Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH KHỐI 12 TRƯỜNG THPT ĐỒNG HỶ -HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.71 KB, 70 trang )

HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC

KHOA GIÁO DỤC
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH KHỐI 12 TRƯỜNG THPT ĐỒNG HỶ HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC HỌC

Người thực hiện : Nguyễn Thị Thanh Huyền
Lớp
: TLGD K2A

Hà Nội, Năm 2012


HỌC VIỆN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
KHOA GIÁO DỤC
----------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

BIỆN PHÁP GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH KHỐI 12 TRƯỜNG THPT ĐỒNG HỶ HUYỆN ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN

CHUYÊN NGÀNH: GIÁO DỤC HỌC

Người thực hiện


Lớp
Người hướng dẫn

: Nguyễn Thị Thanh Huyền
: TLGD K2A
: ThS. GVC. Nguyễn Thị Nhỏ

Hà Nội, Năm 2012


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc tới Ban giám đốc, Phòng đào tạo,
Văn phòng khoa giáo dục, các thầy cô giáo trong hội đồng khoa học trường
Học viện quản lý giáo dục đã giảng dạy, tạo điều kiện và quan tâm giúp đỡ
em trong suốt quá trình học tập.
Em xin chân thành cảm ơn tới:
Lãnh đạo, ban giám hiệu cùng toàn thể các thầy cô trong hội đồng sư
phạm, các bậc phụ huynh, toàn thể học sinh khối 12 trường THPT Đồng Hỷ.
Cùng gia đình, bạn bè tạo điều kiện thuận lợi và động viên, chia sẻ, giúp đỡ
tôi hoàn thành khóa học và khóa luận tốt nghiệp.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn và kính trọng tới Thạc sĩ Nguyễn Thị Nhỏ,
cô đã tận tình trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình nghiên cứu,
thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù rất cố gắng nhưng do hạn chế về
thời gian, phương pháp nghiên cứu, năng lực bản thân cũng như chưa được
trải nghiệm thực tiễn nên chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn, những ai
quan tâm đến đề tài này để việc nghiên cứu tiếp theo của em được tốt hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Hà nội, tháng 5 năm 2012

Tác giả

Nguyễn Thị Thanh Huyền


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ GD & ĐT
Bộ LĐ - TB - XH
CN - XD
CNH - HĐH
CSVC
ĐH - CĐ
GD - QPAN
GD
GDH
GDHN
GV
GVG
HN
HS

Bộ Giáo dục và đào tạo
Bộ Lao động thương binh xã hội
Công nghiệp - xây dựng
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa
Cơ sở vật chất
Đại học - cao đẳng
Giáo dục quốc phòng an ninh
Giáo dục
Giáo dục học

Giáo dục hướng nghiệp
Giáo viên
Giáo viên giỏi
Hướng nghiệp
Học sinh

HSPT
KTTH - HN - DN

LĐSX
NN
PPDH
PPGD
TCCN
THPT
TN
TSL
TVCN
XH
XHCN

Học sinh phổ thông
Kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp dạy nghề
Lao động
Lao động sản xuất
Nghề nghiệp
Phương pháp dạy học
Phương pháp giáo dục
Trung cấp chuyên nghiệp
Trung học phổ thông

Tốt nghiệp
Tâm sinh lý
Tư vấn chọn nghề
Xã hội
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Giáo dục hướng nghiệp có vai trò giúp HS có định hướng nghề nghiệp
đúng đắn, lựa chọn con đường lập nghiệp sau khi học xong phổ thông. Thời gian
qua, tình trạng thừa thầy thiếu thợ, mất cân đối trong cán cân nhân lực xã hội,
tình trạng đào tạo tràn lan mà SV ra trường không có việc làm gây nhiều hệ lụy
cho thấy khâu hướng nghiệp trong nhà trường chưa hoàn thành “sứ mệnh”.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế.
Nền kinh tế chuyển từ quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có định hướng
XHCN. Bối cảnh quốc tế và trong nước vừa tạo thời cơ lớn vừa đặt ra những
thách thức không nhỏ cho giáo dục nghề nghiệp ở Việt nam. Đồng thời, những
tiến bộ khoa học- công nghệ và những đổi mới về tổ chức, quản lý sản xuất dịch vụ trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội cũng đặt ra những yêu cầu mới
về cơ cấu và chất lượng đào tạo nhân lực nói chung và đào tạo nghề nghiệp nói
riêng. Ở Việt Nam, lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn so với hai
ngành: công nghiệp và dịch vụ. Người lao động ít thay đổi nghề nghiệp do
nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Trong đó, nguyên nhân quan trọng
là sự lạc hậu, bất cập trong đào tạo nghề và sự phiến diện trong hướng nghiệp.
Trong giáo dục nghề nghiệp, cần gắn nối chặt chẽ, đa dạng hóa hình thức
giảng dạy, học tập và nâng cao trình độ cho cả trung cấp chuyên nghiệp lẫn dạy
nghề. Bối cảnh xã hội ở Việt Nam cũng làm nảy sinh những yêu cầu mới về
hướng nghiệp. Hiện nay, hoạt động GDHN đã được đưa vào chương trình chính
khóa ở trường phổ thông song do đội ngũ giáo viên chưa chuyên trách, nguồn

kinh phí và cơ sở vật chất dành cho hoạt động này chưa được quan tâm đúng
mức... nên kết quả còn hạn chế. Cần mở rộng cơ chế chính sách để đưa tư vấn
hướng nghiệp vào nhà trường phổ thông và có kinh phí dành cho hoạt động này.
Trong hướng nghiệp ở trường phổ thông, GV cần “theo sát yêu cầu của
thị trường lao động và giúp đỡ HS xây dựng và phát triển các kế hoạch nghề
nghiệp sao cho phù hợp nhất với bản thân”. Hướng nghiệp là hướng đến thế giới
việc làm, không phải hướng đến 1 nghề mà hướng đến một nhóm nghề và rộng


hơn. Trong hướng nghiệp có cả hướng học nên trong trường phổ thông việc quan
trọng là tư vấn hướng học cho học sinh. Tư vấn hướng nghiệp không chỉ chú ý
đến sự phù hợp, thích ứng nghề nghiệp mà cần quan tâm hơn đến sự say mê,
hứng thú, khám phá thế giới nghề nghiệp. Bên cạnh đó, cần mở rộng công tác
hướng nghiệp sang các trường ĐH, CĐ, TCCN và các đối tượng ngoài XH.
Để giúp cho công tác hướng nghiệp và đào tạo nghề đạt hiệu quả, nước ta
cần có một hệ thống thông tin về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động và
dự báo nguồn nhân lực của các ngành nghề trong hiện tại và tương lai một cách
thống nhất, đầy đủ. Bên cạnh đó, việc đề ra các biện pháp GDHN cho học sinh
cuối cấp là một việc rất cần thiết.
Chính vì vậy, xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn và nghiên cứu
đề tài “Biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 trường THPT
Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề xuất biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 trường
THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên nhằm góp phần giúp học
sinh có định hướng đúng đắn trong việc lựa chọn nghề nghiệp
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu:
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình giáo dục trong nhà trường THPT
- Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12
trường THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên

4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về biện pháp GDHN cho học sinh THPT
- Tìm hiểu thực trạng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 ở trường
THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
- Đề xuất biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 trường THPT
Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
5. Phương pháp nghiên cứu:
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Tiến hành sưu tầm, nghiên cứu tài liệu sách báo có liên quan, phân tích,
hệ thống hóa, khái quát hóa, tổng hợp lý thuyết liên quan đến đề tài để xây dựng
cơ sở lý luận cho đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn


- Phương pháp quan sát:
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
- Phương pháp phỏng vấn: tiến hành phỏng vấn sâu 1 số giáo viên và học sinh để
thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho việc phân tích và đánh giá thực
trạng về vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi: tiến hành xây dựng 2 phiếu hỏi dành cho
2 đối tượng là giáo viên và học sinh nhằm thu thập những thông tin cần thiết
phục vụ cho việc phân tích và đánh giá thực trạng giáo dục hướng nghiệp cho
học sinh khối 12 trường THPT Đồng Hỷ.
- Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến của các chuyên gia thuộc lĩnh vực GDHN,
hướng nghiệp, các GV, các nhà quản lý có kinh nghiệm để trao đổi những vấn đề
có liên quan đến đề tài: xây dựng đề cương, tiến hành nghiên cứu và viết đề tài.
5.3. Các phương pháp thống kê toán học
- Sử dụng các phần mềm thống kê như EXCEL 2003, nhằm xử lý kết quả điều
tra để đưa ra các tham chiếu đặc trưng.
6. Phạm vi nghiên cứu:

- Về khách thể điều tra: học sinh khối 12, giáo viên trường THPT Đồng Hỷ huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
- Về nội dung nghiên cứu: biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối
12 ở trường THPT Đồng Hỷ.
- Thời gian nghiên cứu:
+ Tháng 12/2011: đọc tài liệu, xác định tên đề tài, lập đề cương nghiên cứu
+ Tháng 1/2012: đọc tiếp tài liệu, lập đề cương chi tiết, xây dựng phiếu điều tra
+ Tháng 2, 3/2012: điều tra khảo sát thực tế đề tài nghiên cứu
+ Tháng 4/2012: thu thập số liệu, viết báo cáo khoa học
+ Tháng 5/2012: bảo vệ đề tài khóa luận tốt nghiệp
- Địa điểm nghiên cứu: trường THPT Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
7. Cấu trúc của đề tài:
Đề tài gồm 3 chương, ngoài ra có phần mở đầu, kết luận, kiến nghị, tài liệu tham
khảo, phụ lục. Phần nội dung của khóa luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
- Chương 2: Thực trạng giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 ở trường
THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên.


- Chương 3: Biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 trường
THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên


Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP CHO
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Một số khái niệm công cụ
1.1.1. Giáo dục
- Khái niệm giáo dục (theo nghĩa rộng) được hiểu là quá trình tác động có mục
đích, có tổ chức, có kế hoạch, có nội dung và bằng phương pháp khoa học của
nhà giáo dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình

thành nhân cách cho họ.
- Theo nghĩa hẹp giáo dục là quá trình hình thành cho người được giáo dục lý
tưởng, động cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những
hành vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ
các hoạt động và giao lưu.
1.1.2. Hướng nghiệp
- Có nhiều lĩnh vực khoa học đề cập tới công tác HN để hiểu được bản chất của
khái niệm này chúng ta cần xem xét các định nghĩa khác nhau về hướng nghiệp.
Về phương diện kinh tế học, HN được hiểu là hệ thống những biện pháp
dẫn dắt, tổ chức thanh, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp nhằm sử dụng
hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi của đất nước. Hướng nghiệp góp phần tích
cực vào quá trình phấn đấu nâng cao năng suất lao động xã hội.
Theo từ điển tiếng Việt thì: “HN là thi hành những biện pháp nhằm đảm
bảo sự phân bố tối ưu (có chú ý tới năng khiếu, năng lực thể lực) nội dung theo
ngành và loại lao động giúp đỡ lựa chọn hợp lý ngành nghề [17, tr.458].
Còn theo từ điển giáo dục học thì “HN là hệ thống các biện pháp giúp đỡ
học sinh làm quen tìm hiểu nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với nguyện
vọng, năng lực, sở trường của mỗi người. Với nhu cầu và điều kiện thực tế khách
quan của xã hội”. [16, tr. 209]
Cũng đề cập tới hướng nghiệp, tác giả Phạm Tất Dong cho rằng “HN như
là một hệ thống tác động của xã hội về giáo dục về y học, kinh tế học nhằm giúp
cho thế hệ trẻ chọn được nghề nghiệp phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện
vọng, sở trường của mỗi cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu của các lĩnh vực sản xuất
trong nền kinh tế quốc dân”. Dưới góc độ giáo dục phổ thông thì có thể coi “HN
là sự tác động của một hệ thống những biện pháp tác động của nhà trường, gia


đình và xã hội, trong đó nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và
chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các ngành nghề, tại những nơi
xã hội đang cần phát triển, đồng thời lại phù hợp với hứng thú, năng lực cá

nhân” [11, tr 11]. Kết quả cuối cùng của quá trình HN là sự tự quyết định của
học sinh trong việc lựa chọn nghề nghiệp tương lai.
1.1.3. Giáo dục Hướng nghiệp
Theo tài liệu GD và tư vấn hướng nghiệp: “GDHN là hệ thống các biện
pháp giáo dục của nhà trường, gia đình và xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ tư
tưởng, tâm lý, tri thức, kỹ năng để họ có thể sẵn sàng đi vào ngành nghề, vào lao
động sản xuất và cuộc sống. GDHN góp phần phát huy năng lực, sở trường của
từng người, đồng thời góp phần điều chỉnh nguyện vọng của cá nhân sao cho
phù hợp với nhu cầu phân công lao động trong xã hội. Có thể nói ngắn gọn là
GDHN là hướng dẫn cho học sinh ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường sớm có
ý thức về một nghề mà sau này các em sẽ chọn”.
Theo Giáo dục học tập 2 của Trần Thị Tuyết Oanh:
- Hướng nghiệp là một hoạt động của tập thể sư phạm nhằm giúp HS chọn nghề
một cách hợp lý, phù hợp với hứng thú, nguyện vọng, năng lực của cá nhân và
yêu cầu của XH.
- Hướng nghiệp được coi là một bộ phận cấu thành trong toàn bộ công tác giáo
dục. Việc chọn nghề của học sinh không thể để diễn ra một cách ngẫu nhiên, tự
phát mà phải là một quá trình giáo dục. Dưới sự hướng dẫn, ảnh hưởng của thầy
giáo, cha mẹ, bạn bè, thông tin dư luận xã hội... làm cho quá trình chọn nghề của
học sinh từ chỗ “định hướng ban đầu“ đến chỗ “tự quyết định con đường đi vào
nghề nghiệp tương lai“ được đúng đắn.
1.1.4. Biện pháp giáo dục
- Biện pháp: Biện pháp là cách thức, con đường chuyển tải nội dung nhằm đạt
được mục đích đề ra. Như vậy có nghĩa là căn cứ vào nội dung để tìm ra cách
thức, con đường phù hợp, hiệu quả nhất để đạt được mục đích
- Biện pháp giáo dục: Biện pháp GD hay cả PPGD đều được quy định bởi các
hành động phối hợp giữa nhà GD và người được GD nhằm chuyển tải nội dung,
thực hiện các nhiệm vụ GD đạt được mục đích giáo dục đặt ra. Song biện pháp
GD cụ thể hơn, PPGD mang tính khái quát hơn. Vì thế biện pháp giáo dục được
xem xét như sau: Biện pháp giáo dục bao gồm một số hành động của nhà GD và



người được giáo dục, các hành động này thống nhất với nhau nhằm thực hiện
mục đích chung là hình thành những phẩm chất nhân cách của người được giáo
dục (GDH tập 2, Trần Thị Tuyết Oanh chủ biên…)
1.1.5. Biện pháp giáo dục hướng nghiệp
- Là một loạt cách thức giải quyết vấn đề hướng nghiệp được đưa ra nhằm
thay đổi, hoàn thiện cách giáo dục hướng nghiệp sao cho phù hợp nhất với tình
hình thực tế thay đổi không ngừng hiện nay về cả mặt xã hội và nhu cầu hướng
nghiệp ngày càng cao của học sinh.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về giáo dục hướng nghiệp cho học sinh THPT
hiện nay
1.2.1. Vị trí, vai trò của GDHN
Giáo dục hướng nghiệp là một bộ phận của công tác giáo dục. Đây là công
tác điều chỉnh động cơ chọn nghề của HS, điều chỉnh hứng thú nghề nghiệp cho
các em theo xu thế nhu cầu lao động xã hội và sự phân công lao động xã hội.
Thực tế đã cho thấy: sự lựa chọn nghề nghiệp một cách tự phát của thanh, thiếu
niên ít khi phù hợp với hướng sản xuất, nhu cầu lao động của xã hội nên xảy ra
tình trạng mất cân đối như hiện nay (người có trình độ đại học thì quá nhiều
trong khi đó công nhân kỹ thuật, thợ lành nghề lại thiếu). Vì vậy tác động của
giáo dục hướng nghiệp có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển của xã hội. Kết
quả của GDHN là giúp học sinh chọn nghề trên cơ sở phù hợp với nguyện vọng
của bản thân, điều kiện hoàn cảnh gia đình mình phù hợp với đặc điểm của nghề
và phù hợp với nhu cầu xã hội….
GDHN luôn hướng vào việc sử dụng hợp lý tiềm năng lao động trẻ tuổi
của đất nước từ đó nâng cao năng suất lao động xã hội, đồng thời đưa thanh
thiếu niên vào đúng vị trí lao động nghề nghiệp, giúp họ phát huy hết năng lực
sở trường lao động. Phát triển cao hứng thú nghề nghiệp, làm tăng khả năng sáng
tạo trong lao động. Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa trong công tác giáo dục
hướng nghiệp. Từ đó biến nghề nghiệp không chỉ là nơi kiếm sống đơn thuần mà

còn là nơi giúp cá nhân thể hiện nhân cách, phát triển tài năng, hết mình cống
hiến sức lực và trí tuệ cho công cuộc xây dựng tổ chức. Tuy nhiên để đảm bảo ý
nghĩa kinh tế của giáo dục hướng nghiệp thì trường phổ thông phải gắn mục tiêu
đào tạo với những mục tiêu kinh tế xã hội. Sự phát triển kinh tế của xã hội phụ
thuộc rất nhiều vào việc chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào lao động sản xuất đi vào


sự phân công lao động trong phạm vi cả nước và từng địa phương. Chính vì vậy
hướng nghiệp có nhiệm vụ quan trọng bởi thông qua đó nghề nghiệp, phân bố lại
lực lượng lao động trong xã hội, chuyên môn hoá tiềm năng lao động trẻ tuổi.
GDHN có tác dụng góp phần cụ thể hoá mục tiêu giáo dục của trường phổ
thông tức là hoạt động hướng nghiệp có chức năng thực hiện hoá đường lối giáo
dục của Đảng và Nhà nước, hiện thực hoá đường lối giáo dục trong đời sống xã
hội, GDHN phải được coi là điều kiện đảm bảo chất lượng và hiệu quả giáo dục.
GDHN sẽ tạo nên những yếu tố mới trong con người lao động - yếu tố cơ bản
của việc tăng năng suất lao động xã hội. Làm tốt giáo dục hướng nghiệp, sẽ có
những lớp người mới đủ năng lực và phẩm chất cách mạng để xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Tóm lại GDHN có ý nghĩa đối với sự triển khai chiến lược con người
- một bộ phận của chiến lược kinh tế và khoa học - kỹ thuật. Xét ở bình diện xã
hội, GDHN có tác dụng điều chỉnh sự phân công lao động xã hội, tạo ra sự cân
bằng trong việc phân bố lực lượng dân cư.
Chúng ta biết rằng để thanh, thiếu niên đứng ngoài lao động nghề nghiệp đứng
ngoài việc làm sẽ gây nên nhiều tác hại phức tạp về mặt xã hội. Bởi vậy cần
hướng dẫn thanh, thiếu niên chọn nghề cho mình sao cho phù hợp đồng thời có
thái độ sẵn sàng tham gia và lao động SX và hoạt động nghề nghiệp nhằn góp
phần sức lực, trí tuệ cho công cuộc xây dựng đất nước. Qua đó tạo nên ý thức xã
hội và xây dựng vị trí chỗ đứng trong xã hội của thế hệ trẻ.
1.2.2. Nội dung GDHN cho học sinh THPT
GDHN phải cung cấp cho học sinh sự hiểu biết về hệ thống nghề nghiệp
trong xã hội, đặc biệt với những nghề phổ biến và quan trọng nhất của nền kinh

tế, đồng thời cũng phải giúp cho học sinh l àm quen với những nghề chính của
địa phương (trên địa bàn xã, huyện) và những nghề có tính chất truyền thống.
Bên cạnh hệ thống nghề nghiệp, trong các giờ hướng nghiệp cũng phải cho học
sinh hiểu biết về hệ thống các trường nghề (trường dạy nghề, các trường trung
học và đại học, cao đẳng).
Nội dung công tác hướng nghiệp là giáo dục thái độ lao động và ý thức
đúng đắn đối với nghề nghiệp, thông qua các giờ hướng nghiệp, giờ học tập các
bộ môn văn hoá cơ bản giúp học sinh có thái độ đúng đắn với lao động và người
lao động, thấy rõ trách nhiệm của mình đối với xã hội, đánh giá đúng những khó


khăn và thuận lợi của đất nước của địa phương nhằm tạo cho mình tâm lý sẵn
sàng đi vào mọi nghề.
Ngoài ra hướng nghiệp còn bao gồm cả việc giới thiệu những yêu cầu mà
nghề nghiệp đòi hỏi cần có ở con người: như về tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, tâm
sinh lý và điều kiện sức khoẻ. Đó là những thực tế đặt ra trước học sinh, giúp các
em có cơ sở khoa học, lường thấy hiện thực trong nghề của mình sẽ lựa chọn,
xem xét sự phù hợp hay không phù hợp với mình.
Trong nội dung hướng nghiệp phải giải thích, tuyên truyền về các nghề
trong xã hội, giúp học sinh có hiểu biết khái quát về cơ cấu của nền kinh tế quốc
dân, về vị trí vai trò của từng nghề đối với nền kinh tế, đặc điểm của nghề,
những yêu cầu về tâm sinh lý của người lao động đối với nghề.
Nội dung công tác hướng nghiệp triển khai trong quá trình LĐSX sẽ giúp
cho HS nắm được những nguyên lý của tổ chức và quản lý sản xuất xã hội công
nghiệp, là cơ sở giúp các em xác định phẩm chất, năng lực nghề nghiệp của bản
thân một cách chính xác và có sự lựa chọn nghề phù hợp.
Nội dung công tác hướng nghiệp cần được tiến hành giảng dạy trong các bộ
môn khoa học cơ bản, trong tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp sẽ tạo
cho học sinh có điều kiện hiểu được sự vận dụng tri thức trong lĩnh vực nghề
nghiệp nhất định, thấy rõ tiềm năng và triển vọng của địa phương, của đất nước

đối với sự phát triển kinh tế và tương lai của một số ngành nghề. Đồng thời
hướng dẫn HS đi vào những nghề, những nơi đang cần nhiều lao động trẻ tuổi.
1.2.3. Nhiệm vụ GDHN trong nhà trường phổ thông
Theo tài liệu Giáo dục và tư vấn hướng nghiệp của TS Phạm Văn Sơn,
công tác HN trong trường phổ thông nhằm thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nhiệm vụ 1: tổ chức các hoạt động giúp HS làm quen với nghề với các loại
hình thông tin sau: Một là thông tin về thế giới nghề nghiệp theo phân loại nghề.
Hai là thông tin về nghề cụ thể hiện có trong cả nước và ở địa phương. Khi đó
phải nêu rõ tầm quan trọng của nghề, đối tượng LĐ, nội dung LĐ, những thao
tác LĐ cơ bản, những yêu cầu tâm sinh lý của nghề, các chống chỉ định y học,
triển vọng của nghề, nơi đào tạo nghề. Ba là thông tin về hệ thống trường đào
tạo: Hệ thống các trường đào tạo của Bộ GD&ĐT, của Bộ LĐ-TB-XH, các
trường đào tạo quân đội, an ninh, nghệ thuật… Bốn là thông tin về thị trường lao


động: Đây là những thông tin về nhu cầu sử dụng nhân lực các loại của các tỉnh,
thành phố, khu công nghiệp…
- Nhiệm vụ 2: Tổ chức các hoạt động GD nghề nhằm hình thành hứng thú nghề,
khuynh hướng nghề, năng lực nghề giúp HS có ý thức chọn nghề. Các hoạt động
chính như: thực hiện chương trình HN chính khóa, GDHN qua dạy học các môn
văn hóa cơ bản, GDHN qua dạy môn công nghệ và dạy nghề phổ thông, tổ chức
các hoạt động ngoại khóa
- Nhiệm vụ 3: Tư vấn chọn nghề (TVCN) cho HS: được hiểu là hệ thống các
biện pháp tâm lý - giáo dục - y học nhằm phát hiện và đánh giá toàn diện năng
lực của thanh thiếu niên với mục đích giúp HS chọn nghề trên cơ sở khoa học.
TVCN là điều chỉnh động cơ chọn nghề của HSPT. Vì nhà trường chưa làm tốt
việc này nên tồn tại hiện tượng quá tải trong kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ trong các
năm gần đây. Tư vấn chuyên sâu: hình thức này phức tạp, vì phải tiến hành trên
cơ sở khoa học, phải đảm bảo tính chính xác cao nhờ sử dụng các thiết bị để đo
các phẩm chất tâm sinh lý học sinh. Vì thế hình thức này tiến hành ở các Trung

tâm KTTH-HN-DN, trung tâm tư vấn khác. Để tư vấn chuyên sâu: Phải có đội
ngũ chuyên gia tư vấn có trình độ, tay nghề cao. Chuyên gia phải có kiến thức về
thế giới nghề nghiệp, yêu cầu của nghề, có kiến thức về nhân cách: Động cơ,
hứng thú, khuynh hướng, năng lực nghề nghiệp của HS, có kiến thức về kinh tế,
về nhu cầu phát triển nhân lực...
- Nhiệm vụ 4: Tìm hiểu, nghiên cứu HS. Chiếm vị trí đặc biệt trong thành phần
cấu trúc của HN. Nghiên cứu HS trước hết là nhân cách nghề nghiệp (động cơ
chọn nghề, hứng thú nghề nghiệp, khuynh hướng và năng lực nghề nghiệp). Các
phương pháp cơ bản để nghiên cứu như: phân tích kết quả học tập các môn của
HS, phân tích bài làm, sản phẩm mà HS thực hiện qua các giờ lao động kỹ thuật,
theo dõi sự phát triển tính cách, các phẩm chất ý chí, trạng thái cảm xúc, khả
năng tập trung...
- Nhiệm vụ 5: Giáo dục thái độ ngành nghề đúng cho HS. Thái độ nghề nghiệp
biểu hiện ở chỗ HS luôn kính trọng người LĐ làm việc ở cương vị nào (lãnh đạo
hay nhân viên), nghề gì (nghề lao động trí óc hay lao động chân tay), kể cả các
nghề thấp kém (nhưng đây là sự phân công của xã hôi). Phải làm cho HS thấy
rằng LĐ thực sự là vinh quang, là cần thiết.


5 nhiệm vụ trên chính là những vấn đề cơ bản rất quan trọng của công tác
tổ chức GDHN trong nhà trường PT. Các nhiệm vụ phản ảnh tính liên tục của
các giai đoạn GDHN và tất cả các GV phổ thông đều phải tham gia vào hoạt
động GDHN cho HS. GDHN ở trường phổ thông tốt sẽ góp phần phân luồng,
giảm áp lực của các kỳ thi tuyển sinh ĐH, CĐ, định hướng PT nguồn nhân lực
quốc gia, chuẩn bị các điều kiện cho HSPT sau tốt nghiệp tham gia lao động XH.
Đồng thời GDHN tốt sẽ tiết kiệm được một khoản tài chính rất lớn cho gia đình,
XH hàng năm.
Theo cuốn Giáo dục học tập 2 của Trần Thị Tuyết Oanh, nhiệm vụ của
GDHN gồm những nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất, định hướng nghề nghiệp: công việc chủ yếu của định hướng nghề

nghiệp là thông tin về sự phát triển của các nghề trong XH, nhất là những nghề
đang cần nhiều nhân lực, kể cả những nghề trong khu vực kinh tế Nhà nước và
các thành phần kinh tế khác trong cả nước nói chung và ở địa phương nói
riêng… để học sinh có hướng chọn cho mình nghề phù hợp. Đối tượng tác động
để định hướng nghề nghiệp là học sinh, đặc biệt là những học sinh lớp cuối cấp
(lớp 9 và lớp 12). Biện pháp và phương tiện thông tin nghề nghiệp cho HS là:
Giới thiệu, tuyên truyền về nghề qua buổi sinh hoạt hướng nghiệp. Tạo điều kiện
cho HS được làm quen với một số nghề hiện có trong xã hội.Tăng cường và mở
rộng các phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh tuyên truyền, báo chí, phim
ảnh, quảng cáo..) để giới thiệu về nghề.
- Thứ hai, tư vấn nghề nghiệp: Tư vấn nghề nghiệp là hoạt động giúp các cá
nhân, đặc biệt là thanh thiếu niên trong quá trình định hướng, tìm chọn cũng như
thay đổi nghề. Trong các trường phổ thông hiện nay, công tác hướng nghiệp
được coi là một nội dung giáo dục của nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp
thường là người tư vấn nghề nghiệp cho HS. Người làm công tác tư vấn qua quá
trình tiếp xúc với HS, với cha mẹ HS, với các giáo viên bộ môn... nắm được đặc
điểm nhân cách của HS, hoặc dựa vào sự khảo sát, điều tra, đánh giá các môn
văn hóa, môn kỹ thuật và lao động sản xuất, nghiên cứu các sản phẩm hoặc kết
quả hoạt động... người làm công tác tư vấn lập sổ hướng nghiệp cho từng HS,
ghi lại những gì cần thiết; cuối cùng trên cơ sở đó cho HS những lời khuyên
trong việc chọn nghề.
- Thứ ba là tuyển chọn nghề (thích hợp nghề)


Ngoài ra, người làm công tác tư vấn hướng nghiệp phải xây dựng phác đồ
nghề nghiệp để giới thiệu cho HS, chỉ ra cho HS thấy được mức độ phù hợp hay
không phù hợp giữa nhận thức, khả năng của cá nhân với yêu cầu thực tế khách
quan của nghề, tức là mối quan hệ giữa nghề với cá nhân. Từ đó, HS sẽ quyết
định chọn nghề gì.
Trường phổ thông căn cứ vào nhu cầu nhân lực của mỗi nghề cụ thể trong

kế hoạch phát triển kinh tế để định hướng, tư vấn nghề nghiệp cho HS. Nghiên
cứu, tham khảo sổ hướng nghiệp của HS, các trường dạy nghề, trường trung học
chuyên nghiệp, đại học, cao đẳng, nhà máy, xí nghiệp, hợp tác xã... sẽ có những
dữ liệu quan trọng để tuyển chọn người phù hợp, làm rõ được mối quan hệ nghề
- cá nhân trong việc sắp xếp, bố trí nghề.
Ba nhiệm vụ của công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông có mối
quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau, có thể biểu diễn mối quan hệ đó bằng sơ đồ tam
giác hướng nghiệp.
Định hướng nghề nghiệp
Tư vấn nghề nghiệp

Tuyển chọn nghề nghiệp

Yêu cầu của nghề

Thị trường lao động
Đặc điểm nhân cách

Sơ đồ 1.1. Sơ đồ tam giác hướng nghiệp
1.2.4. Các con đường GDHN cho học sinh THPT
Trong các trường THPT hiện nay, áp dụng các hình thức GDHN qua các
con đường như:
- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học các bộ môn văn hoá khoa học cơ bản:
trước hết nó cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản và có hệ thống về khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội và tư duy. Đó là những khái niệm, quy luật, lý
thuyết cơ bản có liên quan đến kỹ thuật và sản xuất. Những môn học này cung
cấp những cơ sở khoa học cho việc thực hiện giáo dục kỹ thuật tổng hợp, giúp
cho việc xây dựng và phát triển những năng lực phong phú, đa dạng của HS,
chuẩn bị cho các em đi vào lao động nghề nghiệp.



- Hướng nghiệp qua hoạt động dạy học môn Kỹ thuật và lao động sản xuất trong
trường học, HS được tiếp xúc với một số máy móc, thiết bị. Dưới sự hướng dẫn
ban đầu, thường xuyên và kết thúc của GV, HS thử làm 1 số sản phẩm có ích từ
đó hình thành một số kỹ năng, kỹ xảo LĐ chung gắn với một số nghề, qua đó HS
hứng thú và khuynh hướng NN.
- Hướng nghiệp qua hoạt động sinh hoạt, giáo dục hướng nghiệp: sinh hoạt theo
chủ đề “bạn sẽ chọn nghề gì?, “Tuổi trẻ và nghề nghiệp tương lai”, mời các
chuyên gia, nghệ nhân đến nói chuyện về nghề, tổ chức tham quan các cơ sở đào
tạo, cơ sở sản xuất kinh doanh; tổ chức chiếu phim về nghề. Các hình thức và
nội dung sinh hoạt hướng nghiệp bao gồm: Giới thiệu những nghề đang cần
nhiều nhân lực, nghề địa phương, những yêu cầu về sự phù hợp giữa người và
nghề. Giới thiệu hệ thống các trường đào tạo nghề
- Hướng nghiệp qua hoạt động tham quan, ngoại khoá trong và ngoài nhà trường.
Tổ chức cho HS tham gia sản xuất ở các nhà máy, xí nghiệp, công nông trường,
hợp tác xã, cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp… nhằm giúp học sinh có biểu
tượng rõ hơn về những nghề đang cần tìm hiểu.
Các con đường hướng nghiệp nêu trên có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ
lẫn nhau vì thế cần phải tiến hành đồng bộ. Khi áp dụng, tùy theo điều kiện,
hoàn cảnh cụ thể của mỗi trường cần kết hợp chúng một cách linh hoạt nhằm
nâng cao hiệu quả công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông hiện nay.
Trong các con đường nêu trên, thì hoạt động GD hướng nghiệp là con đường
chính, có tầm quan trọng đặc biệt vì: Cung cấp cho HS những thông tin nghề
nghiệp, hệ thống đào tạo và thị trường lao động một cách có hệ thống, có chủ
đích. HS biết được về năng lực cá nhân, điều kiện và truyền thống gia đình để
định hướng lựa chọn nghề trong thế giới nghề nghiệp, chọn hướng đi sau khi tốt
nghiệp một cách có ý thức, có cơ sở khoa học.
1.2.5. Các PPGD hướng nghiệp
Để GDHN một cách tốt nhất, bên cạnh những hình thức GDHN thì cần phải có
các phương pháp GDHN. Trong tài liệu “Hướng dẫn thực hiện chương trình

GDHN”, đề cập đến 7 phương pháp đặc thù tổ chức hoạt động GDHN, đó là:
- Phương pháp dạy học nêu vấn đề
- Phương pháp dạy học theo tình huống
- Phương pháp dạy học thảo luận


- Phương pháp dạy học dự án
- Phương pháp dạy học theo nhóm nhỏ
- Phương pháp tổ chức trò chơi theo chủ đề hướng nghiệp
- Phương pháp đóng vai (diễn kịch), mô phỏng
Mục đích của đổi mới phương pháp dạy học ở trường THPT là thay đổi lối
dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo PPDH tích cực nhằm giúp HS
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả
năng tự học, tinh thần hợp tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào những tình
huống khác nhau trong học tập và thực tiễn, tạo niềm vui, hứng thú trong học
tập. PPDH tích cực được dùng với nghĩa là hoạt động, chủ động, hướng tới việc
tích cực hoá hoạt động nhận thức của HS nghĩa là hướng vào việc phát huy tính
tích cực, chủ động của người học. Trong GDHN, việc đổi mới PPDH chính là
đổi mới PP tổ chức hoạt động GDHN, tư vấn hướng nghiệp.
1.2.6. Các yếu tố ảnh hưởng tới GDHN ở trường THPT
Mục đích mà GDHN hướng tới là để giúp HS chọn cho mình một ngành
nghề phù hợp, để tạo nền tảng cho thành công trong tương lai. Và có rất nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến quá trình GDHN ở trường THPT. Những yếu tố đó có thể
liệt kê như sau:
1.2.6.1 Những yếu tố ảnh hưởng từ gia đình
Điều đầu tiên ảnh hưởng đến quyết định của không ít học sinh đó là điều
kiện kinh tế gia đình. Đây là vấn đề có thể nói là làm cho học sinh phân vân
nhiều nhất khi chọn nghề, nhất là các em học sinh ở tỉnh lẻ, vùng nông thôn.
Nhiều em có ước muốn thi vào ngành công nghệ thông tin, du lịch, thiết kế thời
trang, y… là những ngành khá tốn kém nên cũng làm "chùn bước" không ít sĩ tử

khi đăng ký dự thi. Mặc khác, truyền thống gia đình luôn quan trọng với người
dân Việt Nam nói riêng và người phương Đông nói chung. Nhiều gia đình ép
con học theo những ngành nghề mà cha ông mình từ trước đến giờ theo đuổi.
Nếu sinh ra trong một gia đình có bố, mẹ, anh, chị làm bác sĩ, giáo viên, công
an… thì học sinh thường bị "gò” phải thi vào cái "khuôn" ấy của gia đình.
Tương lai các bạn phải do chính bạn quyết định, tuy nhiên, mọi chuyện đều có
hai mặt của nó. Gia đình cũng chính là nhà tư vấn cho những dự định của bạn,
hơn ai hết họ hiểu những tính cách, phẩm chất của bạn hơn bất kỳ một người nào
khác.


1.2.6.2 Những yếu tố ảnh hưởng từ nhà trường
- Đội ngũ GV chưa được đào tạo bài bản về GDHN, chưa được đào tạo nhiều
- Cơ sở vật chất phục vụ cho công tác GDHN…
- Phối hợp giữa các lực lượng trong và ngoài nhà trường chưa thực sự hiệu quả
1.2.6.3 Những yếu tố ảnh hưởng từ xã hội
Sau khi rời ghế nhà trường THPT, cả một chân trời tương lai đang hiện ra
trước mắt các bạn. Cơ hội để nâng cao tri thức, kỹ năng của thanh niên chúng ta
chưa bao giờ nhiều như bây giờ. Học ngành gì đây, ngành nào đang "hot", ngành
nào đang hái ra tiền và ngành nào bảo đảm ra trường không thất nghiệp. Học đại
học, cao đẳng hay học nghề… Xã hội đang phát triển, thay đổi từng ngày nên
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến quyết định của cá nhân học sinh khi đăng ký
chọn trường. "Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách Khoa…" là quan điểm chọn
trường của những sĩ tử cách đây 10 năm. Nhưng trong xu hướng hiện nay, những
ngành nghề mang tính kinh tế cao như: quản trị kinh doanh, du lịch, công nghệ
thông tin. Xã hội đòi hỏi chúng ta phải phát triển cho kịp tốc độ, nếu không sẽ bị
đào thải nhanh chóng và điều này cũng đang gây cho những học sinh thời công
nghệ số không ít băn khoăn.
1.2.6.4 Bạn bè
Lứa tuổi học trò là lứa tuổi thích chứng tỏ mình, khẳng định mình. Khi

thấy bạn bè đăng ký thi vào những ngành nghề thời thượng thì nhiều em học sinh
tự hỏi tại sao mình không thi vào đó trong khi khả năng của mình không thua
kém bạn bè. Đây có thể là một trong những nguyên nhân làm cho nhiều bạn
chọn sai hướng đi của mình.
1.2.6.5 Những yếu tố từ chính bản thân học sinh
Với các yếu tố như: sức khỏe, năng lực, tố chất, thiên hướng, ngoại hình,
năng khiếu.
- Sức khỏe: Đây là yếu tố ảnh hưởng đầu tiên khi HS muốn chọn cho mình bất
kể nghề gì.
- Năng lực: Các chỉ số IQ, EQ… giúp các bạn xác định được năng lực và khả
năng của mình tới đâu. Trường hợp bạn không có điều kiện để thực hiện các bài
test về chỉ số thông minh, cảm xúc thì hãy xem mình có thể hợp với công việc
gì, khả năng của mình được thể hiện tốt nhất khi nào.


- Tố chất: Bạn muốn làm kiến trúc sư? Tại sao không? Bạn học giỏi các môn tự
nhiên, vẽ đẹp, có nhiều ý tưởng táo bạo nhưng bạn không thể nào kiên nhẫn nổi
với những con số chi chít trên một bản vẽ thì bạn nên xem lại mình trước khi
quyết định thực hiện mong muốn. Có thể bạn dễ dàng vượt vũ môn nhưng không
thể hóa rồng … Cá nhân phải biết mình là người có tính cách như: kiềm chế,
trung thực, bảo mật, gan dạ, dũng cảm, cẩn thận … để hướng đến những nghề
nghiệp phù hợp.
- Thiên hướng: Lúc nhỏ bạn từng lãnh đạo thì có thể bạn hợp với vai trò người
lãnh đạo… Những thiên hướng này là nền tảng cho quyết định của bạn. Đừng bỏ
qua những chi tiết nhỏ này, có thể nó là bản chất năng khiếu của bạn mà bạn
chưa khám phá hoặc bỏ quên. Nó ảnh hưởng đến quyết định đầu tư vào lĩnh vực
nào của bạn sau này.
- Ngoại hình: Không phải chúng ta coi trọng vấn đề hình thức, nhưng có một số
ngành nghề đòi hỏi ngoại hình cao như diễn viên, tiếp viên hàng không, người
mẫu, MC… Khi bạn có ngoại hình không chuẩn thì nên xem lại ước muốn ngành

nghề của mình.
- Năng khiếu: có thể coi là yếu tố quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
chọn trường, chọn nghề. Một số ngành nghề như: kiến trúc, hội họa, sân khấu…
đòi hỏi khá cao về phần thể hiện năng khiếu ngay trong đề thi tuyển sinh. Bạn
phải xác định được năng khiếu của mình trước khi đặt bút ghi tên vào hồ sơ.
Kết luận chương 1
Giáo dục hướng nghiệp cho HS trung học phổ thông là vấn đề được nhiều
nhà nghiên cứu đề cập tới một cách tương đối sâu sắc và có hệ thống nhằm tìm ra
các biện pháp phù hợp để thực hiện nhiệm vụ tạo nguồn nhân lực cho địa phương
và đất nước, phù hợp với từng thời kỳ phát triển KT - XH của mỗi địa phương và
đất nước. GDHN với vai trò, ý nghĩa, nhiệm vụ, hình thức, nội dung, phương pháp
đã được xác định trong lý luận nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện
chiến lược đó.
Việc phân tích các cơ sở pháp lý và những lý luận liên quan sẽ tạo nên luận cứ
để khảo sát thực trạng và xây dựng các biện pháp GDHN ở các trường THPT phù
hợp với nhiệm vụ và điều kiện thực tiễn của các nhà trường trong thời kỳ mới đáp
ứng được yêu cầu về nguồn lực ở huyện Đồng Hỷ nói riêng, đất nước Việt Nam nói
chung.


Chương 2:
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH KHỐI 12 Ở TRƯỜNG THPT ĐỒNG HỶ - HUYỆN
ĐỒNG HỶ - TỈNH THÁI NGUYÊN
2.1. Khái quát về trường THPT Đồng Hỷ - Thái Nguyên
2.1.1. Đặc điểm kinh tế xã hội ở địa phương
Đồng Hỷ là huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc của Tỉnh Thái Nguyên,
phía Bắc giáp huyện Võ Nhai, phía Tây giáp huyện Phú Lương, phía Đông giáp
tỉnh Bắc Giang, phía Nam giáp thành phố Thái Nguyên và huyện Phú Bình.
Toàn huyện có 17 xã và 3 thị trấn. Toàn huyện có 26.448 ha rừng, trong đó rừng

tự nhiên 14.432,2 ha, rừng trồng 7.146,6 ha. Ngoài ra huyện còn 4.869,2 ha rừng
chưa trồng, chủ yếu là đất trống đồi núi trọc. Huyện có nhiều tài nguyên khoáng
sản, lớn nhất là cụm mỏ sắt Trại Cau, mỏ Linh Sơn. Ngoài ra còn có nhiều
khoáng sản vật liệu xây dựng như: đá xây dựng, đất sét, đá vụn, cát sỏi, đá
Carbuat, Dolomit... Có hệ thống giao thông đa dạng, 20 xã, thị trấn có đường ô
tô đến trung tâm. 100% số xã, thị trấn trong huyện đã được trang bị điện thoại.
Trên địa bàn có nhiều di tích lịch sử cách mạng như đền Văn Hán, Hang Dơi,
cụm di tích Phượng Hoàng. Tổng số dân toàn huyện là 125.000 người, trong đó
dân số trong độ tuổi lao động chiếm 50,8%
2.1.2. Khái quát trường THPT Đồng Hỷ
Trường THPT Đồng Hỷ được thành lập từ năm 1986 và năm học 19871988 bắt đầu khoá học đầu tiên. Khi đó, do trường mới thành lập nên gặp rất
nhiều khó khăn về đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất thì chỉ có 5 phòng học cấp 4.
Trải qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành, Nhà trường đã nỗ lực cố gắng,
vượt qua nhiều khó khăn, vừa tranh thủ sự giúp đỡ để xây dựng hạ tầng, vừa
nâng cao chất lượng dậy và học, đóng góp không nhỏ trong việc đào tạo, cung
cấp nguồn nhân lực cho địa phương. Đến nay, CSVC của Trường đã được xây
dựng tương đối khang trang với 42 phòng học cao tầng; đội ngũ giáo viên lên tới
113 người. Năm học 2009-2010 vừa qua, quy mô của Trường đã lên 45 lớp với
2.580 học sinh. Trong năm học 2010-2011 này, Trường có 44 lớp học với gần
2000 học sinh. Có thể nói, Trường THPT Đồng Hỷ đã làm tốt nhiệm vụ GD mà
đảng và nhà nước giao phó, được đánh giá là một trong những đơn vị tiêu biểu
trong khối THPT của tỉnh Thái Nguyên.


* Trong năm học 2010 - 2011 vừa qua, dạy và học của nhà trường có
những chuyển biến đáng kể: 100% các thầy giáo cô giáo sử dụng giáo án có hỗ
trợ của công nghệ thông tin và sử dụng máy chiếu Prozecto để phục vụ giảng
dạy. Tăng cường hoạt động bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ bằng nhiều hình
thức: tổ chức kỳ thi GVG cấp trường, tham dự kỳ thi GVG cấp Tỉnh các môn Tự
nhiên, Tổ chức tổ chức ngoại khóa theo chuyên đề, học hỏi kinh nghiệm trường

bạn…
* Không chỉ chú trọng đến giáo dục về văn hóa, nhà trường còn quan tâm
đến giáo dục toàn diện học sinh. Công tác giáo dục quốc phòng, hoạt động
hướng nghiệp, hoạt động ngoài giờ lên lớp, phong trào văn hóa thể dục thể thao
được đẩy mạnh.
* Kết quả xếp loại giáo dục của toàn trường trong năm học 2010-2011
- Tổng số học sinh: 1900 giảm so với đầu năm là 77 em. Trong đó:
+ Khối 12: 676
+ Khối 11: 627
+ Khối 10: 617
- Kết quả xếp loại 2 mặt giáo dục trong 2 năm học:
2010- 2011
2009- 2010
- Giỏi: 60= 3,2%
3,3%
- Khá: 735= 38,7%
34,1%
+ Về học lực:
- TB: 972=51,2%
50,7%
- Yếu: 132 = 6,9 %
11,5%
- Kém: 1= 0,1%
0,4%
- Tốt: 1078 = 56,7%
49,05%
- Khá: 673 = 35,4%
39,89%
+ Về hạnh kiểm:
- TB: 130 = 6,8 %

8,11%
- Yếu: 19 = 1,0%
2,95%
Nhìn vào kết quả xếp loại hai mặt giáo dục của toàn trường có thể đánh
giá: Đây là những con số phản ánh tương đối chính xác tình hình học tập và tu
dưỡng của học sinh trường trong năm học 2010 - 2011.
- Hạnh kiểm của HS đã có sự chuyển biến tốt, số hạnh kiểm tốt và khá tăng hơn
đồng thời số hạnh kiểm trung bình giảm một nửa so với năm học trước.


Tuy nhiên vẫn còn một số HS chưa chăm ngoan, ý thức học tập và rèn
luyện chưa tốt. Nguyên nhân chính là do tự bản thân mỗi em học sinh chưa ý
thức về việc tự rèn luyện bản thân, động cơ thái độ học tập còn mờ nhạt.
Có thể nói, trong năm học vừa qua nhà trường đã duy trì tổ chức các đợt
thi đua trong cán bộ giáo viên và trong học sinh, tổ chức tốt các buổi thao giảng,
các đợt thi giáo viên giỏi, thi học sinh giỏi cấp trường, cấp tỉnh, qua những đợt
thi này phần nào đã nâng cao nhận thức, ý thức về đổi mới phương pháp dạy
học, đổi mới chương mới của các thầy cô giáo và các em học sinh, góp phần tích
cực vào nâng cao kết quả và thành tích của nhà trường, nâng dần chất lượng giáo
dục đích thực, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của xã hội. Nhất là hoạt động
GDHN cho HS cuối cấp của trường.
2.2. Thực trạng vấn đề giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 ở
trường THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên.
 Đối tượng khảo sát
Để thu nhập những thông tin cần thiết phục vụ cho việc đánh giá thực
trạng GDHN cho học sinh khối 12 ở trường THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. Chúng tôi đã tiến hành điều tra phát ra 10 phiếu hỏi dành cho
GV thu về 10 phiếu hợp lệ và 155 phiếu hỏi dành cho HS thu về 150 phiếu hợp
lệ.
 Nội dung khảo sát
- Khảo sát thực trạng nhận thức của GV và HS khối 12 trường THPT Đồng Hỷ huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên về vai trò, ý nghĩa của GDHN.

- Khảo sát thực trạng GDHN cho học sinh khối 12 ở trường THPT Đồng Hỷ
huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
- Khảo sát thực trạng biện pháp giáo dục hướng nghiệp cho học sinh khối 12 ở
trường THPT Đồng Hỷ - huyện Đồng Hỷ - tỉnh Thái Nguyên
 Phương pháp khảo sát
Những phương pháp khảo sát chủ yếu được sử dụng là điều tra bằng phiếu
hỏi đối với học sinh và một số giáo viên. Tiến hành phỏng vấn sâu một số học
sinh, giáo viên, phân phối với các phương pháp khác như: quan sát trực tiếp diễn
biến quá trình học tập trên lớp, ngoài giờ lên lớp…
Kết quả khảo sát được phân tích và trình bày trên 2 vấn đề với 11 bảng
biểu. Cụ thể như sau:


2.2.1. Thực trạng về vấn đề giáo dục hướng nghiệp cho HS
2.2.1.1. Thực trạng nhận thức về vai trò, ý nghĩa của GDHN cho học sinh
Năm học 2010 - 2011 là năm học thứ năm thực hiện chương trình giáo dục
THPT theo SGK mới trong đó đã đưa GDHN thành một môn học chính thức
trong chương trình (từ năm học 2006 - 2007) vì vậy đa số giáo viên đã được tập
huấn về nội dung và phương pháp. Để điều tra nhận thức của giáo viên và học
sinh về vai trò, ý nghĩa của GDHN, chúng tôi tiến hành điều tra bằng phiếu hỏi.
Kết quả khảo sát về vấn đề này được thể hiện ở bảng 1.
Bảng 1: Nhận thức của GV và HS về vai trò, ý nghĩa của GDHN
Mức độ quan trọng

STT

1

2


3

Vai trò, ý nghĩa

Giúp HS chọn nghề
trên cơ sở phù hợp
với nguyện vọng
của bản thân, phù
hợp với điều kiện
hoàn cảnh gia đình
mình và phù hợp
với nhu cầu XH
Giúp học sinh phát
triển cao hứng thú
nghề nghiệp, làm
tăng khả năng sáng
tạo trong lao động.
GDHN có tác dụng
góp phần cụ thể hoá
mục tiêu giáo dục
của trường phổ
thông.

Rất quan
trọng

Quan
trọng

Bình

thường

Không
quan
trọng

(%)
GV HS

(%)
GV HS

(%)
GV HS

(%)
GV HS

90

67.9

10

32.1

0

0


0

0

50

35.6

50

47.6

0

3.6

0

0

20

39.3

40

39.3

40


21.4

0

0


Giúp HS tự tin hơn,
4
tự lập hơn trong 50 17.8 50 46.4 0
0
0 17.8
cuộc sống
GDHN có tác dụng
điều chỉnh sự phân
công lao động xã
5
hội, tạo ra sự cân 40 17.8 20 46.4 30 32.1 10 3.6
bằng trong việc
phân bố lực lượng
dân cư
Vai trò khác: góp
phần sức lực, trí tuệ
6
của thế hệ trẻ vào 50 25
30 57.1 20 14.3 0
3.6
công cuộc xây dựng
đất nước.
Bảng 1 cho thấy:

Nhìn chung, giáo viên và học sinh khối 12 của trường đã nhận thức được ý
nghĩa và vai trò của giáo dục hướng nghiệp, cụ thể:
- Ý kiến của GV: ở vai trò, ý nghĩa đầu tiên, có đến 90% giáo viên cho rằng giáo
dục hướng nghiệp giúp HS trên cơ sở phù hợp với nguyện vọng của bản thân,
phù hợp với điều kiện hoàn cảnh gia đình mình và phù hợp với nhu cầu XH có ý
nghĩa rất quan trọng. Còn 10% giáo viên còn lại cho rằng quan trọng. Ở vai trò,
ý nghĩa thứ 2, thì có 50% ý kiến giáo viên cho rằng rất quan trọng, 50% còn lại
cho rằng quan trọng. Vai trò, ý nghĩa thứ 3: 20% giáo viên cho rằng rất quan
trọng, 40% cho rằng quan trọng, 40% cho rằng bình thường. GDHN có tác dụng
góp phần cụ thể hóa mục tiêu giáo dục của trường phổ thông. Mục tiêu của giáo
dục phổ thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng
tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi
vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ở vai trò, ý
nghĩa thứ 4: 50% giáo viên cho rằng rất quan trọng, 50% cho rằng quan trọng.
Vai trò thứ 5 và thứ 6, đa phần giáo viên đều cho rằng rất quan trọng, còn lại là ở


×