Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP VÀ HÔN NHÂN CHO CON CỦA HỘ GIA ĐÌNH CƯ DÂN VEN BIỂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNGHIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.72 KB, 27 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC

BÁO CÁO THỰC TẬP
ĐỀ TÀI
“ĐỊNH HƯỚNG NGHỀ NGHIỆP VÀ HÔN NHÂN CHO CON CỦA HỘ
GIA ĐÌNH CƯ DÂN VEN BIỂN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
HIỆN NAY”
(Qua khảo sát tại 3 thôn Nhân Hưng, Giang Sơn, Đông Hải của xã Hải Hoà,
huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá)

Hà Nội, tháng 8 năm 2011


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình phát triển kinh tế xã hội trong những năm vừa qua dã tác động không nhỏ
đến vai trò của gia đình đối với việc đụnh hướng nghề nghiệp và hôn nhân cho con
cái. Nhất là khi nhu cầu xã hội đòi hỏi trình độ học vấn ngày càng cao thì việc đặt ra
đối với phần lớn gia đình là làm sao tạo điều kiện cho con cái hcọ tập tốt và vấn đề
tìm kiếm việc làm cho mỗi thành viên trong gia đình trong tương lai là vấn đề cần
thiết. Điều này xảy ra ở hầu hết các gia đình ở nông thôn, vùng miền biển, vùng cư
dân ngư ngiệp đến đô thị với nhiều cách thức, phương pháp cùng với những mong
muốn riêng.
Ngày nay vấn đề giáo dục định hướng nghề nghiệp và hôn nhân thực sự là một vấn
đề quốc gia và của toàn xã hội cần quan tâm. Ở Việt Nam sau khi đổi mới từ nền
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thì nền kinh tế xã hội của nước ta đã có những bước chuyển biến tích cực và
ngày càng phát triển, từ đô thị đến nông thôn, từ vùng núi vùng biển đến các ngư dân
ngư nghiệp... Đời sống vật chất và đời sống tinh thần của người dân ngày càng được


cải thiện và nâng cao đặc biệt trong lĩnh vực đời sống xã hội đã mở ra nhiều ngành
nghề thu hút nhiều lao dộng tham gia. Tuy nhiên việc lựa chọn bậc học, nghề nghiệp
phù hợp với khả năng và năng lực của mỗi các nhân, đặc biệt đối với giới trẻ, tuổi
vẫn đang là một vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn, bởi thực tế số người tốt nghiệp
trung cao, cao đẳng, đại học ra trường tìm được một việc làm nhưng không đáp ứng
được yêu cầu công việc vẫn đang là bài toán khó chưa có lời giải. Bên cạnh đó cùng
với sự phát triển của đất nước thì xu hướng hôn nhân ngày nay cũng có sự đô vỡ
nhiều, tỷ lệ ly hôn cũng tăng lên một cách đáng kể cho nên yếu tố về hôn nhân cũng
được quan tâm trong xã hội hiện nay.
Chính vì vậy thế hệ trẻ hiện nay cần được cha mẹ quan tâm hơn nữa và dẫn dắt trẻ
bước vào đời một cách tích cực, có hiệu quả trong cuộc sống và trong tương lai sau
này. Bởi vậy việc định hướng về nghề nghiệp, hôn nhân cho giới trẻ hiện nay là rất
cần thiết để sau khi tốt nghiệp, số thanh niên có việc làm đúng với khả năng, năng
lực và chuyên môn được đào tạo, tránh tình trạng nhiều ngành thì thiếu lao động, còn
nhiều ngành lại thừa lao động, lãng phí thời gian và công đào tạo của nhà nước. Vì lẽ
đó cho nên đòi hỏi chúng ta phải có sự đầu tư và định hướng nghề nghiệp và hôn
nhân một cách đúng đắn cho giới trẻ trong các hộ gia đình hiện nay.
Hơn nữa gia đình là hạt nhân của xã hội, là nơi đặt nền móng đầu tiên cho sự hình
thành nhân cách và phẩm chất của mỗi cá nhân. Trách nhiệm của cha mẹ không chỉ
là sinh con, nuôi con mà còn phải giáo dục con trở thành người có nhân cách, phẩm
2


chất tốt, có tri thức, có trí tuệ, có ích cho xã hội, Bên cạnh đó việc chăm sóc, dạy dỗ
con cái nên người còn là một nhu cầu cấp thiết, một niềm hạnh phúc của người làm
cha làm mẹ. Trong gia đình tình thương đặc biệt sâu sắc của cha mẹ tạo nên sức
mạnh cảm hoá lớn mà nhà trường và xã hội không thể có được. Vì vậy công tác giáo
chiếm một vị trí quan trọng mà các hình thức giáo dục khác không thể thay thế.
Gia đình là môi trường xã hội hoá đầu tiên mà phần lớn các cá nhân đều phải trải qua
nên vai trò, trách nhiệm của cha mẹ trong việc giáo dục định hướng về nghề nghiệp

và hôn nhân cho con cái cực kỳ quan trọng, hơn nữa cha mẹ là người gần gũi nhất
với con cái nên vai trò của họ trong quá trình giáo dục định hướng nghề nghiệp và
hôn nhân cho con cái cũng rất cần thiết.
Như vậy việc giáo dục định hướng nghề nghiệp, hôn nhân cho con cái của gia đình
trong giai đoạn hiện nay không chỉ là của các nhà trường mà còn là sự giáo dục tổng
hợp từ nhà trường và xã hội. Có như vậy mới tạo nên sự giáo dục liên hoàn trong
lĩnh vực giáo dục định hướng cho giới trẻ nói riêng và góp phần trang bị kiến thức và
kỹ năng sống nói chung cho thé hệ trẻ thanh niên trong giai đoạn hội nhập. Trước
thực té đặt ra ở nước ta những năm qua cũng có khá nhiều các nghiên cứu, các bài
viết về vấn đề lao động và việc làm, tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, đặc biệt là yếu tố gia đình. Sự định hướng của gia đình tác động
trực tiếp đến tương lai, nghề nghiệp sau này của con cái trong gia đình. Đó cũng
chính là lý do tôi chọn đề tài nghiên cứư này “Định hướng nghề nghiệp, hôn nhân
cho con cái của hộ gia đình cư dân ven biển xã Hải Hoà huyện Tĩnh Gia tỉnh
Thanh Hoá trong nền kinh tế thị truờng hiện nay”. Qua khảo sát thực tế tại 3 thôn
ở địa bàn xã Hải Hoà về việc định huớng bậc học, nghề nghiệp, hôn nhân cho con cái
của họ với mong muốn được bổ sung đóng góp ý kiến về vấn đề bậc học, nghề
nghiệp, hôn nhân để các chủ nhân tương lai của đất nước khi bước vào độ tuổi lao
động đều có những lựa chọn, quyết định đúng đắn để trở thành công dân tốt, có ích
cho xã hội. Thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước
mà Đảng và Nhà nước đặt ra.
2 Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ: “Việc định hướng về nghề nghiệp,
hôn nhân cho con cái của các hộ gia đình cư dân ven biển xã Hải Hoà huyện
Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá trong nền kinh tế thị trường hiện nay”. Qua khảo sát
tại 3 thông Nhân Hưng, Đông Hải, Giang Sơn.Trong khuôn khổ nghiên cứu với đề
tài này tôi tập trung vào những mục tiêu sau:
2.1 Quan điểm của người dân về việc định hướng nghề nghiệp, hôn nhân cho con
cái.
3



2.2 Tìm hiểu xu thế nghề nghiệp, hôn nhân được các gia đình cư dân ven biển lựa
chọn để định hướng cho con cái hiện nay.
2.3 Mối quan hệ giữa điều kiện kinh tế gia đình, nghề nghiệp và trình độ học vấn của
cha mẹ đối với việc định hướng nghề nghiệp, hôn nhân cho con cái hiện nay.
3 Câu hỏi nghiên cứu
3.1 Quan điểm của người dân về vấn đề định hướng bậc học, nghề nghiệp, hôn nhân
cho con cái như thế nào?
3.2 Xu thế bậc học, nghề nghiệp, hôn nhân được các gia đình cư dân ven biển lựa
chọn để định hướng cho con cái hiện naylà gì?
3.3 Điều kiện kinh tế gia đình, nghề nghiệp và trình độ học vấn của cha mẹ ảnh
hưởng như thế nào đến việc định hướng bậc học, nghề nghiệp, hôn nhân cho con cái?
4 Giả thuyết nghiên cứu
4.1 Trong các gia đình cư dân ven biển hiện nay đã nhận thức được tầm quan trọng
trong việc định hướng nghề nghiệp, hôn nhân cho con cái.
4.2 Đa số mong muốn của người dân là muốn con cái lựa chon được nghề nghiệp,
hôn nhân phù hợp với con cái.
4.3 Do điều kiện kinh tế gia đình, nghề nghiệp và trình độ học vấn của người dân
khác nhau nên định hướng nghề nghiệp và hôn nhân cho con cái cũng khác nhau.
5 Phạm vi nghiên cứu
5.1 Phạm vi về vấn đề nghiên cứu
Đề tài được thực hiện thông qua quá trình khảo sát thực tế tại 3 thôn Nhân Hưng,
Đông Hải, Giang Sơn của xã Hải Hoà huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá.
5.2 Phạm vi khách thể nghiên cứu
Phạm vi khách thể nghiên cứu của đề tài là các họ gia đình có con đang theo học
các bậc học và có con đang trong độ tuổi hôn nhân.
5.3 Phạm vi về thời gian nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu của đề tài về việc định hướng nghề nghiệp, hôn nhân cho con
của các hộ gia đình cư dân ở xã Hải Hoà huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá từ năm

2005 đến nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp phân tích tài liệu
6.1.1 Phân tích xử lí số liệu
Đề tài được thực hiện có sự tham khảo đọc và phân tích các tài liệu, báo cáo về
tình hình kinh tế - xã hội năm 2010. Phương hướng phát triển kinh tế xã hội năm
2011 của xã Hải Hoà huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá và một số tài liệu khác liên
quan đến vấn đề lao động, việc làm, nghề nghiệp. Trên cơ sở thu được bảng hỏi dùng
nó làm tài liệu cho mình để phân tích làm nổi bật lên vấn đề nghiên cứu.
4


6.1.2 Mô tả về khảo sát xã hội học của đoàn thực tập K52-PN2
Qua đợt thực tập thực tế của lớp K52 – PN2 với chủ đề là: “ Biến đổi làng Việt
trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay”. Nghiên cứu tại xã Hải Hoà huyện Tĩnh Gia
tỉnh Thanh Hoá thì đoàn đã phỏng vấn qua 450 hộ gia đình có con đang theo học
gồm các bậc học và trong độ tuổi hôn nhân thuộc mọi tầng lớp, nghề nghiệp khác
nhau. Kết quả kiểm tra bảng hỏi được xử lý trên máy tính theo chương trình SPSS
nhằm xác lập tương quan giữa các dữ liệu được tìm hiểu.
6.2 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Chúng tôi tiến hành điều tra bằng bảng hỏi với các câu hỏi đóng, mở nhằm thu thập
thông tin làm cơ sở cho đề tài.
6.3 Phương pháp phỏng vấn sâu
Tập trung vào vấn đề định hướng bậc học, nghề nghiệp, hôn nhân cho con cái của
các hộ gia đình ven biển. Trong gia đình ai là người đảm nhiệm chính việc giáo dục
về định hướng bậc học, nghề nghiệp, hôn nhân cho con là chủ yếu?.
Trực tiếp phỏng vấn sâu, người đi phỏng vấn chuẩn bị một đề cương phỏng vấn
sâu được thể hiện bằng một số câu hỏi mở một cách sơ bộ. Tiến hành 5 bẳng phỏng
vấn sâu thuộc 5 đối tượng khác nhau mà người trả lời là:
01 chủ hộ gia đình là người làm nông nghiệp

01 chủ hộ gia đình là cán bộ xã
01 chủ hộ gia đình làm nghề ngư, đánh bắt thủy hải sản
01 chủ hộ gia đình với nghề nghiệp tự do
01 đối tượng học sinh THPT
7. Khung lý thuyết

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
5


1 Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Vấn đề hướng nghiệp là đối tượng nghiên cứu được nhiều nhà tâm lý học trong và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Có thể điểm một số nghiên cứu tiêu biểu từ trước
đến nay về vấn đề này.
Năm 1849, ở Pháp đã cho ra đời cuốn chỉ dẫn về chọn nghề, trong đó có phân tích
các nghề và những năng lực cần thiết để nắm vững nghề.
Năm 1908, Giáo sư của trường đại học Harvard (Mỹ) là F.Paons đã thành lập hội
đồng hướng nghiệp ở Boston. Năm 1910, một hội đồng hướng nghiệp tương tự ở
Newyork cũng được thành lập. Nhiệm vụ của các hội đồng hướng nghiệp này là
nghiên cứu các yêu cầu của nghề đối với con người, tìm hiểu một cách chi tiết về
năng lực của học sinh từ đó giúp cho các em sau khi tốt nghiệp phải có được lựa
chọn nghề phù hợp với năng lực và sở thích của cá nhân.
Ở Việt Nam từ trước đến nay cũng có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh
vực nghề nghiệp và hướng nghiệp cho các em học sinh. Các nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau đã đi sâu vào nhiều mảng, nhiều lĩnh vực khác nhau của của mối
quan tâm hàng đầu này ở lớp trẻ. Có thể điểm qua một vài công trình nghiên cứu lý
luận và thực tiễn về vấn đề này.
Năm 1978, trong cuốn: “Một số vấn đề cơ bản về tâm lý học lao động” các tác giả đã
đề cập đến cơ sở khoa học trong việc tư vấn hướng nghiệp cho học sinh. Đó là việc

phải xác định được xu hướng nghề nghiệp thể hiện ở hưúng thú nghề nghiệp, khuynh
hướng chọn nghề và nguyện vọng vươn lên nắm lấy chuyên môn cần học.
Năm 1989, Giáo sư Phạm Tất Dong với cuốn “Giúp bạn chọn nghề” đã đưa ra những
cơ sở khoa học giúp cho các em học sinhlựa chọn cho mình nghề nghiệp phù hợp, đó
là trước khi chọn nghề, học sinh phải trả lời được 3 câu hỏi:g Tôi thích làm nghề gì?
Tôi làm được nghề gì? Tôi cần làm nghề gì?. Từ đó định hướng cho việc chọn nghề
nghiệp tương laic ho bản thân một cách phù hợp và đúng đắn.
Trên quan điểm xội học, PTS Vũ Hào Quang khi nghiên cứu “Những vấn đề cấp
bách của gia đình nông thông huyện Nam Ninh” đã tập trung vào việc chỉ ra những
giá trị cấp bách và trọng tâm của gia đình nông thông Nam Ninh, đặc biệt là giá trị
nghề nghiệp.
2 Tiếp cận lý thuyết
Trong báo cáo này tôi vận dụng một số lý thuyết xã hội học để tìm hiểu và phân
tích vấn đề quan tâm đến việc “Định hướng nghề nghiệp, hôn nhân cho con cái
của các hộ gia đình cư dân ven biển tại xã Hải Hoà huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh
Hoá”.
2.1 Lý thuyết vai trò của Ralph Linton

6


Theo ông một vai trò là tập hợp những mong đợi, đòi hỏi của xã hội về các quyền
và nghĩa vụ được gán cho mỗi địa vị cụ thể. Những mong này đợi xác định những
hành vi của con người giữ địa vị ấy. Sự thực hiện vai trò là những hành vi thực tế của
một cá nhân chiếm một vị trí nhất dịnh và việc thực hiện vai trò có thể rất dễ bị thay
đổi và có thể tác động bởi hiểu biết của chúng ta về vai trò, nghĩa là việc nhận biết về
vai trò của mình là rất cần thiết trong mỗi cá nhân khi thực hiện những quyền và
nghĩa vụ của mình. Một cá nhân có thể chiếm giữ nhiều vai trò và nó là một hệ
những hành động trong một mạng lưới với các hành động của các cá nhân khác.
Vận dụng thuyết này vào báo cáo, tôi thấy gia đình có một vị trí quan trọng, đặc

biệt trong sự chăm sóc, giáo dục và định hướng nghề nghiệp cũng như hôn nhân cho
con cái. Sự quan tâm chăm sóc và định hướng của cha mẹ chính là mong đợi của cha
mẹ đối với con cái. Tuy nhiên, sự định hướng, quan tâm, chăm sóc ở mỗi gia đình là
không giống nhau mà nó phụ thuộc vào từng hoàn cảnh của gia đình cũng như sự
chịu tác động của một số yếu tố như trình độ học vấn của cha mẹ, nghề nghiệp của
cha mẹ. Đồng thời sự định hướng này cũng có thể thay đổi cho phù hợp với xu thế
phát triển chung của xã hội.
2.2 Lý thuyết xã hội hóa
Xã hội hóa là quá trình cá nhân tiếp nhận hệ thống nhất định về những tri thức,
chuẩn mực xã hội và hoạt động với tư cách là thành viên của xã hội. Là quá trình cá
nhân tiếp thu những văn hóa và học cách đóng vai trò của mình.
Từ khái niệm trên cho ta thấy các cá nhân không chỉ tiếp nhận những tri thức và
chuẩn mực xã hội một cách máy móc mà còn tham gia vào những lĩnh vực cụ thể với
tư cách là chủ thể hành động với những vai trò tương ứng của mình. Trong đó môi
trường văn hóa là yếu tố quan trọng để cá nhân xác định được những giá trị chân
thực trong quá trình xã hội hóa. Song môi trường này lại diễn ra ở nhiều cấp độ và
phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan cũng như khách quan của mỗi cá nhân.Có thể
nói gia đình là môi trường văn hóa đầu tiên của cá nhân mà ở đó mỗi cá nhân được
tiếp nhận những giá trị và kinh nghiệm sống của cha mẹ, của những thế hệ người đi
trước, học tập cách ăn nói, đi lại, sinh hoạt ngay từ lúc mới sinh ra và được dẫn dắt
ngay trong gia đình. Song trên thực tế cho thấy xã hội hóa là quá trình diễn ra trong
suốt cuộc đời mỗi các nhân, nó mang tính kế thừa và phát huy những giá trị mà cá
nhân đó học hỏi và tích lũy được trong thực tiễn cuộc sống. Những giá trị của sự
phát huy này nó lại phụ thuộc vào từng điều kiện sống cụ thể, vào bối cảnh cụ thể.
Chính vì vậy mà nhà xã hội học người Nga G.Andrreeva cho rằng: “Xã hội hóa là
quá trình diễn ra hai mặt, một mặt cá nhân tiép nhận kinh nghiệm xã hội bằng cách
thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội, Mặt khác cá
7



nhân tái sản xuất một cách chủ động, hệ thống các quan hệ xã hội thông qua chính
việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội”.
1.3 Lý thuyết hành động xã hội
Theo quan điểm của nhà xã hội học người Đức Max Weber cho rằng hành động xã
hội là một hành động được chủ thể gắn cho nó một ý nghĩa chủ quan nào đó, là một
hành động có tính đến hành vi của người khác vì vậy được định hướng đến người
khác.
Ông cho rằng đặc trưng quan trọng nhất của xã hội hiện đại là hoạt động xã hội của
con người. ở đây em vận dụng lý thuyết này vào đề tài này của mình để nói đến định
hướng bậc học, nghề ghiệp và hôn nhân cho con cái là hành động xã hội có mục
đích, có giá trị và hành động truyền thống mà cha mẹ mong muốn và hướng tới cho
những bậc họ, nghề nghiệp và hôn nhân phù hợp với khả năng của con. Để đạt được
một kết quả hình dung trước.
3 Hệ thống khái niệm
3.1 Khái niệm về định hướng giá trị
Định hướng giá trị là nguồn chính để lĩnh hội giá trị tinh thần và văn hóa xã hội
cũng như việc biến nó thành cái kích thích cái động cơ hành vi thực tiễn người. Việc
hình thành các định hướng giá trị chính là viẹc thúc đẩy sự phát triển của cá nhân nói
chung. Vấn đề định hướng giá trị rất cấp bách và nó không những ảnh hưởng tời việc
chon, l;ựa chọn hoạt động sống mà còn cả việc lựa chọn vị trí, chỗ sinh sống và cả
quá trình sống, lối sống của cả nhóm xã hội khác nhau trong cơ cấu xã hội cụ thể
3.2 Khái niệm gia đình
“Gia đình là một thiết chế xã hội đặc thù, một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên
của nó gắn bó với nhau bởi mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ
con nuôi, bởi tính cộng đồng về sinh hoạt,trách nhiệm đạo đức với nhau nhằm đáp
ứng những nhu cầu riêng của các thành viên cùng để thực hiện tính tất yếu của xã
hội về tái sản xuất con người” (Theo Phạm Tất Dong và Lê Ngọc Hùng trong xã
hội học nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội).
Hay theo quan điểm chung nhất thì “Gia đình là một nhóm xã hội gồm hai hay
nhiều người gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc quan hệ nhận

con nuôi, vừa đáp ứng nhu cầu riêng, vừa thỏa mãn những nhu cầu của xã hội và tái
sản xuất dân cư theo cả nghĩa thể xác lẫn tinh thần” (Trích Tập bài giảng xã hội học
gia đình của Lê Thái Thị Băng Tâm ). Vậy:
- Vai trò của gia đình ảnh hưởng lớn đến quá trình hình thành nhân cách của một
đứa trẻ, đưa ra những giải pháp, phương pháp để con cái học hỏi, phấn đấu như: Vốn
sống, kinh nghiệm sống.
8


- Vai trò của con cái: Tiếp thu vốn sống, kinh nghiệm sống của cha mẹ, gia đình để
lại. Luôn kính trọng và nghe lời cha mẹ, gia đình để lại. Đồng thời con cái cũng có
quyền đưa ra những quan điểm, ý tưởng của mình để cha mẹ, gia đình cùng bàn bạc
giải quyết.
-Ở đề tài này tôi sử dụng khái niệm hộ gia đình ven biển, hộ gia đình là khái niệm
chỉ một hình thức tồn tại của một kiểu xã hội lấy gia đình làm nền tảng.
3.3 Khái niệm cư dân
Cư dân là số lượng những cá thể con người sinh sống trên một lãnh thổ hay một
vùng địa lí cụ thể. Hay cư dân là nhiều nhà, nhiều người cùng chung sống với nhau
trong một khoảng thời gian nhất định.
3.4 Khái niệm nghề nghiệp
Nghề nghiệp là việc trao đổi cung cấp thông tin về đặc điểm hoạt động và yêu cầu
phát triển của các nghề trong xã hội đặc biệt là các nghề và các nơi đang rất cần lao
động trẻ tuổi có văn hoá. Về yêu cầu tâm sinh lý của mỗi nghề, về tình hình phân bố
lao động và yêu cầu điều chỉnh lao động tại cộng đồng. Ở Việt Nam nghề được chia
thành các dạng: Nông nghiệp; Cán bộ công nhân viên; Giáo viên, kỹ sư, bác sỹ; Bộ
đội, công an; Dịch vụ buôn bán; các nghề khác.
Định hướng nghề nghiệp là việc lựa chọn nghề đó cho con bằng mọi cách khuyên
nhủ, bảo ban và hướng cho con phấn đấu theo nghề đó trong tương lai.Định hướng
gồm:
+ Định hướng nghề nghiệp cho con trai

+ Định hướng nghề nghiệp cho con gái
Sự định hướng nghề nghiệp của các hộ cư dân ven biển với nghề nghiệp khác nhau
nhưung đều cùng căn cứ vào lứa tuổi, trình độ học vấn của con, trình độ học vấn của
bố mẹ.
(Trích bài giảng Xã hội học nghề nghiệp)
3.5 Khái niệm chọn nghề
Chọn nghề là cá nhân lựa chọn một loạt hoạt động, lao động nào đó trong khuôn
khổ cấu trúc cán bộ của nền kinh tế quốc dân, được hình thành trên cơ sở thực tế của
việc phân công lao động xã hội.
3.6 Khái niệm giá trị
“Là những định nghĩa về mặt xã hội của khách thể trong thế giới xung quanh
nhằm nêu bật tác động tiêu cực của khách thể ấy đối với con người và xã hội. Xét bề
ngoài các giá trị là các đặc tính của sự vật hoặc hiện tượng. Tuy nhiên chúng không
phải là cái vốn có do thiên nhiên ban cho sự vật, hiện tượng, không phải đơn thuàn
do kết cáu bên trong của khách thể mà là do khách thể bị thu hút vào phạm vi tồn tại
9


của xã hội, của con người và trở thành cái mang những quan hệ xã hội nhất định. Đối
với chủ thể giá trị là là những đối tượng lợi ích của nó, còn đối tượng với những ý
thức của nó thì chúng đóng vai trò những vật định hướng hàng ngày trong thực tại
vật thể xã hội hiện tượng xung quanh” (Trích Từ điển triết học).
3.7 Khái niệm về hôn nhân
Hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ được pháp luật thừa
nhận và bảo vệ nhằm chung sống và cùng nhau có trách nhiệm xây dựng gia đình. Sự
nhận thức về mặt pháp lý biểu hiện ở giấy chứng nhận kết hôn do chính quyền địa
phương cấp. Tính chất pháp lý còn thể hiện ở chỗ từ nay cuộc hôn nhân, cuộc sống
của gia đình, quyền lợi của vợ chồng, cha mẹ, con cái sẽ được chính quyền bảo vệ.
(Trích tập bải giảng xã hội học gia đình - Lê Thái Thị Băng Tâm)
Hoặc hôn nhân là một dạng liên kết khác giới thuộc loại đặc biệt được tập

quán và pháp luật công nhận, có giá trị lâu dài. Khái niệm “Hôn nhân” không thể
được rút gọn về một tiêu chuẩn riêng như tính hợp pháp hay khả năng tái sinh học và
xã hội. Vì tính chất thể loại đặc biệt của nó được lý giải bởi cấu trúc bên trong đặc
biệt và bởi xã hội đã giao phó cho nó những chức năng đa dạng nhất mà một phần
được thể hiện ở nội dung, nhưng trước hết là ở sự tổ hợp và ở thứ tự ưu tiên nó cho
thấy những biến đổi đa dạng nhất trong xã hội loài người. Dù sự khác biệt văn hóa
thì hôn nhân bất cứ ở đâu, dù khác nhau ở mức độ trách nhiệm vẫn được công nhận
là thể chế xã hội để đảm bảo là sự kết tục hợp pháp, thường được xã hội bảo vệ và ở
mức độ nhiều hay ít chịu sự điều tiết của xã hội, lý giải sự tiếp tục thừa kế và đòi hỏi
sự tương trợ và hợp tác lẫn nhau của cả đôi bên - ít nhất ở yêu sách (G.Endrweit &
G.Trommsdoff, 1989 Từ điển xã hội học . XNB thế giới 2002:222)
Như chúng ta đã biết độ tuổi kết hôn luôn được biến đổi theo từng thời gian,
theo thời đại và tùy thuộc vào từng phong tục tập quán của mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc.
Tóm lại đề tài định hướng giáo dục con cái của cha mẹ chính là những kinh
nghiệm, những hiểu biết của cha mẹ về nghề nghiệp, bậc học, hôn nhân cũng như
phải quan tâm và đầu tư những gì để con cái của mình đạt được những nghề nghiệp
ấy mà họ tích lũy được trong suốt quá trình sống. Con cái là người tiếp thu những
kinh nghiệm hiểu biết và chủ động trong quá trình học tập, trong các mối quan hệ với
giá đình, nhà trường, bạn bè, khu phố. Đồng thời cha mẹ là người đầu tiên có vai trò
quan trọng trong việc định hướng bậc học, nghề nghiệp, hôn nhân và việc quyết định
đầu tư tiền bạc cho con cái, thời gian học tập cho con cái. ở mỗi gia đình với những
đặc trưng riêng lại có những định hướng và mức độ quan tâm khác nhau so với
những gia đình khác. Điều này nó được biểu hịên ở môi trường sống của gia đình
cho đến những yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp, thu nhập của cha mẹ.
10


Như vậy cùng với lý thuyết về vai trò, lý thuyết xã hội hóa của một các nhân
và đặc biệt là lý thuyết hành động xã hội hóa gia đình đã cho chúng ta có một cơ sở

lý thuyết để phân tích những khía cạnh mà nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra.
4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu
Tĩnh Gia là một huyện miền biển, nằm ở cực Nam của tỉnh Thanh Hoá, phía
nam giáp tỉnh Nghệ An, phía đông giáp biển, phía bắc giáp huyện Quảng Xương,
phía tây giáp huyện Nông Cống và huyện Như Thanh. Với diện tích là 457,34km2,
Dân số 220.000 người. Có bờ biển dài hơn 30km, có nhiều đảo lớn như đảo Mê, đảo
Nghi Sơn. Là vùng bán sơn địa nên có cả rừng núi và đồng bằng. Có đường giao
thông quan trọng như quôcs lộ 1A, đường sắt Bắc Nam, hệ thống đường song phân
bố suốt chiều dài của huyện.
Huyện Tĩnh Gia có lịch sử lâu đời, thời thuộc Hán là phần đất phía đông nam của
huyện Cư Phong, thời Tam Quốc là miền đất tương đưong của huyện Thường Lạc.
Thời Lê Quang Thuận đổi tên là huyện Ngọc Sơn thuộc phủ Tĩnh Gia gồm cả Ngọc
Sơn, Nông Cống và Quảng Xương.
Đầu thế kỷ XX các huyện Quảng Xương và Nông Cống trực thuộc cấp tỉnh, tên
huyện Ngọc Sơn không còn mà gọi là phủ Tĩnh Gia thuộc tỉnh Thanh Hoá. Sau cách
mạng thnág tám năm 1945 đổi phủ thành huyện Tĩnh Gia gồm 34 xã và 1 thị trấn.
Hải Hoà là một xã ven biển Bãi Ngang thuộc huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá. Với
diện tích là 640,3 ha, dân số là 1700 hộ trong đó có 7400 khẩu. Nhìn chung các hoạt
động về các mặt được cụ thể như sau:
* Về kinh tế
Sản xuất nông nghiệp tuy còn gặp nhiều khó khăn do thiên tai, sâu bệnh trên các
loại cây trồng, song ngay từ đầu năm các cấp, các ngành từu xã đêsn thông đã chủ
động tập trung lãnh đạo, chỉ đạo điều hành quyết liệt. Tổng diện tích gieo trồng
331ha đạt 100% kế hoạch.
Tổng sản lượng lương thựuc cây có hạt: 652,6 tấn = 76,8% kế hoạch
Tổng giá trị ngành trồng trọt đạt 17 tỷ đồng
Về chăn nuôi: Đàn gia súc, gia cầm vẫn giữ được ổn định, dịch bệnh đối vưói dàn
gia súc, gai cầm được kiêm soát chặt chẽ không để dịch bệnh lây lan. Đến nay đàn
gia súc, gia cầm toàn xã phát triển bình thường.
Tỏng đàn lợn 700 con so với năm 2009 là 2251 con = 31%

Đàn trâu bò 552 con năm 2009 là 946 con = 58,4%
Đàn gia cầm 23765 con so với năm 2009 là 26000 con = 91,4%
Về đánh bắt hải sản: Nghề đánh bắt hải sản được đầu tưu phát triển việc nâng cấp,
đóng mới, mua sắm ngư cụ được đẩy mạnh đến nay trên địa bàn xã đã có 24 tàu từ
90 CP trở lên, 179 thuyền mùng.
*Về Giao thông thuỷ lợi
- Giao thông: Tập trung chỉ đạo xây dựng đường giao thông lien thông đảm bảo đi
lai sinh hoạt cho nhân dân. Tuyến đường nhựa từ trạm y tế đi lên thông Tiền Phong
11


dài 795m trị giá 994 triệu đồng nghiệm thu đi vào sử dụng, giải phóng san ủi đường
gò cao Đông Hải.
- Thuỷ lợi: Thực hiện chương trình 257 của Chính phủ trong năm 2010 đã triển khai
xây dựng kênh mương kiên cố khu vực thông Trung Chính đi Xuân Hoà dài 5ôm
tổng vốn đầu tưu 800 triệu đồng. Đã hoàn thành nghiệm thu đưa vào sử dụng có
hiệu quả. Đồng thời triển khai làm thuỷ lợi, nạo vét đào đắp kênh mương.
* Về văn hoá xã hội
Luôn được đẩy mạnh, tiếp tục có chuyển biến theo huớng nâng cao chất lượng,
chuẩn hoá và xã hội hoá chất lượng giáo dục toàn diện, cơ sở chuyển biến tích cực.
Cơ sở vật chất tra.g thiệt bị trường học được tăng cường, đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục, đội ngũ giáo viên đựoc chuẩn hoá.
Năm 2009-2010 trường Tiểu học có 413 học sinh. Xếp loại học lực khá, giỏi: 210
học sinh; Trung bình 74 học sinh; yếu 3 học sinh; giáo viên đạt chuẩn 100% trong đí
16 giáo viên xuất sắc, 10 giáo viên tiên tiến và 2 giáo viên giỏi cấp huyện.
Trương Trung học cơ sở: Tổng số 350 học sinh. Lên lớp 93%, học sinh tốt nghiệp
lớp 9 đạt 95%, tổng số 25 gioá viên có 5 giáo viên đạt chiến sỹ thi đua và 17 giáo
viên giỏi.
Trường mầm non tổng số là 210 cháu, số cháu lên lớp 1 là 90 cháu, đạt bé khoẻ bé
ngoan là 98%. Đội ngũ giáo viên từng bước đuợc đào tạo chuẩn hoá.

Tỷ lệ học sinh đậu vào các trường Đại học là 22 em, Cao đẳng 21 em. ả hai trường
giữ vững được danh hiệu trường chuẩn quốc gia giai đoạn 1, đặc biệt trường Tiểu
họcc đã hoàn thiện chuẩn bị đón nhận trường chuẩn quốc gia giai đoạn 2.
Hoạt động văn hoá thông tin, thể dục thể thao chuyển biến tích cực, tập tring là
tuyên truyền thực hiện nhiệm vụ chính trị phát triển kinh tế- xã hội- quốc phòng an
ninh và các ngầy lễ lớn của đất nước, tuyên truyền cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức HỒ Chí Minh”.ée 2010 có 1475 hộ gia đình đạt danh hiệu
gia đình văn hoá, đạt 75,3% trong đó 800 gia đình đạt “Ông bà mẫu mực, con cháu
hiếu thảo”
Về công tác Y tế: Công tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân được chú trọng, trong
năm đã khám và chữa bệnh cho 924 lượt người. Trong đó khám phụ khoa 865 ca,
điều trị phụ khoa 105 ca, các biện pháp khác 16 ca, tiêm phòng cho 67 cháu. Chất
lượng khám chữa bệnh được nâng lên, công tác dân số gai đình và trẻ em chuyển
biến khá hơn trước, hệ thống y tế từ thôn đến xã được củng cố.
• Về quốc phòng- an ninh
Các chủ trương, chỉ thị, nghị quyết về Quốc phòng- an ninh được các cấp, các
ngành tiến hnàh sơ kết, tổng kết và tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu

12


quả. Tạo sự ổn định từ cơ sở, nhất là đản bảo môi trường đã thu hút đầu tưu du
lịch biển.
Công tác Quân sự quốc phòng địa phưong tiếp tục được tăng cưòng, nền quốc
phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân và biên phòng tiếp tục được củng cố
vững chắc, chất lượng xây dựng và hoạt động của lực lưọng dự bị động viên dân
quân được nâng lêtốt chế độ trực, sẵng sàng chiến đấu khi có lệnh.
An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, phạm pháp hình sự được
kìm chế, ý thức chấp hành luật về giao thông trong nhân dân được tăng lên.
Công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội được đảm bảo, công tác tuyên

truyền phổ biến giáo dục pháp luật, công tác tiếp dân, giải quyết đơn thư, tố cáo
chuyển biến tích cực.

CHƯƠNG II: NỘI DUNG CHÍNH

13


1. Một số nét chung về định hướng nghề nghiệp và hôn nhân cho con cái trong
các hộ gia đình
Khi nói đến gia đình thì mọi người nghĩ ngay đến những người thân cùng
sống trong tổ ấm của mình. Trong tiềm thức của mọi người luôn có gia điình là chỗ
dựa tinh thần vững chắc, là nơi nuôi dưỡng họ khôn lớn và trưởng thành. Gia đình
vừa là không gian sống vừa là nơi để mọi người tổ chức sản xuất, sinh hoạt và vui
chơi, giải trí và đặ biệt gia đình là nơi được mọi người thể hiện tình cảm sâu sắc nhất
của mình mà hiếm có nơi nào có thể chiếm chỗ được. Gia đình luôn có tính kế thừa
và phát huy những giá trị về kinh nghiệm, tri thức, giá trị văn hóa, phong tục tập
quán của lớp người đi trước từ ông bà, bố mẹ, anh chị em cho tới bạn bè, hàng xóm,
họ hàng thân quen để làm vốn sống cho mình trong tương lai.
Tuy nhiên, khi trong xã hội có nhiều biến đổi và phát triển thì gia đình cũng ít
nhiều có sự thay đổi sao cho phù hợp với điều kiện mới. Mỗi cá nhân không chỉ hấp
thụ những kiến thức trong gia đình mà còn hướng ra bên ngoài xã hội nữa. Song để
thích nghi với môi trường xã hội không phải là vấn đề đơn giản mà đòi hỏi mỗi cá
nhân khi tham gia phải tuân theo những quy tắc chuẩn mực của xã hội. Chính điều
đó đòi hỏi mỗi cá nhân phải ra sức học tập trau dồi những tri thức ở bên ngoài.
Nhưng nếu chỉ biết lao đầu vào học tập không thì cung chưa đủ, nó sẽ giống như con
tàu không có người điều khiển, lênh đênh trên biển. Do đó để đạt được kết quả theo
ý muốn thì mỗi cá nhâần phải có những định hưóng cụ thể.
Trong gia đình bố mẹ là người đi trước có nhiều kinh nghiệm hơn, họ sẽ là
người dẫn dắt và từng bước định hướng cho con em mình theo con đường được xã

hội thừa nhận và tôn trọng. Song bên cạnh đó thì cũng phải phù hợp với điều kiện
hoàn cảnh của gia đình. Trong số những định hướng thì định hướng về bậc học,
nghề nghiệp và hôn nhân được hầu hết các gia đình coi trọng và coi nó như là bổn
phận và tách nhiệm của mình khi trong gia đình có con cái trong độ tuổi đi học,
trong độ tuổi kết hôn và trưởng thành. Nhưng những sự định hướng này lai không
đồng thời diễn giống nhau giữa các gia đình mà nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố
khách quan cũng như chủ quan của mỗi bậc cha mẹ hay gia đình.
2. Vậy những quan điểm, xu thế về vấn đề định hướng nghề nghiệp và hôn
nhân được các hộ cư dân ven biển lựa chọn để định hướng cho con cái hiện nay
là gì?
2.1 Những quan điểm và xu thế định hướng về nghề nghiệp
Chắc không cần nói ai cũng biết, nghề là một trong những việc làm mang lại htu
nhập cho bản thân và gia đình để đáp ứng nhu cấu vật chất và tinh thần. Nhưng để
lựa chọn một nghề như thế nào lại còn tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố, vào những
14


thông tin của nghề đó, vào những kinh nghiệm của người đi trước dẫn đường chỉ lối
và đặc biệt là dựa vào chính khả năng và năng lực của mỗi cá nhân xuất phát từ
những kinh nghiệm sống của mình, các hộ gia đình cư dân ven biển 3 thôn Nhân
Hưng, Giang Sơn và Đông Hải của xã Hải Hoà, Tĩnh Gia, Thanh Hoá đã định hướng
về nghề nghiệp và hôn nhân cho con em mình. Những định hướng này tuy chưa
phải là nhiều nhưng nó đã phần nào phản ánh được tâm trạng và tỉnh cảm của người
cư dân nơi đây. Bảng số liệu sẽ cho chúng ta cái nhìn nhận đúng đắn hơn cho vấn đề
này.
Bảng 1: Số người định hướng cho con
Định hướng
Đã định hướng
Chưa định hướng
Tổng


Số lượng
413
37
450
(Nguồn: Số liệu khảo sát của đề tài)

Tỷ lệ
91,7
8,3
100

Qua bảng số liệu trên cho ta thấy, trong số 450 hộ được hỏi về định hướng nghề
nghiệp cho con cái thì có 413 người đã chiếm 91,7% cho rằng họ đã định hướng chỉ
có 37 người chiếm 8.3% là chưa định hướng. Điều này cho ta thấy tỷ lệ mà các bậc
cha mẹ định hướng nghề nghiệp cho con cái là nhiều và cao hơn so với chưa định
hướng. Diê trái vều này hợp với giả thuyết khi cho rằng hầu hết các bậc phụ huynh ở
đây đã có sự định hướng cho con cái. Đây cũng là sự tiến bộ trong gia đình với mối
quan hệ giữa cha mẹ và con cái dàn trở nên bình đẳng hơn nhất là khi sự áp đặt của
cha mẹ và con cái không còn nữa. Chính điều này tạo cơ hội tốt để con cái tiếp thu
những kinh nghiệm quý báu từ cha mẹ, đồng thời có điều kiện phát huy năng lực
bản thân với sự quan tâm lớn của cha mẹ như vậy sẽ thúc đẩy sự tiến bộ cho con cái
và giúp cac con có thể tìm được công việc phù hợp với năng lực.
2.2.1 Hướng nghiệp cho con cái
Do sự đa dạng trong nghề nghiệp cũng như các đặc điểm khác biệt giữa các
nghề nên các bậc cha mẹ phỉa quan tâm đến hiệu quả và chất kượng trong việc tiếp
thu kiến thức đối với con cái của mình.Đây là điều cần thiết, nó sẽ tránh được sự sáo
rỗng trong đầu tư. Téet định hoàn toàn hay áp đặt cho con là đó cũng là những ý
kiến và quyền quyết định từ các con nữa, Điều đó được cụ thể hoá qua bảng số liệu
sau:

Bảng 2: Ai là người quyết định chọn nghề cho con
15


Nghề nghiệp
1. Cha mẹ quyết định là
chính
2. Con cái quyết định là
chính
3. Cha mẹ và con cái
cùng bàn bạc
4. Khác
Tổng

Số lượng hộ gia điình
57

Tỷ lệ % hộ gia đình
12,7

135

30

246

54,7

12
450

(Nguồn: Số liệu khảo sát của đề tài)

2,7
100

2.3 Những quan điểm và xu thế định hướng về hôn nhân
Như chúng ta đã biết hôn nhân l;à sự kết hợp giữa một người nam giới và một
người nữ giới được pháp luật thừa nhận và bảo vệ nhằm chung sống và cùng nhau
có trách nhiệm xây dựng gia đình. Hôn nhân là kết quả của tình yêu do hai phai kết
hợp và xây dựng nên. Nhưng để lựa chọn một cuộc hôn nhân như thế nào lại cần
phụ thuộc nhiều vào yếu tố: Những thông tin, những kinh nghiệmcủa người làm cha
làm mẹ và điều cốt lõi là dựa vào sự đồng tình, tình cảm của chính bản thân mình
với địa phương. Hôn nhân đó là kết quả của tỉnh yêu cảu hai giới nam và nữ. Nhìn
từ góc độ của những cuộc hôn nhân và chính hôn nhân của chính mình thì cac hộ cư
dân nơi đây không những định hướng về bậc học, nghề nghiệp cho con cái của mình
mà còn định hướng về hôn nhân cho con cái mình. Tuy sự định hướng này chưa cao
hay là nhiều nhưng nó cũng góp phân nào phản ánh được tâm trạng và tình cảm của
người dân nơi đây. Trong khi đó hiện nay thanh niên có xu hướng đề cao giá trị tinh
thần hơn cac giá trị vật chất khi đánh giá cũng như đưa ra quan niệm về hôn nhân
gia đình thực tế đó là sự biến động về kinh tế xã hội, đặc biệt là sự bién đổi cảu các
giá trị văn hóa truyền thống đã tác động không nhỏ tới duy nghĩ và đánh giá của
thanh niên về gia đình. Câu hỏi đặt ra là Thanh niên có định hướng về hôn nhân gia
đình hiện nay ra sao?
Định hướng đó là cách suy nghĩ, cách đánh giá, thái độ và sự lựa chọn của cá nhân
hoặc nhốm xã hội được thể hiện thông qua hành vi về một vấn đề nào đó. Định
hướng về hôn nhân cho con cái của cư dân ven biển thôn Nhân Hưng, Giang Sơn và
Đông Hải hiện nay được các hộ gia đình xem xét như là suy nghĩ, cách đánh giá của
họ là khi lựa chọn các giá trị về hôn nhân và được thể hiện qua các bảng số liệu khảo
sát tại địa bàn khi được hỏi về mong muốn con cái của mình lấy được người vợ,
người chồng như thế nào trong tương lai.

2.3.1 Quyết định trong việc kết hôn cho con
16


Trong gia đình khi các con đến tuổi dựng vợ, gả chồng thì đó không chỉ là trách
nhiệm của cha mẹ mà còn là của chính bản thân mỗi cá nhân đó. Trong xã hội cũ
vẫn chủ yếu là “cha mẹ đặt đâu con cái ngồi đó” nhưng bước sang xã hội ngày nay
điều đó đã thay đổi rất nhiều. Sự thay đổi đó là từ chính nhận thức của cha mẹ, của
những thnah niên trong độ tuổi kết hôn. Việc quyết định ấy không chỉ của riêng mỗi
cá nhân hay riêng cha mẹ mà đó là việc chung cần được quan tâm. Bởi như vậy sẽ
góp phần hạn chế những suy nghĩ bồng bột của lớp trẻ, hơn nữa lại tạo nên sự chin
chắn trong suy nghĩ,
Bảng 4: Quyết định trong việc kết hôn cho con
Hôn nhân
1. Cha mẹ quyết định là
chính
2. Cha mẹ quyết định +
hỏi ý con
3. Con quyết định hoàn
toàn
4. Con quyết định + hỏi ý
cha mẹ
5. Khác
6. Tổng

Số lượng hộ gia điình
22

Tỷ lệ % hộ gia đình
4,9


57

12,7

83

18,4

283

62,9

5

1,1

450

100

(Nguồn: Số liệu khảo sát của đề tài)
Từ bảng số liệu trên ta thấy rằng trong việc hôn nhân cha mẹ đã có những định
hướng cho con cái nhưng họ không phải là người quyết định chủ yếu mà chỉ chiếm
4,9%. Bên cạnh đó cha mẹ có hỏi ý kiến của của con và quyết định thì chiếm 12,7%.
Nhìn chung chr yếu việc kết hôn là do con quyết định thông qua sự bàn bạc cùng với
cha mẹ chiếm tới 62,9% và con quyết định hoàn toàn chiếm 18,4%.
2.3.1 Định hướng hôn nhân cho con
Do sự đa dạng trong các tiêu chuẩn đặt ra khi lựa chọn trong khi định hướng
trong hôn nhân cho con em mình cũng như những đặc điểm khác biệt giữa nam và

nữ nên khi định hướng của các bậc cha mẹ cũng cần xem đâu là những tiêu chí/ tiêu
chuẩn về những đức tính phù hợp cho con trai và con gái.
Bảng 3 Cha mẹ mong muốn con cái lấy vợ, chồng ở đâu?
Địa điểm
Số lượng hộ gia đình
Tỷ lệ % hộ gia đình
1. Cùng làng
148
32,9
2. Cùng xã
45
10
17


3. Cùng huyện
4. Cùng Tỉnh
5. Tuỳ con
6. Kháái

28
6,2
10
2,2
210
46,7
9
2
(Nguồn: số liệu khảo sát của đề tài)
Qua bảng số liệu ta thấy khi con cái đến tuổi kết hôn thì cha mẹ thường có xu

hướng để cho con tự lựa chọn vợ, chồng của mình ở đâu, chiếm 46,7%, Bên cạnh đó
thì họ cũng mong con cái của mình kết hôn với ngưòi cùng làng chiếm 32,9%. Kết
hôn vưói người cùng xã chiếm 10%, người cùng huyện chiếm 6,2%, người cùng tỉnh
chiếm 2,2% và những lựa chọn khác thì chỉ chiếm 2%.
Qua những bảng số liệu trên thì nhìn chung giới thanh niên còn có xu hướng đề cao
các giá trị tinh thần hơn giá trị vật chất khi đưa ra quan niệm hôn nhân, gia đình bên
cạnh đó các em cũng có chiều hướng đề cao gia đình cá nhân của bản thân, sống độc
lập hơn là dựa vào gia đình của cha mẹ. Điều này có thể bị ảnh hưởng bởi tính thiếu
thực tế vì các em chưa lập gia đình, nên những lo toan những thiếu thốn của đời
sống vật chất chưa thể lường trước chính vì vậy vai trò của giáo dục trước hôn nhân
cho các em cần tiến hành như thế nào để có thể nuôi dưỡng và định hướng 1 cách tốt
nhất và hiệu quả nhất.
3.Những yếu tố ảnh hưởng đến việc định hướng về nghề nghiệp và hôn nhân
cho con cái trong các hộ gia đình cư dân ven biển.
Trong cuộc sống hiện nay muốn thực hiện một công việc nào đó ngoài những
mong muốn của bản thân thì còn cần phải xét đến nhiều yếu tố khác như điều kiện
môi trường và nôi lực cảu bản thân. Vì vậy khi định hướng cho con cái phụ thuộc rất
nhiều về trình độ, thu nhập, nghề nghiệp của cha mẹ.
3.1: Ảnh hưởng nghề nghiệp của hộ gia đình tới việc định hướng định hướng
nghề nghiệp và định hướng hôn nhân cho con cái
3.1.1 Cơ cấu nghề nghiệp hộ gia đình với định hướng nghề nghiệp
* Nghề nghiệp của hộ gia đình với số người định hướng nghề nghiệp cho con cái.
Định hướng nghề nghiệp cho con cái trong những gia đình được nhiều người quan
tâm.
Theo cuộc khảo sát thực tế tại địa bàn thì các hộ gia đình ở đây khi định hướng nghề
nghiệp cho con cái mình, họ luôn căn nhắc kỹ lưỡng những ngành nghề mà mình lựa
chọn cho con. Mặt khác bên cạnh đó vân còn có những hộ chưa hoặc không định
hướng thì cũng diễn ra rất khác nhau, nhiều hộ cũng rất muốn đinh hướng nghề
nghiệp cho con cái nhưng không biết phải định hướng như thế nào, con cái mình học
và làm nghề gì cho phù hợp, hợp lý với điều kiện sống gia đình, họ hoàn toàn thiếu

18


hụt những thông tin về cơ cấu các nghành nghề trong xã hội chính vì vậy nhiều hộ
gia đình đã để mặc sự đinh hướng này cho những đứa con của mình sinh ra. Trong
quá trình tiếp cận và phỏng vấn thì được Bác Cả tâm sự!
Khả năng nếu vào được đại học, cao đẳng thì tốt, nếu không thì xin vào một
công ty nào đó để làm công nhân. Như chị nó đấy học xong cấp 3 thì đi thi vào
chuyên nghiệp 2 năm nhưng không đỗ đạt gì đành đi lấy chồng. Bây giờ nó vẫn cứ
trách sao mình không thể đi vào 1 trường nào đó, nó vẫn ân hận hoài”
(TrÝch pvs sè 4, n÷,51 tuæi)
* Mối tương đồng giữa nghề nghiệp của hộ gia đình với định hướng nghề nghiệp
cho con cái.
Nghề nghiệp của mỗi nhóm hộ gia đình mang lại thu nhập đáp ứng cho nhu
cầu cuộc sống của mỗi thành viên song sự ảnh hưởng của nghề đú tới lựa chon hay
định hướng các nghề khác trong tương lai cho con cái trong các hộ gia đình cư dân
cũng có ít nhiều những quan điểm và nhận thức khác nhau. Nó được thể hiện ra
nhiều khuynh hướng khác nhau. Thông thường khi bố mẹ làm những nghề vất vả
mạng lại lợi ích kinh tế thấp thì họ có cu hướng muốn định hướng cho cái mình vào
những ngành nghề khác ít vất vả và có thu nhập cao hơn.
Những ngời dân nói đã từ lâu họ quen với lối sống tự cung tự cấp, buôn bán giao
dịch với bên ngoài xã hội thì hộ gia đình cư dân còn nhiều khó khăn hằng ngày họ
kiếm sống vì cuộc sống mưu sinh ở trên biển là chủ yếu. Chính vì vậy khi định hướng cho con cái mình học thường có khuynh hướng không lựa chọn về ngành nghề
mà trước đây chính họ đã từng tham gia từng trải.
Sự định hớng nghề nghiệp cho con cái của các hộ gia đình c dân ven biển thì đối
với con gái cũng nh con trai. Các nhóm hộ gia đình định hớng chủ yếu cho con gái
mình sau này làm cán bộ công chức, tiếp theo là ngành nghề buôn bán tự do kinh
doanh nhỏ.
Từ những đặc điểm trên cho thấy các nhóm có lựa chọn ngành nghề gần giống
nhau khi định hướng nghề nghiệp cho con em của mình. Chỉ có sự khác biệt về mức

độ ảnh hưởng nhóm nghề của gia đình hiện có mà thôi.
3.2 Ảnh hưởng mức sống hộ gia đình với sự lựa chọn định hướng nghề nghiệp
cho con cái.
Qua khảo sát và nghiên cứu trên các thông khác của địa bàn tôi thấy mức sống của
người dân ven biển vẫn còn thấp so với các thôn khác của địa bàn xã Hải Hoà. Tuy
nhiên ở các thôn này chúng tôi tập trung nghiên cứu mối liên hệ giữa mức sống ấy
với việc định hướng nghề nghiệp cho con cái trong các gia đình ấy như thế nào, mức
độ liên hệ của chúng ra sao từ kết quả xử lí thu được.
19


Qua phân tích trên cho ta thấy các hộ gia đình có mức sống khác nhau đều có
xu hướng là phải định hướng cho con có nghề nghiệp. Tuy nhiên vãn có sự lựa chọn
định hướng khác nhau giữa các mức sống khác nhau nhưng tỷ lệ diễn ra cũng thấp.
Nếu xét về mức độ phụ thuộc thì theo phân tích cho ta thấy đợc mối quan hệ giữa
mức sống với định hướng nghề nghiệp cho con em có phần chặt chẽ và ở mức độ
này thì chúng ta có thể chấp nhận đợc. Chính vì vậy sự định hướng này có thể thay
đổi và tuỳ thuộc vào điều kiện khác nữa.
3.3 Ảnh hưởng của thu nhập hộ gia đình với lựa chọn định hướng nghề nghiệp,
hôn nhân cho con cái.
Yếu tố thu nhập cũng ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp, hôn nhân cho
con cái. Với mức thu nhập thấp thì sự định hướng tỷ lệ không cao cho lắm. Còn ở
mức thu nhập cao hơn thì sự định hướng rõ ràng hơn với hộ gia đình.Tuy nhiên có
sự chênh lệch trong định hướng khi nó phụ thuộc vào mức độ thu nhập của gia đình.
ở trong tất cả mức độ thu nhập từ thấp đến cao thì đều có sự chia sẻ rất lớn của cả
hai vợ chồng.
Như vậy có thể nói ở mức thu nhập có thể tạm chấp nhận được thì người vợ là
người đưa ra sự định hướng chính, bên cạnh đó có sự chia sẻ của cả hai để cùng
quyết định. Còn với mức thu nhập cao hơn thì việc định hướng lại chủ yếu ở người
cha. Sự chênh lệch này gần giống sự tác động của trình độ học vấn giữa người cha

và người mẹ khi định hướng cho con. Vậy có nghĩa là người mẹ bao giờ cũng giữ
vai trò rất quan trọng trong gia đình. Dù trình độ học vấn hay mức thu nhập gia đình
còn có hạn chế. Điều này có thể thấy người mẹ - người phụ nữ có thể cáng đáng
công việc gia đình trong mọi hoàn cảnh - đây như một sự cố gắng của ngời phụ nữ.
Nhưng cũng có thể thấy rằng với mức thu nhập lớn thì người cha là người quyết
định chính công việc trong gia đình. Đó là khi người cha có đủ trình độ học vấn và
mức thu nhập cao thì họ sẽ tự tin hơn khi đa ra quyết định và thể hiện vị thế của
mình. Song hầu như ở điều kiện nào cũng có sự bàn bạc rất ký lưỡng của cả cha và
mẹ khi định hướng cho con.
Tuy nhiên một điều không thể phủ nhậ là gia đình có thu nhập, điều kiện kinh
tế còn khó khăn thì việc định hướng cũng sẽ có nhiều khó khăn. Còn việc định
hướng có kế hoạch cụ thể là ở các hộ gia điình có điều kiện kinh tế tương đối. Điều
này được khẳng định rõ ràng khi một người cư dân cho biết:
“Nếu học được thì tốt, nếu không học được gì thì học đến phổ cập là tốt lắm rồi,
không theo học nữa thì nghỉ đi làm, những đứa học dốt thì không muốn học, đứa
học giỏi thì ham học mà, với lại điều đó còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế gia
đình nữa. Học được thì vẫn hơn cháu ạ. Với điều kiện kinh tế của nhà tôi thì căn
bản vẫn lo cho tụi em nó học đến nơi đến chốn được mặc dù hơi cực nhưng phận
20


làm cha làm mẹ phải lo cho chúng. Bố tụi nó phải đi suốt ngày suốt tháng để lo cho
chúng được bằng bạn bằng bè có lẽ con đường học hành không may mắn cho lắm
nên đành chịu”
(Trích: PVS số 3, nữ, 40 tuổi)
3.4 Những yếu tố của cha mẹ có ảnh hưởng đến việc định hướng hôn nhân cho
con cái
Vậy thực tế hiện nay cho thấy việc định huớng về nghề nghiệp và hôn nhân cho con
cái có ý nghĩa rất lớn. Họ mong muốn con cái mình có một cuộc sống tốt đẹp hơn
cha mẹ - đó cũng là tâm lý chung của những người làm cha, làm mẹ. Dù khi định

hướng họ chưa tìm được một công việc cụ thể, đôi khi là để con tự quyết định. Song
họ luôn cố gắng để làm được những điều tốt nhất cho con cái mình.
Còn khi việc định hướng được xem xét thì nó bị tác động bởi nhiều yếu tố như học
vấn, nghề nghiệp và thu nhập của gia đình. Đây là yếu tố còn rất hạn chế đối với người cư dân nơi đây, các yếu tố này tạo điều kiệhn cho người dân có thể tiếp cận với
thực tế một cách đúng đắn hơn, nhất là trong xã hội hiện nay đó là những yếu tố có
ảnh huởng rất lớn đến sự phát triển chung.

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1.Kết luận
Từ những kết quả phân tích về định hướng nghề nghiệp và hôn nhân cho con
cái trong hộ gia đình cư dân ven biển hiện nay, có thể rút ra những kết luận sau:
21


Trong quá trình công nghiệp hóa-– hiện đại hóa đất nước đang đòi hỏi một đội
ngũ lao động cần phải có trình độ học vấn, tay nghề có ttrình độ kỹ thuật để vững
bước trên con đường sự nghiệp và vững bước trên con đường sự nghiệp này. Vấn đề
giải quyết việc làm cho người lao động. Đặc biệt là lao động trẻ cũng như nhằm
nâng cao chất lượng nguồn lao động đang gặp phải tình trạng khó khăn. Cho nên
việc định hướng cho con cái có một trình độ tri thức nhất định để dễ dàng tạo một
công việc phù hợp với con cái là điều mà các bậc cha mẹ đều hướng tới.
Nhìn chung các hộ gia đình c dân ven biển đã có định hướng về việc học vấn,
nghề nghiệp và hôn nhân cho con cái. Qua đâycho thấy phần nào đã phản ánh được
xu hướng tâm lý và nhận thức của người dân nơi đây. Khi định hướng cho con cái
vào các ngành nghề có tới hơn một nửa các gia đình định hướng cho con em mình
làm nghề cán bộ công chức Nhà nước, nghề này có tỷ lệ chiếm cao nhất trong các
nghề đã lựa chọn. Các ngành như đánh bắt thủy hải sản, buôn bán hải sản, làm biển
quảng cáo, làm thêm, làm thuê....và một số ngành khác nữa được các hộ cư dân chọn
rất ít. Tuy nhiên mức độ lựa chọn các ngành nghề này lại phụ thuộc khá nhiệu vào
nghề nghiệp và điều kiện sống của từng gia đình hiện nay.Các hộ có mức sống cao

hơn thì thường chiếm đợc nhiều ưu thế hơn. Ngược lại còn các hộ có mức sống thấp
hơn thì có khuynh hướng lực chon phân tán các ngành nghề khác nhau. Các ngành
nghề khác nhau cũng có sự ảnh hưởng tới việc lựa chọn nghề và hôn nhân cho con
cái.
Với điều kiện kinh tế xã hội của người cư dân ven biển hiện nay thì cha mẹ
thường mong muốn con cái mình thoát ly để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, nên sự
kỳ vọng của họ đối với con cái rất rõ nét họ đều mong muốn con cái vào làm trong
cơ sở Nhà nước và học lên cao đẳng, đại học với lý do kinh tế ổn định và cao hơn
nủa là đảm bảo cuộc sống hôn nhân gia đình sau này.
Định hướng nghề nghiệp và hôn nhân cho con cái của các cư dân ven biển của
xã Hải Hoà đã bắt đầu tính đến khả năng của con và nhu cầu cảu xã hội. Như ng do
hạn chế về mặt kinh tế, nhận thức các hộ gia đìnhc dân nơi đây cha xác định rõ ràng
giá trị này để lựa chọn nghề và xu hướng hôn nhân cho con.
2. Khuyến Nghị
Định hưóng về nghề nghiệp, hôn nhân và giá trị nghề nghiệp có mối quan hệ với rất
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự tác động đến nó phải là kết quả của quá trình
phối hợp hoạt động từ nhiều hướng khác nhau như: Kinh tế, giáo dục, văn hoá, Dặc
biệt ở đây là đối với cư dân ven biển thôn Nhân Hưng, Giang Sơn, Đông Hải của xã
Hải Hoà thuộc một huyện miền biển nước ta.

22


Nhà nước cần kịp thời tạo điều kiện về vật chất, tinh thần, nở rộng ngành nghề để
đáp ứng nhu cầu việc làm cho ngưòi lao động nhất là lực lưọng lao động ở vùng ven
biển nơi đây.
Cần có những chính sách ưu tiên về lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là chính sách đãi
ngộ. Chính sách đãi ngộ chính đang đối với đội ngũ giáo vieen vùng đặc biệt khó
khăn và hỗ trợ cho trẻ em ven biển, con em dân tộc ít ngưòi đi học các trưònh
chuyên nghiệp, trưòng cao đẳng, đại học. tạo điều kiện để có cơ hôi cao hơn nhằm

nâng cao chất lượng giáo dục tại địa bàn để từ đó con em họ có nền tảng tốt hơn. Có
tri thức thì những định hướng của họ mới trửo thnàh hiện thực.
Tăng cường hơn nữa công tác giáo dục bằng mọi biện pháp, huy động đủ giáo viên
cho các vùng miền núi ven biển xa xôi, ưu tiên cấp đủ trang thiết bị đồ dùng sách vở
cho con em có hoàn cảnh khó khăn.
Cần đẩy mạnh sản xuất theo hướng chuyên môn hoá, đa dạng hoá ngành nghề ở ven
biển, tạo công ăn việc làm cho ngưòi lao động.
Có biện éet các hộ gia đình lien kết vốn. nguồn lực mở rộng sự phân công lao động
đi vào sản xuất chuyên môn.
Muốn vậy phải có sự quan tâm ủng hộ của Đảng, Nhà nước và các cáp chính quyền,
đặc biệt là yếu tố về vốn, thủ tục cho vay nhanh gọ không rườm rà, lãi suất thấp,
khuyến khích cư dân tự lựuc phát triiển da dạng hoá các ngành nghề.
Khi những ngưòi lao động có tay nghề, có học thức thì Nhà nước cần quan tâm tới
con em chính sách, các em cùng địa phương, tạo tâm lý tin tưởng cho người dân để
tránh tình ỷtạng chảy máu chat xám, tánh được sựu mất cân bằng về vấn đề tao công
ăn việc làm cho con em trong giai đoạn hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

23


1.Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2010, phương hướng phát triển kinh tế - xã
hội năm 2011 của xã Hải Hoà, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
2. Hoàng Phê từ điển tiếng việt ( NXB giáo dục hà Nội 1994)
3. Lê Thái Thị Băng Tâm, bài giảng xã hội học gia đình.
4.Nguyễn Thu Hà, bài giảng xã hội học giáo dục.
5. Phạm Văn Quyết – Nguyễn Quý Thanh, phương pháp nghiên cứu xã hôi học,
NXB Đại học quốc gia Hà Nội năm 2001
6. Phạm Tất Dong – Lê Ngọc Hùng ( đồng chủ biên), xã hôi học, NXB Đại học

quốc gia Hà Nội năm 2007.
7. Vũ Hào Quang - Định hướng giá trị của sinh viên con em cán bộ khoa học.
8. Trương An Quốc, bài giảng phương pháp nghiên cứu xã hội học.
9. Trương An Quốc, bài giảng xã hội học nghề nghiệp.
10. Đặng Cảnh Khanh - Lê Thị Quý, cuốn gia đình học.

LỜI CẢM ƠN!
24


Để hoàn thành báo cáo thực tập của mình, ngoài những nỗ lực của bản thân,
còn có sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Xã Hội Học của Trường Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, và sự ủng hộ góp ý của các bạn sinh viên trong lớp
K52 – PN2.
Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Xã Hội
Học, những người đã trang bị cho em những kiến thức cơ bản nhất. Hơn nữa là các
thầy cô giáo trong đoàn thực tập như thầy Hoàng Hinh, thầy Trần Xuân Hồng,
cô Nguyễn Thị Hà, thầy Nguyễn Tuấn Anh và ban lãnh đạo, UBND, nhân dân tại
địa bàn, các đoàn thể nhân dân của xã Hải Hoà huyện Tĩnh Gia tỉnh Thanh Hoá đã
tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành báo cáo thực tập này.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến cô giáo Thạc sĩ Lê Thái
Thị Băng Tâm đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em đi đúng hướng nghiên cứu của đề
tài báo cáo tập.
Tuy nhiên do thời gian và kiến thức có hạn, cùng với việc bản thân chưa có
nhiều kinh nghiệm nên báo cáo này không tránh khỏi những thiếu xót, còn nhiều
khiếm khuyết, rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô cũng như sự đóng góp của
các bạn ý kiến của các bạn sinh viên để báo cáo được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà nội, tháng 08 năm 2011
Sinh viên thực hiện

Lê Thị Danh

MỤC LỤC

25


×