Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Kỹ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục của người Mông ở thôn Cát Cát, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.85 KB, 25 trang )

DẪN LUẬN
Nghề trồng lanh, dệt vải là hoạt động kinh tế để tạo ra sản phẩm vải
nhằm phục vụ nhu cầu của đời sống cộng đồng dân tộc Mông ở Cát Cát. Đó
thực sự là một hoạt động công phu đã đạt tới đỉnh cao của một loại hình thủ
công truyền thống không chỉ với người Mông mà còn đối với cả cộng đồng
các dân tộc Việt Nam. Điều thú vị là chỉ bằng các công cụ hết sức thô sơ,
người phụ nữ Mông đã làm ra những sản phẩm vải lanh nổi tiếng. Trong đó,
đáng kể có nghệ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục.
Về mặt kỹ thuật, trong quy trình tạo hình và trang trí dân gian trên trang
phục, người Mông nơi đây đã vận dụng nhiều kỹ năng, kỹ xảo một cách
điêu luyện như triết nếp, khâu đột, khâu luồn sợi, khâu vắt; các kỹ thuật tạo
hoa văn như thêu (thêu đột, thêu luồn sợi, thêu xoắn chỉ), in hoa văn bằng
sáp ong (kỹ thuật ba tít), ghép vải. Công việc này được các em gái học từ
những người bà, người mẹ, người chị ngay từ khi còn nhỏ theo phương pháp
cầm tay chỉ việc vào những thời điểm nông nhàn hay những khi đi đường, đi
chợ.
Về mặt mĩ thuật, các bộ trang phục và màu sắc, hoa văn trên trang phục
của người Mông ở Cát Cát, nhất là trang phục phụ nữ của rực rỡ và cố tình
vượt lên sắc xanh của thiên nhiên để tôn con người trước khung cảnh của
núi rừng.
Phong cách trang trí và tính quy phạm của các loại hoa văn với màu sắc
của nó cũng thể hiện những luật tục, những kiêng kỵ trong cộng đồng. Như
vậy, có thể khẳng định, hoa văn cũng là một trong những nguồn sử liệu quý
khi nghiên cứu về lịch sử văn hoá tộc người.
Chuyên đề Kỹ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục
của người Mông ở thôn Cát Cát, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai nhằm tìm hiểu
những nét độc đáo trong trang trí dân gian trên trang phục của người Mông
ở đây. Chuyên đề nằm trong Đề tài Bảo tồn nghề dệt truyền thống, thuộc dự
án Đầu tư bảo tồn làng truyền thống dân tộc Mông ở làng Cát Cát, xã San
Xả Hồ, huyện Sa Pa, tỉnh Lào Cai. Chuyên đề được thực hiện bằng các
phương pháp dân tộc học truyền thống, lấy kết quả điền dã làm tài liệu


nghiên cứu chủ yếu.

1


1. KHÁI QUÁT VỀ NGHỀ TRỒNG LANH DỆT VẢI CỦA NGƯỜI
MÔNG Ở THÔN CÁT CÁT
Trang phục và các sản phẩm may mặc truyền thống của người Mông ở
Cát Cát sử dụng nguồn nguyên liệu chính là sợi lanh. Nương lanh ở Cát Cát
có thể trồng gần hay xa nhà tuỳ thuộc vào điều kiện địa hình, địa chất và khí
hậu. Đồng bào thường chọn các khoảnh nương tương đối mầu mỡ, thoáng
đãng, bằng phẳng và khuất gió để trồng lanh. Thông thường, mỗi gia đình
đều có ít nhất một mảnh nương lanh riêng. Mỗi mảnh nương ấy có thể trồng
một vài vụ hoặc lâu hơn tuỳ theo độ màu mỡ của đất. Đất để trồng lanh bao
giờ cũng được làm rất kỹ cho tơi, xốp, trước khi gieo hạt người ta có thể rắc
thêm tro bếp và phân gà. Hạt lanh được đựng trong giỏ hay ống tre. Người
Mông ở Cát Cát thường trồng lanh vào tháng nửa cuối tháng 3 hoặc tháng 4
âm lịch hàng năm. Mật độ gieo vừa phải. Nếu gieo dầy, cây nhỏ, gieo thưa
cây to, nhiều cành, vỏ dầy khó tước.
Việc chăm sóc cây lanh của người Mông ở Cát Cát được chia làm hai
thời kỳ: Khi lanh mọc được 1 – 3 lá thì làm cỏ đợt đầu, tỉa bớt cây nhỏ, xấu.
Khi cây lanh phát triển cao từ 50 – 60 cm thì làm cỏ đợt hai và phát quang
xung quanh.
Khi cây lanh phát triển cao 1,6 - 2 m, vỏ mầu xanh đậm và bóng là lúc
người ta thu hoạch lanh. Thông thường, lanh đạt năng xuất trung bình từ 1
tấn đến 1,2 tấn/ha. Mỗi gia đình người Mông ở Cát Cát có từ 5 – 8 nhân
khẩu, mỗi năm cần trồng từ 15 - 20 kg hạt lanh trên diện tích 100 – 200 m 2.
Để chế biến vỏ cây lanh thành sợi phải trải qua một số công đoạn. Sau
ba tháng sinh trưởng, cây lanh đến mùa thu hoạch, để quá sẽ bị già, khó làm,
không tốt. Khi thu hoạch, cây lanh được chặt cả cây rồi đem về phơi cho đủ

nắng – sương cần thiết rồi tước lấy vỏ. Vỏ lanh được tước nhỏ thành từng
sợi và nối với nhau một cách khéo léo để không tạo thành mấu ở chỗ nối.
Công việc này cần sự nhẹ nhàng, khéo léo, kiên trì, nhẫn nại nên thường do
những người phụ nữ đảm nhiệm. Vì vậy hầu như lúc nào người phụ nữ
Mông cũng đều tranh thủ tước và nối các sợi lanh nếu có thể.
Sau đó, sợi sẽ trải qua các công đoạn giã sợi, nối sợi, xe sợi, thu sợi,
luộc - ủ - giặt sợi, lăn sợi và tháo sợi, sợi sẽ được mắc lên khung để dệt vải.
Trước khi đưa sợi vào khung dệt, người ta giăng sợi cho đủ số sợi dọc
của khổ vải. Sau đó bắt đầu dệt. Kỹ thuật dệt của người Mông ở Cát Cát
được thực hiện theo nguyên tắc đan của lóng, gồm những sợi căng dọc theo
chiều dài của khung dệt đan với những sợi ngang do con thoi vận chuyển.
Khi dệt, người ta buộc khung cửi cho chắc, người phụ nữ ngồi dệt trên chiếc
ghế cao vừa tầm, đai dệt buộc vòng qua sau lưng, nhịp tay và nhịp chân luôn
thoăn thoắt, nhịp nhàng theo từng lượt sợi đan.
Người phụ nữ Mông thường dệt vải quanh năm, tốn nhiều công sức,
nhưng ngoài ý nghĩa kinh tế, việc làm này còn có ý nghĩa xã hội. Khéo tay
chăm chỉ dệt vải là một trong những tiêu chuẩn đánh giá tài năng, đạo đức
2


của người phụ nữ. Vải dệt xong sẽ được đem giặt rồi tạo hoa văn và nhuộm
chàm để may trang phục.
Toàn bộ các công đoạn trồng và chăm sóc lanh; chế biến lanh thành sợi;
nhuộm vải và tạo hoa văn trên vải ngoài việc đòi hỏi sự khéo léo của đôi
tay, sự tinh tế của khối óc người phụ nữ còn cần đến sự trợ giúp đắc lực của
các công cụ. Hầu như mỗi công đoạn lại cần có một loại công cụ thích hợp.
Hầu hết các công cụ đều giản đơn nhưng chúng không thể thiếu trong toàn
bộ quy trình dệt may của đồng bào Mông ở Cát Cát.
1. KỸ THUẬT DỆT, NHUỘM VẢI VÀ CHẾ TÁC ĐỒ TRANG SỨC
1.1. Kỹ thuật dệt

Khung dệt (ndêx ntus) của người Mông ở Cát Cát là loại khung dệt
dùng dây buộc lưng hay gọi môt cách khác dễ hiểu hơn là khung dệt dùng
thân người (dây đai) để căng sợi dọc. Ở loại khung dệt này, độ căng của sợi
dọc được tạo ra bằng cách quấn thành nhiều vòng vào một cái trục gọi là
trục cuốn sợi (chênhx ntus). Trục cuốn sợi này được đóng vào giữa hai cột
cao khoảng 150 cm bằng tre hoặc gỗ. Đầu bên kia của sợi dọc được buộc
vào một cái trục bằng tre gọi là trục cuốn vải. Khi dệt, người phụ nữ Mông
ngồi vào nghế, lấy dây buộc lưng khi đó đã được buộc một đầu vào trục
cuốn vải, dùng thân người để căng sợi dọc. Vải dệt đến đâu được cuộn tròn
vào trục cuốn vải đến đó. Để luồn sợi ngang qua sợi dọc nhanh hơn, người
Mông sử dụng một bộ nâng sợi dọc, gồm hai cái cần tách sợi được làm bằng
tre, cứ cách một sợi dọc lại buộc một sợi dọc vào một sợi dây nối với một
trục go, các sợi còn lại được buộc vào trục go kia. Để làm cho cơ cấu nâng
sợi dọc này chuyển động, người phụ nữ Mông dùng một sợi dây vải hoặc
dây mây, dây vải buộc từ trục go xuống chân người dệt. Khi chân người dệt
kéo sợi này chuyển động về phía sau sẽ làm cho trục go nối với nó được
nâng lên hay hạ xuống tạo ra một khoảng trống cho sợi ngang chạy qua. Để
làm cho các sợi ngang khít lại với nhau, người ta dùng cái dập sợi đẩy sợi
dồn xuống dưới sát với sợi ngang vừa được đan qua lúc trước. Vì vậy, mặc
dù chưa dóng thành bàn đạp những với cấu tạo dùng dây buộc vào chân thay
bàn đạp như trên, loại khung dệt này của người Mông cũng có thể được gọi
là loại khung dệt đạp (giống với tên gọi loại khung dệt của người Thái,
người Mường hay người Việt). Để đưa sợi ngang luồn qua sợi dọc, người ta
cuốn sợi vào từng suốt nhỏ, sau đó để suốt sợi vào bên trong con thoi làm
bằng gỗ để có thể dễ dàng trượt qua khoảng trống giữa các sợi dọc một cách
nhanh chóng. Vải được dệt thưa hay mau là phụ thuộc vào số răng của go –
nơi sợi dọc phải chạy qua từ trục cuốn sợi đến trục cuốn vải.
3



Vải của người Mông ở Cát Cát thường có khổ rộng không cố định, tuỳ
theo kích cỡ của người sẽ được may mà dệt vải khổ rộng hoặc hẹp, nhưng
kích thước phổ biến nhất vẫn là từ 12 – 38 cm. Cứ 10 - 12 sợi được tính
thành một chùm, để may váy áo cho trẻ em, người ta thường dệt khoảng 5
chùm (≈ khổ vải 12 - 15 cm). Còn nếu để may cho người trưởng thành phải
dệt khoảng 8 chùm (≈ khổ vải 22 - 25 cm). Với những người to lớn, người ta
phải dệt tới 10 (≈ khổ vải 35 – 38 cm).
Khi dệt, người phụ nữ ngồi trên ghế, buộc đai nối với trục cuốn vải vào
lưng để làm căng sợi dọc, chân lồng vào sợi dây nối với cần nâng sợi. Lúc
này, cơ thể người phụ nữ trở thành một bộ phận không thể thiếu trong bộ
khung dệt.
Để thực hiện thao tác, người phụ nữ Mông phải phối hợp nhịp nhàng
giữa đôi tay, bàn chân (chân giật dây nối sợi), đôi mắt và cả sống lưng. Tay
phải và tay trái luôn luôn phải đổi nhau đón – đưa khung dệt hết chạy qua
rồi chạy lại, hết qua trái rồi lại qua phải, thoăn thoắt, nhịp nhàng cho con
thoi chạy qua giữa hai làn sợi dọc. Cứ tay này đẩy thoi thì tay kia dập go và
ngược lại. Không những thế, những lúc sợi đứt, đôi tay lại phải dừng lại,
buông go, buông con thoi để nối sợi. Những chỗ lộ mối nối, đôi tay lại khéo
léo giấu đầu sợi nối bằng cách dùng mũi kim hay một cành que nhỏ đâm
đầu sợi xuống phía dưới mặt vải (mặt trái của tấm vải).
Cùng với đôi tay nhịp nhàng đưa thoi, bàn chân người phụ nữ cũng phải
nhịp nhàng đẩy lên, đưa về theo từng dịp dập của go, từng nhịp đưa thoi.
Bàn chân điều điều khiển dây nối sao cho thật khéo để khi kéo chân về đằng
sau sẽ kéo dây dẫn đến cần nâng sợi làm cho nó giật xuống. Khi ấy, đôi cần
nâng sợi sẽ nâng lên, kéo một trong hai làn sợi dọc lên cao, tách xa làn sợi
kia, tạo ra một khoảng trống cần thiết để cho con thoi dễ dàng luồn qua.
Việc còn lại là dùng tay dập go vào với một lực vừa phải. Nếu mạnh quá sẽ
làm cho thớ vải xít, sau này sẽ rất khó trong việc đếm sợi để tính từng mũi
thêu, nhưng nếu thưa quá thì sẽ tạo cho vải nhiều lỗ hổng, không dùng được.
Khi thả chân, mặt sợi dọc trùng xuống, cần tách sợi trượt về phía trên, hai

làn sợi sẽ đảo vị trí cho nhau. Cứ như thế, người phụ nữ thực hiện thao tác
này ngày này qua ngày khác từ khi bắt đầu có sợi dệt cho đến khi đủ lượng
vải mặc cho gia đình mới thôi.
Vải của người Mông ở Cát Cát thường có khổ rộng không cố định, tuỳ
theo kích cỡ của người sẽ được may mà dệt vải khổ rộng hoặc hẹp, nhưng
kích thước phổ biến nhất vẫn là từ 20 – 40 cm. Cứ 12 sợi được tính thành
một chùm, để may váy áo cho trẻ em, người ta thường dệt khoảng 5 chùm.
4


Còn nếu để may cho người trưởng thành phải dệt khoảng 8 chùm. Với
những người to lớn, người ta phải dệt tới 10 – 12 chùm mới đủ khổ vải.
Để dệt một tấm vải dài 10 m, khổ rộng 40 cm thường phải mất 20 giờ
liên tục. Tuy nhiên, do chỉ có thể dệt trong những lúc rảnh rỗi nên trung
bình một tháng một phụ nữ dệt cũng chỉ được một mảnh vải dài khoảng 12
cm; người nào dệt giỏi cũng phải mất tới 2 tuần. Trung bình cứ mỗi mùa
làm vải, một phụ nữ Mông có kỹ năng bình thường có thể dệt được khoảng
48 – 60 m vải. Vải lanh dệt thô hơn vải bông và go dệt của người Mông
cũng thưa hơn go dệt của người Tày, người Giáy, người Việt và một số dân
tộc khác. Độ mau thưa của vải tương đối đều nhau, đặt cơ sở cho việc thêu
hoa theo lóng vải sau này.
Sau khi tấm vải được dệt xong, người phụ nữ Mông lại dùng tro để tẩy
vải cho trắng. Trước hết, người ta hoà tro vào chảo nước quấy cho đều. Sau
đó, người ta nhúng tấm vải cho ngấm nước tro rồi đem hong khô. Khi vải đã
khô lại tiếp tục ngâm nước tro, cứ thế làm liên tục trong 4 – 5 ngày, mỗi
ngày nhúng 3 – 4 lần. Cuối cùng, tấm vải được đem đi giặt với tro bếp rồi
phơi khô. Vải lại được đem đi lăn cho bóng, mịn, mềm. Cách lăn vải cũng
tương tự như lăn sợi, trung bình một người có thể lăn được 100 m vải trong
một ngày.
Ngoài dệt vải, người phụ nữ Mông ở Cát Cát còn dệt cả dây. Để dệt dây

buộc xà cạp, người phụ nữ Mông xếp các sợi cạnh nhau, buộc thắt một đầu
và buộc vào ngón chân để làm cho sợi dọc được căng ra, sau đó dùng sợi
ngang luồn qua sợi dọc để đan thành dây.
1.2. Kỹ thuật nhuộm
- Nhuộm màu đen
Chàm là một dạng thuốc nhuộm tự nhiên được nhiều dân tộc sử dụng
trong việc nhuộm vải. Ở miền núi phía Bắc nước ta có nhiều giống chàm
thuộc các họ khác nhau và mỗi dân tộc, mỗi vùng chỉ quen trồng và sử dụng
một loại hợp với nhu cầu thẩm mỹ truyền thống của mình.
Chàm của người Mông ở Cát Cát là loại chàm lá to hay còn gọi là chàm
mèo có tên khoa học là Strobilanthes Cusia (Nees) Kuntze, thuộc họ Ô rô –
Acanthaceae. Đây là loại cây nhỏ lưu niên, cao 40 – 80 cm (có khi đến 2 m),
thân nhẵn, phân nhánh nhiều, phình lên ở các mấu. Lá mọc đôi, thường
mềm ỉu, hình trái xoan hay bầu dục thon, dài 10 – 13 cm, gân phụ có từ 6
đến 7 cặp, mép có răng hay khía tai bèo; các lá cùng một đôi thường không
bằng nhau. Hoa mọc so le hay mọc đôi, xếp thành bông ít hoa, các bông này
lại xếp thành chuỳ, các lá dài nhon, tràng hoa màu lam đến tím, cuống dài 3
5


– 3,5 cm, phía trên loe ra. Ra hoa kết quả vào tháng 11 – 12, quả nang dài và
không có lông. Cây chàm thường được dùng lá và bột chàm. Trong đó, lá
chàm có tên khoa học là Folium Strobilanthis Cusiae, thường gọi là mã lam.
Bột chàm: có tên khoa học là Indigo Naturalis, thường gọi là thanh
dại.Thành phần hoá học của lá chàm chứa 0,4 – 1% indican. Khi thuỷ phân
thì indican cho indoxyl và gluse. Khi cao chàm bị oxy hoá, indoxyl cho
indigotin. Indigotin có màu xanh lam xẫm. Đó chính là chất mà chúng ta
vẫn gọi là cao chàm.
Cây chàm không kén đất nên nó có thể được trồng ở nhiều nơi như
vườn nhà, trên các mảnh nương riêng hay xung quanh các hàng rào của mỗi

gia đình. Đất trồng chàm không cân phải làm kỹ, thường chỉ cuốc vỡ một
lượt là đã có thể xuống hom giống, gặp chỗ đất quá xấu mới phải bón lót
hoặc bón thúc. Chàm được trồng vào khoảng tháng 3 hoặc tháng 4 (âm
lịch), đến tháng 7 hoặc tháng 8 thì thu hoạch. Trong suốt thời kỳ sinh
trưởng, cây chàm cũng được làm cỏ 1 – 2 lượt. Khi thu chàm, người ta sẽ
lựa ra một số cành đem giâm vào nơi đất ẩm để làm giống cho vụ sau.
Ngoài giống chàm trên, trong vùng cư trú của người Mông ở Cát Cát
còn có một loại chàm mọc tự nhiên, chúng tôi tạm gọi là chàm dại, hay
chàm quả nhọn vì loại chàm này có quả nhọn. Người Mông thì gọi nó là xà
chàm. Loại cây này có tên khoa học là Indigofera galegoid, thuộc họ đậu –
fabaceae. Đây là loại cây bụi cao 1 – 3 m, cành trải ra, có góc. Lá mọc đối,
hình trái xoan thuôn, chóp lá cứng, hai mặt lá rải rác có lông, cụm hoa ở
nách lá cao 6 – 11 cm, cuống hướng lên rồi gập xuống. Hoa mọc sát nhau,
tràng màu hồng. Quả xếp san sát, hướng lên trên, dài 4 – 7,5 cm, có lớp lông
mỏng và thưa, nhiều hạt. Cây lanh dại ra hoa vào tháng 4 hàng năm. Lá cây
chàm dại có tên khoa học là Folium Indigofera, có thể dùng để nhuộm. Khi
ngâm, lá toát ra mùi acid cyanhdric mạnh. Dân gian dùng làm thuốc chữa nở
loét chân tay và diệt chấy rận. Loại chàm này mọc hoang rất nhiều nơi trong
và ngoài khu vực cư trú của thôn nhưng nhuộm không tốt nên ít được dùng,
chỉ dùng khi không còn thuốc nhuộm làm từ loại chàm trồng kể trên.
Quy trình chế biến chàm thành thuốc nhuộm của người Mông ở Cát Cát
như sau:
Đến mùa thu hoạch (tháng 7 hoặc tháng 8 âm lịch), cả thân và lá chàm
được cắt về ngâm với nước sôi để nguội trong các thùng gỗ lớn. Cứ một ôm
chàm (khoảng 3 – 5 kg) thì người ta lại ngâm trong một thùng nước.
Khoảng 3 – 5 ngày sau, khi màu chàm đã tan hết trong nước mới vớt bã ra
rồi cho vôi và nước lọc tro vào, quấy đề lên. Khi dung dịch chàm – vôi đã
lắng đọng xuống đáy thùng, người ta chắt hết nước đi rồi dùng rá hoặc vải
6



dầy lọc cho kiệt nước, lấy bột đem phơi khô trong bóng râm khoảng 10 ngày
thì thành cao chàm (côv mêv).
Ngoài cách làm trên, trước đây, người Mông ở Cát Cát còn có một cách
khác (ít phổ biến hơn) để làm cao chàm. Sau khi rửa sạch, người ta đem vò
nát và ngâm chàm vào thùng gỗ khoảng một tuần thì vớt cây ra, đổ nước đó
đi rồi cho cây khác vào ngâm tiếp, lần này ngâm lâu hơn (từ 1 – 2 tuần), đổ
thêm một ít rượu vào ngâm để kích thích quá trình lên men. Sau khi vớt bã
ra, bên dưới thùng đọng lại một lớp bột chàm màu đen là được.
Để pha cao chàm, người ta đun sôi nước pha với tro bếp (tốt nhất là loại
tro đốt từ than gỗ loài tống quá sủ vì gỗ này nhẹ nên tro mịn, không bị sạn)
rồi lọc lấy nước trong cho vào thùng, đổ cao chàm vào, cứ một thùng gỗ cao
khoảng 1,2 m; đường kính khoảng 80 cm cần 4 bát tô chàm. Vào mỗi buổi
sáng, người ta lấy một thanh gỗ dài đảo cao chàm và nước lên cho đến khi
thấy sủi bọt. Ngày nào cũng đảo như vậy cho đến khi thấy trong thùng nước
có màu sữa cao cao là có thể nhuộm được. Nếu đảo mãi mà không có màu
như vậy thì lấy khoảng 4 gam gạo nếp cẩm, 3 – 4 cành cây chàm lá đỏ
(gangx laz) thái nhỏ nấu cháo. Sau đó đổ cháo đó vào thùng chàm đảo đều
lên cho đến khi có màu sữa ca cao là được. Trong quá trình nhuộm nếu
không thấy vải có màu thì cho thêm một chén rượu vào đánh lên (cũng có
thể cho thêm rượu và ngay khi nấu cháo cây chàm đỏ).
Trước khi nhuộm vải, bao giờ người ta cũng nhúng qua nước lã cho vải
ngấm nước đều, rồi mới nhúng vào ngâm trong thùng nước chàm khoảng 30
phút đến 1 giờ, sau đó mới vớt ra để ráo nước rồi lại nhúng tiếp, cứ như vậy
đến tối thì vớt ra để qua đêm. Sáng hôm sau, người phụ nữ Mông mang vải
đã nhuộm hôm trước đi giặt qua nước lã rồi đem phơi, sau đó lại cho vào
ngâm tiếp. Cứ thế, 6 – 7 ngày thì vải sẽ có màu chàm đen sẫm (nếu chàm
tốt) nhưng cũng có khi phải nhuộm từ 10 – 30 ngày (nếu chàm không tốt).
Vì vậy, cao chàm thường chỉ để được 1 năm. Quá thời gian đó cao sẽ bị
chua, khi nhuộm sẽ không ăn vào vải.

- Nhuộm các màu khác
Ngoài màu chàm (gồm đen và xanh lơ), vốn thuốc nhuộm cổ truyền của
người Mông còn có cả mầu vàng và mầu đỏ.
Màu đỏ trước đây được nhuộm từ cánh kiến hoặc một loại lá cây gọi là
thuốc quả ớt (yuôx cuô txtaoz). Sở dĩ gọi như vậy là vì lá cây khi ngâm vào
nước để khoảng 5 phút sau thì nước sẽ chuyển sang màu đỏ. Còn muốn tạo
ra màu vàng theo truyền thống, người Mông ở Cát Cát trước đây dùng cây
măng đằng - một loại cây dây leo, lá nhỏ và tròn, màu xanh bóng, không ăn
7


được. Để nhuộm vải và sợi, người Mông dùng rễ của cây này rửa sạch, băm
cho nhỏ rồi cho vào nồi đun với nước nhiều lần cho đến khi nước cây cô lại,
đổ vào bát qua một tấm vải lọc, vắt ra cho hết nước. Nếu muốn màu vàng
nhạt thì chỉ đun 1 – 2 lần. Nếu muốn có màu vàng sẫm hay màu da cam thì
đun đi đun lại nhiều lần để cho nước bốc hơi làm giảm thành phần của nước
và tăng thành phần của chất tạo màu nên càng đun, nước sẽ càng cho màu
vàng sẫm. Do màu được tạo từ cây này rất bền màu nên người Mông ở Cát
Cát trước đây rất thích sử dụng. Hoặc người ta cũng có thể sử dụng cây
pangx châux: là một loại cây lá to, nhọn, có nhiều lông trắng, hoa mọc thành
chùm mầu trắng. Loại cây này cũng dùng để tạo ra mầu vàng nhưng do mầu
không bền nên ít được sử dụng.
1.3. Kỹ thuật chế tác đồ trang sức:
Đồ trang sức trước đây được người Mông ở Cát Cát chế tác tại thôn
hoặc đi thuê những người “thợ kim hoàn” ở thôn khác làm. Vì đây là một
nghề phụ nên người “thợ kim hoàn” Mông thường đánh đồ trang sức vào lúc
thu hoạch lúa gần xong hoặc những lúc thời gian rỗi rãi, thường là vào tháng
10 và tháng 11 âm lịch, gần vào đến tết của người Mông.
Bộ công cụ chế tác đồ trang sức của người Mông ở Cát Cát có bễ thổi
(puz), lò nung (kha truz đăcl khlâuz), khuôn đúc (chzôr), nồi nấu kim loại

(jak) và các loại kìm (chax), búa (châux). Những người thợ chế tác đồ trang
sức đều là những người thợ rèn có tay nghề cao nên hầu hết các công cụ này
đều do chính người đó tự chế tạo.
Bễ thổi lò rèn của người Mông được làm bằng các loại gỗ thuộc họ
khoả tử như pơ mu, thông… Các loại gỗ này nhẹ, ít bị nứt nẻ, khi đục không
bị vỡ (người Mông thường gọi chúng là ntông đăngx lăng). Khi muốn làm
ống bễ, người ta chọn đoạn gỗ tròn dài 1,5 m, tiết diện 25 – 30 cm. Thân bễ
được khoét rỗng, thành dầy 3,5 – 5 cm. Dọc theo chiều dài đoạn ống, người
ta đục một rãnh nhỏ làm đường dẫn gió vào lò nung. Hai đầu ống được bịt
kín bằng 2 miếng gỗ tròn có đường kính bằng với đường kính của lòng bễ.
Pít tông được làm bằng một mảnh gỗ tròn có đường kính vừa khít độ rỗng
của ống bễ, dày 5 – 7 cm. Đôi khi người ta làmm bằng vải cũ có bịt lông gà;
cán làm bằng gỗ hoặc tre. Hiện nay người ta làm bằng thép tròn xuyên qua
một đầu nắp gỗ. Pít tông có tác dụng hút và nén gió thổi vào lò. Ống bễ
được đặt ngang lò với độ cao vừa phải, sao cho người ta có thể đứng đẩy pít
tông một cách dễ dàng và tiết kiệm lực nhất. Lò nung được đắp bằng đất sét,
cao chừng 1 m, rộng 0,6 m; dài 0,8 m; thành lò dày 25 – 30 cm, xung quanh
có ốp gỗ, đường kính miệng lò khoảng 20 cm.
8


Nồi nấu kim loại của người Mông ở Cát Cát được làm bằng đất sét
trắng trộn với cát và lông gà. Khuôn đúc làm bằng đá, có hai rãnh. Rãnh to
dài dùng để đúc vòng tay, nhẫn, hoa tai. Để làm đồ trang sức, trước tiên
người ta phải xếp củi, than vào lò, mồi lửa rồi kéo bễ thổi lửa. Khi than
trong lò đã đượm, người thợ chính mới đặt nồi nấu trong có bạc, đồng hoặc
nhôm vào đun cho nóng chảy, sau đó dùng kìm cặp nồi đổ kim loại nóng
chảy vào khuôn đúc thành một thanh dẹt. Miếng kim loại này sẽ được đưa
vào lò nung sau đó mới được uốn, rèn thành các loại đồ trang sức. Cuối
cùng người ta dùng đục nhỏ để chạm khắc hoa văn theo ý muốn.

2. KỸ THUẬT TRANG TRÍ TRÊN TRANG PHỤC
2.1. Kỹ thuật tạo dáng cho trang phục
Cũng như các dân tộc khác, việc tạo dáng trang phục của người Mông ở
Cát Cát vừa có mục đích làm đẹp cho con người, vừa để phù hợp với môi
trường mà họ đang sinh sống, lao động sản xuất hay các hoạt động văn hoá
xã hội khác.
Trang phục phụ nữ là bộ trang phục phản ánh rõ nhất đặc trưng tộc
người. Người phụ nữ Mông ở Cát Cát mặc áo dài rộng trùm ra ngoài váy
(hoặc quần). Ở giữa thắt lại bằng thắt lưng làm tôn thêm đường cong của
khuôn ngực. Áo may hai lớp, có thể thấm mồ hôi khi mùa hè, giữ ấm về
mùa đông.
Chiếc váy của người phụ nữ Mông được xếp nếp không chỉ tạo cho
người phụ nữ có vẻ đẹp duyên dáng mà còn thuận tiện cho sinh hoạt ở môi
trường núi cao như leo dốc, lên - xuống ngựa. Váy được cấu tạo bởi ba phần
chính. Sau khi thêu và in sáp ong mới được ghép lại với nhau. Trong đó, kỹ
thuật chiết nếp (có tới 400 – 500 nếp gấp) khiến cho váy có thể xoè rộng
cộng thêm việc chất liệu tạo vải lanh đã tạo cho y phục Mông những nét rất
riêng so với các dân tộc khác ở nước ta về không chỉ chất liệu mà còn cả
đường nét, mầu sắc và hoa văn. Thân váy in hoa văn, gấu váy thêu và ghép
nhiều hoạ tiết tạo thành các băng giải ngang rộng từ 15 – 20 cm. Phía trước
và phía sau váy là hai tấm vải che thân (tạp dề) hình chữ nhật khổ 75 – 35
cm (ngày nay, tạp dề chỉ được mặc cho người chết). Hai tấm vải che thân
này chính là đồ án trang trí các hoạ tiết hoa văn độc đáo và rực rỡ. Thắt lưng
của phụ nữ Mông là miếng vải rộng khoảng 8 cm và dài 100 – 120 cm, đoạn
giữa của thắt lưng được thêu các màu đẹp, cuốn ngang bụng, tôn thêm vẻ
đẹp của phụ nữ, Xà cạp cuốn chân màu chàm nhưng dây buộc ngoài cũng
thêu hoa văn nhỏ li ti. Như vậy, cả bộ trang phục phụ nữ Mông đều được
9



điểm xuyết những dải hoa văn rực rỡ khiến cho cả bộ trang phục nổi bật lên
và tạo ra đặc trưng rất riêng biệt. Cũng là mầu chàm như nhiều dân tộc khác,
nhưng mầu chàm của vải lanh cứng cỏi, sắc nét hơn so với mầu chàm của
vải bông hay vải sồi. Cũng là cách xếp nếp nhưng nếp váy lanh khoẻ khoắn,
mạch lạc, óng ả và tươi tắn hơn. Vì vải lanh rất nặng nên mỗi khi người phụ
nữ bước đi, chiếc váy chao qua, chao lại càng làm tăng thêm vẻ duyên dáng,
uyển chuyển, nhịp nhàng đầy nữ tính. Sự rung rinh đều đặn của chiếc váy
theo những bước chân uyển chuyển của người phụ nữ Mông kết hợp với
những âm thanh phát ra từ các đồ trang sức bằng kim loại đã làm cho bộ nữ
phục không chỉ giầu mầu sắc mà còn tựa hồ như những nốt nhạc nhịp
nhàng, khoẻ khoắn, đều đặn như bản chất của người Mông, như tâm lý của
người Mông và thị hiếu của người Mông.
Khác với bộ nữ phục, bộ nam phục của người Mông giản dị, tiện lợi và
phù hợp với cuộc sống sinh hoạt ở vùng núi cao, giao thông còn gặp nhiều
khó khăn. Áo được may ngắn, luôn vừa vặn với người mặc, tôn thêm vóc
dáng khoẻ mạnh mà gọn gàng cho người đàn ông. Chiếc quần kiểu chân
què, cạp lá toạ của người đàn ông Mông với đũng rộng, ống rộng rất thích
hợp với điều kiện địa hình gập gềnh, khúc khuỷu nơi đây làm cho họ có thể
di chuyển dễ dàng không chỉ bằng đôi chân mà còn bằng các loại phương
tiện khác.
2.2. Kỹ thuật tạo hoa văn trên trang phục
Trong cách trang trí hoa văn, người Mông ở Cát Cát dùng cả ba kỹ
thuật: thêu, ghép vải và in sáp ong. Quần nam không trang trí hoa văn, áo
nam và nữ đều trang trí như nhau. Bộ phận được trang trí chủ yếu là ở tay áo
với các kỹ thuật thêu và ghép vải. Viền cổ, nẹp áo và thắt lưng thường được
trang trí bằng hoa văn thêu. Váy được trang trí bằng cả ba kỹ thuật thêu,
ghép vải và in sáp ong.
2.2.1. Kỹ thuật in hoa văn bằng sáp ong
Bộ công cụ để in sáp ong của người Mông ở Cát Cát hiện nay gồm có
chảo đun sáp ong (jav) và các loại bút (Đar), ngòi được làm bằng đồng nên

được gọi là bút ngòi đồng (Đar sưr taz) Xét về kích thước, bút có 2 loại: to
và nhỏ. Xét về cấu tạo ngòi bút, bút cũng có 2 loại: loại 1 khoang bụng gọi
là Đar nrơư; và loại 2 khoang bụng gọi là Đar changz zsangz.
Kỹ thuật vẽ hoa văn bằng sáp ong là nhúng bút vào sáp ong (chaz mur)
nấu chảy rồi vẽ lên vải mộc các hoạ tiết hoa văn. Sáp ong sẽ dính lại trên
nền vải. Sau đó, người phụ nữ Mông đem tấm vải đã được vẽ sáp ong đi
10


nhuộm chàm 15 - 18 lần cho đến khi miếng vải có được mầu như ý muốn.
Những chỗ đã vẽ sáp ong thì nước chàm sẽ không thấm vào. Giặt xong,
người ta cứ để thế phơi khô. Khi vải đã khô, người ta nhúng vào nước sôi
làm cho sáp ong bám trên nền vải tan ra để lại những hoạ tiết trắng trên nền
vải tối.
Mỗi khi vẽ, người nghệ nhân tạo hình chấm bút này vào chảo sáp nóng
chảy, sáp ong sẽ tràn vào buồng này. Khi nhấc bút lên, sáp người ta cầm ở
tư thế cho cạnh lưỡi nằm song song với bề mặt mặt đất để sáp ong không
chảy ra. Khi in, người ta nghiêng dần ngòi bút cho sáp ong chảy ra. Khi mới
in, người ta nghiêng ít. Độ nghiêng cứ lớn dần tỷ lệ thuận với lượng sáp ong
đã chảy ra khỏi buồng chứa cho đến khi sáp chảy hết hoặc lượng sáp không
còn đủ để thể hiện hoa văn theo ý đồ người tạo hình thì người ta mới lại
chấm tiếp.
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, ở Cát Cát hiện nay chỉ còn 04
người còn có thể in được sáp ong. Trong đó, có 02 nghệ nhân cao tuổi là
Thào Thị Sung (1960, đội III) và Sùng Thị Sao (1963, đội I). Ngoài ra, còn
có 01 phụ nữ trẻ là Vàng Thị Mảo (1981, con của nghệ nhân Thào Thị
Sung) và 01 thiếu nữ là Vàng Thị Me (1985, đội I). Cả 04 người này đều
khẳng định từ lâu nay, người Mông ở Cát Cát đều chỉ in sáp ong trên mấy
loại bút kể trên, kể cả in hoa, in chấm nhỏ, in đường xoáy, in đường kẻ,
đường riềm…

2.2.2. Kỹ thuật thêu
Thêu, tiếng Mông gọi là xơưs. Trang phục của người phụ nữ Mông
không chỉ đẹp ở kỹ thuật cắt may mà còn rất dễ gây ấn tượng qua các mô típ
trang trí và màu sắc hoa văn. Những người phụ nữ Mông ở Cát Cát thực sự
là những nghệ nhân của nghệ thuật tạo hình trên vải. Họ thêu hoa văn không
cần mẫu. Chỉ dùng để thêu thường là sợi tơ tằm to, vừa bền sợi, vừa bền
màu. Đặc biệt, sắc màu óng luột của tơ tằm sẽ làm tăng vẻ đẹp của hoa văn,
làm cho hoa văn càng thêm mượt mà. Người phụ nữ Mông ở Cát Cát có cái
nhìn khái quát, giàu óc tưởng tượng, hoàn toàn dựa vào trí nhớ để thêu hoa
văn. Hầu như ai cũng thuộc sẵn mẫu hoa văn mà mình thích. Họ không cần
phải nhìn vào mẫu mà vẫn thêu được những hoạ tiết đẹp. Trước khi thêu, họ
phải tính toán tỉ mỉ, đếm từng sợi chỉ, nhớ từng kích thước từng hoạ tiết
trang trí trong toàn bộ mảng hoa văn. Vì vậy, ngay từ khâu dệt, người phụ
nữ đã dệt tấm vải nền theo một kỹ thuật sao cho các sợi vải không quá xít
với nhau, giành ra những khoảng cách nhỏ li ti tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đếm sợi, bố cục các hoạ tiết khi thêu. Một số khăn đội đầu của phụ nữ
Mông còn được làm bằng loại vải lanh trắng dệt kẻ ô vuông bằng các sợi
11


tím hoặc đỏ sẫm. Kỹ thuật thêu đột càng phức tạp hơn vì người ta thêu ở
mặt trái của vải nhưng các hình mẫu của sản phẩm lại nổi lên ở mặt phải,
đòi hỏi người phụ nữ phải thật kiên trì, cẩn thận vì nếu chỉ cần một sơ suất
nhỏ, nhầm một mũi kim, tính sai một sợi vải là đã khiến cho mũi thêu bị sai
lệch.
2.2.4. Kỹ thuật ghép vải
Kỹ thuật ghép vải tạo hoa văn cũng được người phụ nữ Mông sử dụng
để tạo thành các băng dải, các khoang vải màu khác nhau ở cổ áo, ống tay,
nẹp ngực và cả khoang dài gẫu váy, vuông vải che váy (tạp dề). Kỹ thuật
ghép vải không chỉ tạo ra các khoang mảng màu mà còn tạo ra các đường

nét hoa văn. Trên hình chữ nhật ở cổ áo của người Mông ở Cát Cát đã xuất
hiện nhiều kiểu hoa văn hình học bằng kỹ thuật ghép vải. Các đường nét hoa
văn nhỏ, phức tạp ở yếm, cổ tay áo cũng đều là vải ghép. Vải ghép khá tỉ
mỉ, thường là có gam màu nóng hoặc vải trắng làm riềm nhỏ bao bọc cho
các hoạ tiết hoăc tự tạo thành một mô típ hoa văn riêng biệt. Người phụ nữ
Mông Cát Cát sử dụng một miếng vải đỏ vàng có tiết diện nhỏ từ 0,5 – 1 cm
được viền xung quanh ghép vào vải nền tạo thành các hình xếp nếp hoặc các
đường viền của hoạ tiết chính.
Ngoài ra, trong các kỹ thuật tạo hoa văn của người Mông ở Cát Cát còn
phải kể đến biện pháp kỹ thuật ghép các hạt cườm nhựa, bạc… lên trang
phục. Ở mũ áo của những đứa trẻ cầu tự, trên lưng áo của một số người già
còn xuất hiện hình thức ghép gắn những đồng bạc trắng, đồng xu nhỏ, hạt
cườm… tạo cho những chiếc mũ, chiếc áo này có vẻ đẹp độc đáo, rực rỡ
nhưng mang đầy tính biểu tượng.
Các biện pháp in sáp ong, thêu chỉ màu, ghép vải màu, ghép gắn hạt
cườm nhựa, bạc… lại được khéo léo kết hợp với nhau tạo ra sự phong phú
về hoa văn khiến cho mô típ tuy không nhiều nhưng được kết hợp bằng
nhiều kiểu sẽ sinh ra nhiều mô típ khác. Đồng thời với các khổ vải ghép
đậm, bên cạnh những đường thêu thanh mảnh tạo cảm giác hoa văn luôn
biến đổi liên tục. Kết hợp với các biện pháp kỹ thuật còn góp phần tạo hiệu
quả về màu sắc. Màu xanh lơ nhạt của vải in sáp ong trở thành màu trung
gian, dung hoà với các màu đậm cảu vải ghép chỉ thêu. Nhờ vậy mà màu
sắc, đường nét mô típ của hoa văn có sự chuyển động khá phong phú, vui
mắt.
2.3. Hoa văn trên trang phục
Hoa văn trên vải của người Mông ở Cát Cát có các mô típ sau:
12


- Hoa văn hình núi hay còn có thể gọi bằng các tên gọi khác như hoa

văn hình rẻ quạt, hoa văn hình răng cưa, hoa văn hình gấp khúc song song
(nar kơ) xuất hiện trên váy, áo, tạp dề.
- Hoa văn hình chấm tròn to nhỏ khác nhau: xuất hiện trên thân váy.
- Hoa văn những đường gạch dài song song hay cũng có thể gọi là
những đường thẳng song song (cêr nđangx) xuất hiện trên áo và tạp dề và
váy.
- Hoa văn là những đường gạch ngắn song song thường là những đường
chỉ khâu thưa mũi trên tạp dề.
- Hoa văn hình dích dắc hay còn gọi là hồi văn trên váy, áo, tạp dề.
- Hoa văn hình ô trám xuất hiện ở nhiều đồ án trang trí hoa văn trên áo,
váy, tạp dề.
- Hoa văn hình đồng tiền thủng giữa: xuất hiện trên váy, tạp dề.
- Hoa văn hình chong chóng xuất hiện trên áo, váy và tạp dề.
- Hoa văn hình xoắn ốc: trên áo dài tay nữ, trên thắt lưng dùng trong lễ
hội và trên khăn gối đầu dành cho người chết.
- Hoa văn hình người được trình bày cách điệu từng bộ phận cơ thể con
người như hình tai người (sáy lảo dề) trên tạp dề, hình bàn chân trang trí
trên chân váy.
- Hoa văn hình gà được trang trí trên ống tay áo, tạp dề phụ nữ với các
bộ phận như móng chân gà (lầu trâu kêx), cựa gà, mào gà…
- Hoa văn hình chim (lâuk mơx nôngz) xuất hiện nhiều trên ống tay áo,
chân váy, tạp dề.
- Hoa văn hình con cua (lâuk cưx dênhk) xuất hiện khá nhiều trên áo,
váy, tạp dề. Hoa văn này còn là biểu tượng cho sấm chớp.
- Hoa văn hình con ốc hay còn gọi là ốc rồng (kưx zong) xuất hiện
nhiều trên vải của người Mông ở Cát Cát (trên thân váy, thắt lưng, tạp dề).
- Hoa văn hình hoa cúc (păngx sur nhes) xuất hiện trên chân váy, tạp dề
thêu bằng chỉ màu thành từng cặp đôi.
- Hoa văn hình hoa đào (păngx txi đnô) xuất hiện khá nhiều trên áo,
váy, tạp dề và là mô típ hoa văn chính ở trên nhiều đồ án.

- Hoa văn hình hoa bầu (păngx tâuz) xuất hiện khá nhiều trên vải,
thường được trang trí làm nền cho các mảng đồ án hoa văn chính.
13


- Hoa văn hình hoa tỏi (lâuv blaiz) xuất hiện rất nhiều và là mô típ hoa
văn chủ đạo của nhiều mảng hoa văn trên vải từ váy, khăn, thắt lưng, tạp dề.
- Hoa văn hình hoa dưa (pangjxđij): là những hình kỷ hà ghép lại thành
hoa bốn cánh.
- Hoa văn hình con bướm: gồm 2 tam giác quay đỉnh vào nhau hoặc
đường nét uốn cong theo dáng hình của con bướm.
- Hoa văn hình lá cây là những tam giác lồng vào nhau hay những
đường vạch chằng chịt.
- Hoa văn hình con tằm: thường là hình 2 vạch chéo nhau giống như
hình dấu nhân.
- Hoa văn hạt đậu tương (tâuv pâuz): là 3 chấm tròn nhỏ hoặc hình 3
dấu nhân.
- Hoa văn hình con hến (zês): có hình lục giác, trong có 3 chấm nhỏ và
thường chỉ in bằng sáp ong.
- Hoa văn hình con chó nằm ngủ (đêr puv): là những đường thẳng
vuông góc và những đường gấp khúc kết hợp với nhau tạo thành hình gần
giống hình thoi với những ngoặc lớn hướng ra ngoài.
- Hoa văn hình con hến (zês): có hình lục giác, trong có 3 chấm nhỏ.
Hoa văn của người Mông ở Cát Cát được trang trí chủ yếu trên tay áo,
lưng áo, cổ áo, váy, địu trẻ em và khăn gối đầu cho người chết.
Hoa văn trên váy có bố cục thành các dải, ở giữa có phần chuyển tiếp
mà phổ biến nhất là các đường dích dắc, chân và thân váy thường có bố cục
theo chiều ngang. Trong mỗi dải hoa văn, thông thường ở giữa là hoạ tiết
hoa văn thêu chủ đạo khổ lớn, ngoài rìa có các dải hoa văn thêu nhỏ hẹp bao
bọc. Các hình hoa 4 cánh hoặc móc câu thường được đóng khung trong ô

hình chữ nhật, hình vuông hoặc hình thoi với kiểu trang trí hoa văn chạy
theo những dải ngang hoặc ô của váy, với những hoạ tiết nhỏ hơn. Đó là
những hoa văn hình chôn ốc, hình con hến, con bướm, con gà, hoa dưa, hoa
bí, cây dương xỉ, cây thông, hạt đậu, con sâu, khuỷu chân, bờ ruộng, dãy
núi…. Ở phần thân váy sát với gấu váy là nơi tập trung nhiều mầu sắc và
phương pháp trang trí hoa văn: được tạo bởi kỹ thuật thêu chéo mũi và ghép
vải khiến cho người ta có thể mở rộng đề tài và bố cục mầu sắc. Hoa văn
được thể hiện bằng nhiều cách thêu trên váy thường có các hình ngôi sao,
đồng tiền, hạt đậu, con tằm, cái cuốc, móng chân trâu… Các phần ghép vải
tạo thành những đường viền bao quanh các chi tiết hoa văn.
14


Về mặt bố cục, các mô típ hoa văn hình học hầu như chỉ có tác dụng
làm nền cho các hoa văn chính và có thể ví chúng như một cái khung cho
một bức tranh khiến cho khối hoa văn chính trở lên nổi bật, rõ nét. Ở trên
nền vải, người ta thường dùng hoa văn hình học để làm đường viền cho các
hoa văn hình hoa cúc, hoa hướng dương, hoa đồng tiền, chữ thập... Các
băng hoa văn không bị cắt khúc mà chạy liên tục theo quy luật cân đối, chạy
song song tạo thành các đường diềm ở trên và dưới với từng ô vuông để
miêu tả các loại hình hoa văn hay có sự kết hợp tạo thành những tổ hợp hoa
văn hoa văn hình trám xen với mô típ đường thẳng song song; tổ hợp hoa
văn hình chữ S xen giữa mô típ hoa văn hình răng cưa; tổ hợp hoa văn hình
đồng tiền xen giữa các đường gạch dài…
Những mảng trang trí thường là đường diềm thể hiện bằng các kỹ thuật
in sáp ong, ghép vải mầu và thêu chỉ mầu. Những mảng hoa văn chính
thường là rộng, nét đậm và dầy hay ghép vải với nhiều kích cỡ to nhỏ khác
nhau nhưng vẫn đạt hiệu quả về màu sắc. Đặc điểm của hoa văn trên trang
phục của người Mông ở Cát Cát là một đồ án bao gồm nhiều mô típ hoa văn
khác nhau nhưng được phân ra chính - phụ rõ ràng. Ở nhiều trường hợp,

trên đồ án hoa văn không chỉ có một mô típ chính mà có sự kết hợp giữa
nhiều mô típ khác nhau, cùng nhau đóng vai trò chủ đạo.
2.4. Nghệ thuật xử lý màu sắc trên trang phục
Với một bảng màu không rộng (chàm sẫm thành đen, đỏ, vàng, trắng,
xanh lơ), người phụ nữ Mông ở Cát Cát đã kết hợp một cách hết sức tài tình,
khéo léo và tỉ mỉ để tạo nên một tổ hợp những gam màu bắt mắt nhưng
không chói.
Để tạo được màu chàm sẫm, người ta phải tiến hành nhiều công đoạn,
từ luộc sợi lanh với tro được đốt ra từ loài gỗ “tống quán sủ”, ngâm sợi
trong nước chàm và củ nâu nhiều lần. Để làm tăng thêm độ bóng, họ miết
sáp ong vào vải và mài lên đá.
Màu đỏ trước đây được nhuộm từ cánh kiến hoặc một loại lá cây gọi là
thuốc quả ớt (yuôx cuô txtaoz). Sở dĩ gọi như vậy là vì lá cây khi ngâm vào
nước để khoảng 5 phút sau thì nước sẽ chuyển sang màu đỏ. Còn muốn tạo
ra màu vàng theo truyền thống, người Mông ở Cát Cát trước đây dùng cây
măng đằng - một loại cây dây leo, lá nhỏ và tròn, màu xanh bóng, không ăn
được. Để nhuộm vải và sợi, người Mông dùng rễ của cây này rửa sạch, băm
cho nhỏ rồi cho vào nồi đun với nước nhiều lần cho đến khi nước cây cô lại,
đổ vào bát qua một tấm vải lọc, vắt ra cho hết nước. Nếu muốn màu vàng
nhạt thì chỉ đun 1 – 2 lần. Nếu muốn có màu vàng sẫm hay màu da cam thì
15


đun đi đun lại nhiều lần để cho nước bốc hơi làm giảm thành phần của nước
và tăng thành phần của chất tạo màu nên càng đun, nước sẽ càng cho màu
vàng sẫm. Do màu được tạo từ cây này rất bền màu nên người Mông ở Cát
Cát trước đây rất thích sử dụng. Hoặc người ta cũng có thể sử dụng cây
pangx châux: là một loại cây lá to, nhọn, có nhiều lông trắng, hoa mọc thành
chùm mầu trắng. Loại cây này cũng dùng để tạo ra mầu vàng nhưng do mầu
không bền nên ít được sử dụng.

Như vậy, bảng màu của người Mông không rộng nhưng với sự khéo
léo, tài tình của người phụ nữ vẫn gây cho người xem một cảm giác choáng
ngợp về màu sắc.
Màu chàm sẫm là màu nền và hầu như chỉ dùng làm nền cho hoa văn
trang trí. Tuy nhiên đôi khi vẫn có một chút diềm mỏng màu chàm chạy
song song với với diềm trắng ở dải hoa văn chính. Chỉ cần một chút như vậy
thôi nhưng hiệu quả của nó thật bất ngờ bởi nó đã thể hiện được ý đồ của
người nghệ nhân tạo hình dân gian trong việc tôn dải hoa văn, tô đậm thêm
cho nền màu sắc rực rỡ của hoa văn.
Có một điều rất dễ nhận thấy trên nền vải của người Mông ở Cát Cát là
màu đỏ luôn luôn giữ vai trò chủ đạo. Trên chiếc váy, màu đỏ cứ rực lên ở
gấu váy. Màu đỏ trên hai miếng tạp dề (mặc cho người chết) càng nổi bật
ngay giữa thân váy. Màu đỏ lấp loáng ở cổ, ở hai ống tay áo. Các hoạ tiết
chính cũng mang màu đỏ hoặc vàng. Ngay cả những tấm vải ghép các hoạ
tiết phần lớn cũng là màu đỏ. Thông thường, việc đặt màu đỏ trên nền chàm
xẫm (gần như đen) sẽ khiến cho màu đỏ bị giảm sắc độ, đỏ sẽ không tươi
mà bị sẫm lại, bị chìm vào nền chàm. Nhưng lạ thay, màu đỏ ở váy, ở áo của
người Mông ở Cát Cát vẫn cứ sáng bừng lên.
Để đạt được hiệu quả đó, người phụ nữ Mông không chỉ dùng màu đỏ
làm hoạ tiết hoa văn mà còn làm màu nền cho dải chứa các hoạ tiết. Màu đỏ
trở thành một thứ nền trung gian đặt trên nền cơ bản của màu chàm. Màu đỏ
trung gian này có tác dụng ngăn chặn nền chàm hút mất hoạ tiết hoa văn.
Đồng thời ngay trên các dải hoa văn có nền đỏ ấy lại có diện tích lớn tạo
thành các bằng dải dày và đậm, lấn át, chiếm chỗ nền chàm. Cùng với đặc
điểm của bố cục tập trung các dải thành khối dày, màu đỏ cứ rực lên, loang
rộng ra, thu hẹp diện tích màu chàm. Trên tấm váy, màu chàm bị lấn át dữ
dội: chẹn phía trên là dải ngang có màu đỏ, vàng của thắt lưng, chẹn phía
dưới là dải hoa văn đỏ của gấu váy. Ngay ở giữa lại rừng rực các dải đỏ dọc
dày án ngữ. Cả phía sau váy cũng vậy. Thế là sắc chàm chỉ còn có ở hai bên
váy. Chưa hết, ngay ở vị trí thu hẹp ấy, nền chàm còn bị xé nhỏ đi bởi các

hoạ tiết in sáp màu xanh lơ kết thành các dải dọc chất chồng. Chất rực rõ
16


càng tăng thêm nhờ sự phố hợp với màu vàng tạo thành những gam màu
nóng được phát huy tối đa hoặc để cho màu vàng, màu trắng nổi bật trên nền
đỏ trung gia, trên nền chàm đen. Chất rực rỡ còn được tăng thêm nhờ tơ tằm
óng mượt, lấp loáng trên các băng giải dọc ngang. Quả là nhờ có các diểm
vải trắng nhỏ ghép với hoạ tiết đỏ, bao bọc lấy hoạ tiết vàng mà màu đỏ,
màu vàng được tôn lên không bị nền chàm sẫm đánh chìm. Đôi khi, các hoa
văn ở gấu váy, ở ống tay, cổ áo lại loé lên trên nền đỏ trung gian hoặc nền
chàm đen thẫm tạo ra cho người ta có cảm giác choáng ngợp, tạo hiệu quả
vui nhộn cho thị giác.
Hiệu quả xử lý bố cục hoa văn và màu sắc trên trang phục, nhất là trang
phục phụ nữ của người Mông ở Cát Cát đã thấy rõ. Nó rực rỡ và cố tình
vượt lên sắc xanh của thiên nhiên đẻ tôn con người trước khung cảnh của
núi rừng. Làm được như vậy là do người nghệ nhân tạo hình daâ gian đã sử
dụng một số biện pháp khác nhau như sau:
Một là, sử dụng phối hợp nhiều biện pháp kỹ thuật tạo hoa văn gây cảm
giác mạnh (cả ghép vải, in sáp ong và thêu chỉ màu).
Hai là, bố cục tập trung thành dải dày nhằm tạo ra các dải dọc và dải
ngang lớn chồng chất hoa văn.
Ba là, màu đỏ được sử dụng làm màu chủ đạo, vừa làm màu nền trung
gian vừa tạo các hoạ tiết chính.
Bốn là, sử dụng phối hợp màu đỏ với màu vàng và màu trắng nhằm đối
chọi với nền chàm tạo nên sắc rực rỡ của hoa văn trang phục.
Nhờ các biện pháp trên mà bộ trang phục của người phụ nữ Mông ở Cát
Cát không điệp vào thiên nhiên mà trái lại nổi bật khỏi sắc màu thiên nhiên.
Trên tấm áo nền chàm sẫm, hoa văn rực rỡ ở cổ áo, nẹp ngực và ống tay
cùng với độ sáng lấp lánh của vòng cổ tay, vòng cổ, hoa tai càng làm tôn sắc

hồng sáng bừng lên những khuôn mặt thiếu nữ, làm điểm tô cho những cổ
tay tròn lẳn, làm uyển chuyển cho những bước chân nhịp nhàng.
3. NGHỆ THUÂT TẠO HÌNH VÀ TRANG TRÍ DÂN GIAN TRÊN
TRANG PHỤC TRONG CHU KỲ ĐỜI NGƯỜI PHỤ NỮ MÔNG Ở CÁT
CÁT
Trang phục của người phụ nữ Mông không khoe vẻ đẹp cơ thể qua kỹ
thuật cắt may làm nổi rõ đường nét thân hình mà chủ yếu thể hiện vẻ đẹp ở
các mô típ trang trí và màu sắc hoa văn. Người phụ nữ là tác giả của nghệ
thuật tạo hình trên trang phục. Cả cuộc đời gắn bó với công việc thêu, dệt
17


vải và in hoa văn. Những em gái mới 9 – 10 tuổi đã được các bà, các mẹ,
các chị dạy cho cách thêu thùa. Điều này được phản ánh qua dân ca Mông
với đoạn:
Lớn lên anh theo cha đi cày nương
Theo anh vào rừng săn thú
Lớn lên em theo mẹ tập thêu
Theo chị nhuộm chàm, in hoa văn trên váy mới
(Luz sêi tix thaz nav txir muôngl leix têz
Thaz tix muôngl cu jiông tuô nangl nôngr
Luz sêi cưr thaz nav shauv xơưk lauk
Thaz muôv trâuk gangx rangx pangx sau taz yaz)
Đến tuổi trưởng thành, các thiếu nữ Mông không tiếc thời gian, làm
ngày, làm đêm thêu nên bộ váy áo cưới cho mình. Tập quán pháp của người
Mông đánh giá tài năng, vẻ đẹp của người phụ nữ Mông qua khả năng thêu
thùa, qua bộ trang phục mặc trong lễ cưới. Tục ngữ Mông đã đánh giá đúng
vẻ đẹp của người phụ nữ:
Muốn biết người tốt xem gác bếp
Muốn hay người đẹp xem quần áo

(Xangr pâuz nênhs jông zuôr sêiz sau ntangz
Xangz jông nênhs quangl zuôr sêi yao jông)
Và nghề dệt vải, tạo dáng trang phục qua kỹ thuật cắt may và trang trí
hoa văn là thước đo giá trị của người phụ nữ:
Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Gái xinh không biết cầm kim là hư
(Nxêik jông tri pâuz uô mangx iz lak yơưr
Nxêik quangl tri pâuz chaox cungz zaos truôs)
Vẻ đẹp của người vợ tương lai được quan niệm là cô gái có mái tóc
xanh mượt như lông chim bồ câu, hai tay thon và mập để cầm cho được cái
cuốc và đặc biệt là phải khéo léo như trôn con ốc khi thêu thùa. Người giỏi
thêu thùa được cả cộng đồng đề cao, coi trọng. Những đêm trăng thanh gió
mát hay bên bếp lửa hồng, từng tốp các cô gái quây quần bên nhau học thêu,
18


truyền dạy kinh nghiệm in sáp, tạo mẫu, ghép vải mới… Các hình thức giúp
đỡ truyền nghề này góp phần cho nghệ thuật thêu, ghép hoa văn phát triển.
Trước khi đi làm dâu, cô gái được mẹ tặng cho bộ váy áo như của hồi môn.
Khi về nhà chồng, cô gái lại phải chuẩn bị bộ váy áo đẹp tặng mẹ đẻ và mẹ
chồng. Váy thêu đẹp trở thành tài sản của ngưòi phụ nữ. Người phụ nữ giàu
có là người phụ nữ có nhiều váy đẹp, có nhiều đồ trang sức quý. Và khi
khách quí đến ngủ ở gia đình, người khách sẽ được chủ nhà cho đắp chiếc
váy có nhiều hoa văn. Khi đã thành người vợ, người mẹ, người phụ nữ
Mông vẫn tiếp tục thêu, in nhiều mẫu hoa văn, lo cho chồng con mặc đẹp.
Hạnh phúc của mỗi gia đình, niềm vui của mỗi cặp vợ chồng được phản ánh
ngay trong bức tranh sinh hoạt: người vợ ngồi thêu, chồng thổi khèn, giúp
vợ tận tình trong việc thêu thùa:
Cuối nhà là nơi em ngồi thêu váy
Đầu nhà là nơi anh thổi sáo, múa khèn

Em thêu váy mới không có sáp anh ra chợ kiếm
Em in hoa mới, không biết đường anh cầm que vạch giúp
(Taol kangz trê zaos qơư lênhx muôl nhaoz sơưk taz
Taol ntêx trêr zaos qơư lênhx tangz yur trangx, tơưk kênhx
Cur lênhx muôl sơưk taz yaz tsi muôx rangx, lênhx tangz txus caz tsaor
Lênhx muôl rangx pangx yaz tsi pâuz cêr, lênhx tangz khơưk pangl pangz
kê)
Người vợ trở thành người mẹ lại có nghĩa vụ dạy bảo con cái học thêu.
Đồng thời con gái lại được mẹ chồng, đôi khi cả các chị dâu nhiệt tình dạy
thêu thùa, in sáp ong. Cô học thêm được nhiều mẫu thêu, in hoa văn mới
của cộng đồng Jiao mới. Vừa kế thừa nghệ thuật thêu thùa gia đình nhà mẹ
đẻ, cô lại tiếp thu nghệ thuật trang trí hoa văn của gia đình, dòng họ nhà
chồng. Nghệ thuật in, thêu hoa văn tiếp tục phát triển. Trở về già, người phụ
nữ lại lo thêm bộ váy áo đẹp để mặc khi về với tổ tiên.
Cứ như vậy, cùng với chu kỳ đời người phụ nữ, nghệ thuật trang trí hoa
văn như những tín hiệu văn hoá được bảo lưu, trao truyền qua nhiều thế hệ.
Bản sắc văn hoá tộc người trên trang phục qua đó mà được giữ gìn và phát
triển liên tục. Dòng đời các người phụ nữ Mông cứ trôi qua nhưng dòng hoa
văn thì cứ chảy mãi theo những bàn tay tài hoa của họ. Và, những tri thức
của họ trong nghệ thuật tạo hình và trang trí dân gian trên trang phục được
trao truyền cho các thế hệ cứ còn mãi với thời gian.
19


4. MỘT SỐ BIẾN ĐỔI VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN CÁC MẪU HOA
VĂN VÀ MÀU SẮC TRÊN TRANG PHỤC CỦA NGƯỜI MÔNG Ở CÁT
CÁT HIỆN NAY
4.1. Ảnh hưởng của hoạt động du lịch tới các mẫu hoa văn và màu
sắc truyền thống của người Mông ở Cát Cát
Trong những năm gần đây, du lịch phát triển mạnh mẽ ở Sa Pa nói

chung, thôn Cát Cát nói riêng kéo theo sự phát triển của các mặt hàng thủ
công truyền thống phục vụ du lịch, trong đó có các sản phẩm dệt may. Điều
này đã dẫn đến nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đi thu mua các
sản phẩm dệt may đem về đô thị trưng bầy, bán cho khách du lịch, đặc biệt
là khách nước ngoài. Bên cạnh đó, được sự giúp đỡ của một số tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước, những người thợ có tay nghề cao đã sản xuất ra
các mẫu mã mới dựa trên các kỹ thuật thủ công truyền thống, hoặc mua các
sản phẩm sản xuất công nghiệp dựa trên các mẫu mã truyền thống để bán
cho khách du lịch. Sự phát triển này mang lại một nguồn thu quan trọng cho
người phụ nữ. Theo ước tính, mỗi năm, thu nhập của những người phụ nữ
tham gia hoạt động này có thể lên tới vài triệu đồng, tương đương với mức
thu nhập của cả một gia đình làm nông nghiệp. Do đó, đã bắt đầu hình thành
một lớp thợ chuyên sản xuất và buôn bán các mặt hàng thủ công theo tổ
chức hoặc tự phát. Tuy nhiên, do hoạt động du lịch chỉ mang tính thời vụ
nên nguồn thu này cũng chưa thực sự ổn định nên họ chưa chuyên tâm tập
trung sản xuất các mặt hàng may mặc thủ công truyền thống mà vẫn tham
gia vào các hoạt động nông nghiệp khác. Các mặt hàng này, bên cạnh việc
bầy bán cho khách du lịch tại chỗ còn do các tổ chức trong và ngoài nước
thu mua đem về bán tại Hà Nội hoặc xuất khẩu ra một số thị trường ở nước
ngoài (đặc biệt là các thị trường Âu – Mĩ, Australia). Hơn nữa, hiện nay,
nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm của người Kinh ở thị trấn huyện thay vì
mua các sản phẩm của thợ thủ công đã chuyển sang chỉ thuê những người
thợ thủ công này thêu hoặc in sáp ong theo những mẫu mã mà khách du lịch
ưa thích rồi thuê thợ may của người Kinh may nhằm giảm giá thành sản
phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Các sản phẩm thủ công truyền
thống của người Mông ở Cát Cát trong đó có các sản phẩm may mặc chưa
thực sự được trả thoả đáng với công sức lao động cũng như vốn tri thức dân
gian và kỹ năng, kỹ thuật thực hiện các công đoạn làm thành sản phẩm mà
đồng bào đã bỏ ra nên vẫn sảy ra tình trạng phổ biến là mua rẻ bán đắt. Nói
theo cách của giới tiểu thương người Kinh ở thị trấn Sa Pa là phải khống chế

giá mua vào và “chặt chém” khách vãng lai (khách du lịch).
20


4.2. Những vấn đề đặt ra trong việc bảo tồn các mẫu hoa văn và
màu sắc truyền thống của người Mông ở Cát Cát
Một là, do điều kiện xã hội thay đổi; xã hội hoá, toàn cầu hoá và du lịch
phát triển nhanh trong những năm gần đây ở Cát Cát nói riêng, Sa Pa nói
chung làm cho đời sống xã hội của người Mông ở thôn Cát Cát đã bị đảo lộn
với tốc độ ngày càng tăng. Con người ngày càng được tiếp xúc nhiều với kỹ
thuật tiên tiến, hiện đại; công nghệ thông tin cũng đã đến và nó đã mở rộng
tầm hiểu biết của đồng bào về thế giới xung quanh. Bên cạnh đó, hàng ngày,
qua giao tiếp, sách báo, phim ảnh… đồng bào được biết tới nhiều phong
cách ăn mặc khác nhau trong kiểu dáng và trang trí hoa văn trên vải và trên
trang phục. Sự nhạy cảm với cái đẹp, với cái tiện lợi đã làm thay đổi cái
nhìn, quan niệm của mỗi người trong việc lựa chọn cái mặc. Đó là tính tích
cực của việc thay đổi mẫu mô típ hoa văn trên vải và kiểu cách cắt may. Tuy
nhiên ở đây cũng có những biểu hiện tiêu cực. Đó là tính tự ti dân tộc.
Người ta dễ dàng trối bỏ những vốn văn hoá quý giá của dân tộc mình vì e
ngại mình kém cỏi hơn. Nhưng chúng ta cũng hiểu rằng giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc không có nghĩa là bê nguyên si cái cũ vào hiện đại mà phải làm
thế nào để đồng bào tôn trọng, tự hào với những gì thuộc về dân tộc mình.
Hai là, sự xâm nhập của kinh tế hàng hoá ngày càng sâu rộng vào đời
sống kinh tế - xã hội của người Mông ở Cát Cát đã làm thay đổi hoàn toàn
bộ mặt đời sống nơi đây. Đồng bào đã bắt đầu bước ra khỏi tập quán tự sản
tự tiêu, nhận thức về hiệu quả kinh tế rõ ràng trong công việc đã dẫn đến
việc lựa chọn những sản phẩm vải, kiểu dáng trang phục và hoa văn thích
hợp.
Ba là, sự thay đổi về thị hiếu thẩm mỹ trong việc cảm thụ giá trị nghệ
thuật trên trang phục của người Mông nơi đây. Vì vậy, đồng bào không e

ngại khi dùng vải bông hay vải công nghiệp để thay thế dần cho vải lanh sẽ
giảm bớt cường độ lao động cho người phụ nữ để họ có thể chuyên tâm vào
các công việc khác. Ngoài ra, cùng với sự phát triển của giao thông, của du
lịch và dịch vụ thương mại ngày một tăng đã tác động rất lớn vào sự biến
đổi của đời sống xã hội người Mông ở Cát Cát, trong đó có hoa văn và sắc
màu trang phục.
Ba là, công nghệ dân gian truyền thống phần nào đã bộc lộ sự bất hợp
lý về vấn đề thời gian quy ra hiệu quả kinh tế trong nền kinh tế hiện đại. Để
làm được một bộ váy áo truyền thống, người phụ nữ Mông phải làm trong
gần hai năm (19 – 20 tháng). Cụ thể như sau:
- Trồng lanh trong 3 tháng.
21


- Thu hoạch lanh và kéo lanh thành sợi trong 2 – 3 tháng.
- Dệt vải để cắt may 1 bộ váy áo hết 1 tháng.
- Trang trí hoa văn (in sáp ong, thêu chỉ mầu, ghép vải mầu, đính/ghép
hạt cườm, kim loại) trong khoảng 12 tháng.
- Khâu váy áo hết 1 tháng.
So sánh với thu nhập bình quân đầu người ở Cát Cát hiện nay (≈
500.000 đ/người/tháng) thì một bộ váy áo của người Mông ở Cát Cát sẽ phải
có mức giá thành tương đương với 10 triệu đồng/bộ. Đó là chưa kể đến giá
trị kinh tế của các mảnh/miếng bạc đính trên trang phục (nếu có). Trong khi
đó, nếu mua nguyên liệu bán sẵn ở chợ về thì giá thành của một bộ trang
phục như vậy giảm khoảng một nửa kinh phí từ việc tiết kiệm thời gian,
công sức (300.000 đồng tiền vật liệu + 4.000.000 - 5.000.000 đồng tiền công
trang trí hoa văn và may bằng máy khâu).
Tóm lại, sự thay đổi của kiểu dáng trang phục, màu sắc và hệ thống hoa
văn có bắt nguồn sâu xa từ các điều kiện khách quan như kinh tế phát triển,
sự tác động của du lịch và kinh tế thị trường; và các điều kiện chủ quan mà

chủ yếu là sự thay đổi về thị hiếu thẩm mĩ. Qua khảo sát thực tế của chúng
tôi, quy trình sản xuất các sản phẩm may mặc của người Mông nơi đây hiện
đang diễn ra trên cả bốn dạng thức như sau:
1/ Trồng lanh - chế biến sợi - dệt vải - nhuộm vải – trang trí hoa văn cắt may trang phục hoặc may trang phục bằng máy khâu.
2/ Mua sợi công nghiệp – dệt vải - nhuộm vải – trang trí hoa văn - cắt
may trang phục hoặc may trang phục bằng máy khâu.
3/ Mua vải công nghiệp màu trắng – nhuộm vải – trang trí hoa văn - cắt
may trang phục hoặc may trang phục bằng máy khâu.
4/ Mua vải công nghiệp màu đen hoặc một số màu khác - cắt may trang
phục hoặc may trang phục bằng máy khâu.
Ngoài ra, qua khảo sát, chúng tôi còn thấy so với truyền thống trước
đây, một số chi tiết trang trí hoa văn trên các sản phẩm may mặc cũng như
kỹ thuật trang trí cũng có sự thay đổi. Kiểu dáng và loại hình trang phục của
người mặc tuỳ theo giới tính, hoạt động xã hội cũng không còn được giữ
nguyên như trước.
4.3. Một số giải pháp bảo tồn các kỹ thuật xử lý dân gian trong việc
tạo mẫu hoa văn và màu sắc trang phục truyền thống của người Mông
ở Cát Cát
22


Bản sắc văn hoá dân tộc nói chung, trang phục nói riêng không phải
“nhất thành bất biến” mà nó luôn biến đổi không ngừng theo hoàn cảnh lịch
sử cụ thể. Vấn đề ở chỗ là làm thế nào để trong quá trình biến đổi, bộ trang
phục dân tộc Mông vẫn giữ được cái cốt cách ban đầu, giữ được phong thái
và nét bản sắc riêng có của họ.
Qua quá trình khảo sát, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp và đánh giá ở
mục trên, chúng tôi đưa ra một số giải pháp như sau:
Một là, giáo dục tính tự hào dân tộc cho người Mông ở Cát Cát, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Điều này không có nghĩa là bắt buộc đồng bào phải mặc

trang phục truyền thống một cách cứng nhắc. Cũng không nên giữ nguyên
những quan niệm cũ như người phụ nữ cả đời chỉ gắn bó với thêu, ghép vải,
in sáp ong… Hay lối tư duy kiểu duy tâm là nếu không mặc đúng bộ y phục
của mình thì ma sẽ không nhận; lối tư duy kiểu bảo thủ như con gái khi về
nhà chồng thì phải mang theo những bộ áo váy đựoc tự tay thêu, dệt, in…
nếu không sẽ bị chê cười.v.v… mà cần phải có nhận thức đúng đắn, trân
trọng những giá trị của cha ông để lại. Một dân tộc thực sự phát triển khi
biết duy trì và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống một cách tự giác
dựa trên nền tảng dân trí cao, khẳng định giá trị dân tộc mình trong cuộc
sống đương đại bằng nét đẹp văn hoá truyền thống.
Hai là, tạo ý thức, thói quen dùng hoa văn trên trang vải để cắt may
trang phục truyền thống sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày, đặc biệt là
trong các dịp lễ hội, cưới xin. Hiện nay, việc biến đổi về trang trí dân gian
trên trang phục của người Mông ở Cát Cát chưa thực sự lớn. Vì vậy, không
chỉ trong các dịp hội hè hay các dịp đại sự khác mà cả trong cuộc sống hàng
ngày, đồng bào vẫn duy trì thói quen ăn vận trang phục của mình. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể lơ là việc tuyên truyền ý
thức cho đồng bào bằng các kênh thông tin hiệu quả. Bởi lẽ, nếu chỉ đến khi
nó đã mai một, đã biến tướng hoặc đã mất đi hoàn toàn mới lo khôi phục thì
sẽ tốn kém rất nhiều tiền của, công sức mà tính hiệu quả chưa chắc đã được
như mong muốn.
Ba là, công nghiệp hoá trong quá trình tạo hoa văn trên vải với mục
đích sản xuất ra những chi tiết hoặc bộ trang phục tương đương những bộ
trang phục truyền thống về chất liệu, kiểu dáng, mẫu mã và hình thức trang
trí nhưng giá thành hạ để đồng bào có thể chấp nhận được cả về nội dung và
giá cả. Thực tế cho thấy kinh tế thị trường phần nào đã thúc đẩy một vài
công đoạn trong quá trình này. Việc còn lại là tiếp tục nghiên cứu nhằm
hoàn thiện nốt những công đoạn còn chưa được sản xuất một cách hợp lý so
với thực tế cuộc sống hiện nay. Và, một điều hết sức quan trọng đó là phải
23



hết sức cẩn trọng trong việc chèo lái hướng đi của nội dung này để nó không
đi lệch hướng. Nếu không sẽ tạo ra một hiệu quả trái ngược.
Bốn là, kế thừa các kỹ thuật dân gian truyền thống vào định hướng
giá trị trang phục hiện đại của đồng bào Mông ở Cát Cát. Giữ gìn và phát
huy vốn tri thức dân gian truyền thống sẽ tạo nên phong cách mới trong cắt
may và trang trí hoa văn trên trang phục phù hợp với cuộc sống đương đại.
Không tiếp thu một chiều, bê nguyên si cái cũ vào trang phục hiện đại;
nhưng cũng không hoàn toàn du nhập phong cách mới, lai căng, không phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Mông.
Năm là, khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền
thống phục vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương. Giải pháp này nói
cách khác là biến di sản thành tài sản văn hoá. Biến những giá trị văn hoá
dân gian thành nguồn lợi có thể khai thác để tạo ra thu nhập. Dùng thu nhập
đó để nuôi sống con người và nuôi sống những giá trị văn hoá dân gian, tạo
động lực cho sự kế thừa, phát huy và phát triển các giá trị văn hoá trong đời
sống đương đại.
KẾT LUẬN
Nghề trồng lanh, dệt vải là hoạt động kinh tế tạo ra các sản phẩm may
mặc nhằm phục vụ nhu cầu của cộng đồng dân tộc Mông trong nền kinh tế
tự cấp tự túc. Hơn nữa, cùng với nghề rèn đúc, nghề trồng lanh dệt vải từ lâu
đã vươn lên trở thành một nghề thủ công tinh sảo của người Mông. Những
sản phẩm đặc sắc từ nghề này đã là niềm tự hào của người Mông ở Cát Cát
trước đây và cả ngày nay, khi mà hoạt động du lịch đang ngày một phát
triển mạnh mẽ ở địa bàn này.
Trong cơ cấu kinh tế xã hội cổ truyền của người Mông ở Cát Cát, các
nghề thủ công tuy không phải là ngành nghề chính, chỉ mang tính chất bổ
trợ nhưng lại có vai trò quan trọng và không thể thiếu được. Các thành viên
của cộng đồng người Mông, đặc biệt là phụ nữ vừa là những nông dân thực

thụ giỏi việc nương rẫy, vừa là những thợ thủ công lành nghề. Thông qua
trang phục có thể thấy được trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, nghệ thuật và những
ý tưởng mà họ gửi gắm thông qua các hoạ tiết hoa văn trang trí trên trang
phục. Cũng như nhiều ngành thủ công khác, các kỹ năng làm ra trang phục,
cách sử dụng và nghệ thuật trang trí trang phục của họ được trao truyền qua
các thế hệ. Đây chính là hình ảnh của một mô hình giáo dục cộng đồng góp
phần bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống.
24


Trong bối cảnh phải chịu sự tấn công mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, nhiều yếu tố của trang phục, nhiều công đoạn làm nên trang phục
cũng như nhiều nét hoa văn truyền thống trên trang phục… của người Mông
ở Cát Cát đã bị mai một, bị biến dạng và có nguy cơ thất truyền thì việc bảo
tồn nó trước hết là nhằm bảo tồn những nét đẹp văn hoá trong quá trình hội
nhập và sau đó là biến di sản văn hoá thành tài sản trong quá trình phát triển
đang trở thành những vấn đề cấp bách.
Để làm được điều này cần phải trải qua nhiều công đoạn và phải có sự
phối hợp chặt chẽ giữa nhiều cấp, ngành có liên quan. Cần coi trọng quá
trình nghiên cứu cơ bản để nhận diện và giải mã một cách chính xác, đầy đủ
và toàn diện những yếu tố truyền thống. Đồng thời cũng cần coi trọng công
tác nghiên cứu ứng dụng nhằm bảo tồn sống nghề trồng lanh dệt vải và sử
dụng trang phục truyền thống trong cộng đồng dân cư.

25


×