt,
nhưng không đạt được mức tinh vi của đạo“. Người có “đức”, có tính
thiện thì “thấy việc thiện thì vội vàng như đuổi theo không kịp, thấy việc
bất thiện thì như nhúng tay vào nước sôi”. Nhưng điều chủ yếu “đức”
không phải chỉ là thiện đức mà là hành động. Khổng Tử nói: “Biết (đạo
lý) không bằng thích nó, thích nó không bằng vui làm theo nó” và “nghe
được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi đó là
những mối lo của ta“.
Như vậy, đức là lời nói đi đôi với việc làm đúng như Khổng Tử đã
nói: “Người xưa thận trọng lời nói, sợ sẽ xấu hổ nếu nói mà không làm
được” và “Người quân tử chậm chạp (thận trọng) về lời nói, mà mau
mắn về việc làm“.
Đọc “Luận ngữ”, chúng ta thấy Khổng Tử nói rất nhiều đến
“đức”, nhất là “đức” của người cầm quyền. Song đáng chú ý là Khổng

Tử quan niệm về “đức” không phải như một cái gì biệt lập mà là trong
sự thống nhất chặt chẽ không tách rời với tri thức, tài năng. Quan niệm
này thực sự nhất quán từ Khổng Tử đến các môn đệ của ông. Với
Khổng Tử thì “chất phác thẳng thắn văn nhã thì là người quê mùa; văn
nhã thẳng thắn chất phác thì là người chép sử (giữ việc văn thư); văn và
chất đều nhau mới là người quân tử”. Là người hết sức coi trọng đạo
đức như vậy đương nhiên, trong hoạt động của mình Khổng Tử bao giờ
cũng hành xử theo đúng những chuẩn mực đạo đức mà ông tôn thờ, coi
trọng và ra sức tuyên truyền nó trong xã hội, cho dù đời ông như chúng
Page 13


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
ta biết hết sức long đong, lận đận. Khổng Tử cho rằng: “Người có đức
thì không cô độc, tất có người đồng đạo kết bạn với mình như ở đâu thì
có láng giềng ở đó”. Với ông “sáng được nghe đạo lý, tối chết cũng được
(không hận)”. Bởi vậy, lẽ sống của Khổng Tử là “để tâm chí vào đạo,
giữ gìn đức hạnh, nương theo điều nhân, vui với lục nghệ“. Chính vì thế
mà khi gặp nguy ở nước Tống bị quan tư mã là Hoàn Khôi tìm cách
hãm hại, Khổng Tử thản nhiên nói: “Trời cho ta có phẩm đức, Hoàn
Khôi làm gì được ta”, hoặc khi ông đau nặng, Tử Lộ xin phép cầu đảo,
Khổng Tử nói: “Khâu này cầu đảo từ lâu rồi” (ý nói ăn ở phải đạo thì
chẳng cần phải cầu đảo). Thế mới biết ông tin và coi trọng đạo đức đến
mức nào.
Điều dễ nhận thấy là tuy Khổng Tử nói nhiều về “đức”, tin vào
“đức” và đề cao về “đức” như vậy, nhưng ông cũng nhận thấy rằng, xã
hội thời ông đang thiếu “đức” một cách nghiêm trọng. Chính là thực tế
xã hội và cuộc sống đã khiến ông phải buông ra những lời than thở: “Ta
chưa thấy ai hiếu đức bằng hiếu sắc“, “Học ba năm mà không có ý cầu
bổng lộc, dễ được mấy người?” và “Trung dung là đức cực đẹp vậy. Từ

lâu rồi, người ta ít có đức đó”. Ngay đối với lớp học trò được ông đào
tạo theo lý tưởng đạo đức của mình, Khổng Tử cũng phải thừa nhận:
“Anh Hồi (Nhan Uyên) lòng ba tháng không lìa đạo nhân, còn các anh
khác chỉ được một ngày, một tháng là cùng”. Có lần ông nói với Tử Lộ
rằng: “… người biết đạo đức (nghĩa lý) ít lắm”. Sống trong một xã hội
“vô đạo”, loạn lạc như vậy, một xã hội mà đầy rẫy những cảnh phản
loạn, tàn bạo, dâm bôn, đạo đức suy vi, phần nhiều giả dối, nói mà
không làm, nhưng Khổng Tử với lòng yêu thương con người thắm thiết,
vẫn tin ở con người, tin ở học thuyết của mình có thể cứu vớt cuộc đời.
Page 14


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
Với ông: “Người ta không thể làm bạn với cầm thú; ta không sống chung
với người trong xã hội này thì sống chung với ai? Nếu thiên hạ thịnh trị
thì Khâu này cần gì phải đổi nữa?”. Chính là trên cơ sở đó, mà Khổng
Tử đã đề xuất đường lối “Đức trị” – đường lối trị nước bằng đạo đức
mang đậm dấu ấn độc đáo của ông. Nguyễn Hiến Lê rất có lý khi nhận
xét rằng: “Khổng Tử là người đầu tiên nói nhiều nhất đến tư cách người
cầm quyền, đến bổn phận họ phải sửa mình, phải làm gương cho dân,
phải giáo hoá dân. Ông không tách rời đạo đức và chính trị, ông đã đạo
đức hoá chính trị. Và tất cả triết lý chính trị của ông gồm trong danh từ
đức trị, mà danh từ này có nghĩa là người trị dân, phải trị dân bằng
đức, chứ không bằng bạo lực…”
Trong bối cảnh xã hội đang chịu nhiều tác động tiêu cực từ mặt
trái của cơ chế thị trường hiện nay, rất cần trở lại với những giá trị đạo
đức truyền thống trong đó có tư tưởng đức trị Nho giáo. Quan niệm đức
là gốc của con người và thiện đức phải biểu hiện ở hành động của
Khổng Tử vẫn còn nguyên giá trị và rất cần được tuyên truyền giáo dục
rộng rãi trong xã hội ta ngày nay.


2.Các kiểu nhân cách (Thành phần nhân cách)
Nhân cách được thể hiện ra bên ngoài qua các kiểu nhân cách
2.1.Người quân tử - Kẻ tiểu nhân:
Phân loại con người theo tiêu chuẩn đạo đức thành quân tử và tiểu
nhân là cách phân loại đặc trưng nhất, được đề cập đến nhiều nhất trong Luận
ngữ. Người ta thường nói, đạo Nho là đạo của người quân tử. Bởi vì, Nho
Page 15


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
giáo bàn rất nhiều về người quân tử, coi đó là mẫu người lý tưởng, toàn thiện,
toàn mỹ nhất. Mọi sự cố gắng học tập, tu dưỡng đạo đức đều nhằm đạt đến
danh hiệu cao quý ấy. Đó cũng chính là mục đích mà nền giáo dục Nho giáo
hướng tới.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về đạo của người quân tử, như Cái
quan niệm người quân tử trong triết học đạo Khổng của Phạm Quỳnh; Kinh
Dịch - Đạo của người quân tử của Nguyễn Hiến Lê; Trần Trọng Kim bàn về
người quân tử trong cuốn Nho giáo, v.v.. Nhìn chung, các tác phẩm đó đã đề
cập tương đối toàn diện về người quân tử và xem xét trên nhiều khía cạnh,
nhiều phương diện khác nhau. Nhưng, mặt đối lập với nó là kẻ tiểu nhân thì
lại chưa có được một sự quan tâm, tìm hiểu thích đáng, mặc dù việc nghiên
cứu về kẻ tiểu nhân sẽ làm nổi bật hơn vai trò và tính cách của người quân
tử.
Lúc đầu, quân tử được hiểu là người có địa vị tôn quý, còn tiểu nhân
là người dân thường, không có địa vị xã hội. Về sau, nghĩa của từ được dùng
rộng ra và theo những tiêu chuẩn đạo đức là chính, khi đó quân tử được coi
là người có đức hạnh cao quý, còn tiểu nhân là người có chí khí hèn hạ, thấp
kém. Theo nghĩa đó, người quân tử dẫu bần cùng, khổ sở thì vẫn là người có
chí khí quân tử. Kẻ tiểu nhân tuy có quyền cao, chức trọng, cũng vẫn là kẻ

tiểu nhân. Khổng Tử nói rằng: "Ăn cơm thô, uống nước suông, co cánh tay
mà gối đầu, niềm vui cũng có ở trong đó. Còn bất nghĩa mà được giàu sang
thì đối với ta chỉ như phù vân" (Phan sơ tự, ẩm thủy, khúc quăng nhi chẩm
chi, lạc diệc tại kỳ trung hỹ. Bất nghĩa nhi phú tha quý, ư ngã như phù vân).
Tuy cùng học đạo thánh hiền, nhưng có người là Nho quân tử, có người lại
là Nho tiểu nhân. Nho quân tử là những người học rộng mà có khí tiết, học

Page 16


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
đạo thánh hiền mà ăn ở theo bậc thánh hiền. Còn những người học rộng mà
không có khí tiết, không có liêm sỉ, học đạo thánh hiền mà không noi gương
các bậc thánh hiền thì gọi là Nho tiểu nhân. Với ý nghĩa đó, tiểu nhân không
phải toàn là những người không có địa vị xã hội, không có học thức. Những
người quyền cao chức trọng nhưng đạo đức kém cỏi, chí khí hèn nhát, mượn
tiếng học đạo thánh hiền để mưu cầu danh lợi, luôn nói đạo đức nhưng lại làm
toàn những chuyện bất nhân, bất nghĩa thì cũng vẫn chỉ là Nho tiểu nhân mà
thôi. Bởi vậy, Khổng Tử khuyên học trò của mình là Tử Hạ chỉ nên làm nhà
Nho quân tử, chứ đừng làm nhà Nho tiểu nhân.
Sự phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân không chỉ ở địa vị xã hội, ở
học thức, mà cái chính là ở phẩm chất đạo đức, ở phong cách sống và thái độ
ứng xử, ở mục đích và lý tưởng sống. Trên phương diện này, tính cách của
quân tử và tiểu nhân đối lập nhau hoàn toàn, không thể dung hoà được.
Người quân tử luôn tôn cao phẩm giá của mình trong mọi hoàn cảnh. Còn kẻ
tiểu nhân trong lúc thái quá hay trong cơn bất cập thường đánh mất nhân
phẩm của mình. Trong Luận ngữ, Khổng Tử đã nhiều lần so sánh giữa quân
tử với tiểu nhân. Qua sự so sánh đó, có thể rút ra những điểm khác nhau cơ
bản giữa hai loại người này như sau:
Thứ nhất, quân tử là người chuyên cần học đạo thánh hiền, học rộng

hiểu sâu, tôn trọng đạo "Trung dung". Còn kẻ tiểu nhân luôn đam mê theo
vật dục, trông chờ, nhờ cậy vào người khác và luôn làm trái với đạo "Trung
dung".
Theo Khổng Tử, "Người quân tử trông cậy ở mình, tiểu nhân trông
cậy ở người" (Quân tử cầu chư kỷ, tiểu nhân cầu chư nhân). Theo ông, con
người trước hết phải lo tự mình tạo lập cho bản thân mình trên cơ sở của sự
Page 17


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
rèn luyện, tu dưỡng bản thân, chịu khó học tập, trau dồi về đạo lý và đức
hạnh. Bản thân ông là một tấm gương sáng về sự kiên trì, nỗ lực học tập suốt
đời. Ông coi đó là những điều kiện tiên quyết của sự thành đạt, nhưng cũng
không bỏ qua sự tác động của những yếu tố khách quan, như "thiên thời, địa
lợi, nhân hoà". Trên cơ sở những phẩm chất tốt đẹp và có chí khí, người quân tử
tin tưởng ở bản thân mình, tự mình làm nên sự nghiệp, "dương danh hiển thân".
Còn kẻ tiểu nhân, do ý chí nhu nhược nên luôn tìm cách dựa dẫm vào người
khác để thoả mãn tham vọng của mình.
Người quân tử do kiên trì, nỗ lực học tập đạo lý nên đức ngày càng
cao, hiểu biết đạo lý ngày càng uyên thâm, hành động ngày càng thuần thục,
hợp đạo lý. Nhờ đó, người quân tử lập được công danh, sự nghiệp, đạt được
địa vị cao trong xã hội, đảm đương những công việc chính trị có hiệu quả.
Còn kẻ tiểu nhân, vì lười biếng học tập, tu thân nên không thể tiến bộ được.
Kẻ tiểu nhân làm việc gì cũng chỉ nghĩ đến lợi ích cá nhân trước hết nên
không được tín nhiệm, nếu có địa vị thì làm việc không có hiệu quả. Khổng
Tử đã nhận xét rằng: "Quân tử thông đạt về nhân nghĩa, tiểu nhân thông đạt
về tài lợi" (Quân tử thượng đạt, tiểu nhân hạ đạt).
Theo Khổng Tử, "Người quân tử thì trung dung, kẻ tiểu nhân thì phản
trung dung" (Quân tử trung dung, tiểu nhân phản trung dung). Người quân
tử ham học đạo lý để tiến đức, sửa nghiệp, thông hiểu được cái lý lẽ cao xa,

vi diệu, rồi chọn lấy cái vừa phải mà theo. Họ luôn giữ cái tâm của mình ở
mức giữa (mức trung), không chao đảo, thiên lệch, không để cho ngoại cảnh
cám dỗ mà sa vào tư dục. Khổng Tử từng ca ngợi đạo "Trung dung" thật là
tuyệt vời. Nhưng ông cũng phải thừa nhận rằng, đã từ lâu, đạo ấy ít được
người dân thực hiện. Người trí, người hiền thì chê mà chẳng giữ; người ngu,

Page 18


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
người thường thì ngán mà chẳng theo. Kẻ tiểu nhân vì chỉ biết cái lợi ích của
bản thân nên biếng nhác, xao lãng cái đạo lý cao siêu đó và để cái tâm lệch
khỏi đạo. Vì vậy, họ chỉ làm được những việc tầm thường, trái với đức trung
dung.
Thứ hai, quân tử trọng nghĩa, phân biệt phải, trái một cách khách quan,
công minh, không tư vị. Người quân tử luôn thoải mái, không kiêu căng, hống
hách. Còn kẻ tiểu nhân chỉ coi trọng lợi, có lòng tư vị, không chính trực, nên
trong lòng luôn lo lắng, không thoải mái. Khổng Tử nói rằng: "Quân tử hiểu rõ
nghĩa, tiểu nhân biết rõ lợi" (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi).
Đức "nghĩa" là một phạm trù đạo đức quan trọng trong đạo Nho, là
một yếu tố cấu thành "ngũ thường". Mạnh Tử coi "nghĩa" là con đường to
lớn hơn hết trong thiên hạ mà người quân tử, bậc đại trượng phu phải đi
theo. Khổng Tử đánh giá rất cao đức "nghĩa" và chủ trương "Quân tử lấy
nghĩa làm trên hết. Quân tử có dũng mà không có nghĩa thì làm loạn" (Quân
tử nghĩa dĩ vi thượng. Quân tử hữu dũng, nhi vô nghĩa, vi loạn). Ông kêu gọi
"Người quân tử đối với mọi việc trong thiên hạ, không quy định phải làm
như thế nào, cũng không quy định không được làm như thế nào, chỉ xét hợp
nghĩa thì làm" (Quân tử chi ư thiên hạ giã, vô thích giã, vô mịch giã, nghĩa
chi dữ tỷ).
Nho giáo không đưa ra một định nghĩa kinh điển nào về "nghĩa". Tuỳ

từng hoàn cảnh, đối tượng, mà việc giảng giải về "nghĩa" khác nhau. Tựu
trung lại, có thể nói, phạm trù "nghĩa" bao gồm những cái cao thượng, chính
trực, tốt đẹp và phù hợp với nhân và lễ. Làm điều "nghĩa" là để thi hành đạo
nhân và giữ gìn lễ tiết. Bởi vậy, "nghĩa" được coi là cái gốc của mọi sự việc,

Page 19


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
còn người quân tử thì bao giờ cũng phải lấy "nghĩa" làm cái cốt yếu, cơ sở
cho mọi suy nghĩ và hành động.
Đối lập với "nghĩa" là "lợi". "Lợi" (được hiểu là lợi ích, quyền lợi)
thường gắn liền với tư dục, tham vọng... của con người. Nho giáo cho rằng,
chỉ có kẻ tiểu nhân mới tham lợi, vì lợi mà quên cả nhân nghĩa. Khổng Tử so
sánh: "Quân tử nghĩ đến đức, tiểu nhân nghĩ đến chỗ ở; quân tử quan tâm
đến phép tắc, tiểu nhân quan tâm đến ân huệ" (Quân tử hoài đức, tiểu nhân
hoài thổ. Quân tử hoài hình, tiểu nhân hoài huệ). Thực chất, cả hai cách xử
thế "trọng nghĩa khinh lợi" hay "trọng lợi, coi thường nghĩa" đều bộc lộ
những điểm mâu thuẫn, bất hợp lý. Để có thể tồn tại được, người ta không
thể không quan tâm đến quyền lợi của mình. Nhưng, nếu người ta quá đề
cao nó, tuyệt đối hoá nó, coi lợi ích cá nhân là mục đích, là lẽ sống, là trên
hết, thì lại là không đúng, là sa vào chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chỉ biết mình
(như quan niệm của Dương Chu). Chủ nghĩa cá nhân sẽ sản sinh ra lối sống
thực dụng như ở các nước tư bản hiện nay. Ngược lại, việc đề cao lợi ích xã
hội, không quan tâm đến lợi ích cá nhân cũng sẽ dẫn đến những hậu quả tai
hại. Nó sẽ làm mất đi một động lực quan trọng của sự phát triển xã hội, đó là
sự đáp ứng những nhu cầu, lợi ích chính đáng của cá nhân. Vì vậy, một quan
điểm đúng đắn là phải biết kết hợp hài hoà giữa nghĩa và lợi, không thái quá,
cũng không bất cập. Khổng Tử đã cảnh cáo rằng, những người chỉ làm theo
lợi thì ắt có nhiều người oán thù. Ông cũng khuyên những người quân tử

cầm quyền phải biết quan tâm đến lợi ích quốc gia, cũng như những lợi ích
thiết thân của mỗi cá nhân.
Do trọng nghĩa, khinh lợi, làm việc thì công minh, chính trực, không
tư vị nên người quân tử lúc nào cũng khiêm nhường, không kiêu ngạo, tâm

Page 20


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
trạng luôn thư thái và có thể hoà mình được với mọi người. Họ không mưu
cầu danh lợi cho riêng mình nên cũng không bon chen, cầu cạnh, đấu đá,
tranh giành. Trong phép xử thế, họ luôn giữ đạo "Hành - Tàng", nước có đạo
thì ra làm quan, nước không có đạo thì về ở ẩn. Bởi vậy, "Quân tử thì thản
nhiên thư thái" (Quân tử thản đãng đãng); "thư thái mà không kiêu căng"
(Thái nhi bất kiêu)(10), "hoà hợp chứ không hùa theo" (Hoà nhi bất đồng)
(11). Ngược lại, kẻ tiểu nhân vì tham lợi mà làm càn, ích kỷ hại nhân, kéo bè
kéo đảng để thực hiện tham vọng của mình, nên tâm trạng luôn căng thẳng,
không thoải mái. Kẻ tiểu nhân khi đắc chí thì kiêu căng, cao ngạo; khi thất
thế thì lo sợ, tìm đủ mọi cách để dung thân. Vì vậy, "Tiểu nhân thì kiêu căng
mà không thư thái" (Tiểu nhân kiêu nhi bất thái)(12) và "Tiểu nhân thường
hay lo lắng, ưu sầu" (Tiểu nhân trường thích thích).
Thứ ba, quân tử là người có đạo đức, nhân nghĩa và muốn phổ cập đạo đức
ấy trong thiên hạ. Họ có khả năng làm được những việc lớn, biết dùng người
hiền tài, làm việc ngay thẳng, chính trực. Lúc bình thường cũng như trong
cơn nguy khốn, họ luôn giữ vững đạo lý. Còn kẻ tiểu nhân thì không thể
giúp người làm việc tốt, gặp lúc khốn khó thì hay làm việc càn quấy. Khổng
Tử nói rằng: "Người quân tử mà phạm điều bất nhân, thì có; nhưng chưa
từng có kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân" (Quân tử nhi bất nhân giả, hữu
hỹ phù. Vị tiểu nhân nhi nhân giả giã). Trong thực tế, con người không phải
lúc nào cũng sáng suốt, minh mẫn, không phạm sai lầm. Bởi vậy, người

quân tử có lúc phạm vào điều bất nhân cũng là dễ hiểu, vì "nhân vô thập
toàn". Còn kẻ tiểu nhân thì không thể làm được điều nhân đức, vì họ luôn bị
cái tư dục chi phối, luôn ghen ghét và đố kỵ, không muốn ai bằng mình.

Page 21


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
Do có đức sáng và có lòng nhân, người quân tử muốn làm toả đức sáng
trong thiên hạ. Họ sẵn sàng làm việc tốt và ngăn ngừa việc xấu, giúp mọi
người sống đúng theo đạo "luân thường". Khổng Tử đã nhận xét rằng:
"Người quân tử giúp người ta làm việc tốt, không giúp người ta làm việc
xấu. Còn kẻ tiểu nhân thì trái lại" (Quân tử thành nhân chi mỹ, bất thành
nhân chi ác. Tiểu nhân phản thị).
Quân tử là người có tài năng, có thể làm được những công việc lớn.
Cái sáng suốt của nhà cầm quyền là biết dùng người đúng khả năng, đúng
công việc. Đối với người có tài đức - ví như người quân tử - thì nhà cầm
quyền không nên giao cho họ những công việc nhỏ nhặt, vụn vặt, mà nên
giao cho họ những công việc quan trọng. Còn với kẻ tiểu nhân, do tâm lý vụ
lợi nên không đảm trách được những công việc lớn, song có thể làm tốt công
việc nhỏ.
Dùng đúng người, đúng việc là một yếu tố quan trọng quyết định sự
thành bại, phát huy "sở trường", hạn chế "sở đoản" của mỗi người. Vì vậy,
Nho giáo rất coi trọng thuật "dùng người". Theo Khổng Tử, kẻ làm quan tùy
tài đức của mình mà thi thố giúp dân, giúp nước, chứ không chờ hội đủ các
tài đức. Ông nói với Quý Khương Tử rằng, Trọng Do là người quả quyết, Tử
Cống là người thông đạt lý sự, Nhiễm Hữu là người có nhiều tài nghệ… đều
có thể ra làm quan được. Khổng Tử sợ nhất là những kẻ “ăn không ngồi rồi”,
chẳng dụng tâm làm việc gì. Theo ông, đó là những con người mà xã hội cần
phê phán và lên án. Khổng Tử còn nói rằng, người quân tử không bao giờ xa

rời đạo, dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Họ là những con người mà phú quý
không thể cám dỗ, nghèo khó không thể lay chuyển, uy vũ không thể khuất
phục được. Bản thân ông cũng đã nhiều lần gặp cảnh cùng khốn, nhưng đạo

Page 22


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
lý không hề suy suyển. Còn những kẻ tiểu nhân "cùng khốn thì làm càn"
(Tiểu nhân cùng, tư lạm hỹ).

2.2.Nhân cách theo giới tính
Khổng Tử đặt ra một loạt Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ
Đức... để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội. Tam
Cương và Ngũ Thường là lẽ đạo đức mà Nam giới phải theo. Tam Tòng và
Tứ Đức là lẽ đạo đức mà Nữ giới phải theo. Khổng Tử cho rằng người trong
xã hội giữ được Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tòng, Tứ Đức thì xã hội sẽ
được an bình.
A. Tam Cương: Nói về ba mối quan hệ Quân Thần (vua tôi), Phụ Tử (cha
con), Phu Phụ (chồng vợ).
· Quân Thần ( Vua Tôi): Trong quan hệ vua tôi. Vua thì thưởng phạt công
minh, Tôi tớ phải trung thành một dạ.
· Phụ Tử ( Cha Con ): Cha hiền Con hiếu. Cha có nghĩa vụ nuôi dạy con
cái, Con phải hiếu thảo và phụng dưỡng khi cha về già.
· Phu Phụ (Chồng vợ ): Chồng phải yêu thương và đối xử công bằng với
vợ. Vợ phải chung thủy tuyệt đối với chồng .
Page 23


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN

B. Ngũ Thường: Ngũ là năm; Thường là hằng có; Ngũ Thường là năm điều
phải hằng có khi ở đời, gồm: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
·

Nhân: Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật.

·

Nghĩa: Cư xử với mọi người công bình theo lẽ phải.

·

Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người.

·

Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt rõ thiện ác, đúng sai.

·

Tín: Giữ đúng lời hứa, đáng tin cậy.

C. Tam Tòng: Tam là ba, Tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ
phải theo, bao gồm: "Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử"
·

Tại gia tòng phụ : tức người phụ nữ khi còn ở nhà thì phải theo cha.

·


Xuất giá tòng phu : lúc lấy chồng phải theo chồng.

·

Phu tử tòng tử

: nếu chồng qua đời phải theo con .

D. Tứ Đức: bốn tính nết tốt của người phụ nữ phải có là: Công - Dung Ngôn - Hạnh.
·

Công : khéo léo trong công việc.

·

Dung : hòa nhã trong sắc diện.

·

Ngôn : mềm mại trong lời nói.

·

Hạnh : nhu mì trong tính nết.

3.Động lực hình thành và phát triển nhân cách theo Nho giáo
3.1. Thông qua giáo dục
Theo Nho giáo cần phải học, phải luyện tập, rèn luyện mới thành
người. Đối với đức Khổng Tử thì đối tượng giáo dục là "hữu giáo vô loài"
(Bất cứ ai, không phân biệt giàu nghèo, sang hèn đều có thể dạy)

Page 24


Nguyễn Thị Biên – K21 Cao học GDMN
Trong suốt cuộc đời làm thầy của mình, bên cạnh việc dạy chữ, bao giờ
Khổng Tử cũng chú trọng vào việc dạy người. Tư tưởng nội dung của học
thuyết mà Khổng Tử áp dụng vào giáo dục mang tính nhập thế và tích cực.
Khổng Tử đã nhận định tính chất của giáo dục là cải tạo nhân tính cho nên
ông cho rằng giáo dục có ý nghĩa rất quan trọng. Đối với Khổng Tử nhân
tính hòa lẫn giữa thiện và ác. Theo ông, thiện ác của nhân loại đều do phần
giáo dục quyết định, ông khẳng định rằng: "con người bằng nỗ lực chủ quan
của mình cũng có thể làm thay đổi cái Thiên tính ban đầu" [6, tr 31]. Ông
Muốn đạt được "Nhân" còn phải thông qua tu dưỡng theo "Lễ"; một
người nhân ái phải căn cứ vào yêu cầu của lễ để hài hòa với thế giới bên
ngoài. Khi Nhan Hồi hỏi: "Người không nói, không phải lễ không làm, nhân
ái cụ thể cần phải làm gì?". Khổng Tử đáp: "Phi lễ vật thị, phi lễ vật thính,
phi lễ vật ngôn, phi lễ vật động" (không phải lễ không nhìn, không phải lễ
không nghe, không phải lễ không nói, không phải lễ không làm). Lễ là lễ
nghi thể hiện các quy phạm đạo đức. Lễ mà Khổng Tử nói đến là lễ nghi và
những quy tắc đạo đức thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con
người. Tuy "Lễ" mà Khổng Tử xây dựng có từ thời nhà Chu.
Khổng Tử cũng nhấn mạnh việc học kiến thức, ông cho rằng con
người ai cũng có thể qua học tập mà trở thành người tốt và "Yêu thức kiến
thức là một cách để có được sự khôn ngoan”. Ông luôn đề cao việc học và
chính ông cũng là tấm gương học tập không mệt mỏi. Khổng Tử khẳng định
học tập là hậu thiên, là tiền đề quan trọng của việc giáo dục bởi vì suy cho
cùng thì đạo đức, tri thức là do học mà có, muốn trở thành người có ích thì
phải

học.

Một trong những mục đích của giáo dục theo Khổng Tử là học để ứng

dụng cho có ích với đời "học dĩ chí dụng" chứ không phải học để ra làm

Page 25


×