Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Dạy các bài hát trong chương trình Âm nhạc THCS theo hướng tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (585.13 KB, 14 trang )

Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Qua khảo sát, dự giờ của một số đồng nghiệp trên địa bàn huyện Nam Đông
về việc thực hiện chương trình giảng dạy môn Âm nhạc trong thời gian qua, tôi rút
ra được một số hạn chế và nêu rõ những vấn đề cần chú trọng trong quá trình dạy
các bài hát của giáo viên.
Tôi nghiên cứu đề tài “Dạy các bài hát trong chương trình Âm nhạc THCS
theo hướng tích hợp”.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Nâng cao kiến thức, hướng dẫn lối sử dụng, rèn luyện khả năng hoạt động và
nêu rõ những vấn đề cần chú trọng trong quá trình dạy các bài hát trong chương
trình Âm nhạc THCS cho giáo viên.
- Giáo viên dạy hát vận dụng được phương pháp mới, phương pháp tích hợp
các kiến thức âm nhạc, đó là sự vận dụng:
+ Lý thuyết âm nhạc.
+ Kỹ thuật thanh nhạc.
+ Lịch sử âm nhạc.
+ Các kỹ năng hoạt động âm nhạc.
Trong chương trình âm nhạc ở trường THCS, phân môn học hát chiếm một
phần quan trọng và chủ yếu. Muốn dạy hát tốt giáo viên dạy hát phải biết phân tích
bài hát, phải nắm vững các phương pháp dạy hát, các khả năng thanh nhạc cơ bản.
Đồng thời người dạy phải nắm được thể loại và tích chất của bài hát để thực hiện
được ý đồ của tác giả. Mỗi bài hát là một cảm xúc, một tâm trạng, một cách nhìn
thế giới khách quan và thể hiện mỗi tâm trạng khác nhau. Muốn dạy hát tốt không
chỉ là những thao tác riêng lẽ mà là một hoạt động tổng hợp của kiến thức, kỹ
năng và nhận thức thẫm mỹ. Đó là sự tích hợp của các nội dung học tập Âm


nhạc trong quá trình dạy hát.
Qua quá trình thực hiện việc dạy các bài hát theo hướng tích hợp kết đạt được
như sau:
- Kĩ thuật hát: học sinh hát đúng rõ lời, biết ngắt giọng, lấy hơi đúng chỗ.
- Học sinh giữ nhịp rất đều, các em biết bắt giọng vào đàn, hát tốt.
- Nhiều học sinh có ý thức tự rèn luyện mình.
- Học sinh có khả năng tiếp thu bài rất tốt.
Đối với những học sinh có năng lực cảm thụ âm nhạc đây là cơ hội để các em
thể hiện mình trong các phong trào văn hoá, văn nghệ ở trường, ở địa phương và
các nơi khác trong tương lai.
3. Đối tượng nghiên cứu:
- Giáo viên giảng dạy bộ môn Âm nhạc ở các trường THCS .
4. Phạm vi nghiên cứu:
1


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

- Giáo viên giảng dạy môn Âm nhạc phân môn học hát ở các trường THCS
trên địa bàn huyện Nam Đông.
IV. Những giải pháp chính và cách thức tiến hành của sáng kiến cải tiến
kỹ thuật.
Chương trình THCS – môn Âm nhạc được Bộ giáo dục và Đào tạo ban hành
quy định mục tiêu môn Âm nhạc như sau:
- Hình thành và phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc của học sinh (HS), tạo
cho các em có trình độ văn hóa âm nhạc nhất định, góp phần giáo dục toàn diện và
hài hòa nhân cách.

- Rèn luyện một số kỹ năng đơn giản về ca hát và tập đọc nhạc, bước đầu hát
diễn cảm.
- Khích lệ HS hăng hái tham gia hoạt động âm nhạc, làm cho đời sống tinh
thần phong phú, lành mạnh, tạo điều kiện để các em bộc lộ và phát triển năng
khiếu.
Để đạt được mục tiêu đó, môn Âm nhạc ở Trường THCS có những chức năng
sau đây:
- Cung cấp cho các em một số hiểu biết sơ giản về kỹ thuật âm nhạc.
- Xây dựng khả năng hoạt động âm nhạc, giúp thêm việc phát triển trí lực.
- Giáo dục tình cảm đạo đức trong sáng lành mạnh, làm phong phú đời sống
tinh thần cho các em.
- Giúp cho HS có trình độ văn hóa Âm nhạc nhất định, góp phần phát triển
toàn diện, hài hòa nhân cách HS.
- Qua môn học nhằm phát triển những học sinh có năng khiếu về âm nhạc, tạo
điều kiện giúp các em phát triển năng khiếu của mình.
Từ mục tiêu và chức năng của môn học, chúng ta hiểu rằng:
1. Môn Âm nhạc trong Trường THCS không nhằm đào tạo những người làm
nghề Âm nhạc, những diễn viên, những nhạc sĩ, ca sĩ… mà chính là thông qua môn
học để tác động vào đời sống tinh thần của các em, góp phần cùng với các môn học
khác thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông cũng như mục tiêu của
bậc học. Nhận thức này hết sức quan trọng để từ đó định ra nội dung học tấp và
phương pháp giảng dạy thích hợp.
2. Hình thành và phát triển năng lực cảm thụ âm nhạc của HS là một quá trình
học tập, rèn luyện. Muốn thực hiện được phải cho các em tiếp cận với âm nhạc,
tham gia ca hát, nghe âm nhạc. Nội dung học tập giảm bớt lý thuyết xoay quanh
những ký hiệu ghi chép âm nhạc đơn thuần, những bài tập nặng nề về kỹ thuật đọc
nhạc.
3. Giáo dục thẫm mỹ trong nhà trường phổ một trong bốn mặt giáo dục quan
trọng nhất: Đức – Trí – Thể - Mĩ. Âm nhạc và Mĩ thuật là những môn học chủ yếu
để thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ. Cái đẹp trong nghệ thuật âm nhạc xuất

phát từ tác phẩm, từ nghệ thuật trình diễn tạo nên những hình tượng âm nhạc có tác
2


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

dụng truyền cảm mạnh mẽ làm rung động lòng người, hướng con người tới Chân –
Thiện – Mĩ.
Giáo dục Âm nhạc trong Trường phổ thông ngoài việc cho HS được hoạt
động Âm nhạc thông qua các giờ học hát, phải chú ý cho các em nghe nhạc dân
gian của các nhạc sĩ trong nước và thế giới, đem tới cho các em niềm vui và những
cảm xúc cao thượng.
4. Hiểu biết sơ giản về nghệ thuật Âm nhạc đối với học sinh THCS là:
- Biết hát một số bài hát quy định trong chương trình từng lớp.
- Có ý thức phân biệt hát đúng – sai, hay – dở và cảm nhận được nội dung,
tính chất, tình cảm của bài hát.
- Biết một số kí hiệu ghi chép nhạc và bước đầu biết cách thể hiện những bài
tập đọc nhạc đơn giản.
- Biết một số tác giả, tác phẩm âm nhạc tiêu biểu trong nước và thế giới.
- Có một số hiểu biết thông thường về dân ca, các nhạc cụ, về các hình thức
biểu diễn âm nhạc, mối quan hệ và tác dụng của âm nhạc với đời sống xã hội.
5. Môn Âm nhạc trong Trường THCS còn tạo cho HS có một “trình độ văn
hóa âm nhạc nhất định”. Trình độ văn hóa phổ thông hay trình độ học vấn phổ
thông ở bậc THCS là do tất cả những hoạt động giáo dục và tất cả các môn học tạo
dựng nên, trong đó có “Văn hóa âm nhạc”, “Học vấn âm nhạc”. Muốn có trình độ
văn hóa âm nhạc nhất định ở bậc THCS, học sinh phải được học chương trình Âm
nhạc từ lớp 6 đến hết học kỳ I lớp 9 với thời lượng mỗi tuần một tiết. Trình độ văn

hóa âm nhạc bao gồm những hiểu biết (kiến thức), năng lực thực hành tối thiểu và
năng lực cảm thụ âm nhạc. Ở bậc THCS, giáo dục cho HS có năng lực hiểu biết,
năng lực cảm thụ sẽ được chú trọng đối với đại trà, còn năng lực thực hành tốt phần
lớn dành cho các em có năng khiếu và những em thực sự say mê, ham thích đối với
nghệ thuật âm nhạc.
6. Cần phải giáo dục thị hiếu âm nhạc tốt cho HS để các em biết yêu thích âm
nhạc lành mạnh, giàu tính nhân văn, đậm đà bản sắc dân tộc. Giáo dục thị hiếu âm
nhạc tốt sẽ góp phần làm trong sáng tình cảm đạo đức và làm phong phú đời sống
tinh thần của các em trong hiện tại và tương lai.
NỘI DUNG
1. Những vấn đề tích hợp trong quá trình dạy hát:
So với nhiều môn học truyền thống đã được giảng dạy lâu năm ở trường phổ
thông, âm nhạc là môn học còn tương đối mới mẻ, đội ngũ giáo ít và phương pháp
giảng dạy còn hạn chế. Việc dạy âm nhạc nói chung và môn hát nói riêng cần được
quan tâm, cải tiến để nâng cao chất lượng. Điều đầu tiên tôi suy nghĩ là phải giảng
dạy theo hướng tích hợp: Tích hợp trong một tiết dạy âm nhạc gồm 3 phân môn
(Học hát, Nhạc lý – Tập đọc nhạc và Âm nhạc thường thức), tích hợp ngay trong
từng phân môn.
Thế nào là tích hợp trong giảng dạy âm nhạc? Nếu học ngôn ngữ, người ta
chú ý đến hoạt động và kỹ năng Nghe – Nói – Đọc – Viết thì việc học âm nhạc ở
3


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

trường phổ thông phải chú ý đến Nghe – Hát – Đọc – Ghi và cảm thụ. Dạy âm nhạc
theo hướng tích hợp chính là sự phối hợp các hoạt động đó trong mỗi bài học, mỗi

tiết học từ nội dung đến phương pháp, từ cách truyền thụ của giáo viên đến cách
học tập và tiếp thu âm nhạc của học sinh.
Tích hợp trong dạy hát, ngoài những yêu cầu chung như đã nêu trên còn là sự
kết hợp, vận dụng các kiến thức và kỹ năng của lý thuyết âm nhạc, kỹ thuật thanh
nhạc, hình thức âm nhạc, lịch sử âm nhạc và các kỹ năng hoạt động âm nhạc.
Bấy lâu có người thường quan niệm việc dạy hát một cách đơn giản. Đơn
thuần chỉ là giáo viên hát mẫu từng câu, học sinh hát theo sau đó cả lớp hát và cứ
thế tiết học được tiến hành một cách khá đơn điệu, học sinh không được giới thiệu,
củng cố những kiến thức, kỹ năng cần thiết để nâng cao trình độ. Việc dạy như vậy
thực ra chỉ phù hợp các buổi hoạt động dã ngoại, sinh hoạt cộng đồng, sinh hoạt
Đoàn Đội, lửa trại…
Dạy hát trong chương trình SGK ở trường phổ thông, dạy hát theo hướng tích
hợp cần kết hợp và vận dụng các vấn đề sau:
1.1 Lý thuyết âm nhạc:
Người dạy hát không thể không nắm hoặc nắm không chắc các kiến thức về lý
thuyết âm nhạc.
* Trong quá trình dạy hát giáo viên phải nắm chắc các loại nhịp để hướng dẫn
HS gõ phách, gõ nhịp.
* Bài hát có những chỗ nào đảo phách hoặc nghịch phách, dấu nhấn trọng
âm ở nốt nào, nêu rõ để HS hiểu và thực hiện.
* Các loại dấu:
Dấu nối: Để HS ngân đủ phách.
Dấu luyến: Ngân chính xác và đủ nốt.
Dấu chấm: Các loại nốt trắng có dấu chấm dôi, đen có chấm dôi và đặc biệt là
nốt móc đơn có dấu chấm dôi (móc giật) khi có dấu luyến hoặc không có dấu luyến
được ứng với lời ca như thế nào.
Các loại dấu hóa thường xuyên thể hiện đầu khuông nhạc (hóa biểu), dấu hóa
bất thường thể hiện trước các nốt nhạc… giáo viên phải chú ý hướng dẫn HS hát
chuẩn xác.
Các dấu hóa trong bản nhạc và sự tiến hành giai điệu âm nhạc giúp cho giáo

viên xác định được Điệu tính của bài hát (Đô trưởng hoặc La thứ; Son trưởng hoặc
Mi thứ; Pha trưởng hoặc Rê thứ; …).
1.2 Kỹ thuật thanh nhạc:
Kỹ thuật thanh nhạc là một vấn đề cần thiết đối với một giáo viên âm nhạc và
nó càng phải được vận dụng vào trong cả quá trình hoạt động dạy hát, tiết dạy hát ở
trường phổ thông.
1.2.1 Về tư thế ca hát:

4


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

Phải hướng dẫn HS thể hiện đúng tư thế ca hát. Tư thế đứng hoặc tư thế ngồi
đều giữ cho người thẳng, không lệch vai, so vai và giữ cho trạng thái cơ bắp của cơ
thể thoải mái. Ngực hơi ưỡn mà không căng cứng để có thể hít thở dễ dàng và sâu.
1.2.2 Hơi thở:
Là một trong những kỹ thuật quan trọng nhất trong ca hát. Khi dạy hát, giáo
viên hướng dẫn HS thở sâu trước khi hát, còn khi hát thì phải kìm giữ hơi thở từ từ.
Tập cho HS cùng lấy hơi đúng chỗ ở từng câu hát. Hơi thở đúng sẽ dẫn đến sự
phong phú về mặt diễn xuất, về khả năng biểu hiện ý đồ của tác giả.
1.2.3 Nhả chữ, phát âm:
Để tránh hát giọng mũi, giọng bẹt, tránh la hét.
- Khẩu hình:
Tròn, tươi phù hợp với từng câu hát.
Trong quá trình dạy hát giáo viên cần vận dụng các phương pháp phù hợp để
hướng dẫn HS thể hiện đúng với từng câu, từng đoạn của bài hát:

- Phương pháp hát liền tiếng:
Hát liền tiếng (legato) là kỹ năng hát cơ bản, quan trọng để thể hiện các bài
hát trữ tình, các bài hát ru.
- Phương pháp hát nảy tiếng:
Hát nảy tiếng (staccato) là kỹ thuật hát nảy âm để diễn tả tình cảm rộn ràng,
vui tươi, sự náo nhiệt, sôi động. Âm thanh trong sáng, vang, nảy.
1.3 Hình thức âm nhạc:
Trong quá trình giảng dạy âm nhạc, người giáo viên cần không ngừng trao dồi
vốn kiến thức đồng thời phải biết vận dụng các kiến thức đó vào bài dạy.
Khi dạy các bài hát, giáo viên phải biết phân tích bài hát, nắm chắc các đặc
điểm, nội dung, chủ đề, thể loại và cấu trúc hình thức:
Trước hết giáo viên cần phân biệt giữa Hình thức và Thể loại âm nhạc.
Khái niệm Hình thức âm nhạc theo tư duy rộng là sự vang lên toàn bộ tác phẩm từ
nốt đầu đến nốt cuối với tất cả những yếu tố của nó là giai điệu, hòa âm, nhịp độ,
sắc thái…, còn khái niện Hình thức âm nhạc theo tư duy hẹp là một quá trình chứa
đựng các phần, các chủ đề của một tác phẩm. Trên cơ sở của những quá trình ấy,
các hình thức âm nhạc mẫu mực khác nhau được khẳng định như: Hình thức một
đoạn đơn, hai đoạn đơn, ba đoạn đơn, hình thức biến tấu, hình thức Rông đô…
Còn thể loại âm nhạc là những loại, những kiểu tác phẩm có liên quan chặt
chẽ trong phạm vi nhất định với phương pháp diễn tả cơ bản của âm nhạc như: Bài
hát lao động, bài hát ru, bài hát hành khúc…
1.3.1 Thể loại:
Các bài hát trong chương trình - SGK âm nhạc THCS có thể phân chia chủ
yếu thành các thể loại sau:
- Bài hát hành khúc:
Là những bài hát có đặc điểm chung ở nhịp độ vừa phải, hợp với bước đi,
bước hành quân, âm điệu rõ ràng, hơi khỏe mạnh.
5



Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

Trong bài hát Hành khúc, đường nét giai điệu thường có các quãng nhảy
(quãng 4, quãng 5) mang tính chất kêu gọi, thôi thúc, điễn hình như: các bài hát
Quốc ca - Văn Cao, Tiếng chuông và ngọn cờ - Phạm Tuyên, Vui bước trên đường
xa - Dân ca Nam Bộ, Hành khúc tới trường - Nhạc Pháp…
- Bài hát trữ tình:
Là những bài hát có giai điệu mượt mà, du dương, êm ái, dịu dàng… Bài hát
trữ tình thường có nhịp độ khoan thai, chậm rãi, vừa phải. Tính chu kỳ của tiết tấu
trong bài hát trữ tình không nổi lên rõ rệt như: Niềm vui của em - Nguyễn Huy
Hùng, Khát vọng mùa xuân - Mô Da…
Nhiều bài hát dân ca các dân tộc, các miền đã thể hiện rõ tính trữ tình trong
giai điệu rất đặc sắc, mang dáng vẽ rất gợi cảm như: Đi cắt lúa - Dân ca Hơ rê,
Mưa rơi - Dân ca Xá…
- Bài hát nhanh vui:
Là những bài hát thường có nhịp độ nhanh, thể hiện sự náo nhiệt, sôi nổi bằng
âm thanh linh hoạt, sáng sủa, sắc gọn như: Tiếng ve gọi hè - Trịnh Công Sơn, Mùa
hạ và những chùm hoa nắng - Nguyễn Thanh Tùng, Tia nắng hạt mưa - Khánh
Vinh, Mùa thu ngày khai trường - Vũ Trọng Tường, Nụ cười - Nhạc Nga, Lí cây đa
- Dân ca Quan học Bắc Ninh…
1.3.2 Hình thức:
Các bài hát trong chương trình Âm nhạc THCS thường được viết dưới các
hình thức sau:
- Hình thức một đoạn đơn:
+ Một đoạn đơn có hai câu:
Vui bước trên đường xa
(Dân ca Nam Bộ)

Hành khúc tới trường
(Nhạc Pháp)
Niềm vui của em
(Nguyễn Huy Hùng)
Đi cấy
(Dân ca Thanh Hóa)
Lí cây đa
(Dân ca Quan họ Bắc Ninh)
Đi cắt lúa
(Dân ca Hơ rê)
Lí dĩa bánh bò
(Dân ca Nam Bộ)
Chim bay
(Dân ca Trung Bộ)
+ Một đoạn đơn có ba câu:
Tiếng ve gọi hè
(Trịnh Công Sơn)
+ Đoạn nhạc có cấu trúc phức tạp:
Mưa rơi
(Dân ca Xá)
Gà gáy
(Dân ca Cống Khao- Tây Bắc)
- Hình thức hai đoạn đơn:
+ Hình thức hai đoạn đơn có tái hiện:
Khát vọng mùa xuân
(Mô Da)
Làng tôi
(Văn Cao)
+ Hình thức hai đoạn đơn không có tái hiện, kiểu tương phản:
6



Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

Tiếng chuông và ngọn cờ
(Phạm Tuyên)
Tia nắng hạt mưa
(Khánh Vinh- Lệ Bình)
Mùa thu ngày khai trường
(Vũ Trọng Tường)
- Hình thức ba đoạn đơn:
Em là bông hồng nhỏ
(Trịnh Công Sơn)
Tuổi đời mênh mông
(Trịnh Công Sơn)
Biết ơn Võ Thị Sáu
(Nguyễn Đức Toàn)
1.4 Lịch sử âm nhạc:
Quá trình dạy âm nhạc, các tiết dạy bài hát bao giờ giáo viên cũng có phần
giới thiệu về tác giả tác phẩm cho HS hiểu thêm.
1.4.1 Bài hát do nhạc sĩ sáng tác:
- Giáo viên phải giới thiệu về Tiểu sử Nhạc sĩ. Tên tác giả, bút danh (nếu có)
ngày tháng năm sinh, quê quán, đã sống và tham gia hoạt động âm nhạc vào thời kỳ
nào? (Thời kỳ chống Pháp, thời kỳ chống Mỹ, nhạc sĩ trưởng thành sau chiến thắng
1975…)
- Giới thiệu những tác phẩm tiêu biểu của tác giả: Ngoài bài hát sẽ hát trong
tiết học, giáo viên cần giới thiệu thêm những bài hát khác mở rộng tầm hiểu biết

cho HS.
- Giới thiệu những đóng góp của nhạc sĩ trong nền Âm nhạc Việt Nam hiện
đại. Những giải thưởng lớn nếu có (Giải thưởng Hồ Chí Minh, giải thưởng Nhà
nước, giải thưởng của Hội nhạc sĩ…).
1.4.2 Bài hát là Dân ca Việt Nam:
- Giới thiệu là Dân ca Vùng - Miền nào?
- Những phong cách riêng biệt của Dân ca Vùng - Miền đó. (Ví dụ: Do sự
khác nhau về môi trường sống, hoàn cảnh địa lý và đặc biệt là ngôn ngữ cho nên
Dân ca Tây Nguyên khác với dân ca các dân tộc miền núi phía Bắc, Dân ca Đồng
bằng Bắc Bộ dễ phân biệt với dân ca Nam Bộ…).
Dân ca Việt Nam rất phong phú và đa dạng gồm nhiều thể loại khác nhau:
Dân ca Quan họ Bắc Ninh, hát Xoan, hát Ví, hát Trống quân ở làng quê Bắc Bộ,
hát Ví dặm ở Nghệ An, Hà Tỉnh, các điệu Hò, điệu Lí ở Trung Bộ và Nam Bộ…
- Giáo viên cần nêu và trích dẫn các bản Dân ca khác của vùng miền bài hát
đang dạy.
1.4.3 Bài hát là ca khúc hoặc Dân ca nước ngoài:
- Phải nêu được tác giả sống ở thời kỳ nào, trường phái nào? (Cổ Điển, Lãng
mạn, Hiện đại, Đương đại…).
- Nêu tên một vài tác phẩm cùng thời hoặc một vài tác phẩm khác của chính
tác giả đó. (Ví dụ: Khi đang dạy bài hát Khát vọng mùa xuân của nhạc sĩ Mô Da,
giáo viên nên giới thiệu vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ Mô Da với
hơn 600 tác phẩm trong đó có 52 bản giao hưởng, 24 vở nhạc kịch và nhiều tác
phẩm âm nhạc khác trong khi ông chỉ sống có 35 tuổi. Đó là một thiên tài của nền
văn hóa nhân loại).
7


Võ Trung Kiên
tích hợp


Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

1.5 Các kỹ năng hoạt động âm nhạc:
Bên cạnh các kiến thức về lý thuyết âm nhạc, kỹ thuật thanh nhac… như đã
nêu trên, trong tiết dạy hát người Giáo viên cần phải kết hợp các hoạt động Âm
nhạc một cách nhuần nhuyễn và tinh tế.
1.5.1 Sử dụng nhạc cụ:
Là một yêu cầu hết sức cần thiết đối với một người dạy hát. Sử dụng nhạc cụ
làm cho giáo viên dạy hát được chuẩn hơn về cao độ, không bị chênh, bị phô đồng
thời HS có chỗ dựa âm thanh để hát chuẩn xác.
Nhạc cụ của giáo viên (nếu là đàn Organ) còn có những tiết tấu, nhịp độ phù
hợp với bài hát làm cho HS hát dễ dàng và hứng thú hơn.
1.5.2 Hướng dẫn gõ đệm:
Dạy Âm nhạc theo phương pháp mới là không thể để cho HS chỉ ngồi yên để
hát. Bởi Âm nhạc luôn luôn động, âm nhạc không chỉ có giai điệu mà nó còn có
tiết tấu. Khi hát giáo viên phải hướng dẫn cho HS gõ đệm theo nhịp, theo phách,
theo tiết tấu, nhịp điệu một cách nhuần nhuyễn.
1.5.3 Đánh nhịp:
Khi HS vừa hát, vừa gõ đệm thì GV bao quát HS và đánh nhịp để hướng dẫn
HS hát đúng, gõ đúng. Một số giáo viên gần như đứng yên chỉ để đánh đàn trong
suốt cả tiết dạy là không phù hợp với phương pháp mới. Bởi như vậy giáo viên sẽ
không bao quát được lớp học, không có điều kiện sửa sai cho HS, làm giảm sinh
động của tiết dạy.
1.5.4 Múa - vận động phụ họa:
Khi đã dạy hát xong, một số bài hát cần được thực hiện một số vận động phụ
họa như nghiêng người, nhún chân… hoặc cao hơn là thực hiện một số động tác
múa đơn giản để HS trình bày, trình diễn trong tiết ôn tập bài hát làm cho bài hát
được sinh động và hấp dẫn hơn. Những vấn đề đó cũng là một yêu cầu của người
giáo viên dạy hát.
Những vấn đề tôi nêu trên nhằm để tích hợp vào trong quá trình dạy hát. Tuy

nhiên tất cả những kiến thức và những hoạt động đó được vận dụng vào bài dạy
một cách nhuần nhuyễn và tinh tế.
Trong một tiết dạy không thể bê hết tất cả những kiến thức đó một cách nặng
nề mà phải được vận dụng một cách khéo léo vào chỗ này, chỗ khác thật phù hợp
trong tiến trình dạy học.
Có khi một vấn đề lại chỉ được nêu trong một câu, một vài câu, một vài ý
trong bài dạy cũng sẽ mở rộng kiến thức cho HS.
2. Một số bài dạy theo hướng tích hợp:
Trong quá trình dạy, giáo viên cần phải tích hợp các kiến thức và các kỹ
năng hoạt động Âm nhạc vào bài dạy. Tôi xin nêu một số bài dạy để đồng nghiệp
tham khảo:
2.1. Dạy bài hát “Tia nắng hạt mưa” (Tiết 26-Lớp 6)
TIA NẮNG HẠT MƯA
8


Võ Trung Kiên
tích hợp

Nhanh vừa-vui, lôi cuốn

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

Nhạc: Khánh Vinh
Thơ: Lệ Bình

2.1.1 Kiến thức về lịch sử âm nhạc:
- Giới thiệu về tác giả tác phẩm:
Nhạc sĩ Khánh Vinh tên thật là Nguyễn Khánh Vinh sinh năm 1954. Ông làm
việc ở Đài Truyền hình Cần Thơ sau đó chuyển về Đài Truyền hình Việt Nam ở TP

Hồ Chí Minh. Nhạc sĩ Khánh Vinh viết khá nhiều ca khúc cho thiếu niên. Đây là
một bài hát thành công của ông.
Tia nắng hạt mưa là bài thơ của Lệ Bình. Tia nắng hạt mưa qua cách nhìn
bằng con mắt trẻ em của nhà thơ cho thấy tác giả có sự phát hiện, tưởng tượng và
liên hệ thật thú vị.
Tia nắng có nét tinh nghịch của bạn trai, hạt mưa có nụ cười duyên của bạn
gái. Tia nắng hát theo tiếng ve, trong hạt mưa đọng lại dòng lưu bút… tất cả đều
hình như và hình như… rồi những hờn dỗi vô cớ những nổi buồn không đâu, mùa
hoa phượng vẫn rực đỏ vô tư, những Tia nắng hạt mưa vẫn luôn trẻ mãi…
Đồng cảm với dòng thơ đó. Nhạc sĩ Khánh Vinh đã phổ nhạc thành công
khiến bài hát được cảm tình của đông đảo bạn trẻ.
9


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

Bài hát được giải A cuộc thi sáng tác ca khúc của báo Hoa học trò và Hội
Nhạc sĩ Việt Nam năm 1992.
2.1.2 Kiến thức về lí thuyết Âm nhạc:
- Bài hát viết ở nhịp 2/4: là loại nhịp có 2 phách, trường độ mỗi phách bằng
1/4 tròn.
- Bài hát viết ở giọng Mi thứ.
- Các ô nhịp 21, 23, 31, 32, 33, 35, 37, 39 đảo phách.
- Bài hát có nhiều nốt luyến láy (hoa mỹ), các dấu lặng đơn… tạo những cái
ngắt cần thiết.
- Các loại dấu nhắc lại, dấu quay lại, khung thay đổi… nhằm giới thiệu và
củng cố cho HS.

2.1.3 Kiến thức về hình thức âm nhạc:
- Bài hát thuộc thể loại nhanh, vui.
- Cấu trúc hình thức hai đoạn đơn không tái hiện, dạng tương phản.
+ Đoạn a có 2 câu (16 nhịp). Mỗi câu 8 nhịp, câu 2 nhắc lại câu 1 có thay đổi
chút ít và kết ở âm chủ.
+ Đoạn b có 2 câu (17 nhịp). Câu 1 gồm có 8 nhịp, câu 2 gồm có 9 nhịp.
Đoạn b tương phản với đoạn a bằng kết cấu âm nhạc có tính tổng hợp và sử
dụng đảo phách liên tục, Âm nhạc đoạn b nghe trong sáng, tha thiết.
2.1.4 Về kỹ thuật thanh nhạc:
- Lấy hơi ở giữa các ô nhịp 4, 8, 12, ở cuối các ô nhịp, 20, 24, 28, 33.
- Ngắt hơi ở các ô nhịp: 18, 22, 26, 30.
- Đoạn a hát nảy tiếng. Phát âm gọn, rõ lời.
- Đoạn b hát liền tiếng ở đầu câu 1, câu 2, giữ âm hay phát ra nghe du dương,
tha thiết.
- Phần cuối các câu trong đoạn b hát nảy tiếng, hát rõ đảo phách, âm lượng
nhỏ hơn, như lời nhẵn nhủ.
2.1.5 Kỹ năng hoạt động âm nhạc:
- Sử dụng nhạc cụ:
+ Đánh đàn từng câu nhạc để làm chuẩn cho HS hát.
+ Cài đặt phần dạo nhạc và phần đệm để sau đó đệm máy.
- Hướng dẫn HS gõ đệm:
Gõ theo nhịp, theo phách. Chú ý cho HS phân biệt phách mạnh, phách nhẹ.
- Hướng dẫn bắt vào:
+ Các câu đoạn a: 2 – 1.
+ Các câu đoạn b: 1 – 2.
- Đánh nhịp:
+ Giáo viên bao quát toàn lớp và đánh nhịp 2/4.
+ Cho HS vận động phụ họa hoặc múa đơn giản (chú ý đúng phách mạnh,
phách nhẹ của nhịp 2/4).
2.2. Dạy bài hát: “Khát vọng mùa xuân” (Tiết 18-lớp 8)

10


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

11


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

2.2.1 Kiến thức về lịch sử âm nhạc:
- Giới thiệu về Nhạc sỹ Mô Da:
Nhạc sĩ Vôn găng- Amadơ – Moza sinh ngày 27-01-1756 ở Vương quốc Jan
Buốc thuộc nước Áo, trong một gia đình Âm nhạc, bố là nhạc sĩ biểu diễn Violong
đồng thời là người thầy đã dạy Âm nhạc cho Mô Da. Năm lên 6 tuổi, Mô Da đã
biểu diễn khắp Châu Âu. Năm 12 tuổi đã viết cả nhạc kịch.
Mô Da đã viết trên 600 tác phẩm trong đó các tác phẩm nổi tiếng như:
+ Giao hưởng: Số 25 giọng Son thứ, số 39 giọng Mi giáng trưởng, số 40
giọng Son thứ, số 41 giọng Đô trưởng.
+ Các Côngxecto cho Violong và Piano: Giọng La thứ, Giọng Đô trưởng,
giọng La trưởng.
+ Các vở nhạc kịch: Đám cưới Phigaro, Đônggioăng, Cây sáo thần…
Ngày nay trên thế giới các dàn nhạc giao hưởng, các nhà hát vẫn biểu diễn tác
phẩm của Mô Da. Hàng ngàn trang sách, bài viết của học giả, nhà báo, nhạc sĩ, các

nhà lý luận phê bình đã viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Mô Da.
Trong lịch sử âm nhạc thế giới. Mô Da là một nhạc sĩ thiên tài, một danh nhân
văn hóa lớn, một hiện tượng đặc biệt khó lặp lại trong đời sống âm nhạc của nhân
loại.
2.2.2 Giới thiệu về bài hát:
Từ nhiều năm nay, bài hát “Khát vọng mùa xuân” của Mô Da đã được phổ
biến ở nước ta. Bài hát có giai điệu đẹp, trong sáng, viết theo nhịp 6/8 tạo nên sự
nhịp nhàng, uyển chuyển. Cùng với lời ca diễn tả những hình ảnh tươi đẹp của
thiên nhiên, âm nhạc gợi cảm xúc lạc quan yêu đời với những ước mơ dào dạt của
tuổi trẻ trước mùa xuân và cuộc sống.
2.2.3 Kiến thức về lí thuyết Âm nhạc:
- Bài hát viết ở nhịp 6/8: là loại nhịp có 6 phách, trường độ mỗi phách là 1 nốt
móc đơn.
- Chú ý các dấu hóa bất thường (Đô thăng và Pha thăng).
- Lưu ý các lời ca có dấu luyến phải đọc cao độ cho chuẩn xác.
2.2.4 Kiến thức về hình thức âm nhạc:
- Bài hát “Khát vọng mùa xuân” thuộc thể loại bài hát trữ tình.
- Bài hát được viết ở hình thức hai đoạn đơn tái hiện.
+ Đoạn a có 2 câu nhạc cân phương, có nhắc đi nhắc lại. Mỗi câu có 4
nhịp.
+ Đoạn b trình bày chủ đề âm nhạc trong sáng, tươi vui về mùa xuân bằng
cách dùng nhiều lần các bậc âm ổn định đi lên, đi xuống làm cho giai điệu có tính
khúc chiết, rõ ràng, câu 1 giới thiệu ý nhạc và kết nửa (nốt Mi). Câu 2 nhắc lại chủ
đề và kết hoàn toàn ở âm chr (Nốt Đô-Đô trưởng).
12


Võ Trung Kiên
tích hợp


Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

Đoạn b có 2 câu nhạc, mỗi câu gồm có 4 nhịp.
Đoạn b phát triển bằng sự thay đổi màu sắc giai điệu với nhiều quãng nửa
cung và sự xuất hiện dấu hóa bất thường, cuối câu li điệu sang Son trưởng.
Câu 2 xuất hiện chủ đề mới, tha thiết, dịu dàng, tương phản với đoạn a.
Câu 2 là sự tổng kết chủ đề âm nhạc ở cả đoạn a và kết đầy đủ ở giọng chủ Đô
trưởng.
2.2.5 Về kỹ thuật thanh nhạc:
- Ngân đủ các nốt đen có chấm và lấy hơi thay thế vào cuối các ô nhịp 4, 8,
12, 16.
- Ngắt hơi ở các ô nhịp: 18, 22, 26, 30.
- Kỹ thuật hát liền giọng với âm thanh trong sáng, mượt mà.
- Hát nhấn mạnh hơn vào các phách đầu nhịp, thể hiện rõ nhịp 6/8.
- Những quãng nửa cung liên tiếp ở ô nhịp 8, 9, 11, 12 là khó hát, chú ý
nghe và điều chỉnh cho HS.
- Tư thế ca hát duyên dáng, mềm mại, có thể đứng hát hoặc ngồi hát.
2.2.6 Kỹ năng hoạt động âm nhạc:
- Chuẩn bị phần đệm: Cần chú ý về tiết tấu và nhịp điệu thể hiện rõ nhịp
6/8 có 1 phách mạnh và 1 phách mạnh vừa.
- Hướng dẫn HS gõ đệm: Nhấn rõ vào phách thứ nhất và phách thứ tư.
- Đánh nhịp:
+ Có thể đánh theo 2 cách:
Cách 1: Thể hiện cả 6 phách theo sơ đồ:

Cách 2: Đánh dấu nhấn vào 2 phách và mạnh vừa theo sơ đồ:

- Múa - Vận động phụ họa:
Đây là bài hát trữ tình có tính chất du dương, uyển chuyển. Giáo viên có
thể hướng dẫn cho HS một số cách nhún chân, nghiêng người trong lúc đứng hát

13


Võ Trung Kiên
tích hợp

Dạy các bài hát trong chương trình THCS theo hướng

hoặc có thể hướng dẫn gợi ý một số động tác múa đơn giản để về nhà luyện tập và
tiết ôn tập trình diễn theo tổ, nhóm.
KẾT LUẬN
Môn Âm nhạc ở trường THCS nhằm tạo nên một trình độ văn hóa âm nhạc
cho HS. Muốn đạt được trình độ văn hóa âm nhạc đó HS cần phải có một học vấn
âm nhạc do tất cả các hoạt động Dạy - Học, giáo dục của các phân môn tạo dựng
nên.
Quan điểm tích hợp các phân môn trong giảng dạy Âm nhạc là hết sức đúng
hướng, vì vậy việc tích hợp các kiến thức, các kỹ năng hoạt động Âm nhạc trong
dạy hát là một yêu cầu cần thiết và hiệu quả.
Người giáo viên phải luôn luôn tích lũy kiến thức, tìm tòi, suy nghĩ để không
ngừng hoạt động sáng tạo.
Tình cảm đạo đức của HS sẽ trong sáng và lành mạnh hơn, năng lực cảm thụ
âm nhạc của các em sẽ phong phú và đa dạng hơn, thị hiếu âm nhạc của các em sẽ
không ngừng phát triển và nâng cao khi công tác giảng dạy âm nhạc luôn được
quan tâm đổi mới và sáng tạo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Anh Tuấn (2009), Thiết kế bài giảng Âm nhạc THCS (6,7,8,9), Nxb
Hà Nội
2. Hoàng Long – Lê Minh Châu (2010), Sách giáo viên Âm nhạc (6,7,8,9),
Nxb Giáo dục Viêt Nam


14



×