Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.04 KB, 27 trang )

DẪN LUẬN
Trang phục là một trong những thành tố cơ bản nhất phản ánh đặc trưng văn
hoá tộc người. Để biến các nguyên liệu thành trang phục, người ta phải trải qua
nhiều công đoạn, nhiều bước khác nhau. Mỗi công đoạn, mỗi loại nguyên liệu lại có
các công cụ khác nhau. Để chế tác trang phục bằng vải, cần có các công cụ dùng để
biến nguyên liệu thành sợi, dụng cụ dùng để xe sợi, dụng cụ dùng để dệt sợi, nhuộm
sợi, nhuộm vải… Chế tác trang phục bằng kim loại phải có khuôn gò, đúc, lò nung,
nồi nấu và các dụng cụ cần thiết kèm theo để gò, rèn, giũa… Trang phục bằng các
chất liệu từ động vật phải có các dụng cụ dùng trong việc thuộc da, sấy ép, cắt bào,
hấp, may… Các công cụ này được phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức
tạp. Chúng phản ánh trình độ phát triển của công nghệ địa phương, công nghệ dân
gian; thể hiện trình độ kỹ thuật, kỹ năng, kỹ xảo của một cộng đồng người.
Vì vậy, tìm hiểu trang phục không thể chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu kiểu dáng,
mẫu mã, chất liệu, màu sắc, hoa văn trên trang phục mà còn phải tìm hiểu bộ công cụ
để làm nên bộ trang phục ấy. Từ đó, góp phần nghiên cứu về văn hoá dân gian trên
góc độ công nghệ truyền thống.
Thôn Cát Cát hiện nay được đông đảo du khách trong và ngoài nước biết đến
bởi những giá trị to lớn không chỉ về mặt cảnh quan thiên nhiên mà còn cả về bản
sắc văn hoá dân tộc Mông được bảo lưu khá đậm nét trong các nếp sống sinh hoạt
hàng ngày. Tuy nhiên, do sự phát triển của du lịch nói riêng, của kinh tế thị trường
nói chung đang từng ngày, từng giờ tấn công mạnh mẽ vào mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế - văn hoá – xã hội nơi đây. Trong đó, công nghệ dân gian cũng đang bị
lấn át mạnh mẽ bởi công nghệ và các loại máy móc, thiết bị công nghiệp hiện đại.
Tình hình đó đã đặt ra một yêu cầu bức thiết là phải khẩn trương nghiên cứu,
tiến tới bảo tồn và phát huy giá trị của công nghệ dân gian truyền thống nói chung,
công nghệ dân gian trong lĩnh vực dệt may của người Mông ở Cát Cát nói riêng bằng
các phương pháp bảo tồn phù hợp, có hiệu quả để nó không chỉ đứng vững mà còn
có thể khẳng định được vị thế của mình trong xã hội công nghiệp.
Chuyên đề Bộ công cụ dệt may của người Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả
Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhằm góp phần giải quyết vấn đề đó. Chuyên đề
nằm trong Đề tài Bảo tồn nghề dệt truyền thống, thuộc Dự án Bảo tồn làng truyền


thống dân tộc Mông ở thôn Cát Cát, xã San Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai.
Chuyên đề được thực hiện bằng các phương pháp dân tộc học truyền thống, sử dụng
kết quả điền dã tại thực địa làm nguồn tài liệu nghiên cứu chủ yếu.

1


1. BỘ CÔNG CỤ TRỒNG VÀ CHĂM SÓC LANH
Bộ công cụ trồng và chăm sóc lanh của người Mông ở Cát Cát gồm có cuốc
và dao.
Cuốc trong bộ công cụ làm đất của người Mông ở Cát Cát là loại cuốc bướm.
Lưỡi cuốc bằng sắt, rộng khoảng 20 cm, cao 12 cm. Lưỡi cuốc có hình bán
nguyệt, hai bên rìa hơi khum, sắc. Chuôi cuốc cong gập có họng tra cán, độ cong
gập tuỳ thuộc vào địa hình canh tác có độ dốc nhiều hay ít, góc xiên từ 45 0 – 750.
Cán cuốc ngắn, lưỡi bè, dùng để xới đất, trốc cỏ, vun… thích hợp với vùng đất tơi
khô.
Dao quắm của người Mông có kích thước nhỏ, cán ngắn, lưỡi dài, đầu cong
như mỏ quạ, rìa lưỡi thẳng tới gần đầu mút mới cong lại, thích hợp với việc phát
và moi móc cỏ trong các khe đá.
2. BỘ CÔNG CỤ CHẾ BIẾN LANH THÀNH SỢI
Chế biến lanh thành sợi là việc tốn khá nhiều thời gian và công sức. Ngày từ
khi thu hoạch đã diễn ra những công đoạn đầu tiên của việc này. Các công đoạn
cứ nối tiếp nhau từ tháng 6 – 7 âm lịch đến tháng 10 âm lịch mới có thể tạm gọi là
xong. Trong các công đoạn ấy, ngoại trừ có tước vỏ lanh và nối sợi là chỉ cần đôi
bàn tay. Còn lại các công đoạn khác, người phụ nữ Mông luôn cần đến sự trợ
giúp đắc lực của bộ công cụ.
2.1. Công cụ giã lanh
Bộ công cụ giã lanh của người Mông ở Cát Cát gồm có cối (kror chuv tuôr
ntuôk) và cây giã - thường được dùng từ cán rìu (ku tauk) hoặc đầu bẹt của xà
beng (changv nzưv).

Người Mông không sử dụng chầy để giã lanh vì chầy vừa to, vừa nhẹ; trong
khi vỏ lanh trước khi được thì trơ và cứng. Vì vậy, người ta thường sử dụng
những thứ có độ nặng (đầm tay) và đầu nhỏ (để tập trung lực). Trước đây, đồng
bào thường sử dụng cán rìu - loại rìu vẫn được dùng để chặt cây, bổ củi. Thông
thường, cán rìu có kích thước dài 75 – 80 cm, tiết diện 2,5 x 3,5 cm. Ngày nay,
nhiều người sử dụng loại xà beng mua ở chợ huyện về giã.
Cối giã lanh thường được làm từ gỗ pơ mu bởi đây là loại gỗ nhẹ, mềm, dai,
nhiều nhựa dầu (tinh dầu) nên có thể chịu đựng được sự thay đổi của thời tiết, khí
hậu – không bị nứt nẻ, co ngót; đồng thời chịu được lực va đập khi giã lanh –
không bị vỡ. Tuy nhiên cũng có khi người ta làm cối bằng gỗ kháo và gỗ dổi. Về
hình dáng và kích thước, cối có dạng hình trụ thon nhỏ dần về đáy. Về kích
thước, có chiều cao thành ngoài ≈ 80 cm, đường kính miệng 50 cm, đường kính
đáy 40 cm, thành cối dày 5 cm, lòng cối sâu 55 cm, phần đáy đặc cao 25 cm. Nếu
cắt ngang theo chiều thẳng đứng của cối, mặt trong lòng cối có 2 dạng hình khối.
Ở phía nửa trên, thành lòng cối có hình thẳng đứng. Ở phía nửa dưới, thành lòng
cối thon nhỏ dần, càng về đáy, độ thon càng lớn khiến cho phần này có phẫu diện
đáy hình chữ U, được gọt đẽo tỷ mỉ sao cho đạt độ phẳng nhẵn gần như tuyệt đối.
2


Điều này sẽ có tác dụng trong việc tạo ra độ trơn trượt cần thiết cho cây giã khi
giã lanh (không bị mắc chầy vào thành lòng cối). Chiếc cối thường được chôn
ngập phần lớn chiều cao của cối xuống đất, chỉ để lộ phần trên đỉnh cối, với chiều
cao ≈ 5 – 10 cm. Vị trí chôn cối thường ở góc nhà ngoài hoặc ở hiên nhà, góc trái
gần cửa chính.
2.2. Guồng xe sợi (yuôz)
Guồng xe sợi là công cụ dùng để xe sợi lanh sau khi sợi đã được xe và nối
bằng tay. Công đoạn xe sợi bằng guồng có tác dụng để cho sợi được đánh vào các
con suốt. Nhưng quan trọng hơn là để cho sợi được tăng thêm độ mềm và độ dẻo
dai, chuyển từ dạng mỏng và dẹt của vỏ cây sang dạng tròn và xoăn chắc của

chỉ/sợi dệt.
Guồng xe sợi của người Mông ở Cát Cát được làm bằng gỗ. Loại gỗ được
đồng bào ưa thích khi chế tác guồng này là gỗ pơ mu hoặc gỗ dổi, gỗ kháo. Chiếc
guồng này gồm có 09 bộ phận chính; bao gồm: trục đỡ (ndêx yuôz), lỗ cắm que
cuốn sợi (kror nzeir), giá đỡ trục (nênhv yuôz), bánh xe (câux yuôz), trục bánh xe
(ntơs yuôz), dây tạo lực, trục đỡ cần, cần đạp và suốt cuốn sợi (nzeir).
2.2.1. Trụ đỡ (ndêx yuôz)
Trụ đỡ trong bộ guồng xe sợi của người Mông ở Cát Cát xưa thường được
làm bằng gỗ pơ mu. Nay, do nguồn gỗ pơ mu đã khan hiếm nên đồng bào có thể
thay thế bằng một số loại gỗ khác nhưng vẫn đảm bảo độ bền chắc như dổi,
kháo… Về hình dáng, trụ đỡ có hình trụ đứng. Về kích thước, trụ cao khoảng 1,7
m, tiết diện 7 x 7 cm. Trụ được đóng cố định vào một thanh gỗ ngang có tác dụng
như một chân trụ. Chân trụ cũng được làm bằng một loại gỗ chắc chắn, dài 1,1 –
1,2 m; rộng 16 cm; cao 9 cm.
2.2.2. Giá đỡ trục (nênhv yuôz)
Trên chiếc guồng xe sợi, giá đỡ trục là nơi để người ta mắc dây curoa nối với
bánh xe để truyền lực tác động từ vòng quay của bánh xe lên các suốt chỉ. Giá đỡ
trục có cấu tạo chính bởi 2 miếng gỗ được chế tác theo một định dạng bất di bất
dịch như sau:
Từ một miếng gỗ có tiết diện 74 x 15 cm; dầy 2,5 cm, người ta chia chiều dài
của nó ra thành 3 khoang. Hai khoang ngoài cùng, mỗi khoang dài 16 cm, người
ta cắt sâu xuống 12 cm tạo ra thành hai đường rãnh đối xứng ngăn cách với đoạn
giữa để sau khi cắt gọt, hai đầu sẽ tạo thành hai khoang gờ cao cho khi dây curoa
nảy lên trong quá trình vận hành cũng sẽ không bị văng ra ngoài. Khoang giữa dài
40 cm được đánh dấu một điểm ở trung tâm phía trên đỉnh và một điểm trung tâm
ở phía dưới đáy. Từ điểm trung tâm trên đỉnh, người ta gọt hai đường lượn hai
đường vòng cung chạy xuống đều về hai phía sao cho điểm cuối của đường gọt
gặp đúng điểm cắt ở hai cạnh mà phải đảm bảo đường lượn phải cong đều ≈ 30 0 350. Trên vành cong này, người ta chia khoảng cách thành 4 điểm đều nhau: mỗi
điểm cách nhau 10 cm. Tại mỗi điểm đó, người ta khoan một lỗ rộng khoảng 1
cm để lắp que suốt sợi.

3


Từ hai điểm cắt chia đoạn kể trên, người ta dóng hai đường thẳng xuống
cạnh đáy của miếng gỗ - gọi là đường chia khoang (mỗi bên một đường). Từ hai
điểm chia khoang ở đáy miếng gỗ, người ta gọt hai đường lượn lên vào phía trong
với độ cong ≈ 200 sao cho hai đường lượn này phải cùng gặp nhau ở điểm chính
giữa tâm của cạnh đáy miếng gỗ. Đường lượn dưới này có tác dụng để cho khi
bánh xe nảy lên trong lúc quay cũng không chạm phải giá đỡ trục.
Từ điểm chính giữa của khoang giữa, người ta đánh dấu một điểm, từ điểm
này, người ta đo đều ra hai bên - mỗi bên 10 cm để đánh dấu tiếp 2 điểm nữa. Tại
ba điểm này, người ta đục 3 lỗ mộng để lắp 3 thanh đệm. Tiết diện của mỗi lỗ
mộng là 2,5 x 2,5 cm.
Sau khi làm xong một miếng gỗ, người ta ướm vào miếng gỗ còn lại, vạch
mẫu và chế tác tiếp miếng gỗ còn lại cũng với trình tự và kích thước như trên.
Được cả hai miếng gỗ có hình dáng và kích thước giống nhau, người ta lắp
chúng vào với nhau. Để tạo ra một khoảng cách làm chỗ lắp dây curoa, người ta
đóng 3 thanh đệm. Các thanh đệm là những miếng gỗ được ở các vị trí cách đều
nhau (theo vị trí các lỗ mộng đã đề cập ở trên). Bốn miếng gỗ vừa có tác dụng là
vùng đệm ngăn cách giữa 2 miếng gỗ của giá đỡ trục, vừa có tác dụng tạo ra một
khoảng trống cần thiết để cho dây curoa chạy lúc vận hành. Mỗi miếng gỗ có
chiều dài 10 cm, tiết diện 4 x 4 cm.
2.2.3. Lỗ cắm que cuốn sợi (kror nzeir)
Lỗ cắm que cuốn sợi được đục tại 4 điểm sát cạnh đỉnh của giá đỡ trục (cách
đỉnh giã đỡ trục ≈ 1,5 – 2 cm. Mỗi lỗ có đường kính khoảng 1 cm, lỗ nọ cách lỗ
kia 10 cm. Lỗ này để người ta cắm que suốt cuốn sợi xuyên qua hai miếng gỗ của
giá đỡ trục. Khi vận hành guồng, người xe sợi đặt dây curoa nằm lên trên 4 que
suốt sợi. Lực đạp của người thao tác được truyền qua cần đạp vào bánh xe, qua
dây curoa lên các que suốt sẽ làm cho suốt quay và cuốn sợi vào con suốt.
2.2.4. Bánh xe (câux yuôz)

Bánh xe trong bộ guồng xe sợi của người Mông ở Cát Cát trước đây vốn
được làm hoàn toàn bằng song mây (vòng cuốn) và gỗ (trục và các thanh giằng).
Ngày nay, do chất liệu song mây khan hiếm nên người ta thay thế bằng vòng sắt.
Cấu tạo của bánh xe như sau:
Bánh xe có đường kính 65 cm được tạo bởi 2 vòng sắt được lượn tròn rồi
hàn đính hai đầu vào nhau (người Mông ở Cát Cát mua sắt xây dựng và thuê hàn
ở phố huyện). Xung quanh, người ta lắp các thanh gỗ vừa có tác dụng làm các
thanh giằng cho hai vòng sắt, vừa làm đường chạy cho dây curoa. Mỗi thanh dài
16 cm; rộng 3 cm; dày 2,5 cm. Số lượng các thanh gỗ này không cố định nhưng
để cho dây chạy không bị nặng thì ít nhất cũng không dưới 8 thanh, nhiều nhất
cũng không quá 16 thanh (ít hơn sẽ làm rỗng đường chạy của dây, dây sẽ bị vấp
nhiều; nhiều hơn sẽ bí – gây ra nhiều ma xát trên đường chạy của dây, dây chạy
không có đà - Giải thích của ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại đội I, thôn
Cát Cát). Trong lòng bánh xe, người ta lắp vào đó 2 thanh gỗ bắt chéo nhau theo
4


hình dấu nhân. Hai thanh này vừa có tác dụng nối bánh xe với trục quay; vừa có
tác dụng chịu lực cho toàn bộ bánh xe, khiến cho bánh xe không bị biến dạng
trong quá trình vận hành. Mỗi thanh này có chiều dài 65 cm; rộng 7 cm; dày 1,5
cm. Tại điểm trung tâm (nơi hai thanh giằng gặp nhau), người ta đục một lỗ tròn
đường kính 3,5 cm để lắp vào trục (trục bánh xe).
2.2.5. Trục bánh xe (ntơs yuôz)
Trục bánh xe trước đây được làm bằng sắt, hoặc gỗ. Que trục có đường kính
≈ 3 cm, dài 20 cm. Một đầu que trục được đóng chìm vào thân trụ đỡ với độ ngập
vào thân trụ đỡ 5 – 7 cm. Ngày nay, nhiều người còn đóng một đầu que trục
xuyên qua thân trụ đỡ rồi bắt ốc chốt giữ (trong trường hợp này đầu que trục được
làm bằng sắt và đầu trục có tạo ren). Phần còn lại của que trục dài khoảng 12 – 15
cm được sỏ vào lỗ trục. Phần thừa phía ngoài, người ta chốt chặn bằng 1 – 2 vòng
sắt to và hàn cứng lại sao cho chốt chặn không bị trượt khỏi vị trí. Điểm chốt chặn

không được khít quá, nếu không sẽ làm cho bánh xe bịt sát, không bon; cũng
không được xa quá, nếu không bánh xe sẽ bị chao đảo trong khi vận hành. Ngày
nay, nhiều người còn lắp cả vòng bi vào điểm tiếp giáp giữa lỗ trục và que trục
làm tăng độ trơn, bon cho vòng quay.
Ngoài ra, trong bộ guồng xe sợi của người Mông ở Cát Cát còn có dây curoa,
cần đạp, trụ đỡ cần và suốt cuốn sợi. Dây curoa xưa được làm bằng da trâu hoặc
da bò (về cách thuộc da: Xem ở phần cấu tạo của khung dệt), nay được thay bằng
dây chun cắt từ săm ô tô được mua ở chợ huyện. Cần đạp, trụ đỡ cần và suốt cuốn
sợi đều là những cấu kiện đơn giản, dễ làm, dễ kiếm trong vùng cư trú.
2.3. Guồng thu và tháo sợi
Guồng thu sợi, tiếng Mông gọi là khâuz lis. Đây là công cụ dùng để thu sợi
từ những suốt chỉ nhỏ vào thành một bó lớn để thực hiện công đoạn tiếp sau
(công đoạn làm trắng sợi). Toàn bộ các bộ phận của công cụ này đều được làm
bằng tre.
Guồng thu sợi của người Mông ở Cát Cát có cấu tạo đơn giản với chỉ gồm có
3 bộ phận là trục đỡ (tâuz lis), thanh cuộn (khâuz lis) và chốt chặn (chel khâuz
lis). Chúng được liên kết với nhau tạo thành một khối rộng khoảng 3 m2.
2.3.1. Trục đỡ (tâuz lis)
Bộ phận này có tác dụng giữ cho guồng thu sợi đứng vững kể cả lúc đứng
yên hay khi vận hành. Căn cứ vào chức năng thì trục đỡ gồm có 3 bộ phận liên
kết với nhau là: chân trục, trục giữa và ống thân trục (Người Mông ở Cát Cát
không có tên gọi riêng cho 3 bộ phận này).
Chân trục là một đoạn tre dài khoảng 40 cm, đường kính khoảng 10 cm. Gọi
là chân trục vì bộ phận này nằm ở vị trí dưới cùng đảm nhiệm chức năng làm trụ
cho không chỉ toàn bộ khối trục mà còn làm điểm tựa cho cả guồng thu sợi. Để có
thể làm được điều đó, phần lớn chiều dài chân trục được chôn chặt dưới đất hoặc.
Phần chìm dưới lòng đất khoảng 35 cm, được nèn chặt. Đoạn chân trục nổi lên
5



trên mặt đất cao khoảng 5 cm; hoặc cũng có thể được đóng cố định vào một
miếng gỗ tròn (đường kính ≈ 40 cm; dầy ≈ 10 cm). Chân trục là vị trí quan trọng
quyết định chủ yếu tới sự vững chãi của guồng xe sợi trong lúc vận hành.
Ngay phía trên chân trục là trục giữa. Gọi là trục giữa vì hai đầu của nó đều
được luồn vào nằm gọn trong lõi của chân trục và ống thân trục. Trục giữa là một
đoạn ống tre (cũng có khi người ta làm bằng gỗ) dài khoảng 70 cm, đường kính ≈
6 – 7 cm. Một đầu được cắm vào chân trục (đoạn cắm vào chân trục dài khoảng
30 cm). Một đầu được cắm luồn vào bên trong lõi của đoạn ống thân trục nằm ở
vị trí trên cùng của trục (đoạn cắm vào ống thân trục dài khoảng 40 cm). Trục
giữa vừa có chức năng góp phần giữ cho guồng thu sợi luôn được đứng vững;
đồng thời cũng vừa có chức năng làm cho trục vận hành trơn tru, không bị dít, kẹt
hay mắc trong lúc vận hành; và đó là chức năng chủ yếu nhất của nó.
Trên cùng là ống thân trục. Gọi là ống thân trục vì lõi của nó lồng chụp vào
trục giữa và thân của nó là nơi để lắp các thanh cuộn. Ống thân trục là một đoạn
tre to gồm 02 dóng tre với đường kính tương đương với đường kính của chân
trục, chiều dài khoảng 80 cm. Đầu phía dưới được chặt bỏ đốt để lồng vào trục
giữa. Đoạn lồng nằm gọn trong một dóng tre phía dưới dài khoảng 40 cm được
chặn lại bằng một mắt đốt tre tự nhiên. Nhờ có mắt đốt tre này mà trục giữa chỉ
đến đây là bị chặn lại, không thể trồi tiếp lên gây ra sự va chạm với các thanh
cuộn ở trên. Ở dóng tre phía trên, người ta đục 2 đôi lỗ (mỗi đôi gồm có 2 lỗ đối
xứng ở 2 mặt đối diện của dóng tre) để lồng thanh cuộn. Theo kinh nghiệm dân
gian, để cho guồng có được sự cân bằng cần thiết, người ta thường lấy các khoảng
giữa của đoạn công cụ chế tác để đục lỗ luồn thanh cuộn. Theo cách tính toán đó,
người ta chia dóng tre ra làm hai phần đều nhau. Điểm chính giữa chính là điểm
người ta đục đôi lỗ dưới. Sau đó, lấy mốc từ lỗ dưới và điểm trên cùng của dóng
tre, người ta lại chia đôi đoạn còn lại này thành hai nửa đều nhau. Và điểm chính
giữa đoạn được chia đôi ấy cũng lại là điểm để người ta đục đôi lỗ trên. Do hai
thanh cuộn phải nằm chéo nhau theo hình dấu nhân tạo thành góc 90 0 nên hai cặp
lỗ cũng phải được đục ở các vị trí tương ứng. Đường kính của lỗ phụ thuộc vào
đường kính của ống thân cuộn. Thông thường, đường kính của lỗ này ≈ 5 – 6 cm.

2.3.2. Thanh cuộn (khâuz lis)
Thanh cuộn trong bộ guồng thu sợi gồm có 1 đôi (2 thanh) được làm từ hai
thanh tre nhỏ và có đường kính tương đối đều giữa 2 đầu (5 cm) và được xếp
chéo nhau theo hình dấu nhân. Khi lắp vào trục, điểm tâm giữa của mỗi thanh đều
trùng nhau và đều nằm ở chính giữa tâm của ống thân trục khiến cho chiều dài
của mỗi thanh tính từ ống thân trục ra đến đầu mỗi thanh cuộn đều bằng nhau.
Thanh cuộn trong bộ guồng thu sợi có tác dụng quy định độ lớn nhỏ của vòng
sợi/bó sợi được thu. Vì vậy, chiều dài của nó bao giờ cũng phải mang tính chuẩn
mực tương đối. Tổng chiều dài của mỗi thanh là 6 cm. Sau khi lắp vào ống thân
trục, chúng sẽ tạo ra cho bộ guồng thu sợi một kích thước lớn tới 6 m2.
2.3.3. Chốt chặn (chel khâuz lis)
6


Chốt chặn trong bộ guồng thu sợi gồm có 4 thanh tre nhỏ, mỗi đoạn đều có
kích thước nhỏ: dài 10 cm, đường kính ≈ 1 – 1,5 cm. Điểm gài chốt chặn cách
đầu thanh cuộn khoảng 8 cm. Chốt chặn có tác dụng để chặn bốn đầu thanh cuộn
và đây cũng là các điểm mắc sợi. Sợi khi được thu sẽ mắc tại các điểm này. Sau
mỗi lượt quay, sợi sẽ mắc lại một vòng. Và sau nhiều lượt quay như vậy sẽ tạo ra
một cuộn sợi với nhiều vòng. Số vòng sợi nhiều hay ít phụ thuộc vào ý muốn của
người thu sợi.
2.4. Công cụ luộc sợi
Luộc sợi (cùng với ủ và giặt sợi) là công đoạn giúp cho sợi được trắng, loại
bỏ được lớp vỏ xanh bên ngoài. Người Mông ở Cát Cát luộc sợi lanh trong các
chảo lớn bằng bếp lò truyền thống. Thông thường, trước đây, mỗi gia đình người
Mông đều có 1 bộ lò - chảo. Hiện nay, do số hộ mới tách chưa có điều kiện làm
bếp lò khá lớn nên số lượng lò - chảo của cả thôn chỉ là 44 bộ trong tổng số 73 hộ
gia đình; ≈ 60,3% số gia đình trong thôn. Bình quân cứ 1,6 hộ có 1 bộ lò - chảo
(số liệu chúng tôi thống kê tháng 8/2009).
Bộ lò chảo truyền thống của người Mông ở Cát Cát như sau:

Bếp lò, tiếng Mông gọi là khor truk. Bếp được làm ngay sau khi làm nhà
xong gắn liền với lễ cúng ma bếp. Bếp thường được làm tại gian trái nhà bên
phải. Đó cũng là không gian người ta bố trí nguồn nước ăn, chạn bát và các đồ
dùng để làm bếp khác.
Bếp lò của người Mông ở Cát Cát được làm hoàn toàn bằng đất được lấy
ngay trên nền đất của thôn. Đó là loại đất vàng xám được phong hoá từ đá macma
axit hình thành trên đá granit có độ lẫn đá cao. Để loại bỏ lớp đất biến chất do
trồng trọt lâu năm trên bề mặt, người ta phải lấy đất dưới độ sâu ≈ 40 – 50 cm.
Đất mang về được nhào với một lượng nước vừa phải sao cho đất có đủ độ
nhuyễn cần thiết mà không bị khô, không bị nhão. Sau đó, người ta dùng tay để
đắp từng cạnh của bếp sao cho bếp có dạng 4 cạnh bằng và 4 góc vuông là được.
Thông thường. Bếp có chiều cao 50 cm, chiều ngang 100 cm, thành bếp dày 20 30 cm. Tại cạnh ngoài của bếp, người ta tạo cửa bếp (ndaux khor truk). Cửa bếp
cao 40 cm, chiều ngang 50 cm, trên đỉnh cửa bếp được uốn hình vòm. Cửa bếp là
nơi để người ta tiếp củi vào lò; đồng thời nó cũng có chức năng là nơi đón gió và
O2 vào lòng bếp cho lửa có môi trường cháy.
Chảo, tiếng Mông gọi là Jav. Chảo của người Mông ở Cát Cát hiện nay được
đồng bào mua ở chợ huyện về dùng. Kích thước của chảo có nhiều cỡ. Loại chảo
dùng để luộc sợi thường có kích thước: cao 40 cm (sau khi đặt lên bếp lò, một
nửa chiều cao này sẽ chìm vào lòng bếp lò). Đường kính miệng chảo 90 cm. Chảo
có 2 tai xách ở hai cạnh đối xứng. Mỗi tai chảo dài 14 cm, cao 2 cm; trong đó một
nửa chiều cao được gắn vào thân chảo.
2.5. Công cụ lăn sợi
Bộ công cụ lăn sợi của người Mông ở Cát Cát có thớt lăn sợi và đá lăn sợi.
Chúng đều được đồng bào tự làm bằng nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương.
7


2.5.1. Thớt lăn sợi
Thớt lăn sợi, tiếng Mông gọi là Changr đauk laur ntauz. Thớt phải được làm
từ các loại gỗ rắn chắc như sồi, dổi; và đặc biệt là loài thạch tùng mọc rải rác trên

những sườn núi ở độ cao > 1.800 m, đặc biệt mọc nhiều trên sườn núi
Phanxipăng. Gỗ để làm thớt lăn sợi phải được lấy từ những thân cây to với đường
kính ≈ 55 – 60 cm. Người Mông ở Cát Cát khi lấy cây dùng để lấy gỗ làm thớt
lăn sợi không cần kiêng kỵ điều gì. Người ta có thể lấy cây đổ hoặc gốc những
cây đã được lấy thân nhưng vẫn còn một đoạn gốc cao ≈ 1 m, chỉ có điều đoạn gỗ
đó phải còn chắc, chưa bị mục là được.
Tìm được gỗ, người ta chặt hạ rồi sơ chế ngay tại chỗ cho gọn và nhẹ bớt.
Việc sơ chế đơn giản, chỉ là dùng rìu đẽo gọt vỏ và vòng quanh lớp thân ngoài
cho mỏng đi, đường kính thân gỗ nhỏ lại là được. Sau khi sơ chế xong, người ta
mới vác về nhà. Việc đi lấy gỗ - sơ chế - mang về nhà mất 1 ngày.
Gỗ sau khi được mang về nhà sẽ được hoàn thiện cho thành cái thớt lăn sợi.
Đầu tiên, người ta gọt khúc gỗ cho thật tròn. Sau đó, tính kích thước của 2 cán
thớt. Tại trung tâm của mỗi đầu, người ta đánh dấu tâm điểm, rồi khoanh lên mỗi
đầu một hình tròn đường kính 6 cm. Từ vị trí căn chỉnh đó, người ta đẽo sâu
xuống 15 cm mỗi bên (Người ta sẽ đẽo dần dần từ ngoài vào để tránh làm hỏng
sản phẩm). Hoàn thành công đoạn này, người ta đã tạo được hai cán thớt đều ở
hai đầu theo chiều dọc của thớt. Mỗi cán có chiều dài 15 cm, đường kính 6 cm.
Cuối cùng, người ta gọt, chuốt (xưa người ta dùng rìu và dao; nay người ta dùng
đục, tràng và bào) cho chiếc thớt thật phẳng, thật nhẵn là được.
Đá lăn sợi, tiếng Mông gọi là Poz jez lauz ntuôx. Đây là loại đá granit có
nhiều ở tầng rắn dưới phẫu diện 1 - 2 m. Đặc biệt ở khu vực đội I, đá có nhiều ở
các sườn trơ đá trên các sườn núi phía Bắc của khu làm nương và dưới lòng đất
thuộc khu dân cư. Khi cần dùng, người ta đi tìm những miếng đá ưng ý về rồi
mang về sơ chế qua là được.
Một miếng đá được xem là “ưng ý” để làm đá lăn sợi thường có hình chữ
nhật dài 65 – 70 cm; rộng 15 cm; dầy 7 cm, một mặt tương đối bằng phẳng. Tìm
được phiến đá trên, người ta mang về dùng búa, đục đẽo những chỗ còn hơi gồ
ghề ở phía mặt phẳng rồi mang đi mài vào đá mài cho phẳng lỳ. Trường hợp mặt
phiến đá đã phẳng sẵn như ý muốn thì người ta không cần tiến hành các công
đoạn trên.

Công đoạn cuối cùng là người ta dùng cao chàm bôi đều lên mặt phẳng của
phiến đá. Sau đó, phiến đá được đặt lên bếp lửa, mặt phẳng được úp xuống phía
dưới, rồi người ta đốt lửa hơ cho miếng đá thật khô rồi bỏ ra cho nguội là được.
3. Bộ công cụ dệt vải
3.1. Kiểu dáng và chất liệu
Công cụ dệt vải truyền thống của người Mông ở Cát Cát là chiếc khung dệt
(ndêx ntus). Đây là loại khung dệt dùng dây buộc lưng hay gọi một cách khác dễ
8


hiểu hơn là khung dệt dùng thân người (kết hợp với dây đai) để căng sợi dọc.
Chiếc khung này của người Mông ở Cát Cát chỉ có hai chân. Vì vậy, để cho
khung có thể đứng được trong quá trình vận hành, người ta phải buộc gắn nó vào
một điểm tựa chắc chắn (vách tường nhà hoặc cột gỗ). Khung dệt được làm chủ
yếu từ gỗ pơ mu, gỗ dổi hoặc gỗ kháo. Những loại gỗ này xưa nay được người ta
tìm trong rừng già, trên những sườn núi dốc trong rừng Hoàng Liên. Để làm
khung dệt, người ta không cần phải chặt cả cây gỗ mà chỉ cần lấy những đoạn cây
có thể đáp ứng được về chất liệu, kiểu dáng và kích thước của khung dệt là được.
Vì thế, người ta có thể thu nhặt những đoạn ngọn cây hay cành cây to của những
thân cây được người khác mang về làm nhà là được. Ngoài ra, người ta cũng có
thể lấy gỗ làm khung dệt từ những thân cây đổ vì việc làm chiếc khung dệt không
cần kiêng kỵ gì; trong khi đó, gỗ từ các thân cây đổ (nếu chưa mục) lại có ưu
điểm là dễ lấy, không cần chặt hạ.
Nếu như dệt vải là công việc của phụ nữ thì việc chế tác các công cụ dệt lại
là công việc của đàn ông. Để chọn gỗ làm khung, người đàn ông Mông thường
tranh thủ vào rừng những lúc nông nhàn. Mỗi lần vào rừng, người ta thường kết
hợp nhiều mục đích, không chỉ là việc tìm thú để săn mà còn có thể tìm các loại
thảo mộc thiên nhiên, các mảnh đất canh tác, lựa chọn và đánh dấu sở hữu cây
làm nhà, và dĩ nhiên với những người đàn ông biết làm khung dệt người ta còn
kết hợp cả việc tìm gỗ làm khung.

Tuy chế tác công cụ dệt là việc của nam giới, nhưng trên thực tế không phải
người đàn ông Mông nào cũng biết làm khung dệt. Qua khảo sát thực địa ở làng
Cát Cát, số người biết làm khung dệt nói riêng, gia công các đồ mộc nói chung
không nhiều. Trước đây, cứ khoảng 4 – 5 gia đình mới có người biết làm khung
dệt. Để có được khung dệt, những gia đình mà những người đàn ông không thể tự
làm được khung dệt phải “mua” khung dệt từ những người biết làm. Việc “mua –
bán” diễn ra trong cộng đồng khi ấy thường với hình thức trao đổi vật ngang giá.
Theo đó, “giá” của mỗi chiếc khung dệt tương đương với một con lợn giống (≈ 15
kg).
Những người biết làm khung dệt do còn phải thực hiện “chức năng” chế tác
ra những chiếc khung dệt cho cộng đồng nên họ cũng thường có sự chuẩn bị
trước. Mỗi khi đi rừng, gặp được những đoạn gỗ phù hợp, người ta sẽ bổ và đẽo
gọt cho thành hình từ trong rừng rồi vác về nhà, bảo quản trên gác bếp. Khi nào
có người đến hỏi làm khung dệt thì người ta mới mang xuống gọt nhẵn, đục
mộng, chế tác các chi tiết nhỏ đi kèm rồi mới lắp ráp thành chiếc khung dệt hoàn
chỉnh.
Bộ công cụ làm nghề mộc nói chung, chế tác khung dệt nói riêng của người
Mông ở Cát Cát gồm có: cưa, đục (trxâux) và dao (txaz).
3.2. Cấu tạo và kỹ thuật chế tác các cấu kiện
Chiếc khung dệt truyền thống của người Mông ở Cát Cát được cấu tạo bởi
06 bộ phận chủ yếu là thân khung (ndêx ntus), trục cuốn sợi (chênhx ntus), bộ
9


nâng sợi (chôngx ntus), cái dập sợi (duôx), trục cuốn vải (chênhx ntus), đai buộc
lưng (hluô san ntus). Các cấu kiện này có kích thước và kỹ thuật chế tác như sau:
3.2.1. Thân khung dệt (ndêx ntus)
Thân khung dệt truyền thống của người Mông ở Cát Cát được tạo bởi hai
thanh dọc xếp theo chiều thẳng đứng. Chiều cao mỗi thanh khoảng 1,5 – 1,6 m;
tiết diện 3,5 x 5 m. Thân khung được gọt, đẽo cho thành hình ngay từ trong rừng tại chỗ người ta tìm ra gỗ rồi mới được vác về nhà bảo quản trên gác bếp, khi cần

mới mang xuống làm khung dệt.
Thân khung có chức năng là trung tâm liên kết các cấu kiện của khung dệt
nên nó phải được tính toán sao cho vừa có độ chính xác tương đối về kích thước
tổng thể, vừa có sự chính xác trong việc bố trí điểm đặt một số cấu kiện chủ yếu.
Vì vậy, ngoài việc xác định chiều cao của thân khung, người ta còn phải đo và
đánh dấu các điểm đặt cấu kiện. Các cấu kiện được lắp ráp với khung bằng kỹ
thuật chui mộng (trxâux). Trên thân khung có 3 cặp mộng đối xứng. Trong đó,
hai đôi mộng trên và dưới dùng để lắp hai thanh ngang có tác dụng làm vật giằng
cho thân khung. Đôi mộng ở giữa là để người ta lắp giá đỡ trục cuốn sợi. Theo
cách tính truyền thống. Cặp mộng dưới cùng được đánh dấu ở điểm cách đất ≈ 6
– 7 cm. Cặp mộng trên cùng được đánh dấu ở điểm cách đỉnh ≈ 4 – 5 cm. Cặp
mộng ở giữa cách cặp mộng dưới cùng 55 cm và cách cặp mộng trên cùng 80 cm.
Sau khi đã đánh dấu, người ta dùng búa và đục để đục lỗ mộng (trxâux khaor). Lỗ
mộng ở thân khung dệt của người Mông thường có tiết diện 2 x 5 cm. Chiều sâu
của lỗ mộng phụ thuộc vào chiều dầy của thân khung (≈ 5 cm).
Giá đỡ trục cuốn sợi cũng được làm cùng loại gỗ với thân khung dệt. Giá đỡ
gồm có 2 thanh gỗ dài 30 cm, đầu lượn tù tròn và thuôn nhỏ dần về cuối (Phần
đầu rộng 7 cm; phần cuối rộng 5 cm; dầy 1,8 cm) được dóng từ thân khung (bằng
kỹ thuật chui mộng). Phía đầu mỗi thanh có 1 lỗ tròn tạo thành cặp lỗ đối xứng để
lắp thanh ngang. Mỗi lỗ có đường kính 3 cm. Tâm lỗ tròn cách đầu thanh ngang ≈
4 cm, cách cạnh trên và cạch dưới đều ≈ 2 cm. Một bộ phận nằm trên giá đỡ trục
cuốn sợi nhưng lại có chức năng tác động đến dây kéo cần nâng sợi chính là
thanh ngang. Vì chức năng của thanh ngang là làm mốc giữ cho dây kéo cần nâng
sợi ở khoảng cách hợp lý để không bị vướng vào sợi trong quá trình thao tác. Vì
thế, người ta phải chế tác sao cho khi lắp đặt và vận hành, thanh ngang có thể
quay trơn tru khi dây kéo cần nâng sợi trượt qua trượt lại (do tác động của lực kéo
của chân). Thanh ngang có hình trụ tròn dài (dài 50 cm; đường kính 4 cm). Hai
đầu thanh ngang được gọt dũa tạo thành 2 ống trục (đường kính ≈ 2 cm; dài 2 cm)
để lắp vào hai lỗ tròn của hai thanh dọc dóng ra từ thân khung dệt.
3.2.2. Trục cuốn sợi (chênhx ntus)

Trục cuốn sợi có chức năng để giữ sợi trên khung dệt. Khi muốn mắc sợi vào
khung, người phụ nữ Mông sẽ phải đặt sợi vào bộ phận này trước. Kỹ thuật lắp
sợi (không kể đến số sợi) được thực hiện theo phương pháp cuộn tròn từ trong ra
ngoài theo hướng ngược chiều kim đồng hồ để khi lắp xong, làn sợi dọc sẽ quay
10


ra phía ngoài khung dệt. Đồng thời, ở mỗi tầng sợi, người ta phải lắp các cặp
phân cách để tách các phần sợi không cho chúng rối vào nhau (một thanh đặt trên,
một thanh đặt dưới điểm trung tâm là lõi trục).
Với kỹ thuật lắp sợi như trên. Bộ trục cuốn sợi sẽ có cấu tạo và kỹ thuật chế
tác sao cho thích hợp. Trục cuốn sợi do đó sẽ có 2 bộ phận chủ yếu. Đó là lõi trục
và các thanh phân cách.
Lõi trục cuốn sợi là một miếng gỗ có hình chữ H chạy dài theo chiều ngang
làm cho nó được phân thành 3 đoạn rõ rệt. Lõi trục cuốn sợi có kích thước: dày 3
cm; rộng 5 cm, dài 75 cm. Chiều dài được chia đều cho 3 đoạn, mỗi đoạn dài 25
cm.
Các thanh phân cách ở trục cuốn sợi được làm đơn giản. Do đây chỉ là những
cấu kiện tạm thời, dễ dàng thay thế nếu cần nên chúng chỉ được làm bằng các
thanh tre hoặc cành que nhỏ to cỡ bằng một ngón tay. Mỗi thanh phân cách có
chiều dài ≈ 27 – 28 cm. Do kỹ thuật xếp sợi ngang nêu trên nên trên trục cuốn sợi
có bao nhiêu tầng sợi thì sẽ có bấy nhiêu cặp thanh phân cách.
3.2.3. Bộ cần nâng sợi (gangz ntus)
Cần nâng sợi có chức năng tách một tầng sợi để cho chúng tách xa ra khỏi
tầng sợi còn lại trong quá trình vận hành của khung dệt, tạo điều kiện thuận lợi
cho con thoi chạy qua chạy lại xen vào giữa hai làn sợi dọc để đưa sợi ngang đan
đi đan lại liên tục thay đổi trình tự lượt trên - lượt dưới để tạo thành tấm vải (kỹ
thuật đan theo lóng). Cần nâng sợi được cấu tạo bởi 04 thanh gỗ mỏng ghép lại
với nhau bằng kỹ thuật chui mộng và được ghép với thân khung dệt bằng kỹ thuật
buộc dây (khi khlôz).

Giữ ở vị trí trung tâm là một thanh gỗ cùng một loại gỗ với khung dệt.
Miếng gỗ này có dày hay mỏng, tròn hay dẹt đều được. Chiều dài của nó thường
là 41 cm. Ở giữa thanh ngang, người ta đục một lỗ mộng để lắp cần giật. Cách lỗ
mộng cần giật đều về hai bên 11 cm, người ta đục 2 lỗ mộng khác để lắp 2 cần
nâng.
Cần nâng và 2 cần nâng sợi có hình dáng, kích thước tương đối giống nhau.
Chúng cũng được làm bằng cùng một loại gỗ với khung dệt. Về hình dáng, chúng
có dạng mỏng, dẹt. Phần đáy nở to và thuôn nhỏ dần về phía trước. Đầu cần được
đẽo gọt cho nở to ra tạo thành hình tròn hoặc bầu dục (tính tương đối) tạo thành
đầu khấc có tác dụng như một mắt khoá để ngăn không cho dây buộc tuột ra trong
quá trình vận hành. Về kích thước, mỗi chiếc cần có chiều dài khoảng 20 – 22 cm
(có khi chiều dài của chúng lên tới 25 – 26 cm), dầy 1 cm. Phần đáy nở to ≈ 3 cm,
càng về phía trước càng thuôn nhỏ dần. Sát với đầu khấc, thân cần nhỏ chỉ còn ≈
1,2 cm. Ở đầu khấc, bề mặt của nó bất chợt nở rộng, đoạn phình nhất ≈ 2 cm.
Sau khi đẽo, gọt và lắp ghép với nhau, người ta lắp bộ cần nâng sợi vào thân
khung dệt bằng kỹ thuật buộc dây. Dây buộc được bố trí ở hai đầu thanh gỗ
mỏng, dẹt tạo thành hai đầu buộc đối xứng. Một đầu dây nối với thanh gỗ dẹt của
bộ cần nâng sợi; đầu dây còn lại được buộc vào thân thanh gỗ giằng ngang phía
11


trên thân khung dệt. Người ta phải buộc sao cho độ dài - ngắn của hai dây ở hai
đầu bằng nhau. Điều này có tác dụng làm cho bộ cần nâng sợi có được tư thế
thăng bằng, không bị nghiêng, không bị lệch.
Ở đầu cần giật, người ta buộc vào đó đầu của đoạn dây kéo cần nâng sợi.
Dây kéo cần giật thường được làm bằng song hoặc mây (Ngày nay, người ta thay
bằng dây ni lông). Dây có chiều dài ≈ 1,7 m. Một đầu dây được buộc với cần
nâng. Thân dây được luồn từ cần nâng cho chạy xuống dưới – phía đằng sau thân
khung, qua thanh trượt – thanh ngang đặt ở giá đỡ trục cuốn sợi rồi chạy luồn
xuống dưới khung dệt. Đầu dây còn lại được buộc lại tạo thành vòng để xỏ vào

chân người dệt tạo thành chức năng như một bàn đạp.
Ở đầu hai cần nâng, người ta buộc vào đó hai đoạn dây ngắn - gọi là dây
nâng sợi. Dây này cũng được làm từ chất liệu truyền thống nhưng nhỏ hơn dây
kéo cần nâng sợi. Dây nâng sợi to cỡ bằng chiếc đũa hoặc có thể nhỏ hơn một
chút. Khi được buộc vào cần và lược chia sợi, mỗi đoạn dây nâng sợi có chiều dài
≈ 25 cm. Đặc biệt, hai đoạn dây nâng cần phải bằng nhau tuyệt đối. Có như vậy
thì chúng mới có thể kéo cho lược chia sợi nâng lên hay hạ xuống đều được ở cả
hai bên, các làn sợi nhờ đó mà được tách đều, không bị nghiêng, không bị lệch,
con thoi vì thế cũng chạy qua chạy lại được dễ dàng hơn.
3.2.4. Cái dập sợi (duôx)
Cái dập sợi còn có thể gọi là lược dập sợi bởi trong thành phần cấu tạo của
chúng có các nan khít đều nhau trông giống như răng lược. Cái dập sợi trong bộ
khung dệt của người Mông ở Cát Cát có 2 loại phân biệt theo số nan và kích
thước. Loại nhỏ dùng để dệt loại khổ vải 15 – 20 cm và loại to dùng để dệt khổ
vải 25 – 30 cm. Ngoài ra, cấu tạo của chúng đều giống nhau. Cụ thể như sau:
Cái dập sợi gồm có 4 bộ phận hợp thành. Quan trọng nhất trong số đó là các
nan chia sợi dọc. Thông thường, một cái dập sợi có 154 nan (loại nhỏ) và 166 nan
(loại to). Nan được chế tác từ cật tre già nên có độ cứng khá cao. Trong quá trình
sử dụng, các sợi dọc trượt qua trượt lại mài một lực ma xát vào các nan chia sợi
tạo nên một độ thâm bóng rất đẹp mắt. Càng dùng nhiều và lâu, độ thâm bóng
càng lớn. Mỗi chiếc nan có chiều dài 9 cm (loại nhỏ) và 10 cm (loại to); tiết diện
0,5 x 2 mm. Khi lắp vào cái dập sợi, mỗi thanh nan cách đều nhau 1 mm.
Để giữ các nan dập sợi, người ta dùng một thanh tre không quá già nhưng
cũng không dùng tre non để cho nó không bị mềm nhưng cũng không bị giòn.
Người ta chẻ đôi ở giữa thanh tre - chẻ dọc ra hai đầu (mỗi đầu để lại 1 đoạn ≈ 3 –
4 cm không chẻ). Người ta luồn chân nan chia sợi vào khe thanh tre kẹp, lần lượt
từng nan một. Luồn đến đâu, người ra dùng một loại dây rừng nhỏ như sợi chỉ
nhưng rất dai (nay người ta sử dụng dây gai dệt công nghiệp) buộc ép chặt chân
nan theo kiểu buộc xoắn sợi (giống như kiểu thùa khuyết). Cứ như vậy cho đến
hết thì sợi dây sẽ được buộc thắt lại cho chắc rồi cắt bỏ đầu dây thừa. Sau đó,

người ta lại thao tác tiếp với đầu chân nan bên kia với kỹ thuật và trình tự như
vậy.
12


Khi hai đầu chân nan đã được kẹp chắc vào hai thanh tre nhỏ, người ta lấy
hai dóng trúc đường kính 2 cm (loại nhỏ) và 2,5 cm (loại to); dài 34 cm (loại nhỏ)
và 41 cm (loại to). Ở mỗi thanh, người ta chẻ dọc từ một đầu dóng trúc thành một
đường rãnh rộng khoảng 0,5 cm chạy suốt dọc thân dóng trúc đến cách đầu bên
kia khoảng 3 – 4 cm thì dừng lại. Đường rãnh này dùng để lắp (luồn) thanh kẹp
các chân nan chia sợi (mỗi dóng trúc kẹp một đầu chân nan) là hoàn thành. Có
người trong quá còn dùng dây buộc cố định đầu khe của hai dóng trúc để không
cho chúng rơi ra.
3.2.5. Trục cuốn vải (chênhx ntux)
Trục cuốn vải trong bộ khung dệt truyền thống của người Mông ở Cát Cát có
tác dụng cuốn giữ những đoạn vải vừa được dệt xong và chờ để cuốn tiếp vào đó
những đoạn vải sẽ còn tiếp tục được dệt. Trục cuốn vải có cấu tạo gọn nhẹ. Chất
liệu tạo thành là tre (jôngz). Kỹ thuật chế tác do đó cũng rất đơn giản. Trục này
được làm từ 2 thanh tre với chiều dài 39 cm, bề ngang 5 cm, dầy 1,5 cm. Nó vốn
được chẻ ra từ một thân tre nhỏ (đường kính khoảng 6 – 7 cm), được gọt bỏ
những phần xù xì của đốt tre làm cho thân ngoài thanh tre đạt được độ thẳng mịn
cần thiết. Tiếp đó, người ta lại gọt lược bớt bề dầy ở phía phần bụng thân tre. Hai
đầu mỗi thanh tre này được vót cho thuôn nhỏ về phía trước với đường lượn khá
gấp, độ cong lớn cộng thêm chiều dài của đoạn lượn không lớn (9 cm) làm cho nó
có hình dạng hơi thiên về hình dạng nhọn. Sau khi đẽo, gọt xong, để lắp vào
khung, người ta áp bụng hai nửa thanh trục cuốn vải lại với nhau rồi cuốn vải
xung quanh theo hướng ngược chiều kim đồng hồ (cuốn từ trên xuống dưới).
3.2.6. Đai buộc lưng (hluô san ntus)
Đai buộc lưng trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát được làm từ da
trâu (tơưr nhưngx) hay da bò (tơưr nhưngx đăngk). Người Mông ở Cát Cát trước

đây thường hay sử dụng da trâu hay da bò để chế tác ra nhiều công cụ phục vụ lao
động, sản xuất và một số công cụ phục vụ các hoạt động sinh hoạt văn hoá – xã
hội khác (VD: làm mặt trống, mặt tấm trượt chuyên trở hàng trên các bề mặt địa
hình phức tạp, lồi lõm; làm bao da, dây kéo.v.v…).
Trước đây, cứ mỗi lần mổ một con trâu hay một con bò trưởng thành (từ hơn
4 năm tuổi trở lên), đồng bào thường thuộc da để dùng (người ta không dùng da
của những con chưa trưởng thành vì da của chúng chưa đủ “độ chín”, sẽ mỏng và
không dai, không bền). Chỗ da được lấy thường từ cổ đến sát 4 đùi. Nói cách
khác là đồng bào sử dụng phần da lưng và da bụng của con trâu, con bò đã trưởng
thành để thuộc. Tấm da sau khi được lột ra sẽ được kẹp vào 6 đôi thanh cật tre già
(1 đôi gồm có 2 thanh cật tre già đã bổ dọc từ 1 thân cây tre đã được gọt và chuốt
cho thật nhẵn, phẳng đều đặt nằm úp vào nhau: một thanh đặt nằm ngửa ở dưới,
một thanh đặt nằm úp ở trên, tấm da được đặt kẹp vào giữa). Trong đó, 4 đôi
thanh tre được đặt nằm vây xung quanh có tác dụng đóng thành khung và 2 đôi
thanh tre được đặt nằm bắt chéo với nhau tạo thành hình dấu nhân (X) ở trong
lòng khung để tăng thêm độ chắc chắn. Các đôi thanh tre được ghim lại với nhau
13


bằng chốt tre (chal jôngz). Mỗi chốt tre cách nhau khoảng 1 gang tay (≈ 22 – 24
cm) để đảm bảo cho khung giằng có thể chịu đựng được khi tấm da khi co lại.
Tấm da sau khi được căng sẽ được phơi nắng. Hôm nào không có nắng,
người ta mang vào nhà dựng ở góc bếp lò để nhiệt của bếp lò giữ cho tấm da
không bị thối. Nếu nắng to, thời gian phơi tấm da là 2 ngày. Nếu nắng vừa, thời
gian phơi tấm da từ 4 – 5 ngày là được.
Tấm da sau khi phơi đủ nắng sẽ được tháo ra khỏi 6 đôi thanh tre nẹp, cuộn
tròn lại để lên gác phía bên có bếp nấu cơm để bảo quản. Khói bếp sẽ làm cho
tấm da bền hơn, tránh được sự tấn công của các loài sinh vật nhỏ và sự phát sinh,
phát triển của các loài vi sinh. Theo ông Vàng A Sử, sinh năm 1963, trú tại Đội I
thôn Cát Cát thì một tấm da khi đã được thuộc và bảo quản như vậy sẽ không bao

giờ bị hỏng.
Đai buộc lưng trong bộ khung dệt của người Mông ở Cát Cát xưa kia được
làm bằng loại da kiểu như vậy. Mỗi khi cần dùng, người ta mang tấm da xuống
rải ra cắt lấy một hay vài miếng (tuỳ theo nhu cầu sử dụng). Vị trí cắt thì không
có quy định cụ thể, nhưng thường được cắt ở sát ngoài rìa cạnh của tấm da. Kích
thước của mỗi tấm đai như vậy thường dài 38 cm; rộng 8 – 10 cm; độ dày phụ
thuộc vào độ dày của tấm da. Hai đầu đai có thể được cắt lượn tròn hoặc cắt
vuông góc (tạo thành 4 góc 45 0) đều được. Hai đầu đai được dùi 4 lỗ thủng (mỗi
đầu 2 lỗ) dùng để sâu dây buộc gắn đai với hai đầu của trục cuốn vải. Khi khung
dệt “nghỉ”, một đầu dây này có thể tháo ra hay để nguyên trạng thái buộc đều
được. Nhưng khi người phụ nữ Mông bắt đầu dệt vải, người ta phải tháo một đầu
dây để luồn đai qua sau lưng rồi buộc lại vào đầu trục cuốn vải. Khi người dệt vải
ngồi xuống, người ta sẽ điều chỉnh cả ở trục cuốn vải, trục cuốn sợi và vị trí ngồi
khiến cho làn sợi dọc căng ra. Tấm đai buộc lúc này cùng với lưng người ngồi dệt
có tác dụng góp phần làm căng sợi dọc để có thể thực hiện thao tác dệt vải.
3.2.7. Thoi dệt (goz)
Thoi dệt của người Mông ở Cát Cát thường được làm bằng loại gỗ dẻo, khó
vỡ như gỗ dâu (nhăngz) hoặc gỗ cây xương cá (đông đangk); trong đó gỗ xương
cá vàng ít được ưa chuộng hơn vì nó nặng, làm cho người thao tác nhanh mỏi tay.
Việc chọn gỗ làm khung dệt của họ rất cầu kỳ. Gỗ phải được lấy từ một đoạn cây
to, thẳng, ít thớ và đặc biệt là không có mắt gỗ. Theo ông Vàng A Sử, sinh năm
1963, trú tại đội I, thôn Cát Cát (một trong 4 người thành thạo nghề mộc tại thôn
Cát Cát) thì có khi hạ cả một cây dâu xuống mà không chọn được một đoạn gỗ
nào để làm thoi dệt vì nhìn bên ngoài thì to nhưng bổ ra thấy nhiều thớ quá. Ông
Sử còn cho biết, do thoi dệt phải khoét lòng rộng, thành mỏng nên nếu thớ nhiều
thì sau một thời gian sử dụng, con thoi sẽ bị cong, vênh do thớ gỗ co ngót. Còn
nếu gặp mắt gỗ thì sẽ hỏng ngay từ khâu chế tác, bởi thành con thoi chỉ dày có 1
cm và cứ thế chạy dài tới 30 cm nên nếu gặp mắt gỗ sẽ không thể đẽo được cho
phẳng, nhẵn; mà nếu có cố đẽo thì trong quá trình sử dụng con thoi cũng sẽ bị vỡ
do mắt gỗ rời ra khỏi thân gỗ.

14


Con thoi dệt của người Mông ở Cát Cát có hình dáng và kích thước như sau:
Nếu quay “cửa buồng thoi” (nơi để tra suốt sợi vào) lên trên thì con thoi có
hình dạng như một cái thuyền có khoang. Do đó, thoi có 3 đoạn (1 khoang giữa
và 2 đoạn đầu).
Hai đoạn đầu được gọt nhẵn, mỏng, nhọn đầu với chiều dài mỗi đoạn 9 cm.
Cạnh trên bằng. Cạnh dưới lượn cong. Càng vào trong, thân thoi càng to. Càng
lên trên, thân thoi càng dày. Đến khoảng cuối – nơi giáp với buồng thoi thì thân
thoi có chiều rộng 6 cm, dày 3 cm. (Dạng vát mỏng chạy suốt dọc cạnh dưới của
thoi). Hai đầu thoi có tác dụng “mở đường” cho con thoi chạy qua chạy lại giữa
hai làn sợi dọc.
Buồng thoi là nơi chứa suốt sợi nên được có dạng phình đều (rộng ở giữa và
hẹp về hai đầu). Vành ngoài buồng thoi dài 29 cm; rộng 6 cm. Vành trong buồng
thoi dài 23 cm; rộng 4 cm. Thành buồng thoi dày 1,5 cm phía đầu cạnh dọc; và 1
cm phía đầu cạnh ngang. Lòng buồng thoi sâu 6 cm. Lòng buồng thoi có dạng
thon nhỏ dần về dưới. Ở cửa buồng thoi, chiều ngang là 6 cm. Đến đáy buồng
thoi, chiều ngang chỉ còn ≈ 2 cm. Ở hai thành ngang của buồng thoi, người ta
khoan 1 cặp lỗ nhỏ đối xứng ở 2 thành ngang của thân buồng thoi. Mỗi lỗ cách
cửa buồng thoi 1 cm, đường kính mỗi lỗ 2 mm (những con thoi đã qua sử dụng
lâu ngày, lỗ có thể rộng ra thành 3 mm). Lỗ này để người ta xuyên sợi từ con suốt
sợi ở trong lòng buồng thoi ra ngoài để chạy sợi ngang.
Các bộ phận trên khi liên kết với nhau rồi còn cần phải có người ngồi vào vị
trí dệt, đeo dây qua lưng và trở thành một bộ phận của khung dệt thì khung dệt
mới có thể hoạt động được.
3.3. Cơ chế vận hành
Với loại khung dệt này, độ căng của sợi dọc được tạo ra bằng cách cuốn
thành nhiều vòng vào trục cuốn sợi. Trục này được đóng vào giữa hai cột cao
khoảng 150 cm bằng tre hoặc gỗ. Đầu bên kia của sợi dọc được buộc vào trục

cuốn vải. Khi dệt, người phụ nữ Mông ngồi vào nghế, lấy dây buộc lưng khi đó
đã được buộc một đầu vào trục cuốn vải, dùng thân người để căng sợi dọc. Vải
dệt đến đâu được cuộn tròn vào trục cuốn vải đến đó. Để luồn sợi ngang qua sợi
dọc nhanh hơn, người Mông sử dụng một bộ nâng sợi dọc, gồm hai cái cần tác sợi
hay còn được gọi là trục go được làm bằng tre, cứ cách một sợi dọc lại buộc một
sợi dọc vào một sợi dây nối với một trục go, các sợi còn lại được buộc vào trục go
kia. Để làm cho cơ cấu nâng sợi dọc này chuyển động, người phụ nữ Mông dùng
một sợi dây vải hoặc dây mây, dây vải buộc từ trục go xuống chân người dệt. Khi
chân người dệt kéo sợi này chuyển động về phía sau sẽ làm cho trục go nối với nó
được nâng lên hay hạ xuống tạo ra một khoảng trống cho sợi ngang chạy qua. Để
làm cho các sợi ngang khít lại với nhau, người ta dùng cái dập sợi đẩy sợi dồn
xuống dưới sát với sợi ngang vừa được đan qua lúc trước. Vì vậy, mặc dù chưa
đóng thành bàn đạp nhưng với cấu tạo dùng dây buộc vào chân thay bàn đạp như
trên, loại khung dệt này của người Mông còn được gọi là loại khung dệt đạp
15


(giống với tên gọi loại khung dệt của người Thái, người Mường hay người Việt).
Để đưa sợi ngang luồn qua sợi dọc, người ta cuốn sợi vào từng suốt nhỏ, sau đó
để suốt sợi vào bên trong con thoi làm bằng gỗ để có thể dễ dàng trượt qua
khoảng trống giữa các sợi dọc một cách nhanh chóng. Vải được dệt thưa hay mau
là phụ thuộc vào số răng của go – nơi sợi dọc phải chạy qua từ trục cuốn sợi đến
trục cuốn vải.
Người phụ nữ ngồi trên ghế, buộc đai nối với trục cuốn vải vào lưng để làm
căng sợi dọc, chân buộc vào dây nối với cơ cấu nâng sợi, họ trở thành một bộ
phận của khung dệt. Trong khi dệt, người phụ nữ dùng chân điều khiển dây nối.
Khi kéo dây về phía sau, cần tách sợi sẽ tách hai luồng sợi làm đôi tạo một
khoảng trống để đưa thoi vào, dùng lực nén dập cho các sợi khít lại với nhau. Khi
thả chân, mặt sợi dọc trùng xuống, cần tách sợi trượt về phía trên để trở lại thế
ban đầu.

4. Bộ công cụ tạo màu sắc và hoa văn trên vải
4.1. Thùng nhuộm chàm
Thùng nhuộm chàm gọi theo tiếng Mông là trơưr. Thùng nhuộm chàm
truyền thống của người Mông ở Cát Cát được chế tác từ chất liệu bằng gỗ pơ mu.
Trước đây, gỗ pơ mu trong địa bàn người Mông ở Cát Cát có rất nhiều, người ta
chỉ cần đi vào rừng cách nhà khoảng 2 giờ đi bộ là đã có thể kiếm được những
cây gỗ pơ mu ưng ý.
Việc đi lấy gỗ pơ mu không quy định thời gian cụ thể. Mỗi khi gia đình có
nhu cầu về thùng nhuộm chàm, người đàn ông Mông ở Cát Cát thường mang sẵn
công cụ (rìu, dao) vào rừng tìm gỗ làm thùng nhuộm chàm vào những lúc nông
nhàn, không bận việc đồng áng, thường vào tháng 11 đến tháng giêng âm lịch
hàng năm.
Cây gỗ pơ mu “ưng ý” với người Mông ở Cát Cát để dùng làm thùng
nhuộm chàm là những cây mọc thẳng, đường kính gốc tối thiểu là 50 cm, tối đa là
90 cm (90 cm là đường kính gốc lớn nhất đối với hầu hết các cây gỗ pơ mu trong
vùng này), cây cao khoảng 6 – 10 m.
Sau khi tìm được cây ưng ý, người ta sẽ chặt hạ ngay chứ không đánh dấu để
dành như đối với việc tìm gỗ làm nhà. Khi chặt cây, người ta thường chọn vị trí
bên dốc lên. Cách chặt là tỉa rộng vòng ngoài rồi thu hẹp dần vào trong. Sau khi
nhát chặt đã “chín”, người ta giáng một nhát bổ mạnh cho cây sẽ đổ về phía đối
diện với người chặt, không gây nguy hiểm đến tính mạng.
Sau khi cây được chặt xuống, người ta tỉa bỏ phần ngọn và các cành nhánh
ra khỏi thân cây. Tiếp đó, người ta ước lượng chiều cao của những chiếc thùng
định đóng rồi chặt thân cây ra làm nhiều đoạn sao cho độ dài của thân cây tương
ứng với chiều cao của thùng. Có được những xúc gỗ vừa ý, người ta lại dùng rìu
bổ dọc theo thân cây để cho ra những tấm ván thô. Sau đó, cũng vẫn chỉ với chiếc
rìu, người ta lại đẽo, gọt cho tấm ván có được độ phẳng tương đối rồi mới vác gỗ
về nhà. Bằng kỹ thuật chặt - bổ - đẽo - gọt bằng rìu truyền thống, thông thường,
16



với số gỗ thu được từ mỗi cây pơ mu, người Mông ở Cát Cát trước đây làm được
từ 3 – 6 chiếc thùng nhuộm chàm (tuỳ thuộc vào cái cây ấy to hay nhỏ, cao hay
thấp). Số gỗ như vậy cần phải đi 2 – 4 chuyến mới có thể vận chuyển hết về nhà.
Việc vận chuyển thùng vế nhà được thực hiện bởi 1 – 2 người.
Để tránh hiện tượng co ngót, gỗ pơ mu sau khi mang về nhà sẽ được để lên
gác phía bên bếp 1 – 2 tháng thì khô. Lúc này, người ta đã có thể sử dụng gỗ để
chế tác thùng nhuộm chàm. Nhiều người cẩn thận hơn còn để gỗ ở đó tới 1 năm.
Công đoạn đầu tiên của việc đóng thùng là bào cho nhẵn các tấm ván. Kỹ
thuật bào - tiếng Mông gọi là baol (bạo). Đây là một kỹ thuật được du nhập từ
người Kinh trong vùng. Còn trước đây, tiền nhân người Mông cũng chỉ sử dụng
chiếc rìu để gọt tỉa kỹ lưỡng để tạo độ nhẵn cho ván thùng. (Trong quá trình khảo
sát tại cơ sở, chúng tôi vẫn phát hiện những chiếc thùng cũ có dấu vết của việc
làm nhẵn bằng kỹ thuật gọt tỉa bằng rìu).
Sau khi các tấm ván đã được làm nhẵn, người ta đẽo (hoặc đục) ở hai cạnh
dài của các tấm ván để tạo thành các đường gờ so le. Việc tạo các đường gờ phải
được tính toán sao cho khi ghép các tấm ván vào với nhau, các đường gờ phải
khít lại, ghé mắt nhìn qua không thấy lọt ánh sáng là được. Mặt đáy của thùng
cũng được tạo bởi các tấm ván đặt khít thành các đường gờ. Chỉ khác là, nếu như
các tấm ván thành thùng có chiều thẳng đứng thì các tấm ván đáy sẽ được cắt gọt
thành một khối hình tròn, đường kính tuỳ thuộc vào ý muốn của người sử dụng.
Sau khi đã tạo được các cấu kiện ưng ý, người ta sẽ ghép các tấm ván lại với
nhau. Đầu tiên, người ta kê các đá hoặc gỗ cao lên một khoảng để tạo khoảng
cách giữa mặt dưới đáy thùng với mặt đất. Sau đó, các mảnh ván đáy được đặt
khớp vào nhau ở trên khoảng kê ấy. Các tấm ván thành thùng sẽ được lần lượt đặt
quây xung quanh tấm ván đáy. Công đoạn này đòi hỏi phải có nhiều người cùng
tham gia (thông thường, khi quây ván thùng sẽ có 5 – 8 người cùng tham gia thao
tác). Các mảnh ván thành thùng đã được ghép sẽ có người giữ không để cho nó
tuột ra. Điều đặc biệt là người Mông ở Cát Cát khi ghép ván thành thùng không
cần dùng đến khuôn lót bên trong. Đây là một đặc điểm để chúng ta ghi nhận

trình độ ghép ván tài tình của họ. Ván thành thùng sau khi được ghép xong (vòng
quây đã kín) sẽ được buộc cố định. Mỗi chiếc thùng ngâm chàm bằng gỗ truyền
thống của người Mông ở Cát Cát sẽ có khoảng từ 3 – 4 vòng buộc tuỳ thuộc vào
thùng to hay nhỏ, cao hay thấp. Vị trí vòng buộc trên cùng cách cạnh trên mặt
thùng ≈ 15 – 20 cm. Vị trí vòng buộc dưới cùng cách cạnh đáy thành thùng ≈ 25 –
30 cm. Sau đó, người ta chia khoảng cách giữa hai vị trí vòng buộc trên cùng và
dưới cùng. Khoảng ở giữa sẽ được buộc từ 1 – 2 vòng với tỷ lệ khoảng cách chia
đều nhau. Để không cho các tấm ván trượt ra hay thụt vào, khi buộc, người ta
phải dùng tay vừa ép bên ngoài, vừa tì bên trong mặt các tấm ván.
Dây buộc thùng ngâm chàm truyền thống của người Mông ở Cát Cát là dây
mây (cơx thênhk) hoặc cật tre (giâux xungz). Kỹ thuật buộc thùng của họ là kỹ
thuật xoắn dây. Tức là, hai đầu dây sẽ được xoắn vào vòng dây buộc một đoạn dài
17


khoảng 20 cm mỗi đầu rồi cắt bỏ đầu thừa. Đầu thừa của dây buộc được gài vào
bên trong vòng dây sao cho kín, không bị tuột ra.
Buộc xong, người ta đổ nước vào thử. Chỗ nào có nước rỉ ra, người ta sẽ
đánh dấu lại. Sau đó, người ta đổ hết nước trong thùng đi, lau khô ván thùng và
dùng một loại keo thảo mộc chít các khe hở lại sao cho kín là xong.
Nhìn chung, chiếc thùng ngâm chàm của người Mông ở Cát Cát không có
chuẩn mực về kích thước. Tuỳ theo số gỗ, ý muốn của người làm và nhu cầu của
người sử dụng mà mỗi chiếc thùng lại có một chỉ số về kích thước khác nhau. Ở
đây, chúng tôi dẫn ra số đo chiếc thùng nhuộm chàm của gia đình ông Vàng A
Seng (sinh năm 1962), trú tại đội 1, thôn Cát Cát như sau: Thùng có chiều cao
phía ngoài 92 cm, phía trong 65 cm, mặt đáy dày 4 cm (mặt dưới đáy cách đất 23
cm). Thùng có hình trụ đứng với đường kính 80 cm, thành thùng (các tấm ván)
dày 4 cm.
4.2. Thớt và đá lăn vải
Trong quy trình dệt vải và cắt may trang phục của người Mông ở Cát Cát có

một công đoạn làm tăng độ bóng cho vải. Đó là công đoạn lăn vải. Đây không
phải là một công đoạn chính, không có tác dụng làm hình thành nên miếng vải
đen truyền thống mà chỉ nhằm trang trí cho một loại vải cổ truyền thường được
dùng để may trang phục mặc ngoài (áo khoác) dùng để mặc đi chơi, mặc trong
đám cưới, đám hội và mặc cho người chết. Bộ công cụ lăn vải của người Mông ở
Cát Cát gồm có thớt lăn vải (changr đauk qưr ntuôx) và đá lăn vải (poz jez qưr
ntuôx).
Thớt lăn vải giống thớt lăn sợi về chất liệu tạo thành, chỉ khác về kiểu dáng
và kích thước. Thớt lăn vải được làm từ một nửa thân gỗ bổ dọc nên một mặt có
dạng vồng tròn; mặt còn lại thì có dạng phẳng và được tạo chân. Chiều dài của
thớt là 65 cm; ngang 40 cm; dầy 20 cm. Tại tâm điểm của mặt phẳng, người ta đo
đều về hai bên - mỗi bên 6 cm và cũng tại tâm điểm ấy đo thẳng lên trên một góc
450 với chiều cao của đường đo này là 7 cm. Ba điểm đo rồi được đánh dấu ấy là
điểm người ta căn để tạo chân thớt bằng cách khoét rỗng lõi, để lại hai rìa cạnh
(hai chân). Lõi thớt được khoét theo dạng vồng lên trên. Bề rộng của lõi là 12 cm;
cao 7 cm. Mỗi chân thớt rộng 4 cm. Mặt thớt dày 13 cm. Chân thớt có tác dụng
làm cho thớt được vững chãi hơn, khi thao tác sẽ không bị ngả nghiêng do gặp đất
lồi lõm.
Đá lăn vải cũng giống đá lăn sợi ở chất liệu và kiểu dáng. Điểm khác nhau
giữa chúng chỉ là kích thước. Đá lăn vải có kích thước lớn hơn đá lăn sợi. Đá lăn
vải có chiều dài 87 cm; rộng 25 cm; dầy 7 cm.
4.3. Bộ công cụ in sáp ong
Bộ công cụ để in sáp ong của người Mông ở Cát Cát hiện nay gồm có chảo
đun sáp ong (jav) và các loại bút (Đar), ngòi được làm bằng đồng nên được gọi là
bút ngòi đồng (Đar sưr taz) Xét về kích thước, bút có 2 loại: to và nhỏ. Xét về
18


cấu tạo ngòi bút, bút cũng có 2 loại: loại 1 khoang bụng gọi là Đar nrơư; và loại 2
khoang bụng gọi là Đar changz zsangz. Đặc điểm của mỗi loại công cụ như sau:

- Chảo đun sáp ong: là loại chảo rán cỡ nhỏ được mua ở chợ, thường được
làm bằng gang hoặc hợp kim nhôm. Kích thước của chảo thường cao 4 cm;
đường kính 20 cm. Khi đun sáp ong, người ta dùng chảo này đặt trên bếp nấu
cơm của gia đình (trái nhà bên phải) để đun.
- Bút: gồm có 2 bộ phận chính là quản bút (đar) và ngòi bút (sưr).
Quản bút giống nhau ở cả hai loại cấu tạo bởi chúng đều được làm bằng tre
(siôngz); dài 12 – 13 cm (loại nhỏ) và 16 – 17 cm (loại to); rộng 0,7 cm (loại nhỏ)
và 1 cm (loại to); dày 1 mm (loại nhỏ) và 2 mm (loại to). Quản bút là nơi người
nghệ nhân tạo hình dùng tay cầm vào đó để thực hiện thao tác. Nhìn chung, quản
bút in sáp ong của người Mông không có gì đặc biệt. Điều đặc biệt và làm nên tác
dụng chính của bút là ở ngòi bút.
Ngòi bút in sáp ong của người Mông ở Cát Cát được làm bằng đồng. Gồm có
4 loại khác nhau là: - loại nhỏ 1 khoang bụng; - loại to 1 khoang bụng; - loại nhỏ
2 khoang bụng; - loại to 2 khoang bụng.
Về cấu tạo, loại bút 1 khoang bụng được ghép bởi 2 lá đồng có dạng hình
thang chéo, phình to ở bụng bút và hẹp về phía rìa cạnh lưỡi và giáp quản. Phần
giáp quản được cố định với quản bút bởi đai và chốt giữ (cũng đều được làm bằng
đồng). Trong khoang bụng là một khoảng trống – đó chính là buồng chứa sáp
ong. Loại bút 2 khoang bụng thoạt nhìn bề ngoài cũng có cấu tạo như trên, chỉ
khác là bên trong có thêm một lá đồng ngăn giữa khiến cho khoang bụng được
chia thành 2 ngăn.
Về kích thước, rìa cạnh lưỡi dài 2,5 cm (loại to) và 1,7 cm (loại nhỏ). Do
ngòi bút có dạng hình thang chéo nên 2 đường chéo có chiều cao khác nhau.
Trong đó, chiều cao cạnh chéo dài - Cạnh phía ngoài, phía đầu bút là 1,5 cm (loại
to) và 11 cm (loại nhỏ). Chiều cao cạnh chéo ngắn - cạnh phía trong, gần với
quản bút là 1 cm (loại to) và 0,8 cm (loại nhỏ). Hai đỉnh trên của hai cạnh chéo
cách nhau 1,5 cm (loại to) và 0,8 cm (loại nhỏ). Đai ôm ngòi bút với quản bút dài
bằng chiều dài cạnh đỉnh trên của hai cạnh chéo. Chiều cao của đai là 0,6 cm (loại
to) và 0,3 cm (loại nhỏ). Để tăng thêm độ chắc chắn cho ngòi bút không bị tuột ra
khỏi thân bút, ở chính giữa đai ôm ngòi bút, người ta đặt thêm 01 chốt giữ bằng

cách khoan 1 lỗ xuyên qua cả ngòi - đầu quản và đai ôm, lồng 1 lá đồng nhỏ qua
rồi bẻ gập 2 đầu của chốt giữ sang 2 bên là được.
Mỗi khi vẽ, người nghệ nhân tạo hình chấm bút này vào chảo sáp nóng chảy,
sáp ong sẽ tràn vào buồng này. Khi nhấc bút lên, sáp người ta cầm ở tư thế cho
cạnh lưỡi nằm song song với bề mặt mặt đất để sáp ong không chảy ra. Khi in,
người ta nghiêng dần ngòi bút cho sáp ong chảy ra. Khi mới in, người ta nghiêng
ít. Độ nghiêng cứ lớn dần tỷ lệ thuận với lượng sáp ong đã chảy ra khỏi buồng
chứa cho đến khi sáp chảy hết hoặc lượng sáp không còn đủ để thể hiện hoa văn
theo ý đồ người tạo hình thì người ta mới lại chấm tiếp.
19


Cũng theo kết quả khảo sát của chúng tôi, ở Cát Cát hiện nay chỉ còn 04
người còn có thể in được sáp ong. Trong đó, có 02 nghệ nhân cao tuổi là Thào
Thị Sung (1960, đội III) và Sùng Thị Sao (1963, đội I). Ngoài ra, còn có 01 phụ
nữ trẻ là Vàng Thị Mảo (1981, con của nghệ nhân Thào Thị Sung) và 01 thiếu nữ
là Vàng Thị Me (1985, đội I). Cả 04 người này đều khẳng định từ lâu nay, người
Mông ở Cát Cát đều chỉ in sáp ong trên mấy loại bút kể trên, kể cả in hoa, in
chấm nhỏ, in đường xoáy, in đường kẻ, đường riềm…
Trên thực tế, nghệ thuật batit (in sáp ong) của người Mông còn có 02 loại bút
nữa là bút chuyên in các đường xoáy (ngòi được tạo sẵn hình xoáy) và bút chuyên
in các chấm nhỏ (ngòi là những que sắt nhỏ trông như chiếc bàn chải). Nhưng có
lẽ bởi những nguyên nhân nào đó mà 02 loại bút này và kỹ thuật sử dụng nó đã bị
thất truyền đối với người Mông nơi đây.
5. Bộ công cụ chế tác đồ trang sức
Bộ công cụ chế tác đồ trang sức của người Mông ở Cát Cát có bễ thổi (puz),
lò nung (kha truz đăcl khlâuz), khuôn đúc (chzôr), nồi nấu kim loại (jak) và các
loại kìm (chax), búa (châux). Những người thợ chế tác đồ trang sức đều là những
người thợ rèn có tay nghề cao nên hầu hết các công cụ này đều do chính người đó
tự chế tạo.

Bễ thổi lò rèn của người Mông ở Cát Cát được làm bằng các loại gỗ thuộc họ
khoả tử như thông, pơ mu… Các loại gỗ này không chỉ được lựa chọn để làm bễ
thổi mà còn được ưa chuộng để làm nhà và chế tác các loại công cụ lao động
cũng như các đồ dùng sinh hoạt bằng gỗ bởi vì chúng nhẹ, ít bị nứt nẻ, khi đục
không bị vỡ. Người Mông gọi chung chúng là ntông đăngx lăngz.
Khi muốn làm ống bễ (chăngx sungz), người ta chọn đoạn gỗ tròn dài 1,5 m,
tiết diện 25 – 30 cm. Thân bễ được khoét rỗng, thành dày 3,5 – 5 cm. Dọc theo
chiều dài đoạn ống, người ta đục một rãnh nhỏ làm đường dẫn gió vào lò nung.
Hai đầu ống được bịt kín bằng hai miếng gỗ tròn có đưòng kính bằng với đường
kính của lòng bễ.
Pít tông (găngx puz) xưa được làm bằng một thuốn gỗ tròn có đường kính
vừa khít độ rỗng của ống bễ, dày 5 – 7 cm. Đầu bít tông có tay cầm để kéo, đẩy,
được làm bằng gỗ hoặc tre. Phía cuối pít tông là lá gió được làm bằng đĩa gỗ bọc
lông gà có đường kính vừa khít ống bễ thổi. Hiện nay, người ta làm bằng thép
tròn xuyên qua một đầu nắp gỗ. Pít tông có tác dụng hút và nén gió thổi vào lò.
Ống bễ được đặt ngang lò với độ cao vừa phải, sao cho người ta có thể đứng đẩy
pít tông một cách dễ dàng và tiết kiệm lực nhất.
Lò nung được đắp bằng đất xét, cao chừng 1 m, rộng 60 cm, dài 80 cm.
Thành lò dày 25 – 30 cm, xung quanh có ốp gỗ, đường kính miệng lò khoảng 20
cm.
Nồi nấu kim loại được làm bằng đất xét trắng trộn với cát và lông gà hoặc
một loại đá mềm chịu được nhiệt độ cao. Nồi có đường kính 40 cm, cao 4 cm,
thành nồi dày 3 mm.
20


Khuôn đúc lằm bằng đá, có 2 rãnh: rãnh to dài để đúc vòng cổ, rãnh nhỏ để
đúc vòng tay, nhẫn, hoa tai.
Búa của người thợ bạc Mông là loại búa có củ búa làm từ một khúc sừng trâu
ngắn, đặc. Một đầu to, một đầu nhỏ.

Kìm sắt có mỏ dài, hơi cong quặp xuống cán gỗ dùng để lắp thành phẩm, cời
than.
Đe là một cục sắt tròn, vuông có tiết diện 5 x 5 cm.
Đục chạm hoa văn có nhiều loại. Loại hình chữ nhật dẹt dùng để chạm khắc
hoa văn gạch nhỏ li ti. Loại tròn, mũi nhọn tạo hoa văn hình chấm. Loại có mũi
lòng máng dùng để chạm các loại hoa văn hình bán nguyệt, chân ngựa. Loại có
mũi vuông tạo các hoa văn hình vuông…
Để chế tác đồ trang sức bằng bạc, người thợ bạc đổ hai bát than vào lò, kéo
bễ nổi lửa. Sau vài phút là đã đủ nhiệt độ cần thiết. Người thợ bạc cho đồng bạc
vào nồi đặt lên than hồng khoảng 30 – 50 phút là đồng bạc tan chảy. Người thợ
bạc dùng kìm quặp quai nồi nấu bạc đang sôi đổ vào khuôn đúc tạo thành hình
các thanh bạc có chiều dài tương ứng với lòng máng của khuôn đá. Sau khi bạc
nguội và đông lại, người thợ bạc cho thanh bạc vào than nung nóng rồi đem ra rèn
thành hình các đũa bac rồi lại tiếp tục nung và lại rèn đập. Công đoạn này được
thực hiện 3 lần. Thanh bạc được nung đúng độ lửa khiến sản phẩm không cứng
cũng không quá mềm rồi lại được rèn đập nhiều lần tạo thành hình sản phẩm.
Người nghệ nhân chạm bạc bằng loại đục tương ứng sao cho thành các hình hoa
văn như ý muốn hoặc theo yêu cầu của người đặt hàng.
* Trong các kỹ thuật tạo hoa văn trên nền vải, người Mông còn có kỹ thuật
ghép vải và đính/ghép các hạt cườm, kim loại lên vải. Tuy nhiên, kỹ thuật này
không có công cụ gì đặc biệt mà chỉ cần có chiếc kim khâu được mua sẵn ngoài
chợ huyện.
Tình hình cũng diễn ra tương tự ở công đoạn cắt may trang phục. Do kỹ
thuật cắt may của người Mông không cần phải có số đo tỉ mỉ, chính xác đến từng
chi tiết nên đồng bào không có công cụ dùng để đo các số đo hình thể mà chỉ
dùng ngay miếng vải định cắt may trang phục, ướm lên cơ thể người sẽ được may
rồi đánh dấu vị trí nào cần khoét lỗ, vị trí nào cần may ghép là xong. Khi cắt,
đồng bào cũng dùng loại kéo hai lưỡi được người Mông trong thôn chế tạo hoặc
được bán sẵn ở chợ. Khi ráp nối các bộ phận của trang phục, đồng bào cũng dùng
chiếc kim giống chiếc kim thêu.

6. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN BỘ CÔNG CỤ DỆT
MAY TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT CÁT
6.1. Một số biến đổi
Sự biến đổi trên lĩnh vực công cụ trồng lanh, chế biến lanh thành sợi và cắt
may trang phục hiện nay đối với người Mông ở Cát Cát diễn ra đáng kể đối với
chiếc khung dệt. Do chiếc khung dệt truyền thống của đồng bào tốn nhiều công
21


sức khi dệt vải mà hiệu quả lại không cao. Đồng thời, do sống gần với người
Giáy. Quá trình giao lưu, tiếp biến văn hoá đã làm cho đồng bào thấy được tính
hiệu quả của chiếc khung dệt Giáy so với khung dệt Mông và đã học theo. Chiếc
khung dệt Giáy xuất hiện đầu tiên ở thôn Cát Cát nói riêng, xã San Xả Hồ nói
chung vào năm 1985. Đó là chiếc khung dệt của gia đình ông Vàng A Phay, trú
tại đội III, thôn Cát Cát do ông Phay học theo mẫu của người Giáy ở Tả Van rồi
tự đóng cho bà Thào Thị Sung là vợ của chủ hộ sử dụng. Hồi đó, các anh em trai
ông còn ở chung 1 nhà nên họ cũng học được cách làm khung dệt của ông và các
cô em dâu cũng học được kỹ thuật dệt từ vợ ông. Đó là các bà Hạng Thị Sáy (sau
chuyển sang đội I), Hạng Thị Mị (sau khi tách hộ vẫn ở đội III), Sùng Thị So (sau
chuyển sang đội I) và Má Thị Mú (cũng chuyển sang đội I). Sau khi tách hộ,
những cặp vợ chồng này đã mang theo “công nghệ” đóng mới khung dệt và kỹ
thuật dệt toả ra cả thôn và sau đó là cả xã.
Dần dần về sau, bà con người Mông nơi đây thấy việc dệt bằng khung dệt
của người Giáy hiệu quả nên học làm theo ngày càng đông. Chiếc khung dệt cổ
truyền của Mông dần dần bị “thất xủng” là do đó. Qua khảo sát thực tế, hiện trong
toàn thôn Cát Cát có 27 chiếc khung dệt Giáy, tương ứng với 27 hộ thường xuyên
sử dụng khung dệt này. Ngoài ra, các hộ gia đình không có khung dệt này vẫn đi
dệt nhờ ở những nhà có hoặc mượn về nhà để dệt. Số hộ còn sử dụng khung dệt
truyền thống Mông chỉ có 10 hộ. Cả thôn có 09 hộ gia đình có đồng thời 2 loại
khung dệt. Trong số đó, có 06 hộ chỉ thường xuyên sử dụng khung dệt Giáy, còn

khung dệt Mông thì được tháo ra bỏ trên gác bếp nhiều năm nay không sử dụng.
Chúng tôi cũng đã thử tiến hành phỏng vấn nhanh 20 thanh - thiếu nữ của một số
gia đình trong bản về khả năng dệt vải. Kết quả cho thấy có 11 người biết dệt
bằng loại khung dệt Giáy (84,6%), chỉ có 02 người biết dệt bằng khung dệt Mông
(15,4%) và không có ai biết dệt bằng cả hai loại khung dệt.
Chiếc khung dệt của người Giáy được sử dụng ở Cát Cát hiện nay được
người Mông ở đây gọi là ndêx ntus Sur. Nó không có gì khác so với khung dệt
của người Giáy ở Tả Van hay khung dệt của người Thái, người Mường, người
Lào, người Việt…. Đó là loại khung dệt được phát triển từ loại khung dệt giống
như khung dệt của người Mông, được gọi là khung dệt dùng bàn đạp. Khung dệt
này được đóng cố định thành khung có 4 chân bằng gỗ hoặc tre dựng đứng trên
sàn. Sợi dọc được căng thẳng giữa trục cuốn chỉ và trục cuốn sợi được đóng cố
định vào khung, không cần dùng dây buộc lưng để căng sợi dọc và giữ cho trục
cuốn sợi nữa. Ghế ngồi dệt cũng được đóng cố định luôn vào khung. Thay vì
dùng dây buộc vào chân để điều khiển cơ cấu nâng sợi dọc, người ta thay bằng
hai bàn đạp nối với các trục go (cần nâng lược tách sợi). Để dệt hoa văn, người ta
phải dùng nhiều trục go, hoa văn càng phức tạp thì càng phải dùng nhiều trục go,
có khi lên tới 16 trục. Số bàn đạp cũng phải tương ứng với số trục go. Riêng
người Thái hay người Mường, người Lào… còn có thêm sợi dọc để tạo hoa văn
bằng cách dùng tay hoặc que thêu thêm cho mỗi hàng sợi ngang.
22


Tuy học theo cách dệt bằng khung dệt này nhưng người Mông ở Cát Cát chỉ
dệt vải trơn, không dệt hoa văn nên cấu tạo khung dệt mới của người Mông
không sử dụng nhiều trục go lấy sợi. Khung được đóng bằng 4 cột gỗ; trục cuốn
vải và ghế ngồi được đóng cố định vào khung; thay dây buộc điều khiển cần nâng
lược tách sợi bằng bàn đạp.
Ngoài khung dệt, sự biến đổi còn diễn ra trên một số công cụ dệt may khác.
Đối với việc trồng và chăm sóc lanh, người Mông nơi đây đã sáng tạo ra con

dao phát mới thay cho con dao quắm cổ truyền. Đây cũng là một loại dao dùng để
phát quang cây cỏ từ loại dao quắm truyền thống. Loại dao này có lưỡi dao cong
theo bề mặt của bản dao mà không cong theo lưỡi dao như loại dao quắm cổ
truyền. Đồng thời, sống dao cũng biến mất để thế chỗ cho lưỡi dao thứ hai khiến
cho loại dao này có hai lưỡi mà không có sống dao. Dao được làm từ thép pha với
một tỷ lệ gang rất ít tạo nên một loại hợp kim tốt, được tôi kỹ, mài sắc tạo hiệu
quả vừa rắn chắc, khoẻ, cứng nhưng không giòn; đồng thời với hai lưỡi dao,
người ta có thể thực hiện động tác phát cây cỏ được nhanh hơn, đỡ tốn thời gian
và công sức hơn. Thay vì cứ mỗi lần lia lưỡi dao xong lại phải mất một lần vung
dao lên thì người ta có thể lia dao thoăn thoắt qua hai bên cho hiệu quả không chỉ
nhanh gấp đôi mà còn hơn thế nữa vì không phải mất công, mất sức vươn cao dao
lên ngang tầm bắp tay hay ngang tầm vai.
Trong các công đoạn của quy trình chế biến lanh thành sợi, sự biến đổi về
công cụ không diễn ra. Tất cả các công cụ vẫn đều giữ nguyên những yếu tố
truyền thống. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến kết quả này là do người Mông cho đến
nay vẫn giữ gìn được truyền thống ăn vận trang phục truyền thống bằng vải lanh.
Đồng thời, do điều kiện cư trú và giao lưu chưa thực sự rộng mở. Khoa học công
nghệ hiện đại theo mô hình sản xuất công nghiệp chưa vươn sâu vào các “ngóc
ngách” của công nghệ dân gian như hiện tượng đã diễn ra đối với các làng nghề
dệt vải của người Việt mà tiêu biểu là làng nghề dệt lụa ở Vạn Phúc (Hà Đông).
Trong công đoạn tạo màu sắc và hoa văn trên nền vải, sự biến đổi về công cụ
diễn ra chủ yếu ở thùng nhuộm chàm. Ở khía cạnh này, chiếc thùng nhuộm chàm
bằng gỗ pơ mu đã dần dần được thay thế bằng các loại thùng bằng nhựa hay bằng
sắt (vốn là các phi dầu được tái sử dụng). Theo số liệu thống kê của chúng tôi,
tính đến tháng 8/2009, toàn thôn Cát Cát có 166 thùng nhuộm chàm. Trong số đó,
chỉ có 83 chiếc thùng nhuộm chàm bằng chất liệu gỗ pơ mu truyền thống (chiếm
50%), chủ yếu là thùng cũ, đã sử dụng lâu năm. Còn lại là các loại thùng nhựa,
thùng sắt được đồng bào mua ở chợ huyện về sử dụng thay thế cho những chiếc
thùng gỗ đã hỏng. Nguyên nhân của hiện tượng này không phải bắt nguồn từ chủ
quan mà do gỗ pơ mu hiện đã gần như cạn kiệt trong vùng cư trú của người Mông

ở Cát Cát do hậu quả của việc khai thác gỗ pơ mu làm hàng xuất khẩu. Theo kết
quả khảo sát của chúng tôi, hầu hết người Mông ở Cát Cát cho đến nay vẫn thích
dùng loại thùng gỗ truyền thống. Vì theo họ, chiếc thùng ấy bền, chắc và cho chất
lượng cao chàm tốt hơn khi ngâm bằng các loại thùng nhựa hay thùng sắt. Điều
23


này cho đến nay chưa được khoa học kiểm nghiệm. Song nhận xét trên là được
đúc kết qua sự chắt lọc từ kinh nghiệm dân gian. Ví như việc pha trà bằng ấm
gốm hay sứ sẽ ngon hơn khi pha vào ấm Ilốc hay bình nhựa vậy.
Trong công đoạn cắt may trang phục, chiếc máy khâu đã xuất hiện và trở lên
phổ biến ở Cát Cát. Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, toàn thôn Cát Cát hiện
có 57 chiếc máy khâu (tương ứng với tỷ lệ 78,1% số gia đình người Mông trong
thôn có thiết bị này). Toàn bộ máy khâu trong thôn là những loại máy khâu đạp
chân được sản xuất ở Trung Quốc được sản xuất từ những năm 80 của thế kỷ
trước. Hầu hết phụ nữ Mông ở Cát Cát ngày nay đều biết sử dụng máy khâu. Vì
vậy, sau khi cắt vải thành các bộ phận của trang phục, người ta đều dùng máy
khâu để ráp nối chúng lại với nhau. Những gia đình không có máy khâu thì người
ta đi may nhờ ở những nhà có máy.
Tóm lại, sự biến đổi về công cụ trong nghề dệt may của người Mông ở Cát
Cát cho đến nay chủ yếu diễn ra ở chiếc khung dệt và thùng nhuộm chàm. Hiện
tượng này là tất yếu trong quá trình phát triển và hội nhập của cộng đồng người
Mông ở Cát Cát vào xã hội hiện đại. Tuy nhiên, nếu chúng ta có các biện pháp
can thiệp kịp thời và phù hợp thì không những chúng ta có thể cứu vãn được một
nét đẹp văn hoá của một tộc người có truyền thống lịch sử lâu đời và có một kho
tàng văn hoá dân gian giàu bản sắc mà còn làm cho dòng văn hoá ấy không bị
biến mất, không bị đứt đoạn mà nó sẽ tiếp tục tuôn chảy mạnh mẽ và mãnh liệt
trong dòng chảy của nhịp sống hôm nay và mai sau; góp phần giữ gìn sự đa dạng
và phong phú của văn hoá Việt Nam.
6.2. Một số giải pháp bảo tồn bộ công cụ dệt may truyền thống của

người Mông ở Cát Cát
Xuất phát từ truyền thống và các kinh nghiệm dân gian trong việc xử lý các
công đoạn chế tác và sử dụng các công cụ của nghề dệt may truyền thống với tư
cách là một “dây truyền” công nghệ dân gian khép kín. Đồng thời, từ thực tế của
sự biến đổi và nguyên nhân của sự biến đổi, sự phát triển của du lịch hiện nay và
xu hướng phát triển của du lịch Cát Cát nói riêng, du lịch Sa Pa nói chung, chúng
tôi đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn bộ công cụ dệt may truyền thống của
người Mông ở thôn Cát Cát như sau:
Một là, giải pháp về nâng cao nhận thức. Do sự phát triển của loại hình du
lịch cộng đồng ở Cát Cát nên nhận thức về việc bảo tồn các giá trị văn hoá nói
chung, bảo tồn các công cụ dệt cổ truyền nói riêng trong cộng đồng dân cư đang
dần dần được hình thành. Tuy nhiên, nhiều người vẫn chưa có sự nhận thức thật
sự đúng đắn về vai trò của văn hoá dân gian và việc sự dụng công cụ truyền thống
trong đời sống văn hoá để chuyển biến thành những hành động tích cực. Vì vậy,
cần tiếp tục tuyên truyền về vai trò và động lực của văn hoá truyền thống, trong
đó có nghề dệt may và sử dụng các công cụ dệt may cổ truyền. Từ sự chuyển biến
về mặt nhận thức, người dân sẽ có trách nhiệm cao hơn trong việc chủ động bảo
tồn bộ công cụ dệt may truyền thống của dân tộc mình.
24


Hai là, cần có sự đầu tư kinh phí, dành mức chi cho hoạt động của tổ
nghề dệt thủ công truyền thống bằng các công cụ cổ truyền của người Mông ở
Cát Cát. 5 năm trở lại đây, doanh thu từ việc bán vé cho khách du lịch tham quan
làng Cát Cát liên tục tăng. Tuy nhiên, người dân hưởng lợi từ doanh thu du lịch
chưa nhiều, chủ yếu vẫn là do đồng bào tự tổ chức kinh doanh tự phát, quy mô
nhỏ theo cấp hộ gia đình.
Để có những bước đi phù hợp, mang tính chiến lược lâu dài, cần tổ chức quy
hoạch theo nhóm, tổ ngành nghề. Mỗi nhóm, tổ ngành nghề tập hợp các gia đình
hay các cá nhân có tiềm năng, lợi thế cụ thể về ngành nghề đó. Trong đó, ngành

nghề dệt thổ cẩm truyền thống quy tụ những cá nhân thành thạo trong việc xử lý
các công đoạn của nghề dệt, tạo hoa văn và cắt may trang phục làm tiền đề cho
việc thành lập Câu lạc bộ hoặc Hợp tác xã dệt vải lanh truyền thống dân tộc
Mông ở thôn Cát Cát. Tổ ngành nghề dệt cũng phải có quỹ hoạt động, có người
quản lý cùng một bộ phận giúp việc gọn nhẹ, có kế hoạch và chương trình hoạt
động cụ thể. Mỗi cá nhân có thể sản xuất ngay tại nhà mình. Hoạt động sản xuất
vừa mang tính trình diễn để tạo nguồn thu; đồng thời cũng vừa là một hoạt động
sản xuất thật sự nhằm góp phần bảo tồn nét văn hoá dân tộc thông qua bộ công cụ
dệt may, kỹ năng và các sản phẩm của nó. Hàng tuần hay hàng tháng, các thành
viên trong tổ sản xuất phải họp để lắng nghe, chia xẻ những khó khăn, những kinh
nghiệm và giải pháp tháo gỡ những vướng mắc. Cùng giúp đỡ nhau trong sản
xuất, kinh doanh.
Để làm được điều đó, cần có một nguồn kinh phí để trang bị cho tổ những
trang thiết bị cần thiết, hỗ trợ tiền mua sắm nguyên vật liệu, hỗ trợ về chuyên môn
tổ chức của tổ/nhóm, hướng tới việc, kinh phí để duy trì hoạt động thường xuyên
của tổ nghề.v.v… Nguồn kinh phí ấy trước mắt có thể dựa vào kinh phí đầu tư
của nhà nước với vai trò như là một “cú huých” đánh thức một tiềm năng đang
ngủ quên. Tiếp theo, kinh phí sẽ phải được trích một phần từ nguồn thu của hoạt
động du lịch. Bởi chính hoạt động du lịch ở Cát Cát có được cũng một phần là do
khai thác từ tiềm lực văn hoá dân gian nơi đây.
Ba là, cần tổ chức tập huấn và trao truyền các kỹ năng, kỹ thuật trong việc
sử dụng các công cụ dệt may cổ truyền cho thế hệ trẻ. Hiện nay, số người thành
thạo các công đoạn dệt vải, tạo hoa văn, màu sắc và cắt may trang phục ở Cát Cát
không ít, nhưng phần lớn tập trung ở các phụ nữ trung niên trở lên. Các thiếu nữ
người Mông ở Cát Cát hầu hết cũng biết thêu và nhiều công đoạn của nghề dệt
nhưng nhiều em không biết cách sử dụng các công cụ vẽ và in hoa văn bằng sáp
ong, không biết cách mắc sợi lên khung dệt cổ truyền và kỹ thuật dệt trên loại
khung dệt ấy. Tình hình này cho chúng ta thấy “viễn cảnh” trong một tương lai
không xa, khi các nghệ nhân đương thời mất đi, thế hệ trẻ sẽ không kế thừa được
trọn vẹn những tri thức dân gian của nghề dệt, đặc biệt là kỹ năng vận hành và

thao tác loại khung dệt cổ truyền của dân tộc mình. Vì vậy, việc tổ chức tập huấn
và trao truyền các kỹ năng, kỹ thuật trong việc sử dụng các công cụ may cổ
25


×