Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN LUẬT PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (678.86 KB, 96 trang )

BÁO CÁO NGHIÊN CỨU
Hà Nội, tháng 10 - 2010

ĐÁNH GIÁ VIỆC THỰC HIỆN
LUẬT PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Nghiên cứu trên địa bàn 4 xã thuộc các tỉnh, thành phố:
Yên Bái, Hà Nam, Đà Nẵng, Tp Hồ Chí Minh

Trung tâm Nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi
trường trong Phát triển (CGFED)
Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình
và Môi trường trong Phát triển (CGFED)


Nhóm tác giả-thành viên mạng Gencomnet:
Viết báo cáo:
GS. TS.Lê Ngọc Hùng, Viện Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Các trưởng nhóm nghiên cứu và viết báo cáo định tính:
PGS. TS. Hoàng Bá Thịnh, Đại học KHXH&NV (Báo cáo nghiên cứu Tp Hồ Chí Minh)
Ths. Lê Thị Mộng Phượng (Báo cáo nghiên cứu Đà Nẵng và Hà Nội)
Ths. Phạm Kim Ngọc, CGFED (Báo cáo nghiên cứu Yên Bái)
Vũ Thị Thanh Nhàn, ISDS (Báo cáo nghiên cứu Hà Nam)

2


Mục lục
Lời cảm ơn
Phần 1: Giới thiệu
Phần 2: Phương pháp nghiên cứu
I.



Mục đích nghiên cứu

II.

Chọn mẫu nghiên cứu

III.

Phương pháp nghiên cứu

IV.

Đối tượng nghiên cứu

V.

Khách thể nghiên cứu

VI.

Khung lý thuyết

VII.

Khái niệm công cụ

Phần 3: Thực trạng bạo lực gia đình
I.


Hiểu biết về luật phòng chống bạo lực gia đình

II.

II. Đánh giá tình hình bạo lực gia đình và cách xử lí

Phần 4: Nguyên nhân của bạo lực gia đình
I.

Nguyên nhân

II.

Đánh giá

III.

Các lý giải đặc biệt

Phần 5: Hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình
I.

Tuyên truyền Luật phòng chống bạo lực gia đình

II.

Đánh giá sự tham gia hiệu quả thực tế của các tổ chức

III.


Các thuận lợi trong phòng chống bạo lực gia đình

IV.

Các khó khăn trong phòng chống bạo lực gia đình

V.

Các giải pháp để thực hiện hiệu quả luật phòng chống bạo lực gia đình

Phần 6: Kết luận và khuyến nghị
I.

Kết luận

II.

Khuyến nghị

Tài liệu tham khảo
Phụ lục

3


Chữ viết tắt
BCH

Ban chấp hành


BĐG

Bình đẳng giới

BLGĐ

Bạo lực gia đình

BL

Bạo lực

CEDAW

Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ

CLB

Câu lạc bộ

Gencomnet

Mạng Giới và phát triển cộng đồng

HĐND

Hội đồng Nhân dân

HLHPN


Hội Liên hiệp Phụ nữ

HPN

Hội phụ nữ

PN

Phụ nữ

PCBLGĐ

Phòng chống bạo lực gia đình

UBND

Uỷ ban Nhân dân

4


Biểu bảng
Các sơ đồ
 Sơ đồ 1. Khung lý thuyết nghiên cứu đánh giá việc triển khai thực hiện luật
PCBLGĐ
 Sơ đồ 2 : Tổ hoà giải cấp Phường và cấp cơ sở
 Sơ đồ 3: Mạng lưới truyền thông ở địa phương
Các biểu đồ
 Biểu đồ 1. Cơ cấu tuổi của người trả lời chia theo nam, nữ
 Biểu đồ 2.. Cơ cấu tình trạng hôn nhân của người trả lời

 Biểu đồ 3 Cơ cấu mẫu thành thị - nông thôn chia theo giới tính nam, nữ
 Biểu đồ 4. Tỉ lệ nam và nữ "có nghe nói đến" Luật phòng, chống bạo lực gia
đình
 Biểu đồ 5. Tỉ lệ nam và nữ nhận biết "đúng" về hành vi bạo lực gia đình
 Biểu đồ 6. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ ý kiến đồng ý đối với lý do ”Chồng có thể
ngược đãi, hành hạ vợ”
 Biểu đồ 8. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nam và nữ cho biết tình hình bạo lực gia đình
ở thôn trong một năm qua: một số hành vi bạo lực gia đình
 Biểu đồ 9. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ ý kiến cho biết ở thôn có các hình thức tuyên
truyền luật Phòng, chống bạo lực gia đình phân chia theo địa phương
 Biểu đồ 10. Biểu đồ thể hiện điểm trung bình về mức độ tham gia và hiệu quả
thực tế của phòng, chống BLGĐ đối với từng tổ chức ở địa phương
 Biểu đồ 11. Biểu đồ thể hiện điểm trung bình đánh giá trách nhiệm của từng
loại cán bộ cấp thôn phân chung cho cả nam và nữ. Thang điểm: 1 điểm là
trách nhiệm thấp nhất và 3 điểm là trách nhiệm cao nhất
 Biểu đồ 12. Biểu đồ thể hiện điểm trung bình đánh giá trách nhiệm của từng
loại cán bộ cấp xã phân chia theo nam nữ và chung nam nữ. Thang điểm: 1
điểm là trách nhiệm thấp nhất và 3 điểm là trách nhiệm cao nhất
 Biểu đồ 13. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nam nữ cho biết loại biện pháp xử lý phổ
biến nhất đã áp dụng khi xảy ra bạo lực gia đình
Các bảng
 Bảng 1. Cơ cấu Dân tộc phân chia theo giới tính nam và nữ
 Bảng 2. Cơ cấu tôn giáo của người trả lời chia theo nam, nữ
 Bảng 3. Cơ cấu thành thị và nông thôn phân theo tỉnh, thành phố
 Bảng 4. Cơ cấu trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật
 Bảng 5. Cơ cấu nghề nghiệp của người trả lời chia theo nam nữ
 Bảng 6. Tỉ lệ tự đánh giá mức sống nghèo, trung bình, khá, giàu phân chia
theo nam và nữ
 Bảng 7. Tỉ lệ tự đánh giá mức sống nghèo, trung bình, khá, giàu phân chia
theo địa phương

 Bảng 8. Tỉ lệ người có nghe nói đến luật Phòng, chống bạo lực gia đình phân
theo tỉnh thành
 Bảng 9. Tỉ lệ nhận biết đúng các biểu hiện hành vi bạo lực gia đình phân chia
theo địa phương

5


 Bảng 10. Tỉ lệ ý kiến cho biết nguyên nhân quan trọng nhất gây ra bạo lực gia
đình phân chia theo địa phương
 Bảng 11. Mức độ quan trọng của từng nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình.
(1 điểm là quan trọng nhiều nhất, 3 điểm là quan trọng ít nhất)
 Bảng 12: Tỉ lệ ý kiến “đồng ý” với từng lý do chồng có thể ngược đãi, hành hạ
phân chia theo địa phương.
 Bảng 13. Tỉ lệ số ”đồng ý”, ”không đồng ý” với từng ý kiến về quyền của cha
mẹ trong việc sử dụng bạo lực trong giáo dục con cái
 Bảng 14. Tỉ lệ số ”đồng ý”, ”không đồng ý” với từng ý kiến về quyền của cha
mẹ trong việc sử dụng bạo lực trong giáo dục con cái
 Bảng 15. Điểm trung bình đánh giá mức độ đồng ý đối với từng nhận định,
phân chia theo nam và nữ. 1 là đồng ý và 3 là không đồng ý
 Bảng 16. Tỉ lệ nam và nữ cho biết lý do gia đình có hiện tượng con cái đánh
đập, chửi mắng cha mẹ
 Bảng 17. Tỉ lệ các ý kiến cho biết ở thôn đã xảy ra bạo lực ra đình trong một
năm quan phân theo địa phương
 Bảng 18. Tỉ lệ ý kiến cho biết ai là người can ngăn trong vụ BLGĐ xảy ra
trong thời gian gần đây nhất ở nơi cư trú
 Bảng 19. Tỉ lệ nam nữ cho biết lí do vì sao không có ai can ngăn vụ bạo lực
gia đình
 Bảng 20. Tỉ lệ ý kiến cho biết ở thôn "có" hay "chưa có" tuyên truyền về nội
dung phòng chống bạo lực gia đình trong 6 tháng qua phân chia nam nữ

 Bảng 21. Tỉ lệ ý kiến cho biết ở thôn "có" hay "chưa có" tuyên truyền về nội
dung phòng chống bạo lực gia đình trong 6 tháng qua phân chia theo địa
phương
 Bảng 22. Tỉ lệ nam và nữ cho biết có các hình thức tuyên truyền luật Phòng
chống bạo lực gia đình
 Bảng 23. Tỉ lệ nam nữ cho biết các biên pháp đã áp dụng ở địa phương để
phòng, chống bạo lực gia đình
 Bảng 24. Điểm trung bình về mức độ quan trọng của từng yếu tố thuận lợi
trong phòng chống bạo lực gia đình ở địa phương
 Bảng 25. Tỉ lệ các ý kiến cho biết yếu tố thuận lợi nhất trong phòng chống bạo
lực gia đình phân theo địa phương
 Bảng 26. Điểm trung bình về mức độ quan trọng của từng yếu tố khó khăn
trong phòng, chống bạo lực gia đình ở địa phương
 Bảng 27. Tỉ lệ ý kiến cho biết yếu tố khó khăn nhất trong phòng, chống bạo
lực gia đình phân theo địa phương
 Bảng 28. Tỉ lệ nam và nữ cho biết chủ thể chịu trách nhiệm phòng, chống bạo
lực gia đình
 Bảng 29. Điếm trung bình về mức độ ưu tiên của từng biện pháp phân chia
theo nam nữ và chung nam nữ. Thang điểm: 1 là ưu tiêu hàng đầu và 3 là ưu
tiên hạng ba.
 Bảng 30. Tỉ lệ nam nữ cho biết các hoạt động bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân BLGĐ
ở địa phương

6


 Bảng 31. Tỉ lệ ý kiến cho biết ở địa phương có các hoạt động bảo vệ và hỗ trợ
nạn nhân bạo lực gia đình phân chia theo địa phương
 Bảng 32. Tỉ lệ nam và nữ cho biết ở địa phương “có” hay “không có” cơ sở trợ
giúp nạn nhân bạo lực gia đình

 Bảng 33. Tỉ lệ các ý kiến cho biết địa phương có hay không các cơ sở trợ giúp
nạn nhân bạo lực gia đình phân chia theo địa phương
 Bảng 34. Tỉ lệ nam và nữ cho biết ở địa phương có các loại cơ sở trợ giúp nạn
nhân BLGĐ
 Bảng 35. Tỉ lệ các ý kiến cho biết có các cơ sở trợ giúp nạn nhân bạo lực gia
đình phân chia theo địa phương
 Bảng 36. Tỉ lệ nam và nữ cho biết hàng tháng cán bộ ở thôn “có” hoặc
“không” kiểm tra, giám sát việc phòng chống bạo lực gia đình
 Bảng 37. Tỉ lệ ý kiến cho biết cán bộ ở thôn có hoặc không kiểm tra, giám sát
việc phòng chống bạo lực gia đình phân chia theo địa phương
 Bảng 38. Tỉ lệ ý kiến cho biết sự có mặt của cán bộ cơ sở khi xảy ra bạo lực
gia đình để can thiệp, xử lý
 Bảng 39. Tỉ lệ ý kiến cho biết cán bộ cơ sở có mặt để can thiệp, xử lý vụ bạo
lực gia đình phân chia theo địa phương
 Bảng 40. Tỉ lệ ý kiến cho biết ở địa phương có trường hợp người chồng đánh
vợ nhưng không cho người ngoài vào can thiệp
 Bảng 41. Tỉ lệ ý kiến cho biết tình trạng xảy ra trường hợp chồng đánh vợ
nhưng không cho người ngoài can thiệp phân chia theo địa phương
 Bảng 42. Tỷ lệ ý kiến cho biết cán bộ cơ sở “có” và “không” áp dụng biện
pháp can thiệp trong trường hợp “chồng đánh vợ nhưng không cho người
ngoài vào can thiệp”
Các hộp
 Hộp 1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Minh Bảo, tỉnh Yên Bái
 Hộp 2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà
Nam
 Hộp 3. Đăc điểm kinh tế xã hội của Phường Hòa Thọ Tây, thành phố Đà Nẵng
 Hộp 4. Đặc điểm kinh tế xã hội của xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, tp Hồ Chí
Minh.

LỜI CẢM ƠN

Để có thể thực hiện thành công cuộc nghiên cứu này, chúng tôi đã làm việc với
nhiều cá nhân, gia đình, tổ chức, cơ quan ở thành phố Hà Nội; xã Minh Bảo, thành phố

7


Yên Bái, tỉnh Yên Bái; xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam; phường Hòa Thọ
Tây, thành phố Đà Nẵng; xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Ở
bất cứ địa bàn nào, chúng tôi đều nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ, và chia sẻ quý báu từ tất
cả những người mà chúng tôi đã có dịp tiếp xúc và trao đổi tình hình thực tiễn cũng như
đánh giá về việc thực hiện luật Phòng, chống Bạo lực gia đình. Chúng tôi xin được bày tỏ
lòng biết ơn chân thành tới mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi tổ chức, cơ quan mà chúng tôi
khó có thể ghi ra đây đầy đủ chi tiết quý danh về sự giúp đỡ quý báu đã giành cho các
đoàn nghiên cứu chúng tôi trong suốt quá trình thực hiện nghiên cứu.
Chúng tôi cũng xin đặc biệt cảm ơn các chuyên gia, các nhà nghiên cứu, Ban điều
hành và các thành viên GENCOMNET đã nhiệt tình đóng góp các ý kiến nhận xét hữu
ích cho báo cáo nghiên cứu được hoàn thiện.
Cuối cùng, chúng tôi xin dành lời cảm ơn tới tất cả các cán bộ nghiên cứu từ
CGFED, ISDS, RDSC, RAFH và một số thành viên cá nhân của GENCOMNET đã tham
gia và làm việc hết sức nghiêm túc, có trách nhiệm trong các chuyến nghiên cứu thực địa.
Hà Nội, tháng 12 năm 2010
Nhóm viết báo cáo

TÓM TẮT
Mục đích nghiên cứu việc thực hiện luật PCBLGĐ ở Việt Nam do GENCOMNET
thực hiện là nhằm cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan thực hiện
pháp luật, cơ quan tài trợ, các nhà tư vấn, nghiên cứu, các tổ chức hoạt động trong lĩnh
vực bình đẳng giới nói chung và BLGĐ nói riêng, thông tin khách quan về những thuận

8



lợi, khó khăn-thách thức của việc thực thi Luật PCBLGĐ, nhằm góp phần hoàn thiện
khung pháp lý, nâng cao hiệu quả thực hiện và hiệu quả tài trợ cho việc thực hiện Luật
PCBLGĐ.
Nghiên cứu đã được GENCOMNET triển khai tại Hà Nội và bốn tỉnh, thành phố
khảo sát là Yên Bái, Hà Nam, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Các kết quả nghiên
cứu được trình bày trong bản báo cáo có thể tóm tắt như sau:
Sau gần hai năm thực hiện luật PCBLGĐ (có hiệu lực từ ngày 1/7/2008), đại đa số
người dân đã nghe nói đến luật với mức độ hiểu biết khác nhau. Các địa phương đều đã
triển khai công tác thông tin, tuyên truyền về luật dưới nhiều hình thức nhưng nhiều cán
bộ và người dân vẫn chưa có nhận thức chính xác về các loại BLGĐ. Các ý kiến của cán
bộ và người dân cho biết tình trạng bạo lưc vẫn đang xảy ra với nhiều các hình thức phức
tạp, trong số đó hành vi “chồng mắng chửi vợ” và thậm chí là “chồng đánh vợ” được
nhiều người cho rằng đã xảy ra trong vòng một năm qua. Khi xảy ra bạo lực gia đình, đa
số người được hỏi cho rằng “hàng xóm” là người đã can ngăn trong vụ BLGĐ, tiếp đến
là “thành viên tổ hòa giải”, “cán bộ thôn xã” và “công an” và những người khác. Rất có
thể là BLGD là việc của nội bộ nên các “thành viên gia đình” đã can ngăn nhưng không
được và BLGĐ bung ra đến mức người ngoài gia đình đã biết và can ngăn. Hơn một nửa
số người được hỏi đã giải thích rằng “không có ai can ngăn trong vụ BLGĐ vì “người ta
coi đấy là việc riêng của gia đình”. Trong số 15 các nguyên nhân gây ra BLGĐ, nhiều
người nói đến nhất là những nguyên nhân như “Nghèo đói, thất nghiệp”, “nghiện rượu,
bia”, “Cha mẹ ít quan tâm đến con cái”, “Học vấn thấp, ít hiểu biết”, “Do nam giới nóng
tính”, “Vợ hoặc chồng ngoại tình”, “Ham mê cờ bạc, số đề”. Trong số chín lý do biện hộ
cho việc chồng có thể ngược đãi, hành hạ vợ, nhiều người nhấn mạnh đến lý do ”Chồng
phát hiện vợ không chung thuỷ”.
Về hành vi bạo lực của cha mẹ đối với con cái, Ở Việt Nam tình trạng cha mẹ
đánh hoặc mắng con không phải là hiếm, thậm chí còn phổ biến, nhất là khi không ít
người giáo dục con theo kiểu ”yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Gần một nửa
số người được hỏi tỏ ra đồng ý với việc ”Cha mẹ có quyền dùng roi vọt dạy con”. Hơn

một phần ba số người được hỏi đồng ý với việc ”Cha mẹ có quyền chửi mắng con cái”.
Nhưng gần một nửa những người được hỏi đã không đồng ý với nhận định ”Cha mẹ có
quyền đánh đập con”. Hơn một nửa số người được hỏi cho biết lý do BLGD giữa con cái
với cha, mẹ là do con cái “hư” vướng vào “tệ nạn xã hội” như ”nghiện hút ma túy”,
”nghiện bia, nghiện rượu”, ”chơi cờ bạc, số đề”. Đồng thời là do ”cha mẹ giáo dục con
không tốt”, ”cha mẹ không làm gương cho con cái”, ”cha mẹ không quan tâm đến con
cái” và một lý do liên quan đến lợi ích vật chất là ”do tranh chấp tài sản, phân chia tài
sản”.
Trong sáu tháng trước thời điểm khảo sát tại các địa phương chỉ có khoảng ba
phần tư số người trả lời cho biết có nghe tuyên truyền về nội dung phòng chống bạo
BLGĐ, cho thấy việc tuyên truyền về BLGĐ cần được thường xuyên tổ chức để đảm bảo
người dân biết, hiểu đúng và thực thi pháp luật. Về các hình thức tuyên truyền phòng
chống BLGĐ gồm có: Tuyên truyền qua họp tổ dân phố/họp thôn/ấp, Tuyên truyền qua
sinh hoạt đoàn thể, Tuyên truyền qua loa truyền thanh, Qua chương trình văn hoá văn
nghệ, Tuyên truyền qua panô/áp phích, Cộng tác viên DS-GĐ-TE đến từng gia đình,
Tuyên truyền qua bảng tin. Trong đó họp tổ dân phố, thôn ấp là hình thức phổ biến nhất
để tuyên truyền nội dung phòng chống BLGĐ ở các thôn, bản, ấp là ”họp dân”. Đối
tượng của các buổi tuyên truyền này là phụ nữ chứ không phải cả nam và nữ như vậy
chưa đủ, chưa hiệu quả.

9


Trong số 12 tổ chức ở địa phương nhiều người được hỏi đã đánh giá cao vai trò
của Hội phụ nữ, tổ dân phố, tổ hòa giải cơ sở trong PCBLGĐ. Việc kết hợp giữa các tổ
chức đặc biệt là chính quyền địa phương chưa được đánh giá cao và việc giải quyết các
vụ BLGĐ vẫn chủ yếu là qua hòa giải. Hoạt động của tổ hào giải còn gặp rất nhiều khó
khăn về cả các điều kiện kinh tế, xã hội, tâm lý tại địa phương. Hoạt động hòa giải cùng
với tư vấn tuy chưa có điểm tư vấn chính thức, nhưng bước đầu có hiệu quả.
Trong số 10 biện pháp phòng, chống BLGĐ thì biện pháp “tuyên truyền Luật

phòng chống BLGĐ trên loa đài được nhiều người cho biết là phổ biến nhất và nhìn
chung các biện pháp tuyên truyền về luật là chưa phát huy được tác dụng, hiệu quả mong
muốn. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu kinh phí, nguồn lực và năng lực cần thiết. Đối
với phòng, chống BLGĐ, chỉ tuyên tuyền, giáo dục thì chưa đủ; nhưng biện pháp xử
phạt hành chính cũng chưa có hiệu lực ngăn chặn do mang tính chất đối phó và trên thực
tế cũng rất khó thực hiện có hiệu quả.
Việc thực hiện luật PCBLGĐ cũng có các yếu tố thuận lợi nhất định như mọi
người ít nhiều “được trang bị kiến thức về luật PCBLGĐ”, “có sự phối hợp đồng bộ của
chính quyền và các đoàn thể”, “công tác phòng, chống BLGĐ được lồng ghép vào kế
hoạch phát triển của địa phương”. Luật PCLBLGĐ đã được triển khai với nhiều thuận
lợi, nhưng cũng gặp phải không ít khó khăn: trong bảy khó khăn đã nêu ra, nhiều người
nhấn mạnh khó khăn do “Thiếu kinh phí cho hoạt động Phòng chống BLGĐ” và “Nạn
nhân BLGĐ không tự nguyện khai báo”.
Trong số các chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện luật PCBLGĐ thì chủ thể gia
đình được nhiều người nhấn mạnh nhất. Trong số các biện pháp thực hiện luật PCBLGĐ
thì nhiều người nhấn mạnh biện pháp hàng đầu là “Tăng cường tuyên truyền về bình
đẳng giới trong gia đình”, “Phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi BLGĐ” và “Tạo dư
luận cộng đồng lên án mạnh mẽ các hành vi BLGĐ”.
Tóm lại, nghiên cứu về việc thực hiện luật PCBLGĐ đã thực hiện được mục đích
đề ra là cung cấp thông tin khách quan, khoa học về những thuận lợi, khó khăn - thách
thức của việc thực thi Luật PCBLGĐ để các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan thực
hiện pháp luật, cơ quan tài trợ, các nhà tư vấn, nghiên cứu, các tổ chức hoạt động trong
lĩnh vực bình đẳng giới nói chung và BLGĐ nói riêng tham khảo trong việc góp phần
hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu quả thực hiện và hiệu quả tài trợ cho việc thực
hiện Luật PCBLGĐ ở Việt Nam trong thời gian tới.
Đối với một thiết chế xã hội lâu đời như gia đình thì luật PCBLGĐ cần phải có
nhiều thời gian hơn nữa để đi vào cuộc sống. Luật và chính sách liên quan cần liên tục
được hoàn thiện theo hướng nâng cao vai trò của Hội phụ nữ, thu hút sự tham gia của
nam giới, tăng cường trách nhiệm phối hợp liên ngành của các cơ quan tổ chức các cấp,
tổ chức xã hội dân sự, đổi mới các hình thức giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi

trong thực hiện luật PCBLGĐ và bình đẳng giới.

PHẦN 1
GIỚI THIỆU
Luật phòng chống Bạo lực gia đình (PCBLGĐ), được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 21/11/2007, đã có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2008. Đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của các
thành viên trong gia đình, nhất là người cao tuổi, phụ nữ và trẻ em, những người rất dễ

10


trở thành và thường là nạn nhân của BLGĐ. Luật PCBLGĐ khẳng định rằng cuộc đấu
tranh ngăn chặn tệ nạn BLGĐ đang tồn tại dai dẳng trong đời sống gia đình là nhiệm vụ
của toàn xã hội, bởi BLGĐ không phải là chuyện riêng của từng gia đình mà là một vấn
đề xã hội.
Sự ra đời của bộ Luật này cũng thể hiện rõ quyết tâm của chính phủ Việt Nam
trong việc thực hiện các cam kết với cộng đồng quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử với phụ nữ. Bộ Luật ra đời là kết quả của những nỗ lực và tinh thần trách
nhiệm cao của các cơ quan pháp luật, các chuyên gia, các tổ chức quần chúng, các nhà
hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực Bình đẳng Giới, đồng thời là sự phản ánh nguyện vọng
của nhân dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng một xã hội tiến bộ, bình đẳng, dân chủ
và văn minh.
Luật PCBLGĐ là bộ luật thể hiện rõ tính nhạy cảm giới, để thực hiện được, đòi
hỏi sự thay đổi mạnh mẽ định kiến giới và các chuẩn mực truyền thống về gia đình, vị trí
và vai trò của người nam và người nữ trong gia đình. Những điều này vốn đã ăn sâu
trong nhận thức của phụ nữ và nam giới, của những người lãnh đạo trong bộ máy chính
quyền, các tổ chức xã hội, cộng đồng và chính những người có chức năng thi hành luật.
Đây là một thách thức rất lớn đối với việc thực hiện Luật PCBLGĐ, cho dù ngày
4/2/2009, chính phủ cũng đã ban hành Nghị định số 08/2009/NĐ-CP, quy định chi tiết và

hướng dẫn thi hành một số điều của Luật PCBLGĐ.
Luật PCBLGĐ có được thực hiện nghiêm túc và hiệu quả hay không phụ thuộc rất
nhiều vào sự tích cực của bộ máy thực thi và giám sát, của hoạt động thông tin tuyên
truyền phổ biến pháp luật tới mọi tầng lớp nhân dân. Nghiên cứu đánh giá việc thực hiện
Luật PCBLGĐ là một hoạt động cần thiết và cấp bách nhằm tìm hiểu tình hình triển khai
thực hiện luật, những thành công và những hạn chế, nguyên nhân của thành công và hạn
chế, để từ đó đề xuất những kiến nghị cho việc hoàn thiện khung pháp lý và các giải pháp
đối với các bên liên quan để nâng cao hiệu quả thực hiện Luật.
“Dự án phòng chống Bạo lực gia đình thông qua nghiên cứu, can thiệp và vận
động chính sách”, do Cơ quan Hợp tác và Phát triển Thuỵ Sỹ (SDC) tài trợ cho
GENCOMNET, thực hiện trong giai đoạn 2007 – 2011, đã tác động thúc đẩy việc thực
thi Luật PCBLGĐ đối với một số địa bàn ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hà Nội, Yên
Bái, Hà Nam, Vĩnh Phúc. Việc đánh giá tình hình thực hiện Luật PCBLGĐ ở các địa
phương này cũng như ở một số địa phương không thuộc dự án để so sánh là một yêu cầu
của dự án. Bên cạnh đó, GENCOMNET cũng cần đến kết quả đánh giá này làm cơ sở
cho hoạt động viết Báo cáo Bóng về thực hiện CEDAW ở Việt Nam.
Với những lý do trên đây, Mạng Giới và Phát triển cộng đồng (Gencomnet) tập
hợp các thành viên của mình, là những nhà nghiên cứu, chuyên gia từ các trung tâm, viện
nghiên cứu, để cùng tiến hành nghiên cứu “Đánh giá việc thực hiện Luật PCBLGĐ”

PHẦN 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
I. Mục đích nghiên cứu
Cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan thực hiện pháp luật, cơ
quan tài trợ, các nhà tư vấn, nghiên cứu, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực bình đẳng
giới nói chung và bạo lực gia đình nói riêng, thông tin khách quan về những thuận lợi,
khó khăn-thách thức của việc thực thi Luật PCBLGĐ, nhằm góp phần hoàn thiện khung

11



pháp lý, nâng cao hiệu quả thực hiện và hiệu quả tài trợ cho việc thực hiện Luật
PCBLGĐ.
II. Chọn mẫu nghiên cứu
Lựa chọn mẫu điển hình trên các địa bàn nghiên cứu:
Nghiên cứu đã được thực hiện tại 4 địa bàn tỉnh/thành phố (1 xã thuộc một huyện
mỗi địa bàn)
• Tỉnh Yên Bái: Xã Minh Bảo, Thành phố Yên Bái - địa bàn chưa có hoạt động can
thiệp (xem hộp 1)
• Tỉnh Hà Nam: Xã Văn Xá, Huyện Kim Bảng - địa bàn chưa có hoạt động can
thiệp (xem hộp 2).
• Thành phố Đà Nẵng: chọn phường Hòa Thọ Tây thuộc Quận Cẩm Lệ - địa bàn đã
có hoạt động can thiệp (xem hộp 3).
• Thành phố Hồ Chí Minh: chọn xã Bình Chánh, huyện Bình Chánh – địa bàn chưa
có hoạt động can thiệp.
Việc lựa chọn địa bàn nghiên cứu cũng đã cố gắng đảm bảo tính đa dạng, gồm địa
bàn có can thiệp và chưa can thiệp, địa bàn miền núi và đồng bằng; địa bàn nông thôn và
thành phố; địa bàn ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam.
III. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính
Về phương pháp định lượng: tiến hành phỏng vấn bảng hỏi trên 4 địa bàn: xã
Minh Bảo – thành phố Yên Bái - tỉnh Yên Bái, xã Văn Xá - huyện Kim Bảng - tỉnh Hà
Nam , phường Hòa Thọ Tây- thành phố Đà Nẵng, xã Bình Chánh – huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh nhằm thu thập thông tin rộng rãi về thực trạng hiểu biết về Luật
PCBLGĐ cũng như việc thực hiện luật tại địa bàn.
Về phương pháp định tính: thực hiện các phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm trên 4
địa bàn trên nhằm tìm hiểu cụ thể về mức độ nhận thức và quan điểm của nhiều nhóm đối
tượng khác nhau về luật phòng chống BLGĐ, cũng như những nhận định, đánh giá về
công tác phổ biến và thực hiện luật tại địa bàn. Phần nghiên cứu định tính tại các cơ quan
trung ương ở Hà Nội nhằm thu thập quan điểm và thông tin về tình hình chỉ đạo và thực
hiện Luật PCBLGĐ.

Mẫu nghiên cứu:
Địa bàn
Xã Văn Xá (Hà Nam)
Xã Minh Bảo (Yên Bái)
Phường Hòa Thọ Tây (Đà Nẵng)
Xã Bình Chánh (Tp Hồ Chí Minh)
Hà Nội
Tổng

Bảng hỏi
124
125
126
125

4
4
4
4

TLN

500

16

PVS
8
15
12

15
8
58

12


IV. Đối tượng nghiên cứu:
Việc thực hiện Luật PCBLGĐ với các hình thức, biện pháp, hiệu quả của các hoạt
động triển khai luật của các chủ thể gồm cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân.
V. Khách thể nghiên cứu
Các cơ quan, tổ chức, gia đình và cá nhân gồm cả những đối tượng bị bạo lực gia
đình là đối tượng chủ yếu của nghiên cứu này.
VI. Khung lý thuyết
CÁC CƠ QUAN, TỔ
CHỨC CÁC CẤP
(TRUNG ƯƠNG/ ĐỊA
PHƯƠNG)

Khó
khăn h¨n

NGUYÊN
NHÂN

CÁC GIA ĐÌNH

Các biện pháp
phòng, chống bạo
lực gia đình


BẠO LỰC
GIA ĐÌNH

Thuận lợi

HẬU QUẢ

Các hình thức, đặc
điểm, tính chất
Sơ đồ 1. Khung lý thuyết nghiên cứu đánh giá
việc triển khai thực hiện luật PCBLGĐ

Luật PCBLGĐ đã quy định rõ vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ
chức, gia đình và cá nhân trong phòng, chống BLGĐ. Luật PCBLGĐ được triển khai và
thực hiện như thế nào chủ yếu phụ thuộc vào sự nhận thức, thái độ và hành vi của “Các
cơ quan, tổ chức các cấp từ trung ương đến địa phương”, bao gồm trước hết là các cơ
quan, tổ chức của chính phủ và các cơ quan, tổ chức dân sự và “các gia đình” bao gồm
các thành viên của gia đình như vợ chồng, cha mẹ, con cái và các thành viên khác.
Các cơ quan, tổ chức là chủ thể triển khai và thực hiện luật PCBLGĐ và kết quả
của công tác này phụ thuộc vào nhận thức, thái độ và hành vi của họ về BLGĐ với các

13


hình thức biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của nó cũng như các biện pháp phòng,
chống BLGĐ với các khó khăn và thuận lợi.
Gia đình là chủ thể triển khai và thực hiện luật PCBLGĐ, đồng thời rất có thể gia
đình vừa là thủ phạm vừa là nạn nhân của BLGĐ. Do vậy, kết quả triển khai và thực hiện
luật PCBLGĐ phụ thuộc trực tiếp vào nhận thức, thái độ và hành vi của các gia đình đối

với BLGĐ.
Để đánh giá được việc triển khai và thực hiện luật PCBLGĐ cần căn cứ vào
những yếu tố cơ bản của công tác này. Có thể xem xét từ đối tượng phòng chống là
BLGĐ đến chủ thể của quá trình phòng chống là các cơ quan, tổ chức và gia đình.
• Nắm chắc các hình thức, đặc điểm và tính chất của BLGĐ như đ;uâã được
xác định rõ trong luật PCBLGĐ, để có thể sớm phát hiện, nhận diện hành
vi BLGĐ.
• Hiểu rõ những hậu quả có thể có của BLGĐ đối với người bị BLGĐ và đối
với các thành viên gia đình và những người xung quan trong cộng đồng,
cũng như đối với xã hội. Đây là một nội dung quan trọng bởi vì căn cứ vào
mức độ hậu quả của BLGĐ để có những biện pháp và hình thức trợ giúp
người bị BLGĐ cũng như lựa chọn và áp dung biện pháp xử lý BLGĐ một
cách phù hợp.
• Phân tích nguyên nhân của các BLGĐ. Đây là một yếu tố cơ bản bởi vì
thực chất việc phòng chống BLGĐ là việc kiểm soát các nguyên nhân, các
điều kiện và cơ chế xảy ra BLGĐ.
• Lường trước các trở ngại trong việc triển khai, thực hiện luật PCBLGĐ để
có thể tìm cách áp dụng các hình thức và biện pháp phù hợp khi BLGĐ
xảy ra.
• Cần phát hiên và phát huy các yếu tố thuận lợi trong phòng chống BLGĐ.
VII. Khái niệm công cụ:
Bạo lưc gia đình: Luật phòng chống bạo lực gia đình được quốc hội nước cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành ngày 21/11/2007 định nghĩa:
Bạo lực gia đình là hành vi cố ý của thành viên trong gia đình gây tổn hại hoặc có
khả năng gây tổn hại vể thể chất, tinh thần, kinh tế, đối với thành viên khác trong gia
đình.
Về mặt hình thức, có thể phân biệt bạo lực gia đình thành những hình thức chủ
yếu là bạo lực thể chất, bạo lực tinh thần, bạo lực kinh tế. Về mức độ gây tổn hại có thể
phân biệt bạo lực gia đình cực kỳ nghiêm trọng, nghiêm trọng và ít nghiêm trọng. Tương
ứng với mỗi loại bạo lực này có những cách thức, biện pháp phòng, chống phù hợp cần

phải tính đến khi thực hiện Luật PCBLGĐ ở địa phương.

PHẦN 3
THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
I. Hiểu biết về luật phòng chống bạo lực gia đình

14


I.1. Hiểu biết của người dân về Luật Phòng chống bạo lực gia đình
Luật PCBLGĐ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/7/2008 tức là cách thời điểm điều
tra khoảng hai năm – một khoảng thời gian dài đủ đế mọi người người dân biết về luật
này. Vậy câu hỏi đặt ra là có bao nhiêu phần trăm người dân đã “nghe nói đến luật
PCBLGĐ”? Kết quả điều tra cho biết gần 90% số người được hỏi trả lời là “có nghe nói
đến luật PCBLGĐ”, trong đó tỉ lệ nam giới là 91.3%, cao hơn tỉ lệ nữ không nhiều
(88.4%) . Như vậy, đại đa số nam nữ đều có nghe nói đến luật PCBLGĐ.
Biểu đồ 4. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nam và nữ "có nghe nói đến" Luật phòng, chống
bạo lực gia đình

Trong bốn tỉnh, thành phố được khảo sát, thành phố Đà Năng có tỉ lệ người “nghe
nói đến luật PCBLGĐ” nhiều nhất: 97.6%.
Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có 76.8% số người nghe nói đến luật này. Thành phố
này cũng là nơi có tỉ lệ cao nhất số người trả lời “không biết” hoặc “không nghe nói đến”
luật PCBLGĐ. Rất có thể điều này sẽ ảnh hưởng tới hiểu biết, thái độ và hành vi thực
hiện luật PCBLGĐ ở địa phương.
Bảng 8. Tỉ lệ người có nghe nói đến luật Phòng, chống bạo lực gia đình phân theo
tỉnh thành
Có nghe nói đến luật
Yên Bái
Hà Nam Đà Nẵng

Tp. Hồ Chí Minh
PCBLGĐ không?
Có
Không (không biết)

95.2

88.8

97.6

76.8

4.8

11.2

2.4

23.2

Tổng cộng
100.0
100.0
100.0
100.0
Ngay cả nạn nhân của BLGĐ cũng chỉ nghe loáng thoáng và không quan tâm tìm
hiểu về luật PCBLGĐ:
“Tôi không biết về luật hôn nhân gia đình. Tôi đã nghe nói loáng thoáng về luật
này nhưng tôi không để ý. Tôi không để ý mặc dù tôi là người bị đánh, vì cái số

tôi nó vậy rồi.” (nữ, 51 tuổi, học hết lớp 5, tp. Hồ Chí Minh)
Hoặc lại có người cho rằng dấu hiệu của đánh nhau là phải gây thương tích và như
thế mới là BLGĐ:

15


Đánh nhau phải mạnh mẽ một tí. Đánh nhau theo ý kiến tôi là phải đánh nhau
gây thương tích mới là bạo lực gia đình được, còn tát một cái thì mai lại bình
thường, vô tư. (TLN phụ nữ có gia đình Hà Nam)
Về lý do không hoặc ít hiểu biết về luật, một cách giải thích khác, cho rằng những
hạn chế về học vấn, lo kiếm sống nên người dân không quan tâm đến luật, và không biết
cách giữ gìn hạnh phúc gia đình:
“Dân ít quân tâm đến luật vì ở ngoại thành vùng nông thôn. Phần lớn họ trình
độ học vấn thấp. Do điều kiện cuộc sống lo bươn chải, kiếm tiền nên phương
thức giữ gìn hạnh phúc gia đình không có, họ về với nhau và dễ xảy ra cãi cọ,
mâu thuẫn tích tụ lại thành lớn… đánh nhau và bạo lực xuất hiện” (nam, 38
tuổi, trưởng công an xã, TP Hồ Chí Minh)

I.2. Về việc nhận biết đúng hành vi bạo lực gia đình
Câu hỏi nghiên cứu tiếp theo là có bao nhiêu phần trăm nam và nữ nhận biết
chính xác những biểu hiện của hành vi bạo lực gia đình. Đây là điều quan trọng bởi vì
người dân có hiểu biết đúng về bạo lực gia đình thì mới có khả năng phòng tránh và ngăn
chặn bạo lực gia đình. Để tìm hiểu vấn đề này, tám loại hành vi bao lực gia đình với các
mức độ và hình thức biểu hiện khác nhau đã được liệt kê để người được hỏi trả lời hành
vi nào đúng là hành vi bạo lực gia đình (xem bảng). Tính chung cho tất cả tám loại hành
vi này, tỉ lệ số người được nhận biết đúng hành vi bạo lực gia đình là khoảng 72% tức là
cứ 4 người có gần 3 người nhận biết đúng hành vi.
Kết quả điều tra cho biết cụ thể: thứ nhất là có 92.6% số người được hỏi nhận biết
đúng hành vi bạo lực gia đình gồm “đánh đập, hành hạ, cố ý xâm hại đến sức khỏe, tính

mạng” của người thân trong gia đình. Không có khác biệt nhiều giữa tỉ lệ nam và nữ
trong nhận biết các biểu hiện này.
Loại hành vi thứ hai được nhiều người nhận biết đúng là hành vi “đuổi vợ hoặc
chồng hoặc con cái ra khỏi nhà”: 83.8% nam và nữ nhận biết đúng, trong đó tỉ lệ nữ là
85.3% cao hơn tỉ lệ nam (81.7%).
Loại hành vi thứ ba được nhiều người nhận biết đúng là hành vi “Chửi mắng, lăng
mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín” với 77% số người trả lời đúng trong đó tỉ lệ
nữ là 79.8% cao hơn hẳn tỉ lệ nam 73.1%. Rất có thể là phụ nữ thường trải qua các tình
huống bạo lực gia đình với tư cách là người bị bạo lực gia đình hoặc chứng kiến nên tỉ lệ
nữ cao hơn tỉ lệ nam trong việc nhận biết đúng về hành vi bạo lực gia đình.
Loại hành vi bạo lực gia đình khó nhận biết nhất là “Không quan tâm đến các
thành viên trong gia đình”: chỉ có 50.2% số người được hỏi nhận biết đúng. Có thể giải
thích tỉ lệ gần như 50/50 số người hiểu đúng về hành vi bạo lực này là do không xác định
rõ mức độ “Không quan tâm” và không rõ mức độ hậu quả của việc “Không quan tâm”.
Tiếp đến là loại hành vi cách li hay cô lập “Không cho vợ (chồng) tiếp xúc với
người khác”: 59.6% số người nhận biết đúng loại hành vi này trong đó không có sự khác
biệt đáng kể giữa nam và nữ (xem bảng).
Biểu đồ 5. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nam và nữ nhận biết "đúng" về hành vi bạo lực gia
đình

16


Các địa phương có tỉ lệ khác nhau trong việc nhận biết đúng các biểu hiện hành vi
BLGĐ. Tính bình quân, tỉnh Hà Nam có tỉ lệ trung bình thấp nhất (42.6%) nhận biết
đúng hành vi bạo lực gia đình. Tỉnh có tỉ lệ trung bình cao nhất là tỉnh Yên Bái với 76%
câu trả lời nhận biết đúng.
Các tỉnh khác nhau về tỉ lệ nhận biết đúng từng hành vi BLGĐ. Tỉnh Yên Bái có tỉ
lệ cao nhất nhận biết đúng hành vi BLGĐ là tỉ lệ 98.4% đối với hành vi ”Huỷ hoại, đập
phá hoặc có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản”. Nhưng chỉ có 68% số người được hỏi ở

tỉnh này nhận biết đúng hành vi ”Chửi mắng, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy
tín người khác” là hành vi BLGĐ.
Trong khi đó đối với tỉnh Hà Nam, tỉ lệ cao nhất 59.2% nhận biết đúng ”Cưỡng ép
tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện” là hành vi BLGĐ.
Hành vi ”Chửi mắng, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín” có tỉ lệ thấp nhất 38% nhận biết đúng.
Thành phố Đà Nẵng có tỉ lệ cao nhất (96%) nhận biết đúng ”Huỷ hoại, đập phá
hoặc có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản” là hành vi BLGĐ. Nhưng ”Chửi mắng, lăng
mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín” được ít người nhất (58.4%) nhận biết đúng là
hành BLGĐ.
Thành phố Hồ Chí Minh có tỉ lệ cao nhất (84%) số người được hỏi coi ”Huỷ hoại,
đập phá hoặc có hành vi cố ý làm hư hỏng tài sản” là BLGĐ. Nhưng thành phố này chỉ
có 36.8% số người được hỏi nhận biết đúng BLGĐ là ”Chửi mắng, lăng mạ, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm, uy tín” người khác.
Trong số bốn địa phương được khảo sát, tỉnh Yên Bái có tỉ lệ cao nhất (90.4%)
nhận biết đúng hành ”Đánh đập, hành hạ, cố ý xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng” là hành
vi BLGĐ. Thành phố Hồ Chí Minh có tỉ lệ thấp nhất (36.8%) số người nhận biết đúng
”Chửi mắng, lăng mạ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín” là hành vi BLGĐ.
Qua chỉ báo ”tỉ lệ nhận biết đúng biểu hiện hành vi BLGĐ” có thể thấy có địa
phương có tỉ lệ nhận biết đúng thuộc loại cao, cụ thể là tỉnh Yên Bái; nhưng cũng có địa
phương, tỉ lệ nhận biết đúng thuộc loại thấp (36.8%) đối với hành vi BLGĐ.
Rất ít người, cụ thể là chỉ có 0.8% - 1.6% số người được hỏi ở cả bốn tỉnh, thành
phố là nhận biết đúng hanh vi BLGĐ là hành vi ”Đuổi vợ (chồng) hoặc con cái ra khỏi
nhà”. Rất có thể là do văn hóa và lối sống nên cùng một loại hành vi, địa phương này có

17


tỉ lệ nhận biết đúng rất cao và địa phương khác có tỉ lệ nhận biết rất thấp. Điều này đặt ra
vấn đề là phải tăng cường công tác giáo dục, truyền thông thay đổi hành vi của người
dân.

Bảng 9 Tỉ lệ nhận biết đúng các biểu hiện hành vi bạo lực gia đình phân chia theo
địa phương
T
T

Biểu hiện hành vi bạo lực gia đình

1

Đánh đập, hành hạ, cố ý xâm hại đến sức
khoẻ, tính mạng
Chửi mắng, lăng mạ, xúc phạm danh dự,
nhân phẩm, uy tín
Không quan tâm đến các thành viên trong
gia đình
Cưỡng ép quan hệ tình dục
Không cho vợ (chồng) tiếp xúc với người
khác
Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn
hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện
Huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi cố ý làm
hư hỏng tài sản
Đuổi vợ (chồng) hoặc con cái ra khỏi nhà
Tỉ lệ trung bình

2
3
4
5
6

7
8

Yên Bái

Hà Nam

Đà
Nẵng

Tp. Hồ
Chí
Minh

90.4

56.0

86.4

75.2

68.0

37.6

58.4

36.8


92.8

46.4

88.8

74.4

78.4
91.2

45.6
38.4

62.4
75.2

52.0
68.0

87.2

59.2

84.8

74.4

98.4


56.8

96.0

84.0

1.6
76

0.8
42.6

0.8
69.1

1.6
58.3

I.3. Một số cách hiểu của cán bộ và người dân về bạo lực gia đình
Thảo luận nhóm lãnh đạo cho thấy, ngay cả cán bộ lãnh đạo cũng cho rằng việc xô
xát bình thường chưa được coi là bạo lực gia đình, những hành vi đánh đập, gây thương
tích nặng mới được coi là bạo lực.
Xô xát bình thường, bạo lực gia đình chưa có mấy. Vợ chồng phải đánh đập nhau
mới bạo lực gia đình, gây thương tích nặng, vợ chồng cãi vã nhau thôi. Đấy là
cãi vã nhau thường ngay thôi. Chưa thể gọi bạo lực, bạo lực là phải đánh đập.
Đánh đập rồi gây thương tích đưa ra tòa. (TLN lãnh đạo, Hà Nam).
Trong các thông tin thu được từ người dân cộng đồng, nhiều người cũng cho rằng,
bạo lực gia đình là phải gây thương tích
Đánh nhau phải mạnh mẽ một tí. Đánh nhau theo ý kiến tôi là phải đánh nhau
gây thương tích mới là bạo lực gia đình được, còn tát một cái thì mai lại bình

thường, vô tư. (TLN phụ nữ có gia đình, Hà Nam)
“Em chỉ nghĩ đánh đập đến thể xác gây thương tích thì mới là bạo lực gia đình” (
nữ, Yên Bái)
Cũng có phụ nữ không biết thế nào là bạo lực gia đình:
“Những hành vi nào được coi là bạo lực gia đình ư. Tôi không biết” (nữ, 32 tuổi,
học vấn lớp 1, TP Hồ Chí Minh)
Đa phần những người tham gia thảo luận nhóm đều cũng có chung quan điểm:
bạo lực gia đình là bạo lực giữa chồng và vợ, bạo lực gia đình xuất phát từ những mâu
thuẫn trong gia đình không giải quyết được.

18


”Theo em hiểu là bạo lực gia đình là vấn đề của nhiều người, tức là chồng đối xử
với người phụ nữ dùng bạo lực, hành động để áp dụng lên chị em phụ nữ, đánh

đập các chị em phụ nữ. (nhóm nữ thanh niên chưa có gia đình)
Không, nhiều cách nó dẫn đến cãi nhau chứ, nhiều cái nó gây nên cãi
nhau là bạo lực gia đình, cãi nhau nhiều thành ra đánh nhau là bạo lực
gia đình”. (TLN phụ nữ có gia đình, Hà Nam)
”Theo em nghĩ thì trước hết nó nằm trong phạm vi một gia đình. Có thể
là từ thế hệ trước, trong gia đình có thể là vợ chồng với con cái, hay ông
bà với con cái. Và bạo lực gia đình nó thể hiện mối quan hệ giữa mọi
người trong gia đình có thẻ do mâu thuẫn hay do vấn đề gì đó trong gia
đình không giải quyết được dẫn đến bạo lực gia đình”. (Nhóm nam
thanh niên chưa có gia đình, Hà Nam)
”Rượu chè về đánh vợ con. Cãi nhau chửi nhau trong gia đình. Đánh vợ
chửi "vợ, mắng con là bạo lực gia đình.” (TLN nam giới có gia đình, Hà
Nam)
Ngoài ra, một số người cũng đã đề cập đến các hình thức của bạo lực gia đình liên

quan đến bạo lực thể chất và bạo lực tinh thần. Bạo lực gia đình đã không đơn thuần xảy
ra giữa chồng và vợ mà còn đối với các thành viên khác trong gia đình.
”Theo em hiểu thì bạo lực gia đình là sự đánh đập và chửi mắng về mặt thể chất
cũng như tinh thần của người chồng đối với người vợ hoặc của gia đình nhà
chồng hoặc bố mẹ chồng đối với con cái hoặc đối với mọi người trong gia đình”
(Nhóm nữ thanh niên chưa có gia đình, Hà Nam)
”Trong hành vi, thứ nhất là hành vi bạo lực đến thân thể, thể xác, thứ hai là về
tinh thần. Trong tinh thần có rất nhiều cái nhỏ, như hàng ngày đay nghiến chửi
bới, vợ con hoặc bố mẹ anh em, thứ hai là sống trong tình cảnh vợ chồng không
quan tâm đến nhau. Mỗi người lo một lối đi của mình riêng, không quan tâm đến
gia đình của mình nữa. Đấy là bạo lực về tâm lý. Không quan tâm đến gia đình
vợ con, bỏ đi đến các tệ nạn khác. Tìm đến các tệ nạn khác để gia đình tan nát, vợ
con đau khổ. Hành vi có rất nhiều hành vi như vậy. Ngoài ra có thể không đánh
vợ con, không mắng chửi gì nhưng đồ đạc của nhà mình, đập phá rồi có thể ôm đi
bán.” (TLN nam giới có gia đình, Hà Nam)
Một số phụ nữ đã từng nghe về luật bạo lực gia đình, nhưng lại quên vì cho rằng
không thiết thực:
”Tôi nghe trên ti vi tháng 7 rồi, tháng 7/2009 là luật nó ra rồi. Nhưng mà ở mình
cũng thực hiện rồi đấy, phụ nữ cũng nói nhiều lần rồi đấy, xong là buông trôi.
Những cái đấy nó không thiết thực vào mình lắm, cho nên không thể nhớ được.
Nó không liên quan lắm. Nó không luôn luôn xảy ra, nên người ta lại quên.”
(TLN phụ nữ có gia đình, Hà Nam)
Vào thời điểm đánh giá, có cán bộ chủ chốt chưa biết đến Nghị định về xử phạt
hành chính:
“Khi họp giao ban các hội cũng có tuyên truyền: nói về Luật, tọa đàm về
Luật. Có tài liệu ( văn bản luật ) Chúng tôi có đọc qua nhưng chưa hết. Chúng
tôi chưa nghe đến Nghị định về xử phạt hành chính” (Thảo luận nhóm cán bộ
chủ chốt xã Bình Chánh TP Hồ Chí Minh)

II. Đánh giá tình hình bạo lực gia đình và cách xử lý


19


II.1. Tình hình bạo lực gia đình ở địa phương trong một năm vừa qua
Các ý kiến của nam và nữ về các loại bạo lực gia đình đã xảy ra trong một năm
vừa qua
Có thể phần nào hiểu biết về tình hình BLGĐ ở địa phương qua ý kiến của người
dân. Câu hỏi đặt ra là: trong một năm qua ở địa phương có hành vi BLGĐ nào trong số 9
hành vi BLGĐ? Người được hỏi chỉ cần trả lời ”có” hoặc ”không” đối với từng hành vi
BLGĐ đã liệt kê sẵn và nếu thấy có hành vi BLGĐ khác thì ghi rõ.
Biểu đồ 8. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ nam và nữ cho biết tình hình bạo lực gia đình ở thôn
trong một năm qua: một số hành vi bạo lực gia đình

Trong số 9 loại hành vi BLGĐ được khảo sát, hành vi ”chồng mắng vợ” xảy ra
phổ biến nhất, được 80% số người trả lời là ”có” xảy ra ở thôn trong một năm qua. Trong
đó, tỉ lệ nữ trả lời ”có” là 81.2% nhiều hơn tỉ lệ nam 78.4%.
Tiếp theo là hành vi ”Cha mẹ đánh con cái” với 71.4% số người trả lời là ”có” xảy
ra ở thôn; không có sự khác biệt đáng kể giữa tỉ lệ nữ và tỉ lệ nam.
Đứng ở vị trí thứ ba về mức độ phổ biến là hành vi ”Chồng đánh vợ”: 68.4% số
người trả lời là ”có” xảy ra hiện tượng này ở thôn; ở đây tỉ lệ nữ 69.2% cao hơn tỉ lệ nam
67.3%.
Tuy khoảng cách chênh lệch về tỉ lệ giữa nam và nữ không nhiều nhưng có một
xu hướng chung là: nếu phụ nữ là nạn nhân của hành vi BLGĐ thì tỉ lệ nữ trả lời ”có”
cao hơn dù một chút so với tỉ lệ nam. Ngược lại, khi nạn nhân là nam giới thì tỉ lệ nam
trả lời ”có” cao hơn nhiều so với tỉ lệ nữ trả lời ”có” xảy ra hành vi bạo lực đối với nam.
Cụ thể là 52.6% số người được hỏi cho biết ”có” xảy ra hiện tượng ”vợ chửi mắng
chồng”. Trong số đó, tỉ lệ nam 55.8% nhiều hơn tỉ lệ nữ 50.3%.
Có tới 22 số người trả lời cho biết là ”có” xảy ra tình trạng ”vợ đánh chồng”: có lẽ
do nam giới là nạn nhân nên tỉ lệ nam trả lời ”có” xảy ra tình trạng này là 25.5%, cao hơn

tỉ lệ nữ 19.5%.
Hai loại hành vi BLGĐ được ít nhất số người phát hiện ”có” xảy ra là hành vi
”cưỡng ép ly hôn” và ”cưỡng ép kết hôn” với tỉ lệ tương ứng là 5% và 5.8%. Có thể giải
thích tình hình là kết quả của việc thực hiện luật Hôn nhân và gia đình trong hàng thập kỷ
qua ở Việt Nam. Nhờ vậy các quyền tự do kết hôn và ly hôn theo pháp luật đã đi vào

20


cuộc sống. Trên thực tế ở Việt Nam với truyền thống văn hóa lâu đời việc cưỡng ép hôn
nhân kiểu ”cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” không còn nữa thay vào đó là cách ứng xử tôn
trong quyền tự do của nam nữ thanh niên đến tuổi kết hôn: ”ép dầu, ép mỡ không ai nỡ
ép duyên”. Luật Hôn nhân và gia đình là cơ sở pháp lý để đảm bảo thực hiện quyền tự do
trong hôn nhân theo đúng pháp luật và các quy định này đã được thực hiện phải nói là
nghiêm chỉnh trong cuộc sống.
Như vậy là, kết quả khảo sát cho biết trung bình có khoảng 37% số người được
hỏi cho biết là ”có” xảy ra bất kỳ 1 trong 9 hành vi BLGĐ, trong số đó tỉ lệ nam là 38 %
và tỉ lệ nữ là 36% . Hành vi BLGĐ được nhiều người phát hiện là ”có” nhiều nhất là
”chồng mắng chửi vợ” với 80% số người trả lời ”có”. Hành vi BLGĐ được ít người phát
hiện nhất là hành vi ”cưỡng ép kết hôn” với 5% số người trả lời ”có” xảy ra ở nơi cư trú.
Tình hình xảy ra bạo lực gia đình trong một năm qua ở các địa phương
Trong bốn địa phương được khảo sát, tỉnh miền núi Yên Bái có tỉ lệ trung bình
cao nhất các ý kiến cho biết ở thôn đã xảy ra BLGĐ trong vòng một năm qua: 41.4%/ 1
loại hành vi BLGĐ. Thành phố Đà Nẵng có tỉ lệ ý kiến trung bình thấp nhất: 34.1%/ 1
loại hành vi.
Ở Yên Bái, trong số 9 loại hành vi BLGĐ đã được liệt kê, hành vi ”Chồng mắng
chửi vợ” được nhiều người cho là đã xảy ra nhất, với 90.4% ý kiến. Thứ hai là ”vợ mắng
chửi chồng” với 75.2% ý kiến cho là đã xảy ra trong vòng một năm qua ở thôn. Thứ ba là
”chồng đánh vợ” với 72.8% và thứ tư là ”cha mẹ đánh con cái” với 72% ý kiến.
Ở tỉnh Hà Nam, hành vi “Cha mẹ đánh con cái” được nhiều người nêu ra nhất với

83.2% ý kiến cho là đã xảy ra ở thôn trong vòng một năm qua. Thứ hai là “chồng mắng
chửi vợ” với 74.4% ý kiến, thứ ba là hành vi “chồng đánh vợ” với 73.6% ý kiến.
Ở thành phố Đà Nẵng, hành vi “chồng mắng chửi vợ” được nhiều người nêu ra
nhất với 76.8% ý kiến, thứ hai là hành vi “chồng đánh vợ” với 73.6% ý kiến và thứ ba là
“cha mẹ đánh con cái” với 67.2% ý kiến.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, hành vi “chồng mắng chửi vợ” được nhiều người nêu
ra nhất với 78.4% ý kiến nói rằng ở thôn đã từng xảy ra hiện tượng này trong vòng một
năm qua, thứ hai là “cha mẹ đánh con cái” với 63.2% ý kiến, thứ ba là “vợ chửi mắng
chồng” với 57.6% ý kiến và thứ tư là “chồng đánh vợ” với 53.6% ý kiến.
Bảng 17. Tỉ lệ các ý kiến cho biết ở thôn đã xảy ra bạo lực ra đình trong một năm
quan phân theo địa phương
Các hành vi theo Luật phòng chống bạo lực
gia đình
1. Chồng đánh vợ
2. Vợ đánh chồng
3. Cha mẹ đánh con cái
4. Con cái đánh cha mẹ
5. Chồng mắng chửi vợ
6. Vợ chửi mắng chồng
7. Cưỡng ép kết hôn
8. Cưỡng ép ly hôn
9. Đuổi thành viên gia đình ra khỏi nhà
Tỉ lệ trung bình

Yên
Bái
72.8
44.0
72.0
10.4

90.4
75.2
0.8
1.6
5.6
41.4

Hà
Nam
73.6
13.6
83.2
20.0
74.4
23.2
16.8
11.2
27.2
38.1

Đà
Nẵng
73.6
11.2
67.2
8.8
76.8
54.4
0.0
3.2

12.0
34.1

Tp.
HCM
53.6
19.2
63.2
20.0
78.4
57.6
5.6
4.0
14.4
35.1

21


Như vậy là, đối với cả bốn địa phương được khảo sát, hành vi “chồng mắng chửi
vợ” và thậm chí là “chồng đánh vợ” có thể đã xảy ra thường xuyên nhất với tỉ lệ số người
được hỏi trả lời nhiều nhất rằng ở thôn đã xảy ra hành vi đó trong vòng một năm qua.
Loại hành vi bạo lực thứ hai có thể xảy phổ biến ở cả bốn địa phương là hành vi
“cha mẹ đánh con cái” với tỉ lệ cao số người cho biết hiện tượng này đã xảy ra ở thôn
trong vòng một năm qua.
Hiện tượng BLGĐ như “cưỡng ép hôn nhân” và “cưỡng ép ly hôn” rất ít được nói
đến ở ba địa phương là Yên Bái, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng ở Hà Nam
vẫn có từ 11 - 18% số người cho biết ở thôn có xảy ra hiện tượng này trong vòng một
năm vừa qua.
Tính trung bình, cứ ba người có một người cho biết trong vong một năm qua ở

thôn đã xảy ra bất kỳ một trong số 9 hành vi bạo lực đã được liệt kê.
Theo báo cáo nhanh của lãnh đạo xã ở tỉnh Hà Nam, tình trạng bạo lực không
phải là vấn đề nghiêm trọng ở địa phương và mức độ các vụ BLGĐ trong những năm gần
đây giảm đáng kể.
“Tình hình bạo lực gia đình thì không có nhiều đâu, chỉ có cơ sở công an báo lên
thì chỉ 5-6 vụ thôi. Còn thực tế ở cơ sở thì có khoảng 1 năm 20-30 vụ, nhưng chỉ
có chục vụ hoặc dưới chục vụ thôi là có hòa giải còn không thì là tự bạo lực
rồi tự thôi.”(TLN lãnh đạo xã, Hà Nam)
Cũng theo ý kiến của nhóm lãnh đạo, đoàn thể xã thì địa phương không xảy ra
những vụ việc BLGĐ nghiêm trọng, mà chỉ xảy ra xô xát cá nhân:
“Địa phương tôi nặng thì chưa có, nhưng xô xát chửi nhau lộ bậy, đá với tát thì
có. Chủ yếu là như thế. Một hai cái tát Chủ yếu là xô xát. Còn cầm hung khí thì
không có.” (TLN lãnh đạo,Hà Nam).
Theo cán bộ lãnh đạo xã, BLGĐ chủ yếu xảy ra trong quan hệ vợ chồng trong đó
chồng là thủ phạm và vợ là nạn nhân:
“Bạo lực gia đình, thứ nhất là người chồng. Vợ chồng nhưng tỷ lệ người chồng
xảy ra nhiều hơn vợ. Chồng đánh vợ nhiều hơn. Nguyên nhân bao giờ cũng chồng
gây ra nhiều nhất. Vợ cũng có nhưng ít hơn. Có nhiều ông chồng hiền, có thể là
vợ át hơn, át chồng. Còn thì gây ra nhiều vẫn là đàn ông”. (TLN lãnh đạo,
Hà Nam).
Tuy nhiên bạo lực thân thể chủ yếu xảy ra từ phía chồng đối với vợ và bạo lực
tinh thần lại xuất hiện từ phía phụ nữ:
“Phụ nữ thì có kiểu bạo lực là lời nói thôi, đàn ông thì có khi bực lên thì chỉ vài
ba cái tát và một cái đạp là xong nhưng mà đàn bà mà bạo lực thì các bà ấy chì
chiết, các bà ấy nói dai lắm.” (TLN lãnh đạo, Hà Nam)
“Em thì bạo lực về mặt tinh thần cũng có. Có khi là 2 vợ chồng, vợ thường
thường làm công chức hoặc là vợ kiếm tiền được nhiều hơn ông chồng thường
hay về đay nghiến hay là chê bai ông chồng không kiếm được tiền, thường người
phụ nữ làm cao hơn chồng thì hay có bạo lực về mặt tinh thần. Hay xích mích nói
nhau về công việc, hay về tiền.” (TLN nữ thanh niên chưa có gia đình, Hà Nam)

Có lẽ bạo lực tinh thần khó nhìn thấy, khó phát hiện và khó nói ra nên được cho là
ít xảy ra. Do vậy, theo ý kiến của một số cán bộ ở địa phương bạo lực thể xác xảy ra phổ
biến hơn là bạo lực tinh thần.

22


“Ở đây chủ yếu chồng uống rượu vào rồi đánh chửi vợ tùm lum, đuổi vợ ra khỏi
nhà, cũng có người ngoại tình rồi về nhà ghẻ lạnh với vợ con. Trường hợp bạo
lực tinh thần hay hình thức ngăn cấm vợ không cho tiếp xúc với người ngoài,
hoặc bạo lực tình dục ở đây không thấy, có lẽ họ cũng không báo, cho nên tổ hòa
giải không biết…Các cặp gia đình có bạo lực đều được lập danh sách quản lý,
hàng tháng đều cso rà soát để bổ sung thêm các cặp bạo lực mới, nhưng số lượng
cũng không đáng kể” (Nữ, HLHPN phường, tp. Đà Nẵng)
Là nạn nhân của bạo lực, dù bị thương tích nhưng người vợ không dám đến cơ sở
y tế để điều trị, vì xấu hổ:
“Từ trước khi ông ta có vợ bé thì ông ta đánh tôi 4 lần. Tay tôi hiện bị thành
tật (xương tay bị trật). Ông ấy đánh bằng chổi, cách nay nửa tháng ông ấy lấy
cây lau nhà quất làm cánh tôi sưng. Tôi không ra trạm xá vì nghĩ vợ chồng
đánh lộn thì việc gì phải ra trạm xá. Tôi sợ ra trạm xá sợ người ta biết thì tôi
mắc cỡ lắm. Tôi cũng biết vậy chứ biết sao bây giờ. Tôi cũng tin là cái số tôi
nó khổ như thế” (nữ, 51 tuổi, học hết lớp 5, tp. Hồ Chí Minh)
Bạo lực gây nên thương tích, nhưng nạn nhân không dám báo chính quyền, mà tự
mình tìm cách giải quyết hậu quả:
“Có trường hợp vợ nhỏ vợ lớn đánh nhau cắn đứt đốt ngón tay luôn. Chị vợ
lớn đến trạm xá băng cố định lại. Trường hợp này thì chỉ ghi vào sổ khám
bệnh và chuyển lên tuyến trên. Chị này cũng không qua công an.” (nữ, 48
tuổi, phó trạm trưởng, tp. Hồ Chí Minh)

II.2. Những người tham gia can ngăn trong vụ bạo lực gia đình xảy ra trong thời

gian gần đây nhất ở địa bàn cư trú
Những người trả lời “có người can ngăn trong vụ BLGĐ” được đề nghị cho biết
rõ ai trong số 7 người được liệt kê như thành viên tổ hòa giải, hàng xóm, cán bộ thôn /xã
và những người khác đã can ngăn trong vụ BLGĐ đó.
Kết quả là 81.3% số người cho biết đó “hàng xóm” là người đã can ngăn trong vụ
BLGĐ. Không có sự khác biệt nhiều giữa tỉ lệ nam và nữ trong câu trả lời này. Qua đây
thấy rằng “hàng xóm” là người thường xuyên đóng vai trò là người can ngăn trong các vụ
BLGĐ ở nơi cư trú.
Chỉ có 45.2% số người được hỏi trong đó có 54% nam và 38.8% nữ cho biết là
thành viên tổ hòa giải đã can ngăn trong các vụ BLGĐ. Cũng chỉ có 45.2% số người
được hỏi cho biết “cán bộ thôn xã” là người can ngăn trong các vụ BLGĐ, tỉ lệ nam là
46% và tỉ lệ nữ là 44.6%.
Đặc biệt là chỉ có khoảng một phần ba số người được hỏi cho biết người can ngăn là
“công an” và “thành viên gia đình”. Việc “công an” không thường xuyên đứng ra can
ngăn trong các vụ BLGĐ là có lý do ví dụ như không phải lúc nào cũng có mặt công an ở
nơi xảy ra BLGĐ và không phải lúc nào công an cũng sẵn sàng can thiệp mà phải tùy
tình hình diễn biến cụ thể.
Tuy nhiên, việc chỉ có 33.8% số người cho biết “thành viên gia đình” là người can
ngăn BLGĐ là một vấn đề rất cần quan tâm nghiên cứu. Bởi vì “người khác” và “người
cao tuổi” ít khi can ngăn BLGĐ là điều có thể giải thích được do họ không hiểu rõ tình
hình hoặc do sức khỏe yếu. Vấn đề đặt ra là BLGĐ ảnh hưởng trực tiếp đến gia đình và
các thành viên gia đình, vậy tại sao “thành viên gia đình” không phải là người tích cực,
chủ động như “hàng xóm” trong việc đứng ra can ngăn BLGĐ? Rất có thể là “thành viên
gia đình” đã can ngăn nhưng không được và BLGĐ bung ra đến mức hàng xóm cũng biết

23


và hàng xóm phải can ngăn. Nhưng vụ BLGĐ nào mà thành viên gia đình can ngăn được
theo kiểu “đóng cửa bảo nhau” thì người ngoài cũng khó có thể biết.

Bảng 18. Tỉ lệ ý kiến cho biết ai là người can ngăn trong vụ BLGĐ xảy ra trong
thời gian gần đây nhất ở nơi cư trú
Nam

Nữ

Chung

Hàng xóm

80.7

81.7

81.3

Thành viên tổ hòa giải

54.0

38.8

45.2

Cán bộ thôn, xã

46.0

44.6


45.2

Công an

35.4

33.9

34.5

Thành viên gia đình

31.7

35.3

33.8

Người cao tuổi

9.3

6.3

7.5

Người khác

5.0


5.4

5.2

Cán bộ tư pháp

2.5

0.4

1.3

II.3. Lí do không can ngăn vụ bạo lực gia đình ở địa phương
Việc có tới một phần ba số người trả lời là “không có ai can ngăn trong vụ
BLGĐ” là có lý do, trong số đó có lý do từ phía gia đình có BLGĐ. Về vấn đề này, cuộc
khảo sát đã thu được một số kết quả như sau: 53.3% cho rằng BLGĐ là “việc riêng của
gia đình” không ai can thiệp. Nhưng chỉ có 50% phụ nữ đồng với nhận định như vậy.
Nhưng 62.5% nam giới tỏ ra đồng tình với cách giải thích rằng “không có ai can
ngăn trong vụ BLGĐ vì “người ta coi đấy là việc riêng của gia đình”. Sở dĩ tỉ lệ nam
nhiều hơn tỉ lệ nữ, có thể là do phần lớn các vụ BLGĐ là do nam giới gây ra, nam giới là
thủ phạm và phụ nữ là nạn nhân.
Chỉ có 10% số người trả lời cho biết lí do “gia đình đó đóng cửa không cho ai
vào”. Nhưng chỉ có 4.5% nữ đồng tình với cách giải thích này trong khi có tới 25% nam
giới nhất trí với cách giải thích đó.
Không nam giới nào cho rằng vì “gia đình đó đe dọa đánh đập người ngoài vào
can thiệp” nên không ai can ngăn vụ BLGĐ. Nhưng 13.5% phụ nữ lại nhất trí với cách
giải thích này.
Bảng 19. Tỉ lệ nam nữ cho biết lí do vì sao không có ai can ngăn vụ bạo lực gia đình

Người ta coi đấy là việc riêng của gia đình


Nam
62.5

Nữ
50.0

Chung
53.3

Lý do khác
Gia đình đó đóng cửa không cho ai vào

12.5
25.0

40.9
4.5

33.3
10.0

Gia đình đó đe dọa đánh đập người ngoài vào can thiệp

0.0

13.6

10.0


24


Trong thảo luận nhóm nam giới, một thanh niên chưa có gia đình cũng cho biết lý
do vì sao phụ nữ im lặng, không báo chính quyền địa phương mặc dù bị chồng đánh. Đó
là lòng sỹ diện, giữ thể diện, ví dụ như sau :
“Người Việt Nam có câu “hay ho thì phô ra, xấu xa thì che lại”, nó thành ra nếp
nghĩ rồi nên thường mọi người hay cam chịu, thà chịu bị đánh đập còn hơn nói ra
tôi như thế này” (Thảo luận nhóm thanh niên, Yên Bái).
Theo em thì đa số làm nông nghiệp là nhiều, 70% là làm nông nghiệp, nên là
nhiều vụ xảy ra là chồng đánh vợ nên là vợ cũng im lặng, bây giờ ý thức của
người dân ta còn kém, học ít, nên là muốn ra báo chính quyền thì người ta ngại,
người ta dơ. Không như ở các thành phố thành thị thì khác. Bình đẳng thì ở dưới
xã em thì nữ vẫn thua nam. (TLN nam giới chưa có gia đình, Hà Nam)
Nghiên cứu định tính bằng các phương pháp phỏng vấn sâu cho biết biện pháp
đóng cửa bảo nhau được nhiều cặp vợ chồng, nhiều gia đình áp dụng và dường như cách
giải quyết này chiếm ưu thế trong quan niệm của người dân địa phương, vì họ quan niệm
đó là chuyện riêng của các cặp vợ chồng. Điều này được cả giáo viên và người có trình
độ học vấn thấp nêu ra, ví dụ như sau:
“Cách giải quyết những mâu thuẫn trong gia đình theo kiểu "đóng cửa bảo nhau"
có phù hợp không ư? Nên, vì đó là chuyện của vợ chồng”.(nữ 44 tuổi, giáo viên
mầm non, tp. Hồ Chí Minh)
“Cách giải quyết là tốt, tôi thích cách này (“đóng cửa bảo nhau”). Tôi và vợ tôi
không bao giờ cãi lộn nhau ở ngoài đường” (nam giới, học lớp 1, tp. Hồ Chí
Minh)
“Nhà em có rất nhiều lần xô xát, đánh đập nhau mà thậm chí cũng có lần phải đi
bệnh viện rồi thế nhưng em cũng nghĩ cũng lỗi do mình một phần chứ không thể
đổ tất cho chồng được nên em cũng có lần chồng đánh phải đi viện khâu mấy mũi
nhưng em cũng không, chỉ tức lúc đấy thì cũng chửi lại trách móc sau này mình
nghĩ lại mình thấy mình cũng có sai chứ không phải hoàn toàn chồng sai” (PVS

nữ, số 11, Yên Bái)
Một cách xử lý, giải quyết từ phía người phụ nữ, nạn nhân của BLGĐ là "nín
nhịn” hay “cam chịu” để mọi chuyện em xuôi, chứ không để “chuyện bé xé ra to”. Cách
làm này được cả phụ nữ có trình độ học vấn thấp và giáo viên áp dụng phổ biến trong
cuộc sống hàng ngày, ví dụ:
“Cách giải quyết xung đột hoặc hành vi bạo lực gia đình? Mình im đi, không
được chửi, chửi lại thì bị đánh. Nó chửi thì kệ nó, lên tiếng thì thành chuyện
lớn”. (nữ, 32 tuổi, học vấn lớp 1, tp. Hồ Chí Minh)
“Kinh nghiệm gia đình thì mình nhường nhịn chồng một chút. Chồng sai mình
cũng nói lại nhưng vẫn phải nhịn.(nữ 44 tuổi, giáo viên mầm non, tp. Hồ Chí
Minh)
Một cuộc thảo luận nhóm nam giới cho biết nam giới có cách nhìn và giải pháp
khác đối với giải quyết bạo lực gia đình:
“Cách giải quyết khi gia đình có bạo lực :
1. Nhịn, chịu đựng
70%
2. Khuyên can
20-30%
3. Hàng xóm can
20-30%
4. Tổ trưởng can thiệp 10-15%
5. Tổ hòa giải can thiệp 10-15%

25


×