Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIÁO DỤC TRẺ CHƯA NGOAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.02 KB, 41 trang )

ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BỘ MÔN TÂM LÝ HỌC
--LỚP TÂM LÝ HỌC VB2 K01
Môn Giải phẫu – Sinh lý thần kinh

TIỂU LUẬN
LÀM THẾ NÀO ĐỂ GIÁO DỤC TRẺ CHƯA NGOAN?

Giáo viên phụ trách:
BS. Lâm Hiếu Minh
Thời gian thực hiện: 14/3/2013 – 20/4/2013

NHÓM 4
Lớp: TLH-VB2-K01
Niên khóa : 2012 -2015

1


DANH SÁCH NHÓM 4:

1.

Đỗ Thị Hà

2.

Ông Thị Hồng Nhung

3.


Lê Thị Quỳnh Chi

4.

Trịnh Nguyễn Yến Lâm

5.

Đào Bảo Trâm

6.

Huỳnh Thanh Hoàn

7.

Vũ Thị Bích

8.

Giang Thị Mai Thy

9.

Nguyễn Thị Thu Trang

10.

Nguyễn Thị Phúc Hòan


11.

Nguyễn Anh Tuấn

12.

Đào Thị Thu Hà

13.

Lê Thị Linh

2


MỤC LỤC
Lời cảm ơn ............................................................................................ 6
A.

MỞ ĐẦU ..................................................................................... 8

1.

Tầm quan trọng của đề tài ........................................................... 8

2.

Mục tiêu nghiên cứu ..................................................................... 9

3.


Đối tượng nghiên cứu ...................................................................9

4.

Phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 9

5.

Phương pháp nghiên cứu .............................................................. 9

B.

TỔNG QUAN ........................................................................... 10

1.

Làm rõ vấn đề ............................................................................ 10

1.1

Thế nào là giáo dục .................................................................... 10

1.2

Thế nào là “Trẻ chưa ngoan” ở bậc tiểu học ............................... 10

1.2.1 Một số định nghĩa “Trẻ chưa ngoan”ở bậc tiểu học .................... 11
1.2.2 Đặc điểm nhận diện trẻ chưa ngoan của trẻ ở bậc tiểu học .......... 12
2


Bàn luận: Định nghĩa “Trẻ chưa ngoan” và các tiêu chí………..14

B. LÀM GÌ KHI TRẺ CHƯA NGOAN:
1. Nguyên nhân trẻ chưa ngoan............................................................ 15
1.1. Nguyên nhân chủ quan ............................................................... 15
1.1.1. Nguyên nhân sinh học ................................................................ 15
1.1.2. Nguyên nhân tâm lý ................................................................... 16
Tâm lý học phát triển ở trẻ lứa tuổi tiểu học
a. Đặc điểm phát triển sinh lý: ............................................................. 16
b. Đặc điểm phát triển tâm lý: .............................................................. 16
 Tri giác....................................................................................... 16
 Tư duy ....................................................................................... 17
 Tưởng tượng .............................................................................. 17
 Trí nhớ ...................................................................................... 17
 Ngôn ngữ ................................................................................... 18
 Tình cảm ................................................................................... 19
 Tính cách .................................................................................. 19
3


 Nhu cầu về nhận thức ................................................................. 19
 Khả năng tự ý thức của học sinh tiểu học ................................... 19
 Sự phát triển ý chí của học sinh tiểu học..................................... 20
Lời bàn .............................................................................................. 20
1.2

Nguyên nhân khách quan ........................................................... 21

Môi trường gia đình: ........................................................................... 21

Môi trường nhà trường: ...................................................................... 21
Môi trường xã hội bên ngoài gia đình và nhà trường (Gọi tắt là môi trường
cộng đồng) ................................................................................................... 21
Lời bàn .............................................................................................. 22
2.

Giải pháp .................................................................................. 23

2.1. Môi trường gia đình .................................................................... 23
2.1.1. Cha mẹ là tấm gương cho con ................................................... 23
2.1.2. Chất lượng cuộc sống và mối quan hệ trong gia đình ................. 23
2.1.3. Nuôi dưỡng và phát triển tâm lý cho trẻ ..................................... 24
2.1.4. Phương pháp giáo dục. ............................................................... 25
 Phương pháp “Không roi vọt” .................................................... 26
 Nguyên lý Premack. ................................................................... 29
 Phương pháp “uốn nắn” ............................................................. 30
 Ứng dụng ................................................................................... 31
2.2. Môi trường nhà trường ............................................................ 32
2.2.1. Phân tích sâu về nguyên nhân trẻ hư do tác động nhà trường...... 32
2.2.2. Biện pháp khắc phục – Giảm thiểu tác động tiêu cực từ phía nhà
trường: đặt học sinh ở vị trí trung tâm ............................................................ 34
2.2.3. Tính ứng dụng của các đề nghị trên: ........................................... 36
2.3. Môi trường cộng đồng .............................................................. 38
2.3.1. Tăng cường công tác quản lý: Tạo hình mẫu xã hội tốt đẹp ........ 38
4


2.3.2. Ưu tiên cho giáo dục: Cải thiện và nâng cao phương pháp giáo dục
2.3.3. Xây dựng sân thêm nhiều sân chơi-học lành mạnh: Nuôi dưỡng và
phát triển nhận thức - tâm lý lành mạnh ở trẻ................................................. 39

C.

BÀN LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ...................................................... 40
1.

Bàn luận ..................................................................................... 40

2.

Đề nghị ...................................................................................... 41

D.

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................ 42

5


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, xin cảm ơn thầy Lâm Hiếu Minh đã tạo điều kiện để lớp Tâm
lý học VB2 K01 nói chung và nhóm nghiên cứu 4 nói riêng, có cơ hội tập họp và
chung sức cùng nhau hoàn thành một bài tiểu luận ý nghĩa và thiết thực. Đây thực
sự là tiền đề cho sự hứng thú, đam mê trong quá trình tự học và nghiên cứu tâm lý
học. Đồng thời, nhóm nghiên cứu xin cảm ơn Thầy đã truyền đam mê và nhiệt
huyết vào mỗi tiết giảng, để mỗi sinh viên như được tiếp thêm nghị lực, thêm đam
mê, biết ước mơ và biết làm việc hết mình vì ước mơ.
Lời cảm ơn thứ hai, xin dành cho quý độc giả, các sinh viên cùng khóa. Bài
tiểu luận được hình thành trong thời gian ngắn cũng những giới hạn về kinh
nghiệm và hiểu biết chuyên sâu, vì thế, không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong
nhận được phản hồi đóng góp từ quý vị. Xin chân thành cảm ơn quý vị dành thời

gian đã tham khảo bài tiểu luận này.
Lời cảm ơn cuối nhưng vô cùng quan trọng, xin dành cho tất cả thành viên
của nhóm mình. Bài tiểu luận này là thành quả chung của tất cả chúng ta. Cảm ơn
chị Bích rất nhiệt tâm, uyên bác và chịu khó dày công soạn bài chỉn chu. Cảm ơn
chị Chi, tận tâm, vui vẻ và hết mình với công việc, với kiến thức, quan điểm và
nghị lực phi thường; thậm chí, thức đến ba giờ sáng để hoàn thành bài đúng hẹn!
Cảm ơn chị Lâm vì bài viết phân tích quan niệm sâu sắc và mạch lạc. Cảm ơn chị
Thy tổng hợp và đóng góp nhiều ý kiến và quan điểm thiết thực. Cảm ơn chị Linh
luôn quan tâm nhóm và vượt qua biết bao áp lực nhóm mỗi lần tranh luận. Cám
ơn chị Nhung luôn từ tốn nhã nhặn góp ý. Cảm ơn chị Hòa dù bận rộn vẫn luôn
quan tâm và theo sát tình hình nhóm. Cám ơn chị Hoàng với những hiểu biết thực
tế và kinh nghiệm. Cám ơn anh Tuấn - người dẫn mạch thuyết trình với kinh
nghiệm và những câu phản biện thực tế. Cám ơn chị Trang đã luôn quan tâm công
việc nhóm và góp ý bài viết. Cám ơn chị Hà dày công sưu tập tài liệu, soạn bài và
hỗ trợ rất nhiều trong việc biên tập. Cảm ơn những cuộc tranh luận nảy lửa để
bài viết thêm giá trị đúng đắn, để nhóm mình thêm kinh nghiệm và học hỏi được từ
nhau rất nhiều kinh nghiệm quý giá: cách làm việc tập thể, cách trình bày, cách
điều chỉnh và phát triển để đạt thành quả cao nhất trong kết quả nghiên cứu. Và,
6


xin cảm ơn tinh thần làm việc hăng say, cảm ơn chúng ta vì đã họp thành nhóm 4
đặc biệt với những cá tính, phong cách đặc trưng, riêng biệt. Biết rằng không thể
tránh những thiếu sót, cập rập, những bất đồng; qua những tranh luận đầy xúc
cảm, thật tự hào vì nhóm chúng ta đã cùng nhau vượt qua tất cả, trên tinh thần
đoàn kết và hết mình vì công việc.

Thật may mắn khi được là thành viên của nhóm chúng ta.

Thay mặt nhóm 4 Lớp Tâm lý học Văn Bằng 2


Xin cảm ơn!

Tp.HCM, Ngày 20 tháng 4 năm 2013
Chân thành.
Đào Bảo Trâm

7


A. MỞ ĐẦU
1.

Tầm quan trọng của đề tài

Xã hội chúng ta đang phát triển từng ngày từng giờ, thậm chí là từng giây.
Với tốc độ phát triển vũ bão như vậy, để tồn tại và phát triển, con người không thể
hoạt động một mình mà luôn cần sự hợp tác cùng nhau. Đồng thời, yếu tố con
người được đòi hỏi ngày càng cao hơn cả về lượng và chất. Vì thế, sự tồn tại và
phát triển của một xã hội hoàn toàn phụ thuộc vào lớp thế hệ những con người mới,
hay nói cách khác, chính là trẻ em của hôm nay. Hơn lúc nào hết, vấn đề giáo dục
con người được là quốc sách, là ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia.
Ở xã hội nào thì năng lực trí tuệ luôn được xem trọng. Trong đó, có trí tuệ
bao gồm trí tuệ nhận thức và trí tuệ cảm xúc. Giai đoạn tiểu học là giai đoạn đặc
biệt quan trọng hình thành và phát triển năng lực trí tuệ ấy. Trẻ em sinh ra như một
tờ giấy trắng, nhân cách và ý thức không phải là yếu tố bẩm sinh, di truyền. Thật
vậy, đấy là kết quả được hình thành qua thời gian cùng trải nghiệm cuộc sống dưới
sự giáo dục của gia đình, nhà trườn và sự ảnh hưởng từ môi trường xã hội. Bởi thế,
vai trò của gia đình, nhà trường, cộng đồng trong công cuộc trồng người là vô
cùng quan trọng.

Trên thực tế, việc đáp ứng và phản hồi sự uốn nắn của phụ huynh với tác
động của mội trường xung quanh của trẻ em nhiều lúc không cho hiệu quả tích cực
như mong đợi. Tùy theo độ tuổi và sự hài lòng trên kỳ vọng của người lớn đối với
con trẻ mà xuất hiện những “trẻ chưa ngoan”.
Đây là lý do cản trở sự phát triển năng lực toàn diện ở các em; bao gồm cả
nhận thức, tâm lý và giao tiếp cộng đồng. Nếu không được phát hiện và uốn nắn
kịp thời, sự thiệt thòi này sẽ không chỉ là của các em, mà là gánh nặng của cả cộng
đồng, cả xã hội.
Vậy, ‘Làm thế nào để giáo dục trẻ chưa ngoan?’ là một câu hỏi đơn giản
nhưng tốn nhiều giấy mực. Các nghiên cứu nếu có chỉ phân tích trên khía cạnh
đơn lẻ là gia đình hoặc thầy cô; đồng thời, chưa có nghiên cứu tổng hợp hay can
thiệp nào bàn luận về vấn đề này trên nền tảng môi trường xã hội. Trong khi đó,
vấn đề đào tạo con người đang ngày càng trở nên nhức nhối trong bối cảnh hiện
nay. Đó cũng là nguyên nhân và động lực giúp nhóm nghiên cứu hoàn thành bài
tiểu luận này.
8


Mục tiêu nghiên cứu
-

Trả lời câu hỏi Làm thế nào để giáo dục khi trẻ chưa ngoan.

-

Đề ra phương pháp giáo dục thích hợp giúp cải thiện hiện trạng trẻ

chưa ngoan làm cơ sở khảo sát ứng dụng thực tế.
2.


Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu, tổng hợp tài liệu về phương pháp giáo dục trẻ chưa ngoan lứa
tuổi tiểu học của 3 đại diện tiêu biểu là Gia đình, Nhà trường và Cộng đồng đứng
từ góc nhìn của nhà tâm lý học.
3.

Phạm vi nghiên cứu

-

Tổng hợp tài liệu.

4.

Phương pháp nghiên cứu

-

Phương pháp tổng hợp – Phân tích

-

Phương pháp khảo sát – Đánh giá

9


A.


TỔNG QUAN

1. Làm rõ vấn đề
1.1.

Thế nào là giáo dục

- Theo nghĩa rộng, giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách dưới ảnh hưởng của tất cả các hoạt động từ bên ngoài: Từ nhà trường,
gia đình, xã hội, từ môi trường tự nhiên, môi trường nhân tạo.
- Theo nghĩa hẹp: Giáo dục được hiểu là quá trình hình thành và phát triển
nhân cách người được giáo dục dưới quan hệ của những tác động sư phạm nhà
trường, liên quan đến các mặt giáo dục, đức dục, mỹ dục, thể dục và giáo dục lao
động.
1.2

Thế nào là “Trẻ chưa ngoan” ở bậc tiểu học

1.2.1 Một số định nghĩa “Trẻ chưa ngoan”ở bậc tiểu học
Theo từ điển tiếng Việt: Ngoan là “dễ dạy”; trẻ chưa ngoan là chưa dễ dạy
hay nói cách khác, trẻ chưa ngoan là trẻ chưa khó giáo dục.
Theo góc nhìn
Trong ngôn ngữ hàng ngày, trẻ chưa ngoan còn được gọi là “trẻ khó dạy”,
“khó giáo dục”, “có vấn đề”, “chậm tiến”, “hư”… Đối với cha mẹ, thường là
những trẻ không chịu vâng lời, thích làm theo ý mình, chống đối, ích kỷ, nói dối
hoặc ham chơi. Từ phía các nhà trường, quan điểm này có một chút khác biệt.
Theo quyển Những học sinh “khó” những thầy cô giáp gặp khó khăn của Marie
Thérese Auger và Christiane Boucharlat có viết: theo quan điểm một số thầy cô,
trẻ có vấn đề thường có 2 dạng, một là những học sinh “quậy” như hay náo động,
cãi nhau, hiếu chiến hoặc hay khiêu khích; hai là những trẻ từ chối làm việc như

không chịu cộng tác làm việc, lười học… Đối với xã hội đặc biệt là trong công tác
quản lý, “Trẻ chưa ngoan” là những trẻ gây ảnh hưởng làm mất trật tự xã hội, ảnh
hưởng hoặc tiêm nhiễm tính “chưa ngoan” vào những trẻ khác, đặc biệt là không
chỉ ảnh hưởng đến kết quả học tập hay cơ hội thành công của các em mà còn ảnh
hưởng đến sự tiềm năng và sự phát triển của xã hội sau này.

10


Theo không gian:
Tại các nước trong cùng một khu vực thì quan điểm như thế nào là trẻ chưa
ngoan hầu như không khác nhau nhiều. Nếu ở nhà, trẻ chưa ngoan là những trẻ
hay nói dối người lớn, hay cãi lời, làm những việc trái ý cha mẹ hoặc ngang ngạnh
bướng bỉnh. Ở Việt Nam hay một số nước châu Á thì có rất nhiều tiêu chí để xác
định là một đứa trẻ ngoan hay chưa ngoan. Chẳng hạn, một bé gái quần áo sạch
đẹp, trước mặt bố mẹ, thầy cô giáo thì rất lễ phép, một điều dạ-hai điều vâng, có
khi còn khoanh tay cúi đầu nữa nom thì có vẻ ngoan nhưng khi vắng bố mẹ , thầy
cô thì lại nói tục, văng bậy. Một bé trai sáng đi học ở lớp, chiều đi học phụ đạo, tối
đến nhà bạn học nhóm…mới nhìn có vẻ rất chăm nhưng khi ở lớp thì nói chuyện,
đầu óc để tận đâu, đến lớp phụ đạo thì đùa quậy, đi học nhóm thì xem video, tán
gẫu, bài bạc, chơi trò điện tử..Một bé gái khác, nay xin tiền đóng cho trường, mai
xin tiền đóng cho lớp với nhiều lý do nhưng tất cả các khoản tiền đó đều để ăn quà,
mua những thứ linh tinh, trò chơi bạo lực, thậm chí mua số đề, cờ bạc. Một bé gái
ăn diện, quần này áo nọ, váy kia…thậm chí trước khi đi học còn bôi son đánh
phấn thì cũng bị xem là trẻ chưa ngoan vì không hợp với thuần phong mỹ tục của
người châu Á. Trong khi đó ở các nước phương Tây, việc xét một đứa trẻ là ngoan
hay chưa ngoan không phải ở chỗ trẻ “biết vâng lời” theo những yêu cầu của
người lớn mà chỉ cần bé có thái độ “biết hợp tác” cũng cho là trẻ ngoan rồi. Trẻ
em tại các nước ngày được khuyến khích tự do phát triển, khám phá theo sở thích
của cá nhân mà không cần phải theo những chuẩn mực mà cha mẹ chúng mong

muốn. Chẳng hạn, các bé gái ở học sinh tiểu học thì hầu như biết sửa soạn, ăn diện
khi ra ngoài và chuyện này cũng được xem là bình thường trong khi đó ở các nước
châu Á lại cho rằng như vậy là hư là chưa ngoan. Các bé trai thì thường hiếu động
hơn như tham gia các trò chơi mạo hiểm, trò chơi điện tử bạo lực, quậy phá, chọc
ghẹo bạn bè ở trường học…thì cũng được xem là chuyện bình thường. Trong khi
đó, ở các nước châu Á thì những trường hợp này thì thường bị cha mẹ hoặc người
lớn đánh giá là những đứa trẻ chưa ngoan hay nói nặng hơn là những đứa trẻ hư.
Theo thời gian:
Xã hội ngày càng phát triển thì những chuẩn mực đạo đức hầu như ít được
quan tâm hơn. Gia đình cũng như trường học chỉ quan tâm đến việc đào tạo, giáo
11


dục về mặt tri thức cho con em mình mà xem nhẹ những giá trị đạo đức. Trẻ em
ngày nay được nhìn nhận dựa trên học vấn, kỹ năng, kiến thức mà chúng có được
và cha mẹ cũng sẽ dựa vào tiêu chí này để đánh giá con cái. Do đó mà càng về sau
này, những chuẩn mực để xét một đứa trẻ là ngoan hay chưa ngoan cũng không
còn khó khăn và gay gắt như trước đây nữa. Trước đây, một đứa trẻ phải biết đi
thưa về trình, lễ phép, ngoan ngoãn, biết vâng lời, nghe theo tất cả những lời chỉ
dạy, yêu cầu của cha mẹ người lớn và thầy cô thì mới được gọi là một đứa trẻ
ngoan và ngược lại thì bị coi là chưa ngoan và khó dạy. Tuy nhiên, hiện nay, một
đứa trẻ ngoan không nhất thiết là phải nhất nhất vâng lời cha mẹ, người lớn, thầy
cô. Chúng có thể tự do phát triển, lựa chọn những gì mình muốn miễn sao nó vẫn
phù hợp và vẫn tuân theo một số chuẩn mực nào đó mà người lớn mong muốn. Có
thể thấy, những biểu hiện phù hợp với môi trường xã hội đó thì sẽ được môi
trường xã hội đó chấp nhận và đánh giá tốt.
Như vậy, khái niệm “Trẻ chưa ngoan” không chỉ khác biệt từ những góc
nhìn khác nhau, thay đổi theo không gian và thời gian khác nhau, mà cả ở những
gia đình khác nhau. Những biểu hiện trẻ chưa ngoan ở một gia đình, nhà trường
hay xã hội này lại chấp nhận như một biểu hiện bình thường ở những môi trường

khác.
1.2.2 Những đặc điểm nhận diện trẻ chưa ngoan ở bậc tiểu học
Về đặc điểm nhận diện “Trẻ chưa ngoan”, qua tổng hợp, nhóm nghiên cứu
nhận thấy có thể phân loại điển nhận diện theo các 2 yếu tố sau:
Xét về đặc điểm hành vi:
Căn cứ vào đặc điểm hành vi thì có 5 loại trẻ chưa ngoan:
-

Không vâng lời, đỏng đảnh, bướng bỉnh:

Những đứa trẻ này đa phần là được sinh ra trong gia đình khá giả, ít anh chị
em hay là con một trong gia đình và những đứa trẻ này được cha mẹ hết mực yêu
thương, muốn gì thì cha mẹ sẽ đáp ứng ngay cái đó (nếu có khả năng). Cho nên
trong lớp học hay trong sinh hoạt vui chơi em luôn cho mình là nhất, mọi người
phải nghe mình và em cũng không cần thiết nếu bạn không chơi với mình và đặc
biệt là các em rất thích bạn bè hay thầy cô nói chuyện nhẹ nhàng với em. Nếu giáo
12


viên có lời nhắc nhở hết sức khéo léo và nhẹ nhàng thì lại có tác dụng tích cực hơn
là quát mắng hay dùng hình thức phạt.
Vô kỷ luật, ngổ ngáo, gây gỗ: Các em hay làm trò nghịch ngợm
trong lớp và có cá tính rất mạnh phản ứng với việc dạy dỗ của các thầy cô. Luôn
bất đồng với các bạn, các em thường chơi theo nhóm và thích làm người chỉ huy
trong các trò chơi hay trong các hoạt động khác và thường các em hiếu động trong
lớp, thường giải quyết mâu thuẫn bằng bạo lực.
Lười biếng: Những em này nếu không được chăm sóc chu đáo của
gia đình thì các em thường hay luộm thuộm ham chơi hơn ham học, thường xuyên
không làm bài tập ở nhà hay viện lý do này hay lý do khác thi không hoàn thành
nhiệm vụ học tập.

Dối trá: Những học sinh này không phải nói dối một cách thông
thường mà các em thường lên kế hoạch cho lời nói dối của mình. Nếu thầy cô có
phát hiện thì các em trình bày lý do mang tính chất thuyết phục và trường hợp nói
dối này các em thường xuyên sử dụng.
Dễ xúc động (tự cao, dễ giận hờn, mất lòng…): Những học sinh này
thường là nữ hay giận hờn, nếu các em học khá được thầy cô ưu ái nhiều, thường
các em cho mình quan trọng hơn các bạn trong lớp, tự cho mình luôn tốt, nếu việc
gì em cảm thấy không vừa lòng thường tỏ ra giận hờn, ích kỷ.
Xét về đặc điểm tâm lý:
Những trẻ có rối loạn trong giao tiếp: Có mối quan hệ bất thường
với mọi người xung quanh. Em thường thực hiện theo sự thích thú của cá nhân,
luôn luôn tỏ ra là một đứa trẻ khó hiểu.
-

Những trẻ có phản ứng xúc cảm mạnh hoặc yếu: Trẻ thường mất tự

tin trong việc học cũng như trong giao tiếp, không kiềm chế cảm xúc bản thân.
Những trẻ có những phẩm chất, ý chí phát triển sai lệch: Những hoài
bão ước mơ của em thường mang tính tiêu cực hơn tích cực. Bản chất của giáo dục
trẻ chưa ngoan là sự bình thường hóa toàn bộ cuộc sống tâm lý của trẻ, là sự phát
triển toàn bộ nền tảng tích cực của nhân cách trẻ.

13


2

Bàn luận: Định nghĩa “Trẻ chưa ngoan” và Tiêu chí

Từ những tổng hợp và phân tích trên, nhóm nghiên cứu nhận thấy có khá

nhiều biểu hiện “chưa ngoan” được quan sát dưới các góc độ khác nhau ở trẻ, khác
nhau tùy theo quan điểm của các đối tượng quan sát. Dưới góc độ tâm lý học,
nhóm nghiên cứu nhận thấy tất cả quan điểm nêu trên đều có một điểm chung: sự
đáp ứng một sự mong đợi xuất phát từ môi trường xã hội bao quanh trẻ.
Nói cách khác, “Trẻ chưa ngoan” có là trẻ chưa đáp ứng kỳ vọng đặt
ra của gia đình, nhà trường hoặc xã hội nhất định.
Những chuẩn đáp ứng kỳ vọng như vậy biến thiên khá nhiều theo môi
trường xã hội khác nhau. Để giải quyết vấn đề và đưa ra hướng giải quyết cụ thể,
bước đầu tiên của nhóm nghiên cứu tiến hành thiết lập một số tiêu chí xét “trẻ
chưa ngoan” như sau:
Tiêu chí chính: 5 dấu hiệu cơ bản thường xuất hiện ở trẻ chưa ngoan,
Tính mâu thuẫn trong hành vi và trí tuệ: do những mâu thuẫn trong
sự phát triển nhân cách tạo nên. Trí tuệ rất phát triển nhưng tình cảm hầu như
không phát triển (hay ngược lại, hoặc tầm hiểu biết rất hạn chế nhưng lại có kinh
nghiệm xấu trong cuộc sống hàng ngày lại phong phú, phần nhiều do sự bắt
chước)
-

Sự chống đối các tác động giáo dục.

-

Tách rời cộng đồng: Lập trường sống ích kỷ

-

Thái độ xung đột kéo dài đối với những người xung quanh.

-


Tính không ổn định của các hứng thú, nguyện vọng các tâm trạng và

ham muốn luôn luôn thay đổi.
Tiêu chí loại trừ
- Vấn đề liên quan bệnh lý hoặc bẩm sinh.

14


C. LÀM GÌ KHI TRẺ CHƯA NGOAN: Nguyên nhân và giải pháp
1. Nguyên nhân
1.2.

Nguyên nhân chủ quan

1.2.1. Nguyên nhân sinh học:
Bẩm sinh, bệnh lý, yếu tố di truyền, khí chất.
Những nguyên nhân dẫn đến các biểu hiện “chưa ngoan” có thể do bắt
nguồn từ vấn đề bẩm sinh như các bệnh di truyền gây tổn thương hoặc chậm phát
triển trí tuệ, chẳng hạn một số trẻ chậm phát triển do trung khu nhận thức trên não
chưa phát triển đúng mức nên trẻ kém phát triển hơn so với những trẻ cùng lứa độ
tuổi. Ngoài ra, còn nhiều bệnh lý liên quan rối loạn cảm xúc, tăng hiếu động… Lẽ
dĩ nhiên, nếu không được đánh giá đúng mức, những nguyên nhân này sẽ dẫn đến
những hành vi và tâm lý không mong đợi ở trẻ, khiến trẻ bị ‘phân loại’ trở thành
“trẻ không ngoan”.
Do não, hệ thần kinh: do di truyền hoặc bẩm sinh, 1 số trẻ bị chậm phát
triển do trung khu nhận thức trên não chưa trưởng thành đúng mức nên trẻ bị kém
lợi thế so với các bạn cùng độ tuổi. (Hội chứng rối loạn thiếu khả năng chú ý)
Một số biểu hiện và trường hợp điển hình như:
-


Trẻ khó tập trung chú ý (Hội chứng rối loạn khả năng chú ý).

-

Kém trí nhớ tạm thời

-

Hiếu động thái quá

-

Tính khí bốc đồng, làm việc không hề dự tính hoặc nghĩ đến hậu quả

-

Hành động vụng về, lóng ngóng

-

Rất cố chấp, ương ngạnh

-

Kém tự trọng

- Rối loạn giấc ngủ (khi ngủ hay mớ, hoặc hay gặp ác mộng, hay giật mình
thức giấc).
-


Bị rối loạn thèm ăn: ăn uống rất nhiều hoặc chỉ ăn được 1 số ít món.

-

Khó khăn trong diễn đạt lời nói.
15


Đối với các trẻ thuộc nhóm này, giáo viên và gia đình cần phát hiện sớm và
gia đình cần gặp các bác sĩ chuyên về thần kinh hoặc các chuyên gia tâm lý để
phối hợp chữa trị thích hợp
1.2.2. Nguyên nhân Tâm lý:
Một nguyên nhân chủ quan khác cũng không kém phần quan trọng, đó
chính là nguyên nhân xuất phát từ tâm lý, sự phát triển tâm sinh lý ở trẻ dưới tác
động của môi trường sống; thông qua những yếu tố như:
-

Hiệu ứng lây lan hành vi

-

Củng cố tích cực/ Tiêu cực

-

Hiệu ứng chú ý

-


Cùng luyện tập

-

Bắt chước

-

Học theo mẫu

Trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ, các em là những con người chưa
trưởng thành đang dần phát triển và hoàn thiện dần về sinh lý, tâm lý. Quá trình
phát triển này góp phần ảnh hưởng đến sự nhận thức và hành vi ở các em. Dựa
theo quyển Tâm lý học phát triển, nhóm nghiên cứu phân tích các nguyên nhân
sau:
a. Đặc điểm phát triển sinh lý:
- Hệ xương phát triển đặc biệt là cột sống
- Hệ cơ phát triển mạnh mẽ hơn
- Cơ tim phát triển mạnh
- Hệ thần kinh cấp cao hoàn thiện dần.
Đây cũng là tiền đề cơ bản đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển toàn diện
về nhận thức - tâm lý ở trẻ.
b. Đặc điểm phát triển tâm lý:
 Tri giác
Tri giác ở trẻ phát triển dần thông qua trải nghiệm, hoạt động và tích lũy.
Nhờ đó, tri giác ở trẻ độ tuổi tiểu học phát triển hơn hẳn giai đoạn mẫu giáo, đặc
biệt là tri giác có chủ định. Trẻ tự chủ trong quan sát, lắng nghe và học hỏi thông
tin từ thế giới bên ngoài. Tri giác không gian và tri giác thời gian cũng phát triển,
16



vượt bậc. Trẻ bắt đầu hình thành những ý niệm trừu tượng, song song với tái tạo
thông tin và vận dụng sáng tạo trong cuộc sống. Trong thực tế, có nhiều trẻ đã có
những biểu hiện rất tinh tế như thể hiện năng khiếu hội hoạ, âm nhạc…
 Tư duy
Quá trình phát triển tri giác là bước nền cho sự phát triển tư duy. Trẻ
chuyển từ tư duy trực quan sang tư duy logic. Ví dụ như từ A trắng hơn B; B trắng
hơn C nên A trắng hơn C. Sự chuyển đổi từ trực tiếp sang gián tiếp này giúp trẻ
nhận thức dần những phức tạp trong cuộc sống giao tiếp xã hội. Cùng với sự hình
thành một số suy luận logic, một số trường hợp chính tư duy tự suy này lại dẫn trẻ
lệch khỏi chuẩn mực chung, đặc biệt khi trẻ thiếu sự quan tâm và hướng dẫn kịp
thời của người lớn. Chẳng hạn, khi thấy người lớn vượt đèn đỏ. Trẻ suy luận người
lớn làm được thì mình cũng làm được. Vậy nên, vượt đèn đỏ là được phép! Ở đây,
do nhận thức đúng sai chưa phát triển, trẻ dễ dàng học những điều không hay từ
môi trường bên ngoài. Vì vậy, sự phát triển tư duy ở trẻ luôn cần sự điều chỉnh và
hướng dẫn thông qua giáo dục hợp lý.
 Tưởng tượng
Giai đoạn đầu tuổi tiểu học tưởng tượng còn đơn giản chưa bền vững. Đến
cuối tiểu học tưởng tượng tái tạo bắt đầu hoàn thiện, tưởng tượng sáng tạo cũng
tương đối phát triển. Trẻ càng thông minh thì khả năng tưởng tượng lại càng
phong phú. Khả năng này cho phép trẻ hình dung và suy diễn vượt ra khỏi các giới
hạn thông thường. Cũng do khả năng này, ở một số trẻ, hiện tượng nói một vấn đề
vượt xa sự thậtkhông đúng sự thật xuất hiện.
 Trí nhớ
Trí nhớ đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển tâm lý và nhận thức của
con người. Trí nhớ là quá trình ghi nhớ, lưu giữ và ‘gọi lại’ thông tin trong ý thức
tất cả các yếu tố kinh nghiệm đã qua. Đặc biệt, trí nhớ cho phép khả năng trừu
tượng hóa sự vật, hiện tượng, quy luật dưới dạng khái niệm và ứng dụng trong các
hoạt động của mình.
Ở trẻ lứa tuổi tiểu học, trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ

lôgic trừu tượng. Vì vậy, để giáo dục trẻ hiệu quả, việc sự dụng những tài liệu ấn
tượng, giàu hình ảnh sẽ được dễ tiếp thu hơn. Song song đó, trẻ bắt đầu hình thành
17


trí nhớ có chủ định, tuy nhiên khả năng tập nhớ vẫn còn máy móc, rập khuôn. Khả
năng ghi nhớ lại phụ thuộc nhiều cùng cảm xúc và động cơ. Việc giúp trẻ hiểu lý
do của hành động và nuôi dưỡng cảm xúc tốt trong quá trình ghi nhớ đóng vai trò
quan trọng. Tuy nhiên, cùng ngưỡng mong đợi cao, người giáo dục thường tạo áp
lực ở trẻ quá nhiều gây ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của trẻ: trường chuyên, lớp
chọn, danh hiệu, quá tải học thêm… Trẻ có thể không vui, không hào hứng, trở
nên thất vọng hoặc dần dần chán ghét việc học là bước đầu cho những hành vi
chống đối. Vì vậy, việc giáo dục và giúp trẻ ghi nhớ những bài học, đòi hỏi người
giáo dục sự đầu tư tâm sức.
 Ngôn ngữ
Ở lứa tuổi tiểu học, trẻ có được tất cả các ngữ pháp và cú pháp của người
lớn. Đây là tiền đề cần thiết cho giao tiếp. Về ngữ âm, trẻ nắm được ngôn ngữ nói
một cách thành thạo, tuy nhiên vẫn còn một số từ phát âm chưa đúng. Về ngữ
pháp, tre có khả năng sử dụng câu hoàn chỉnh hơn thời kì mâu giáo; tuy nhiên đa
phần là những câu ngắn, câu đơn, việc đặt câu còn chưa thông thạo. Về từ ngữ, trẻ
tiếp tục mở rộng vồn từ; từ sử dụng thường trong sáng, giàu hình ảnh; tuy nhiên,
cách dùng từ chưa hợp lý. Chẳng hạn như: Chúng ta phải cố gắng học để cô giáo
khỏi căm hờn.
Việc sử dụng ngôn ngữ không phù hợp cũng là một trong những nguyên
nhân khiến trẻ bị trách phạt là nói hỗn, nói leo, nói dại – những câu phát ngôn
không phù hợp hoàn cảnh, cũng là những lý do ‘chưa ngoan’ trong mắt mọi người.
Vì vậy, trẻ cần được hiểu và uốn nắn từng bước.
 Tình cảm
Tình cảm của trẻ chưa bền vững. Học sinh tiểu học có tình cảm đặc biệt với
những người thân trong gia đình, thầy cô giáo, bạn thân. Đó là những người trực

tiếp xung quanh gần gũi ảnh hưởng đến quan điểm, nhận thức và hành vi của trẻ.
Tình cảm của trẻ chưa bền vững, khả năng kiềm chế cảm xúc còn non nớt.
Trẻ dễ bộc phát cảm xúc và chưa kiềm nén tình cảm như dễ khóc, dễ giận, dễ cười.
Đó là những cảm xúc tự nhiên. Nếu vì thế mà đánh giá qui kết lỗi và trách mắng
trẻ sẽ ảnh hưởng không ít đến cảm xúc của trẻ; tuy nhiên, nếu không dạy dỗ thì trẻ
sẽ không sửa đổi và không có điểm dừng. Chẳng hạn khi trẻ không được cho một
18


vật gì mà trẻ rất thích, trẻ sẽ buồn và khóc. Nếu trách phạt vì hành động này là
không nên vì tình cảm tự nhiên của trẻ còn non nót. Nhưng nếu lựa chọn thỏa mãn
thì trẻ sẽ suy luận khóc là hiệu quả và sẽ sử dụng nó như một công cụ đạt được
điều mình muốn. Những biểu hiện hành vi sẽ ngày càng tệ hơn nếu thiếu sự giáo
dục cần thiết. Thế nên, uốn nắn làm chủ tình cảm và kiềm nén cảm xúc để thích
nghi với môi trường là một bài học dài mà trẻ cần được giáo dục để phù hợp với
xã hội.
 Tính cách
Gieo suy nghĩ gặt hành động/ Gieo hành động gặt thói quen/Gieo thói quen
gặt tính cách. Từ những suy nghĩ, tư duy ban đầu c cùng với sự uốn nắn, những
hành động được thực hiện và điều chỉnh. Những hành động này lặp lại nhiều dần
thành nếp, thành thói và dần biến thành một phần trong tính cách của trẻ. Theo đặc
điểm lứa tuổi này, tính cách ở trẻ đang bắt đầu hình thành, đang còn nhiều biến đổi
Biểu hiện rõ nhất là tính xung động (hành động ngay). Sự điều chỉnh ý chí với
hành vi còn yếu (do tính hiếu động). Vì thế, giáo dục trong giai đoạn này là tối
quan trọng.
Cũng trong giai đoạn này, trẻ đã có thái độ đối với mọi người xung quanh
và đối với bản thân, biết đánh giá bản thân nhưng còn phải dựa vào ý kiến người
khác. Ở đây, trẻ học hỏi thái độ đánh giá sự việc của người lớn như là những hình
mẫu từ đó thực hiện những hành vi bắt chước hoặc sao chép. Đồng thời, do phản
ứng tự bảo vệ, trẻ bắt đầu nói dối. Những hành vi và hành động của trẻ cần được

đánh giá đúng mức để có sự giáo dục hợp lý.
 Nhu cầu về nhận thức
Giai đoạn đầu tiểu học có nhu cầu tìm hiểu những sự vật riêng lẻ .VD: Cá
sống ở đâu? Giai đoạn cuối tiểu học có nhu cầu phát hiện ra nguyên nhân, quy luật
của sự vật hiện tượng. VD:Vì sao nước biển mặn? Đôi khi trẻ không ngừng tò mò
và hỏi liên tục về mọi thứ xung quanh. Điều đó có thể làm phiền những người
xung quanh nhưng là dấu hiện đáng mừng cho sự phát triển tâm lý của trẻ. Trẻ
nhận thức càng nhiều thì tư duy và tâm lý càng phát triển. Mặt khác, nhận thức đã
trở thành một nhu cầu thiết yếu giúp trẻ hòa nhập và thích nghi với môi trường
xung quanh. Việc giảng giải giúp trẻ hiểu vấn đề là cần thiết, đặc biệt là những
nhận thức đúng đắn vấn đề để có những hành vi hợp lý.
19


 Khả năng tự ý thức của học sinh tiểu học
Gia đoạn này, trẻ đang dần dần hình thành cho mình tính độc lập tự chủ .
Khả năng tự ý thức về giới tính đã bộc lộ. Bên cạnh đó, trẻ đã có khả năng tự đánh
giá bản thân mình. Trong một số trường hợp, ở trẻ có thể nảy sinh trạng thái tâm lý
tự ti, mặc cảm hay tự tin thái quá ảnh hưởng đến thái độ và cách hành vi cư xử của
trẻ.
 Sự phát triển ý chí của học sinh tiểu học
Giai đoạn đầu tiểu học hành vi mà trẻ thực hiện còn phụ thuộc nhiều vào
yêu cầu của người lớn, chẳng hạn như học là để được cô giáo khen. Giai đoạn cuối
tiểu học các em đã có khả năng biến yêu cầu của người lớn thành mục đích hành
động của mình: Tự ý thức làm bài tập về nhà. Điều quan trọng là ý chí có thể học
tập và rèn luyện. Giáo dục cho trẻ ý chí để không những điều sai, chống lại những
điều sai sẽ giúp trẻ thực hiện những hành vi đúng đắn, tự điều chỉnh và từ đó, phát
triển toàn diện.
Lời bàn:
Từ những yếu tố sự phát triển tâm sinh lý tiểu học vừa kể trên, có thể nhận

thấy:
Lứa tuổi tiểu học là giai đoạn quan trọng để nhận thức và tâm lý hình thành
phát triển. Một số biểu hiện như hiếu động, tò mò, sử dụng từ chưa hợp lý, tình
cảm non nớt, chưa ổn định, khả năng kiềm chế kém… là những biểu hiện điển
hình của lứa tuổi. Do đó, cần được sự giáo dục và quan tâm hợp lý. Cũng tại giai
đoạn này, do đặc điểm tâm lý tò mò, nhu cầu nhận thức cao nhưng khả năng phân
biệt đúng sai còn giới hạn, trẻ dễ bị ảnh hưởng bởi các “hình mẫu” của người lớn
ảnh hưởng đến nhận thức, thái độ, cũng như hành vi của trẻ.
Theo TS. Trần Thị Minh Đức trong bài nghiên cứu Quan niệm của người
lớn về trẻ em chưa ngoan và cách thức giáo dục có nhận định: Nhìn từ góc độ tâm
lý học, trẻ em là những con người chưa phát triển hoàn thiện về mặt tâm lý, sinh lý
và chưa trưởng thành về mặt xã hội. Theo cách hiểu này, trẻ em cần được dạy dỗ,
giáo dục từ phía gia đình và nhà trường để trở thành những con người như xã hội
đương thời mong muốn.

20


1.2 Nguyên nhân khách quan
Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân bắt nguồn từ tác động của
môi trường sống. Trong đó, đóng vai trò đặc biệt quan trọng là môi trường xã hội.
Một vài nguyên nhân điển hình được liệt kê như sau:
Môi trường gia đình:
Nguyên nhân gia đình: hoàn cảnh gia đình, điều kiện sống, lịch sử gia đình
và mối quan hệ của các thành viên trong gia đình, cụ thể tập trung ở những gia
đình:
-

Do mãi lo việc kinh tế không chú trọng đến việc giáo dục con em, bỏ


phế cho nhà trường.
-

Gia đình thường có những xung đột, ảnh hưởng đến việc phát triển

cân bằng về tâm sinh lí ở các em.
con cái.
-

Bố mẹ hay mâu thuẫn, bất hòa, đánh chửi nhau.
Trẻ có hoàn cảnh bất hạnh, mồ côi cha mẹ hoặc gia đình khuyết.
Bố mẹ (gia đình) chú trọng làm kinh tế, không có thời gian chăm sóc
Bố mẹ (gia đình) không coi trọng việc giáo dục con.

Bố mẹ (gia đình) quá nuông chiều con hoặc không yêu thương các
con công bằng.
Bố mẹ (gia đình) không hiểu con, không tôn trọng cảm xúc của con.
Bố me (gia đình) sống không lành mạnh, làm những việc phi pháp.
Gia đình nghèo khó, vất vả mưu sinh, trẻ con phải tham gia lao động
để kiếm sống qua ngày.
-

Trẻ sống trong sợ hãi do bị lạm dụng, bị ngược đãi…

-

Quan hệ họ hàng, gia đình lớn có nhiều ảnh hưởng xấu.

Môi trường nhà trường:
-Chú trọng nhiều hơn việc cung cấp những tri thức về chuẩn mực đạo đức

giúp học sinh hiểu rỏ thế nào là hành vi đạo đức tốt, thế nào là chưa tốt.
-Sự gắn kết rời rạc giữa giáo viên và học sinh dẫn đến sự mất tin tưởng
hoặc cảm giác hụt hẫng vì không được tôn trọng đúng mức.
21


-Bạn bè trong nhà trường cũng là yếu tố quan trọng dễ lôi cuốn và tác động
đến trẻ.
Môi trường xã hội bên ngoài gia đình và nhà trường (Gọi tắt là môi
trường cộng đồng)
Môi trường cộng đồng còn tồn tại nhiều điều xấu ảnh hưởng đến hành vi
đạo đức của các em. Do sự quản lý thiếu chặt chẽ của các ngành chức năng trong
việc kiểm duyệt các game bạo lực để cho các em bị đầu độc bởi ma lực của các
trò chơi chém giết trong game on line, các truyện tranh bạo lực, những trò chơi
điện tử, phim ảnh đầy những pha bắn giết, những phim ảnh kích động sự hung bạo
của các em cũng đang ngày một xuất hiện nhiều hơn, thường xuyên hơn, và các
văn hóa phẩm đồi trụy xuất hiện ngày càng nhiều trên internet như quảng cáo có
sử dụng hình ảnh 18+ , truyện tranh sex… tất cả đều ảnh hưởng rất nhiều đến việc
phát triển và hình thành nhân cách, hành vi đạo đức xấu.
Lời bàn:
Con người không thể tách rời khỏi môi trường xã hội. Đồng thời, con người
cũng được định hình và xác định bởi mối quan hệ đó. Qua một vài liệt kê về các
tác động của môi trường xã hội lên trẻ, ta có thể nhận thấy, vấn đề tác động môi
trường lên trẻ là không thể không chú ý và sự cần thiết của môi trường tốt cùng
với sự giáo dục là điều kiện cần cho sự phát triển và hoàn thiện nhân cách ở trẻ.
Nhận định:
Qua phân tích các nguyên nhân, ta nhận thấy môi trường xã hội (bao gồm
môi trường gia đình, nhà trường và môi trường cộng đồng) có tác động lớn đến
trẻ. Mỗi môi trường có đều có những tác động lớn đến nhận thức hành vi và cư xử
ở trẻ theo những phạm vi khác nhau. Tuy nhiên, cả 3 đều có điểm chung giao nhau

chính là các yếu tố: Hình mẫu bắt chước, Quan hệ gắn kết, Tác động tâm lý, và
Phương pháp giáo dục. Trong đó, giáo dục và tối quan trọng giúp giải câu hỏi:
“Làm gì khi trẻ chưa ngoan”!

22


2.

GIẢI PHÁP

2.1.

MÔI TRƯỜNG GIA ĐÌNH
Gia đình chính là trường học đầu tiên của trẻ vì vậy tính cách, ứng

xử của cha mẹ và những thành viên khác trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến
hành vi của trẻ. Nếu người lớn không gương mẫu thì con cái rất dễ học theo. Vì
thế khi thấy trẻ chưa ngoan điều đầu tiên cha mẹ cần làm là xem xét lại những
hành động của chính mình.Trẻ em thường bị gò ép trong những khuôn phép giáo
dục của gia đình.Đôi khi khuôn phép quá cứng nhắc, song cuối cùng người lớn
vẫn là “người lớn”, họ ít khi thừa nhận những việc làm sai.Trên thực tế không phải
lúc nào người lớn cũng đúng.Hiểu được điều này, gia đình đã giải quyết 50%
những rắc rối của trẻ.
Từ nguyên nhân đến giải pháp, sau đây là một số đề nghị giải pháp,
có tham khảo qua nội dung trò chuyện của thạc sỹ tâm lý lâm sàng Trần Thị Hồng
Nhi với truyền thông về vấn đề này.
2.1.1. Cha mẹ là tấm gương cho con
Trang bị kỹ năng làm cha mẹ, thấu hiểu tâm lý con. Trong đó, đặc biệt
quan trọng là tính Nhất quán trong giáo dục con cái. Cha và mẹ ai cũng có lý

theo cách nhìn nhận vấn đề của mình. Làm sao để dung hòa? Phụ huynh thường có
khuynh hướng nhìn nhận sự việc và quyết định dạy con theo kinh nghiệm của bản
thân, đây là điều kiện cần; giáo dục trẻ đứng trên quan điểm lựa chọn phù hợp
nhất cho trẻ lấy trẻ làm trung tâm tại từng thời điểm, hoàn cảnh cụ thể theo ý kiến
của chúng tôi, là điều kiện đủ, để các ông bố bà mẹ nhận ra điểm chung cùng nhìn
về một phía: thống nhất cách giáo dục nào là tốt cho con của họ, chứ không phải
ai sai, ai đúng…
2.1.2. Chất lượng cuốc sống và mối quan hệ trong gia đình
Hạnh phúc: Người lớn, hãy cùng nhau vun đắp tạo cho con một môi trường
sống an toàn, yên lành và hạnh phúc. Trước tiên, hãy hạnh phúc!
23


Nguồn cảm hứng lớn nhất của chúng tôi về đề tài “Hạnh phúc” không đâu
khác chính là “Hector và hành trình thú vị đi tìm Hạnh phúc” của nhà tâm thần
học Francois Lelord được NXB Trí Việt phát hành dưới sự hiệu đính của bác sỹ
thầy giáo Lâm Hiếu Minh mà cũng vì có duyên làm học trò thầy mà chúng tôi
cóhân hạnh sớm được tiếp xúc . Với hiểu biết hạn hẹp của mình, chúng tôi không
đi sâu vào bình luận tác phẩm, mà chỉ xin trích một số chi tiết minh họa phục vụ
cho đề tài: thế nào là hạnh phúc, và làm thế nào để sống hạnh phúc?
Chúng tôi tự vấn, nếu Hector không phải là bác sỹ tâm thần,Hector đã có
gia đình, nếu Hector không sống ở Paris, hoặc giả dụ nhân vật chính là một nữ bác
sỹ (có tên Hera chẳng hạn), thì bài học về hạnh phúc có dừng ở con số 23? Sẽ
nhiều hơn?Ít hơn? Khác đi?...Không ai biết chắc được vì: Hạnh phúc là ở mỗi
người, là ở cách ta nhìn nhận sự việc (quy tắc số Thật vậy, với đề xuất “người lớn”
hãy sống hạnh phúc, hãy tạo cho con một môi trường gia đình yên lành hạnh phúc,
chúng tôi không có ý định đưa ra hình mẫu bố phải thế này, mẹ phải thế kia con
mới hạnh phúc. Thông điệp của chúng tôi là: hãy sống và thể hiện theo cách phù
hợp nhất mà bản thân mình cho “đấy là hạnh phúc” – khi bản thân mỗi người hạnh
phúc vì “cảm thấy mình có ích cho người khác” và “làm được công việc mà mình

yêu thích”. Đồng thời, hạnh phúc trong sự tương tác với gia đình nhất định phải có
sự“quan tâm đến việc làm cho người xung quanh hạnh phúc”.
2.1.3. Nuôi dưỡng và phát triển tâm lý cho trẻ
Tạo cho con niềm tự hào vì là chính mình, giúp trẻ tự tin thể hiện bản
thân, niềm tự hào về gia đình (ông bà cha mẹ), yêu quý trân trọng tình cảm gia
đình, tự hào về truyền thống, lịch sử gia đình, là tiền đề để trở thành những những
ông bố bà mẹ tốt trong tương lai và những công dân có ích cho xã hội.
Về quan điểm này, chúng tôi không thể không nhắc đến “Vừa nhắm mắt
vừa mở cửa sổ” của nhà văn Nguyễn Ngọc Thuần. Rất nhiều mẩu chuyện nhỏ
trong đó gieo cảm hứng cho chúng tôi, đến nỗi một số thành viên của nhóm những bà mẹ -quyết định phải đọc cho con mình nghe, vì mỗi đứa trẻ, đều xứng
đáng được biết về thời khắc chúng ra đời, và về “những âm thanh đẹp nhất” và vì
“những người thân trong gia đình là những người nhớ về mình nhiều và đầy đủ
24


nhất: Những người giữ bí mật của mình”. “Bố tôi nói: không có gì đẹp bằng cái
tên của mình. Một cái tên là một tình thương lớn”… “Bạn tên gi?” Có khi nào bạn
hỏi bố mẹ tại sao bạn lại có cái tên đó không? Tôi tin rằng bạn sẽ được nghe một
câu chuyện thật dài về nó. Đó là một bí mật về bạn. Một bí mật mà chỉ bố và mẹ
bạn biết. Và chỉ khi đó bạn mới biết tại sao một cái tên lại là một tiếng nói đẹp đẽ
nhất”. Lịch sử của một đứa trẻ bắt đầu từ sự kiện nó ra đời và được đặt tên, mỗi
ông bố bà mẹ đều có những câu chuyện dài cảm động đằng sau một đứa trẻ, hãy
kể cho chúng nghe, hãy để chúng tự hào và yêu quý bản thân chúng, bắt đầu từ cái
tên. Dù điều đó còn mới mẻ với bạn, vì bố mẹ bạn chưa kịp kể cho bạn nghe về cái
tên của mình.
Gieo cho con niềm tự hào vì trẻ chính là trẻ, một phiên bản đặc biệt không
ở đâu trên thế giới lặp lại, niềm tự hào về cha, mẹ, ông, bà, về những điều giản dị
quanh cuộc sống thường nhật là mảnh đất tốt cho ươm một mầm tốt cho quả ngọt
về sau.
Chuẩn bị tâm lý và kỹ năng cho con, đặc biệt là giai đoạn bắt đầu đi

học
Bước chân ra khỏi môi trường gia đình, khỏi sự chăm sóc chu đáo của mẹ
và mọi người lớn xung quanh để tới một môi trường lạ lẫm (không gian, giờ giấc,
đồ ăn thức uống), phải tuân theo những quy tắc xa lạ của tập thể, phải chia sẻ một
cô giáo cho rất nhiều bạn khác là một bước thay đổi lớn. Trẻ cần được biết, chuẩn
bị trước kỹ càng về mọi mặt đặc biệt là về tâm lý để tránh việc tới trường trở thành
một sự kiện kinh hoàng.
Đưa con buổi đầu tới trường không đơn thuần là mua cặp sách, chở con tới
cổng trường và phó thác cho cô giáo mà là trang bị để con vững vàng bước chân ra
thế giới rộng lên bên ngoài một cách tự tin cùng trí tò mò khám phá.
2.1.4. Phương pháp giáo dục:
 Phương pháp không roi vọt
Theo Thạc sĩ tâm lý Nguyễn Thị Minh, giảng viên Học viện Hành chính
Quốc gia TP HCM, thực trạng trên là vấn đề gặp phải của rất nhiều gia đình hiện
nay, khi mà bố mẹ cảm thấy “bất lực” với chính đứa con mình sinh ra. Ví dụ như
25


×