Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Giải pháp thúc đẩy tiến trình cỗ phần hóa tống công ty thép việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (376.98 KB, 61 trang )

Luận văn tôt nghiệp

21

Phần mở đầu
Chưong 1 : Sự cần thiết cổ phần hóa các doanh nghiệp

Cô phần hóa danh nghiệp nhà nước( CPHDNNN) là một quá trình tất
ỏ’ Việt
nam
yếu và phố biến ở các nền nhà
kinh nưóc
tế chuyển
đổi từ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung
sang cơ chế thị truờng . Tiến trình này sẽ thay đổi cơ bản doanh nghiệp thông
qua thay đối hình thức sở hữu , tù' đó làm thay đối các yếu tố khác như tố
chức1.1quản
lý, thay
phương
Cố phần
hóa đổi
doanh
nghiệpthức
nhà làm
nướcviệc ... và quan trọng hơn là thay
đổi nhận thức của mồi thành viên trong doanh nghiệp theo hướng tích cực, tạo
Khái
niệm mẽ thúc đẩy doanh nghiệp phát triển
điều1.1.1
kiện và động


lực mạnh
CPH
doanh
nhàở nước
là quá
chuyến
đối vàcácnhàDNNN
Nhận
thức
được nghiệp
điều đó,
Việt nam
CPHtrình
đã được
Đảng
nước
thànhdựng
côngthành
ty cổmột
phần
doanhlớn
nghiệp
chủ tiến
sở hữu
nhất
xây
chủ, từ
trương
. Saumà
16 nhà

nămnước
thực làhiện,
trìnhduy
CPH

thành nam
doanh
có nhiều
cùngcông
thambước
gia đầu
sở hữu
nhà nước
Việt
đã nghiệp
đạt được
nhữngchủ
thành
trên.Trong
nhiều đó,
phương
diện
có thể
quyềnnhiên
chi phối
hay chỉ
là một chủ
hữu tiến
bìnhtrình
đẳngCPH

với
đặc
biệttiếp
là tục
kinhnắm
tế .Tuy
trên một
số phương
diện sởkhác,
các chủ
sở hữu
khác
cũng
sinh
nhiều
vấn đề cần phải được nghiên cứu và giải quyết. Bên cạnh đó
không phải lúc nào tiến trình CPH cũng diễn ra theo như kế hoạch làm ảnh
hưởng không nhỏ tới định hướng kế hoạch của chính phủ trong chiến lược
thành
phần
CPHDNNN
là một quá
phát triểnKhác
kinh với
tế xã
hội. lập
Xuấtcông
pháttytừcổthực
tiễn, đó
đề tài “Giảipháp

thúc trình
đẩy
chuyến
đối
về

hình
tổ
chức
quản

,
sản
xuất
kinh
doanh

hoạt
độngluận
tài
tiến trình cỗ phần hóa tống công ty thép Việt nam ” được chọn để làm
chính
sang
công
ty

phần
thế
nhưng
vẫn

trên
co
sở
hạ
tầng

nền
tảng

văn tốt nghiệp.
bản của DNNN . Các chủ thế khác mua lại từng phần giá trị của DNNN và trở
thành cố đông cùng tham gia sở hữu . Chính do vậy CPH không chỉ là bước đi
thận trọng mà còn phù hợp với trình độ phát triển , nhận thức và kinh nghiệm
tố chức quản lý ở tầm vĩ mô và vi mô . Một mặt , CPHDNNN chính là đối
mới căn bản mang tính bước ngoặt đổi với các DNNN thông qua thay đối
hình thức sở hữu, trước đây sở hữu doanh nghiệp chỉ là nhà nước nhưng giờ
đây có nhiều cá nhân tổ chức tham gia sở hữu tùy vào điều kiện nhà nước cho
phép, quan hệ sở hữu thay đối tất yếu sẽ làm các quan hệ khác đặc biệt là
trong hoạt động sản xuất kinh doanh biến đối và thực tế đã chứng minh những
biến đối này là tích cực . Mặt khác vẫn cho phép tận dụng những cơ sở vật
chất, con người và các yếu tố thuộc về tài sản vô hình khác . Bên cạnh đó tùy
vào mức độ cổ phần hóa khác nhau nhà nước vẫn có thế tham gia sở hữu và
quản lý ít nhất là trong một giai đoạn nào đó đủ đế duy trì sự ốn định cần thiết

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp


3

khi cơ chế quản trị điều hành mới chưa được hình thành và phát huy một cách
hiệu quả nhằm đảm bảo sự phát triến ốn định của những DNSCPH
Chúng ta không thể đồng hóa CPHDNNN với tư nhân hóa nhưng cũng
không hoàn toàn không phải là tư nhân hóa . Bởi có bán cổ phần cho các chủ
thế khác trong nền kinh tế thì mới là CPH , mới đúng theo khái niệm đặt ra
theo luật doanh nghiệp, ít nhất là trên phương diện sở hữu. Đó chính là quá
trình chuyến tù’ sở hữu công cộng sang sở hữu tập thế hoặc cá nhân , tức là có
một phần tư nhân hóa . Tuy nhiên cũng không hoàn toàn là tư nhân hóa vì các
DNSCPH không phải tất cả doanh nghiệp tư nhân mà hầu hết là những công
ty đa sở hữu dù nhà nước là cổ đông nhỏ hay không tiếp tục tham gia sở hữu .
1.1.2
Mục tiêu cổ phần hóa
Tùy vào tùng quốc gia và tùng giai đoạn lịch sử khác nhau mà có mục
tiêu CPH khác nhau , tuy nhiên về cơ bản vẫn là các mục tiêu sau :
Mục tiêu thứ nhất: Xóa bỏ sự bao cấp của nhà nước và phát huy quyền
tự chủ về sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả nền kinh tế , củng cố
và phát trien những nền tảng cơ bản của kinh tế thị trường. Nhờ CPH mà ngân
sách nhà nước sẽ bớt gánh nặng hơn, thậm chí còn có the tăng lên vì các
doanh nghiệp làm ăn hiệu quả hơn . Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước
sau CPH sẽ được tự chủ hơn trong các quyết định của mình với sự tham gia
đóng góp ý kiến của nhiều cổ đông và các nhà quản lý có năng lực. Nen tảng
cơ bản của cơ chế thị trường là sự cạnh tranh trên cơ sở công bằng . Không
được nhà nước đem lại cho các đặc quyền đặc lợi cũng như không có quyền
đòi hỏi như trước làm cho các doanh nghiệp phải tự thân vận động , tự tìm
cho mình phương thức kinh doanh hiệu quả nhất và dần hình thành nên một
môi trường kinh doanh lành mạnh vận hành theo cơ chế thị trường. Hiệu quả
của một doanh nghiệp không phải tù’ CPH mà thông qua có chế thị trường, sự

thay đối hình thức sở hữu là điều kiện cần cho doanh nghiệp vận hành theo cơ

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

4

chế thị trường một cách tự giác cao độ , từ đó thúc đấy các doanh nghiệp phát
triến. Có thế nói CPH các DNNN là tiền đề cho sự vận hành của nền kinh tế
theo cơ chế thị trường , đảm bảo sự công bằng, minh bạch và phát triển bền
vững.
Mục tiêu thứ hai : Huy động những tiềm năng vốn trong xã hội đế đầu
tư vào doanh nghiệp thông qua quá trình chào bán cổ phần các DNNN . Các
nhà đầu tư với nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của mình luôn tìm kiếm các cơ
hội đầu tư nhằm gia tăng giá trị nguồn vốn đó . Việc thực hiện CPH của các
DNNN là một cơ hội đầu tư rất hấp dẫn, tuy có nhiều hạn chế nhưng DNNN
cũng có lợi thế của mình đó là cơ sở hạ tầng, thương hiệu qua bao nhiêu năm
gây dựng, ... bên cạnh đó lại được hưởng các chính sách hỗ trợ tù’ chính phủ
nhằm đưa doanh nghiệp đi vào ốn định sau CPH. Thực tế cho thấy các doanh
nghiệp sau CPH hoạt động rất hiệu quả, có tới 96% doanh nghiệp làm ăn có
lãi, nợ xấu giảm mạnh... Nhờ có vốn đầu tư các doanh nghiệp sẽ có điều kiện
tiếp cận với công nghệ hiện đại, với phương thức quản lý hiệu quả kéo theo
nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động tạo nguồn lực cho doanh nghiệp
phát triến kéo theo thúc đấy nền kinh tế phát trien , giảm gánh nặng và tăng
thu cho ngân sách nhà nước
Mục tiêu thứ ba : Khuyến khích đầu tư nước ngoài và chuyến giao

công nghệ tiên tiến. Từ khi Đảng và nhà nước thực hiện chính sách đối mới
,mở của nền kinh tế thì các nhà đầu tư nước ngoài rất muốn tiếp gia nhập thị
trường Việt nam , một trong những cách thâm nhập hiệu quả và an toàn là lập
ra các liên doanh liên kết , tham gia trở thành các cổ đông chiến lược trong
các doanh nghiệp ở Việt nam đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, vốn đầu
tư và công nghệ tiên tiến của nước ngoài là yếu tố đặc biệt quan trọng cho các
doanh nghiệp Việt nam tăng năng suất , đuối kịp với các nước tiên tiến trong
khu vực cũng như trên thế giới, từ đây có khả năng cạnh tranh với các doanh

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

5

nghiệp nước ngoài trên thị trường trong nước và tạo động lực gia nhập thị
trường thế giới
1.1.3
Các hình thức và mức độ cố phần hóa
Hình thức và mức độ CPH ở tùng quốc gia vào tùng giai đoạn lịch sử
khác nhau là khác nhau tùy thuộc vào kế hoạch của chính phủ các quốc gia đó
cũng như đặc thù nghành nghề kinh doanh , được thế hiện thông qua tỷ lệ
đóng góp cô phần của nhà nước trong các doanh nghiệp . Có bốn hình thức
thường được lựa chọn :
Hình thức thứ nhất: giữ nguyên toàn bộ giá trị vốn sở hữu nhà nước hiện
có tại doanh nghiệp và phát hành thêm cổ phiếu để thu hút thêm vốn đầu tư từ
các chủ thế khác trong nền kinh tế . Ưu thế của hình thức này là quy mô được

mở rộng , hình thức này phù họp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hình thức thứ hai : bán một phần giá trị thuộc vốn của nhà nước . Hình
thức này quy mô huy động được ấn định ở mức nhất định thay thế cho sự
giảm xuống tương ứng tỷ lệ vốn thuộc sở hữu nhà nước . Cách làm này
thường áp dụng cho các doanh nghiệp quy mô lớn. Bởi vì giá trị doanh nghiệp
lớn nên không dễ dàng huy động những nguồn vốn lớn đúng theo tỷ lệ sở hữu
như yêu cầu đặt ra khi phát hành cổ phiếu mới.
Hình thức thứ ba : tách một bộ phận của DNNN đủ điều kiện đế tiến
hành CPH . Hình thức này thường được áp dụng cho các doanh nghiệp được
tố chức theo mô hình công ty mẹ công ty con hay các công ty có các chi
nhánh có tính độc lập cao. Tống công ty thép Việt nam được tiến hành theo
hình thức này , theo đó ban đầu tiến hành CPH một số doanh nghiệp thành
viên có giá trị nhỏ, làm ăn không có lãi. Sau khi nhận thấy những kết quả thực
tế mang lại là tích cực ban lãnh đạo tiếp tục thực hiện đối với những doanh
nghiệp có quy mô vốn lớn hơn và cuối cùng là tiến hành đối với công ty mẹ

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

6

Hình thức thứ tư : bán toàn bộ giá trị thuộc vốn sở hữu nhà nước . Đây là
hình thức có mức độ CPH cao nhất, nhà nước không còn tham gia vào việc
điều hành quản lý doanh nghiệp nữa mà chuyển hẳn cho các cá nhân tổ chức
khác trong nền kinh tế sở hữu và điều hành . Đây là một việc phổ biến đối với
nước Nga trong những năm 90 của thế kỷ trước, hình thức này đã nảy sinh

nhiều bất cập dễ gây ra những mất mát tài sản thuộc quyền sở hữu nhà nước
sang tay tư nhân do bị định giá thấp và bán cho tư nhân với giá rẻ mạt . Tại
Nga hình thức này đã hình thành nên những tập đoàn tư nhân rất lớn lũng
đoạn cả nền kinh tế . Ớ Việt nam hình thức này chỉ được tiến hành đối với
những doanh nghiệp nhỏ hoặc những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ do vậy
không dẫn tới tình trạng như ở nước Nga . Đây là một bài học kinh nghiệm
quý báu cho những người đi sau như Việt nam
1.2 Quá trình cố phần hóa DNNN ở Việt nam
1.2.1
Thực trạng
Tiến trình CPH ở Việt nam được hầu hết các nhà nghiên cứu cho
răng băt đâu từ năm 1992 vì trong năm này những công việc đầu tiên về cô
phần hóa mới thực sự được tiến hành. Căn cứ vào sự tiến triển về tốc độ cũng
như sự thay đổi về chất lượng cổ phần hóa, quá trình cho đến nay có thể phân
chia thành 2 giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất, giai đoạn trước khi có thị trường
chứng khoán: 1992-1999; và giai đoạn thứ hai, từ năm 2000 đến nay khi thị
trường chứng khoán Việt Nam đã được hình thành và phát triến.
1.2. Ị. 1 Giai đoạn trước khi có thị trường chứng khoản( 1992-1999) :
Hành lang pháp lý đầu tiên cho quá trình CPHDNNN ở Việt nam trong
giai đoạn này là Quyết định số 202/CT ra ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng theo đó thí điểm chuyến một số DNNN thành CTCP. Tiếp
theo là Quyết định số 203/CT ra ngày 8/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng, quyết định lựa chọn bảy DNNN thí điểm thực hiện cố phần hóa và ủy

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp


7

quyền cho Bộ Tài chính nghiên cứu và ra quyết định về danh sách các
DNNN khác đuợc phép thí điếm cố phần hóa của các Bộ và ủy ban Nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tiếp đến, vào ngày 04/03/1993, Thủ
tuởng Chính phủ ra Chị thị số 84/TTG về việc tiến thực hiện thí điểm cổ phần
hoá và nghiên cứu các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữu đối với
DNNN. Vào năm 1994, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII đã thống nhất và cụ thế hóa mục tiêu và hình thức tiến hành
CPHDNNN, một trong số đó là bán một tỷ lệ cổ phần cho cán bộ, công nhân
viên chức đang làm việc tại doanh nghiệp đế tạo ra động lực bên trong trực
tiếp thúc đấy doanh nghiệp phát triển, và bán cổ phần cho các chủ thế ngoài
doanh nghiệp đế thu hút thêm vốn, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
Sau hơn bốn năm thí điếm cô phần hóa, trên cơ sở tống kết và đánh giá
những thành công thất bại, những ưu điểm và những tồn tại của quá trình cổ
phần hóa, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/1996/NĐCP nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý và môi trường kinh tế thuận lợi hơn
cho các DNNN tiến hành cố phần hóa. Nội dung của Nghị định này tập trung
giải quyết những vấn đề quan trọng sau :
Mở rộng đối tượng tiến hành cổ phần hóa đổi với tất cả các DNNN
Bố sung các hình thức cổ phần hóa đổi với từng bộ phận doanh nghiệp.
Mở rộng uu đãi cho các DNSCPH và người lao động đang làm việc
trong các doanh nghiệp đó.
Phân cấp việc phê duyệt CPH, theo đó Thủ tướng Chính phủ chỉ phê
duyệt cổ phần hóa với những DNNN có vốn điều lệ từ 3 tỷ đồng trở lên.
Tiếp đó, Nghị định số 25/NĐ-CP ngày 26/3/1997 hoàn thiện hơn một số
điều khoản về thâm quyền lựa chọn DNNN cô phần hóa của Chính phủ, mở
rộng phạm vi, đối tượng, bố sung hình thức CPH một số bộ phận doanh
nghiệp. Nghị quyết trung ương lần thứ 4 khóa VIII và chỉ thị số 20/TTg ngày


Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

8

21/4/1998 về đẩy mạnh sắp xếp lại các DNNN theo đó, có tới 42,1% số
DNNN hiện có thuộc diện phải cố phần hóa.Bên cạnh đó, chính phủ còn ban
hành Nghị định số 44/1998 NĐ-CP ngày 29/6/1998 thay thế cho các Nghị
định số 28/1996NĐ-CP và Nghị định số 44/NĐ-CP ngày 29/6/1998 đã giải
quyết những vướng mắc về chính sách chế độ mà văn bản trước đây còn chưa
thực hiện được như: lựa chọn DNNN cố phần hóa, chính sách hỗ trợ cho các
DNNN hậu CPH... Đen thời điếm này, quá trình cố phần hóa đã được thực
hiện một cách quyết liệt và không trông chờ vào sự tự nguyện của DNNN như
ở thời kì trước nữa. Ket quả trong 6 tháng cuối năm 1998 cả nước có 86
DNNN chuyển sang CTCP, đưa số DNNN đến năm 1998 lên 116 doanh
nghiệp. Năm 1999 chúng ta lại có thêm 254 doanh nghiệp nữa được cố phân
hóa, tăng gấp hơn 2 lần tông số doanh nghiệp đã được cố phần hóa trong suốt
giai đoạn 1992-1998, đến tháng hết năm 1999 tổng số DNNN đã được cố
phần hóa đã đạt tới hơn 370 doanh nghiệp.Việc không ngừng hoàn thiện
những cơ sở pháp lý và chế độ cổ phần hóa trong giai đoạn này thực sự đã
góp phần thúc đây quá trình CPHDNNN ở nước ta.
Mặc dù đã đạt được những kết quả như vậy nhưng theo đánh giá chung
nhất thì tiến trình cổ phần hóa ở Việt nam trong giai đoạn này vẫn là rất chậm
chạp, chi phí thời gian thực hiện cố phần hóa của mỗi doanh nghiệp vẫn rất
cao. Có rất nhiều nguyên nhân được đưa ra đế giải thích cho tốc độ cô phần
hóa chậm trong giai đoạn này, song có hai nguyên nhân cơ bản : Thứ nhất

Việt nam chưa có thị trường chứng khoán và do vậy việc cố phần hóa và phát
hành cổ phiếu chủ yếu mang tính chất nội bộ doanh nghiệp, hoặc cục bộ địa
phương, tính chất xã hội hóa rất hạn chế. Thị trường chứng khoán chưa phát
triến làm cho công việc chào bán cố phần ra công chúng hạn chế và tính thanh
khoản của cố phiếu thấp gây cản trở không nhỏ tới tốc độ và thành công của
quá trình cổ phần hóa. Thứ hai là hành lang pháp lý chưa minh bạch, thiếu

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

9

nhất quán và sự ốn định , chưa nhất quán trong chỉ đạo thực hiện làm cho
những doanh nghiệp muốn CPH không gặp thuận lợi trong việc đăng kí các
thủ tục pháp lý cũng như chưa có những thuận lợi nhất định khi chuyến đổi
còn các doanh nghiệp không muốn CPH thì có cớ chây ỳ .
1.2. ỉ.2 Giai đoạn sau khi thị trường chứng khoản ra đời (2000-2008)
Giai đoạn này được xem là bước ngoặt đặc biệt quan trọng, một bước
tiến biến đối cả về chất và về lượng của quá trình CPH. Khởi đầu giai đoạn
này được đánh dấu bởi sự hình thành và phát triển của thị trường chứng
khoán Việt Nam. Ngày 20/7/2000, Trung tâm giao dịch Thành phố Hồ Chí
Minh được khai trưong và bắt những phiên giao dịch đầu tiên vào cuối tháng
bảy. Mặc dù, còn ở mức độ rất sơ khai và chưa nhiều các công ty niêm yết,
quy mô lúc ban đầu chỉ trên dưới 5 tỷ VND, tuy nhiên sự xuất hiện của thị
trường chứng khoán đã trở thành động lực hết sức quan trọng đẩy mạnh quá
trình cổ phẩn hóa ở Việt Nam không chỉ về mặt tốc độ - số lượng mà còn cả

về mặt chất lượng cố phần hóa cũng thay đổi hoàn toàn.
Trong hai năm 2000-2001, cả nước đã có tới 361 DNNN được cố phần
hóa xấp xỉ bằng tống số doanh nghiệp được cố phần hóa trong cả giai đoạn
gần 10 năm từ 1992 đến 1999. Tuy nhiên, điều quan trọng là đến giai đoạn
này, việc mua cổ phiếu của cán bộ công nhân viên trong những DNNN thực
hiện CPH không phải đế giữ việc làm như trước đây chứng tở đã thay đối
nhận thức về CPH, rất nhiều người đã có thu nhập cao từ việc bán lại số cổ
phiếu được mua hay quyền được mua cố phiếu theo tiêu chuấn của các doanh
nghiệp đặt ra. Rất nhiều DNNN, mặc dù chưa xây dựng xong phương án cổ
phần hóa, cố phiếu đã được các nhà đầu tư ngoài doanh nghiệp đăng ký và đặt
cọc đế mua theo giá thị trường, cao hơn mệnh giá rất nhiều lần .

Song song với việc phát triến thị trường chứng khoán. Đảng và nhà
nước đã tiếp tục củng cố và hoàn thiện hành lang pháp lý và chính sách kinh

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

10

tế, tài chính nhằm thúc đẩy nữa tiến trình CPHDNNN. Vào ngày 19/6/2002
chính phủ ban hành số nghị định sổ 64/2002 NĐ/CP bổ sung sửa đối nghị
định số 44/1998 NĐ/CP về những vấn đề bao gồm: thẩm quyền của các cơ
quan quản lý cấp trên, định giá doanh nghiệp, cổ đông và cổ phiếu, về chính
sách đổi với lao động dôi du. Tiếp đến, các thông tư hướng dẫn cũng ban
hành như số 79/TT - BTC ngày 12/9/2002 hướng dẫn cách định giá trị doanh

nghiệp khi chuyển từ DNNN sang CTCP; số 80/TT - BTC ngày 12/09/2002
hướng đẫn bảo lãnh phát hành và đấu giá bán cổ phần ra công chúng của các
DNNN thực hiện CPH . Ngoài ra, còn rất nhiều nghị định, thông tư liên quan
được ban hành thêm như: Nghị định số 69/ 2002 NĐCP ngày 12/7/2002 về xử
lý nợ tồn đọng, nghị định 41/2002 NĐCP ngày 11/04/2002 về chính sách đối
với người lao động dôi dư, quyết định số 174/TTg ngày 2/12/2002 của thủ
tướng chính phủ về tố chức hoạt động của các công ty tài chính, nghị định số
187/2004 NĐCP ngày 16/11/2004,vv...đã góp phần giải quyết được những
nhược điểm cơ bản đối với việc xác định giá trị bán cổ phần ra công chúng.

Ban chỉ đạo đối mới và sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước được thành
lập trực thuộc văn phòng Chính Phủ, thay mặt Thủ tướng giám sát và điều
hành toàn bộ quá trình CPH các doanh nghiệp trục thuộc các bộ ngành và ủy
ban nhân dân tỉnh và thành phố, giải quyết những bất cập và khó khăn trong
quá trình chuyến đôi tù’ DNNN sang công ty cô phần. Bên cạnh đó, các Bộ
Ngành, Úy ban nhân dân các tỉnh và thành phố; Tổng công ty và các tập đoàn
nhà nước đều thành lập ban chỉ đạo cố phần hóa nhằm chỉ đạo và giám sát
quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp thuộc ngành. Hiện nay, CPH đã bước
sang giai đoạn quan trọng đó là cơ cấu lại các DNNN loại lớn , đóng vai trò
rất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân . Tính tới đầu năm 2007 cả nước
còn 2200 DNNN loại lớn với sổ vốn hơn 31 tỷ USD tương đương 31% GDP .
Nhà nước dự định sẽ chỉ giữ lại 100% vốn tại 554 công ty đóng vai trò đặc

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp


11

một kết quả rất đáng buồn . Tống công ty Thép Việt nam là một tổng công ty
rất lớn với hơn 37 công ty thanh viên ,dự tính sẽ CPH xong vào năm 2009 sau
khi hoàn tất việc CPH các đơn vị thành viên vào năm 2008 . Thủ tướng cũng
đã phê duyệt kế hoạch CPH theo đó đặt mục tiêu niêm yết 71 DNNN loại lớn
trên TTCK vào năm 2010.

Như vậy có thế nói đã có rất nhiều những chính sách liên quan đến cổ
phần hóa được ban hành, bố sung và sửa đối đế ngày càng hoàn thiện hơn,
phù hợp hơn với thực tế tiến trình cố phần hóa. Thành quả của tất cả những cố
gắng trên là các chế độ quy định ngày càng đồng bộ , thông thoáng hơn tạo
điều kiện thuận lợi cho các DNNN chuyển đổi sang công ty cổ phần, chế độ
hợp lý cho người lao động và những cơ hội tốt cho các nhà đầu tư. So với các
giai đoạn trước, ở giai đoạn này cổ phần hóa được đánh giá là đã đi vào thực
chất hơn. Trong khi đó nếu xét về số lượng, tổng số DNNN được cổ phần hóa
trong giai đoạn 2000-2008 lên tới con sổ 3800 doanh nghiệp, gấp hơn 10 lần
sổ lượng DNNN được cổ phần hóa trong giai đoạn 1 từ 1992 - 1999. Đây là
một con số đáng mừng , thời gian tới cần đẩy nhanh hơn nữa tiến trình CPH
đang có xu hướng chậm lại như trong năm 2007 nhằm hoàn thành CPH cơ
bản các DNNN trước năm 2015 như dự định của Nhà nước đặt ra .
1.2.2

Khó khăn sau cổ phần hóa ỏ’ Việt nam

Những ưu thế của DNNN sau CPH là rất đáng kể, thực tế ở nhiều nước
đã chứng minh rằng hoạt động sản xuất kinh doanh các DNSCPH có nhiều
tiến triển tích cực, các chỉ tiêu cơ bản ,đặc biệt là các chỉ tiêu về tài chính đều
tăng trưởng tốt hơn hắn so với khi còn là DNNN . Điều này một lần nữa
chứng minh và khẳng đinh mục tiêu, ý nghĩa, tính tất yếu khách quan và vài


Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

12

doanh . Có thế thấy DNNN sau CPH đã và đang đương đầu với những khó
khăn và thử thách rất lớn đặc biệt trong nhũng năm đầu tiên sau cố phần hóa
ỉ.2.2. ỉ Khó khăn về von và khả năng huy động từ hệ thống tài chính
Trên phương tiện lý thuyết, các DNNN sau CPH có lợi thế về quy mô
vốn, nguồn vốn và các phương thức huy động đa dạng phong phú hơn so với
khi còn là DNNN. Ngoài các hình thức huy động thông thường như tín dụng
thương mại, tín dụng ngân hàng các doanh nghiệp này còn có thế huy động
vốn qua thị trường chứng khoán như phát hành cổ phiếu tăng vốn, phát hành
trái phiếu danh nghiệp...Tuy nhiên nhìn chung thì ở Việt nam các doanh
nghiệp phần lớn vẫn chưa huy động được những nguồn vốn như mong muốn
nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư đối mới và phát triến ,bởi còn tùy thuộc vào
nhiều yếu tố , chang hạn như điều kiện tùng doanh nghiệp trước CPH và mức
độ cổ phần hóa được lựa chọn. Bên cạnh đó còn tùy thuộc vào quy định của
nhà nước về đối tượng nắm giữ cố phần , giá trị từng đối tượng được nắm giữ.
Tuy nhiên giả sử việc mở rộng quy mô vốn của các DNSCPH không bị
hạn chế bởi Nhà Nước thì việc tăng quy mô vốn của các doanh nghiệp cũng
không đơn giản vì còn phải phụ thuộc vào tất cả các nhân tố chủ quan của
doanh nghiệp và khách quan của nền kinh tế. về chủ quan thì quan trọng nhất
đó là kết quả sản xuất kinh doanh , theo quy định của Việt nam những doanh
nghiệp muốn phát hành cố phiếu ra công chúng thi phải đáp ứng được những

điều kiên nhất định chẳng hạn về quy mô vốn , về kết quả sản xuất kinh doanh
,đây chính là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp. Bên cạnh đó chi phí vốn
thường rất cao do chi phi thuê bảo lãnh phát hành ,chi phí đáp ứng kì vọng
các cố đông ... Những giới hạn khách quan đối với việc phát hành vốn thuộc
nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng.
Đối với TTCK lúc phát triển ốn định thì phát hành cổ phiếu sẽ thu được
nhiều vốn hơn cho doanh nghiệp , nhưng nếu vào giai đoạn suy thoái như hiện

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

13

nay thì thu được rất ít vốn , thậm chí việc phát hành tăng vốn không những
không hiệu quả mà có thế hạ thấp uy tín và hình ảnh của doanh nghiệp nữa .
Khả năng huy động vốn thông qua các công cụ nợ của các DNSCPH
cũng không phải luôn thuận lợi, nhất là doanh nghịêp này lại được cố phần
hóa từ những DNNN có lịch sử tình hình sản xuất - kinh doanh và tài chính
không tốt đẹp. Các chủ nợ, đặc biệt là các NHTM luôn muốn cho các DNNN
vay vốn hon là các doanh nghiệp không hoàn toàn thuộc về nhà nước, do luôn
yên tâm rằng luôn được trả nợ cho dù có làm ăn thua lỗ bởi có sự bảo trợ của
nhà nước . Sau khi CPH, các doanh nghiệp mất đi sự bảo lãnh của nhà nước
đối với các ngân hàng thương mại và công chúng trong khi các doanh nghiệp
này chưa đủ thời gian cần thiết đế tự' khắng định lòng tin đối với ngân hàng
thuong mại cũng như các chủ nợ khác. Ớ Việt nam cho vay thế chấp là rất
phổ biến , muốn vay được phải có tài sản thế chấp đủ điều kiện trong khi đó

rất nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được điều kiện này. Do vậy, các
DNNN sau CPH thường không có được các lợi thế so với khi còn là DNNN
khi tiếp cận nguồn vốn thông qua các công cụ nợ
1.2.2.2
Nhũng khó khăn về chất lượng nguồn nhân lực
Trong các DNNN sau CPH, quyền làm chủ doanh nghiệp thuộc về cổ
đông và những người lao động được tham gia mua cổ phần, rất khác so với
trước. Sự thay đối này vừa là động lực rất lớn đối với người lao động đồng
thời cũng là áp lực khiến họ phải cố gắng, nỗ lực nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì trong đó có lợi ích của chính bản thân mồi
thành viên. Khi doanh nghiệp gặp khó khăn, từ cán bộ quản lý cho đến người
lao động và các cố đông đều muốn đóng góp công sức, tài sản cũng như sẵn
sàng chia sẻ sáng kiến, kinh nghiệm đế củng cố và thúc đấy sự phát triến các
DNNN sau CPH. Song đó chưa phải là điều kiện đủ ,đế đạt được điều đó lại

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

14

là chất lượng nguồn nhân lực bao gồm nhận thức ,trình độ chuyên môn và
nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên làm việc trong các DNSCPH.
Nghiệp vụ chuyên môn và nhận thức của đội ngũ người lao động
trong DNNN khi chuyển sang CPH chưa thể đáp ứng về nhiều mặt. vấn đề
này đã được chuyên gia phân tích kinh tế nhận định là một khó khăn cản trở
đáng kế đối với việc thực hiện các mục tiêu và phát huy vai trò của tiến trình
DNNN sau CPH. về mặt nhận thức, do thời gian dài làm việc trong các

DNNN với tình trạng làm chủ hình thức nay chuyến sang làm việc trong mô
hình công ty cố phần , sự nhận thức không đầy đủ về quyền lợi, trách nhiệm
và vị thế làm chủ, nảy sinh mâu thuẫn và bất đồng ý kiến giữa những chủ thế
tham gia sở hữu với những đội ngũ quản lý . Không ít những rủi ro vì hạn chế
về mặt này của người lao động đã xảy ra và gây những tốn thất nặng nề về tài
chính cho doanh nghiệp,ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và hình ảnh của
doanh nghiệp trên thương trường, về trình độ chuyên môn, rất nhiều người
lao động cần phải được đào tạo lại về kỹ năng, trình độ công nghệ sản xuất kinh doanh ,ý thức và tính chất chuyên nghiệp. Yêu cầu đặt ra về nguồn nhân
lực của những DNNN sau CPH là cần được đào tạo lại một cách cơ bản và
mang tính hệ thống từ ý thức, tác phong đến trình độ chuyên môn ,nghiệp vụ
mới đủ khả năng làm chủ doanh nghiệp đồng thời làm chủ khoa học kỹ thuật
và công nghệ sản xuất - kinh doanh, quản lý. Đe giải quyết được yêu cầu này
các DNNN sau CPH sẽ phải bỏ nhiều thời gian và một khoản kinh phí không
nhỏ cho việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
1.2.2.3
Sự bất cập về quản trị điều hành.
Do những quy định của nhà nước về hình thức CPH là bán một phần tài
sản thuộc sở hữu công cộng trong các DNNN, không ít doanh nghiệp vẫn duy
trì tỉ trọng vốn khá lớn thuộc sở hữu nhà nước và các đại cố đông của Nhà
nước nắm quyền quản trị điều hành. Việc làm này không dẫn đến sự xáo trộn

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

15


lớn nào về nhân sự, cán bộ lãnh đạo được bố nhiệm từ trước khi cổ phần hóa
.Với việc tiếp tục nắm quyền chi phối với tỷ lệ vốn cao, Nhà nước không chỉ
tiếp tục duy trì về nhân sự lãnh đạo mà các hoạt động sản xuất - kinh doanh
và phân phối tài chính, bố chí sử dụng nguồn nhân lực,v,v.„, của DNNN sau
CPH vẫn chịu sự can thiệp của đại diện phần vốn nhà nước hoặc cơ quan
quản lý của nhà nước. Phần lớn những can thiệp vẫn mang tính chất hành
chính và thường gây ra cản trở đối với hoạt động của DNSCPH. Thậm chí đối
với không ít DNSCPH, hoạt động sản xuất - kinh doanh vẫn theo quy mô
hình tố chức và quản trị điều hành cũ theo cơ chế của DNNN trước khi thực
hiện cổ phần hóa. Như vậy CPH vẫn không có tác dụng nào ngoài huy động
vốn cho nhà nước , chưa thực sự tạo ra động lực đế phát triến
1.2.2.4
Hạn chế về trang thiết bị công nghệ.
Trong thời đại toàn cầu hóa thì yếu tố kỹ thuật, công nghệ sản xuất - kinh
doanh trở thành nhân tố mang tính chất quyết định đối với sự tồn tại và phát
triển của các doanh nghiệp bởi đó là yếu tổ quyết định tới năng suất , chất
lượng sản phấm cung cấp . Tuy nhiên đó là vấn đề khó khăn trở ngại rất lớn
đối với DNNN sau CPH ở Việt nam, có những doanh nghiệp vẫn tiếp tục sử
dụng máy móc thiết bị được sản xuất từ những thập kỷ 70, 80 hoặc cũ hơn
của thế kỷ trước
Sau thực hiện cố phần hóa, xét về khả năng, DNSCPH có điều kiện
tăng thêm vốn đế mua sắm máy móc mới và thiết bị hiện đại và đây chính là
thuận lợi rất lớn đế đổi mới công nghệ. Từ đó tạo điều kiện nâng cao chất
lượng và hạ giá thành sản phẩm, củng cố và duy trì sức cạnh tranh, uy tín trên
thương trường. Tuy nhiên ở trên thực tế việc đầu tư đe phát triến công nghệ
của các DNNN sau CPH còn gặp nhiều khó khăn, không chỉ là vấn đề khả
năng tài chính mà còn cả những vấn đề về cơ chế đầu tư của doanh nghiệp và
khả năng vận hành máy móc thiết bị, ứng dụng đựơc những tiến bộ khoa học -

Nguyễn Quốc Thịnh


Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

16

kỹ thuật vào trong sản xuất - kinh doanh của cán bộ nhân viên doanh nghiệp.
Lượng vốn tăng thêm do cố phần hóa chưa phải là đủ lớn đẻ có thế mua bất
cứ công nghệ tiên tiến nào, đồng thời việc sử dụng số vốn đó vẫn phải tuân
theo các quy định của nhà nước hay các co quan đại diện sở hữu nhà nước
trong khi các quyết định của họ không phải lúc nào cũng kịp thời và chính xác
. Mua được các công nghệ tiên tiến là việc khó nhưng sử dụng nó một cách
hiệu quả cũng khó khăn không kém . Với trình độ cán bộ nhân viên được đào
tạo từ rất lâu rồi , không có điều kiện tiếp cận với các tiến bộ công nghệ thì
việc vận hành chúng là rất khó khăn, không đạt hiệu quả như mong muốn. Do
vậy phải có chính sách đào tạo cán bộ trẻ, cho họ đi tu nghiệp ở những nước
tiên tiến đế họ làm quen với công nghệ mới, giúp cho việc vận hành hiệu quả
hơn
1.3. Nhân tố ảnh hưỏmg đến tiến trình cố phần hóa
1.3.1

Định giá doanh nghiệp

CPH là một chiến lược đúng đắn , tuy nhiên đế cố phần hóa thành công
chúng ta phải tính đến một vấn đề rất quan trọng là giá trị doanh nghiệp . Xác
định đúng giá trị doanh nghiệp sẽ làm minh bạch vấn đề sở hữu , vốn , tránh
thất thoát tài sản công vào tay những cá nhân tham nhũng , góp phần quyết
định đấy nhanh tiến độ CPH .Việc định giá của các DNNN ở Việt nam còn

chứa đựng nhiều bất cập , gây thất thoát vốn rất lớn cho Nhà nước .Theo quy
định hiện hành, có hai cơ chế định giá được phép áp dụng là thành lập Hội
đồng định giá hoặc thuê công ty tư vấn định giá độc lập. Thành viên của Hội
đồng định giá là cán bộ đại diện của nhiều cơ quan quản lý Nhà nước khác
nhau, ví dụ như Sở Tài chính, Sở KH-CN, Uỷ ban Nhân dân V.V., vì thế ý
kiến đánh giá của họ không phải bao giờ cũng thống nhất và có thế bị
nghiêng về những mục tiêu quản lý riêng. Do đó, định giá theo cơ chế này

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

17

thường không phản ánh được giá trị “thực tế” của DNNN. Hơn nữa, mâu
thuẫn về quyền lợi giữa DNNN với các cơ quan quản lý nhiều khi làm cho
việc định giá chậm được thống nhất. Việc sử dụng công ty tư vấn độc lập để
định giá tuy tỏ ra có hiệu quả hơn nhưng vẫn còn những hạn chế trong việc
xác định giá trị tài sản vô hình như thương hiệu hay lợi thế kinh doanh. Hơn
nữa, hầu hết các công ty tư vấn độc lập của Việt Nam vẫn chưa đủ kinh
nghiệm và trình độ đế định giá các DNNN lớn và phức tạp.
1.3.2
Đối tác chiến lược
Một số chuyên gia nhận định, trong bối cảnh nhiều đối tác chiến lược
sau khi mua cố phần với giá ưu đãi đã bán ra với mục đích kiếm lời trước mắt
nhờ chênh lệch giá , Chính phủ đã phải quy định giá mua cô phần của đối tác
chiến lược không thấp hơn giá đấu bình quân, điều này đã giảm bót động cơ

của những nhà đầu cơ ngắn hạn. Tuy vậy, về lý thuyết nhà đầu tư chiến lược
dài hạn cam kết hồ trợ DN về công nghệ, đào tạo nhân lực... nhưng phải mua
với giá như đối tượng khác là thiếu hấp dẫn, có thể làm giảm động lực của họ.
Đặc biệt đối tác chiến lược nước ngoài nhận thấy chính sách khuyến khích
góp vốn có phần giảm sút so với trước đây, nên chần chừ quyết định đầu tư,
thậm chí bỏ hẳn ý định đầu tư vào doanh nghiệp .
Một khó khăn khác là không ít DN yếu kém trong việc định hướng phát
triến do trình độ quản lý thấp . Do không có định hướng rõ ràng làm cho
niềm tin của các nhà đầu tư về tương lai doanh nghiêp không khả quan nên
không hấp dẫn nhà đầu . Đối với đối tác lớn đặc biệt là các nhà đầu tư nước
ngoài, khi nhìn thấy DN khó phát huy thế mạnh của mình, họ sẽ từ bỏ ý định
trở thành cố đông chiến lược.
Không tìm được đối tác chiến lược tức là rất hạn chế trong việc tiếp cận
khoa học công nghệ hiện đại , tiếp cận với nguồn vốn dồi dào . Do vậy rất
khó khăn đế thực hiện CPH cũng như giải quyết nhưng vấn đề hậu CPH

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

1.3.3

18

Nợ xấu

Đen nay không có số liệu chính thức nào về dư nợ vốn vay của các

DNNN tại các tổ chức tín dụng đặc biệt là các Ngân hàng thương mại
(NHTM) nhưng chắc chắn là rất lớn . Chỉ tính riêng các Tổng công ty xây
dựng công trình giao thông thuộc bộ Giao thông vận tải đã có sổ dư nợ tới
12.300 tỷ đồng mà chủ yếu là nợ xấu , đã được các NHTM xử lý dự phòng rủi
ro. Các DNNN làm ăn kém hiệu quả , nợ xấu ngân hàng kéo dài không được
các ngân hàng cho vay nên càng thiếu vốn và làm ăn không có hiệu quả .Rất
nhiều các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ đã phải vay nợ với số dư nợ
rất lớn , nhưng giờ đây theo chính sách nhà nước đặt ra phải tiến hành CPH ,
phải bán cố phần cho các cá nhân tố chức . Tuy nhiên cho dù có đối mới thì
những khoản nợ ấy vẫn phải trả cho chủ nợ , điều này làm cho những người
muốn mua cổ phần không muốn mua nữa vì họ sợ rằng nguồn vốn mà họ góp
vào công ty thông qua mua cổ phần phần lớn là đế trả nợ , không dùng cho
mục tiêu đầu tư kinh doanh ,như vậy tương lai công ty sẽ không khả quan tức
là những đồng vốn mà họ bở ra không hiệu quả .Như vậy tiến trình cố phần
hóa sẽ bị chậm lại rất nhiều
1.3.4
Hành lang pháp lý và tính nhất quán trong chỉ đạo thực hiện
Hành lang pháp lý còn thiếu minh bạch, thiếu nhất quán, thiếu tính ốn
định hay thay đôi và chưa có sự đồng bộ.Việc sắp xếp, cơ cấu lại DNNN chưa
được thực hiện theo một để án tổng thể kết hợp giữa ngành và địa bàn mà lại
được thực hiện theo tùng đề án của từng bộ, ngành, địa phương, tống công ty
nên còn có sự chồng chéo về ngành nghề kinh doanh, giữa doanh nghiệp
trung ương và doanh nghiệp địa phương trên cùng một địa bàn.
Các doanh nghiệp được trao nhiều quyền tự’ chủ nhưng chưa có cơ chế
giám sát hiệu quả nên dẫn đến việc triến khai các chính sách còn tuỳ tiện,
thiếu minh bạch...Chưa có những quy định về công tác kiểm tra, xử lý vi

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C



Luận văn tôt nghiệp

19

phạm trong việc sắp xếp, đối mới doanh nghiệp và CPH. Hiệu lực quản lý
của bộ máy nhà nuớc còn thấp; công tác kế toán, kiếm toán còn nhiều yếu
kém, chua bảo đảm phục vụ một cách hữu hiệu công tác quản lý, kiểm tra,
giám sát.
Cổ phần hóa các tổng công ty sẽ dẫn tới việc thành lập các tập đoàn
kinh tế lớn đa nghành đa lĩnh vực. Trong khi đó lại chua hình thành khung
pháp luật đầy đủ hướng dẫn cho việc hình thành và quản lý đối với tập đoàn,
do vậy cản trở đáng kể tới tiến trình cổ phần hóa các Tổng công ty
1.3.5
Sự phát triển ổn định của TTCK
TTCK có ba chức năng chính : Thứ nhất là huy động vốn cho doanh
nghiệp, thứ hai là nâng cao năng lực hoạt động và quản trị doanh nghiệp, thứ
ba là ra tín hiệu thông tin liên quan đến các công ty phát hành cho các nhà
đầu tư thông qua giá chứng khoán . Sự phát triển ổn định của TTCK sẽ làm
cho cung hàng hóa tức là cố phiếu thuận lợi hơn , được giá hơn giúp cho DN
thu được nhiều vốn hơn đế đầu tư và phát triển . Bên cạnh đó còn đem lại
nhiều lợi ích khác như tiết kiệm chi phí quảng cáo doanh nghịêp, ràng buộc
hơn cho tính lành mạnh của các báo cáo tài chính...Do vậy sẽ thúc đấy các
doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa
1.4 Điều kiện thúc đẩy cổ phần hóa
Đẩy nhanh quá trình CPH các DNNN trong thời gian tới đang còn rất
nhiều những thách thức, khó khăn . Đế thúc đấy CPH theo người viết cần phải
tác động tới bốn yếu tố sau:
Thứ nhất : Nhà nước phải có những biện pháp chiến lược mới cho quá

trình CPH vì các DNNN là đối tượng CPH trong thời gian tới có những điếm
khác với các doanh nghiệp đã được CPH trước đây.Quy mô các doanh nghiệp
sắp CPH rất lớn , đóng vai trò rất quan trọng với nền kinh tế

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

20

Hạn chế sự phân biệt giữa nhà đầu tư trong nước và nước
ra CO' chế thông thoáng hơn cho họ chang hạn như cho phép họ
cố phần cao hơn trong các DNNN . Bên cạnh đó tạo điều kiện
gắn kết giữa hoạt động đầu tư của nhà đầu tư chiến lược với sự
doanh nghiệp CPH.

ngoài, cần tạo
nắm giữ tỷ lệ
đế thu hút và
phát triển của

Thứ hai: Thay đối nhận thức của DN ,tổng điều tra đánh giá hiệu quả
thực tế các doanh nghiệp sau CPH đế rút ra những kinh nghiệm về thành công
và chưa thành công của các doanh nghiệp. Qua đó làm cho mọi doanh nghiệp
từ ban quản lý cho tới nhân viên thấy được lợi ích rõ ràng, những bài học cụ
thế từ CPH . Điều này sẽ có tác động làm thay đối nhận thức, tạo những hiểu
biết tốt hơn, tù’ đó tạo niềm tin và động lực tù' bên trong của doanh nghiệp.

Đồng thời có chiến lược hỗ trợ một cách có hiệu quả về đào tạo nâng cao
năng lực trước, trong và sau CPH.
Thứ ba : vấn đề hành chính , nhanh chóng thực hiện những biện pháp
giải quyết dứt điếm những vướng mắc hiện nay về vấn đề đất đai, tài sản và
những vướng mắc về lao động. Đặc biệt cần sớm chấm dứt trên thực tế không
phải chỉ trên giấy tờ, văn bản sự phân biệt đối xử đối với các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, nhất là các DNNN đã CPH. Điều này
rất quan trọng và sẽ là một nhân tố thúc đấy doanh nghiệp tiến hành CPH có
hiệu quả. Chúng ta cũng cần sớm hoàn thiện và tạo những điều kiện thuận lợi
để doanh nghiệp có thể áp dụng tốt trình tự tiến hành CPH và cơ chế định giá
doanh nghiệp mới, không gặp khó khăn tiếp cận thị trường chứng khoán. Mở
rộng hơn nữa đối tượng tham gia CPH đế có những cổ đông mạnh, họ sẽ là
một trong những tác nhân quan trọng nhất đảm bảo cho sự ốn định và thành
công trong kinh doanh của doanh nghiệp sau CPH.
Thứ tư : Giải quyết tốt những mâu thuẫn xảy ra trong quá trình thực
hiện CPH. Như đã biết CPH có những mục tiêu cơ bản là : huy động vốn,

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

21

thay đối cơ chế quản lý, và quan trọng hơn thay đối bản chất doanh nghiệp
thông qua thay đối hình thức sở hữu nhằm tìm được một mô hình làm ăn hiệu
quả nhất .Hiểu được mặt tốt của cổ phần hóa, đặt ra mục tiêu rất đúng, nhưng
mặt khác cách làm của chúng ta hiện nay lại lộ ra ba mâu thuẫn gây cản trở

không nhỏ tới tiến trình CPH
Mâu thuẫn thứ nhất: mâu thuẫn thứ nhất là mâu thuẫn trong tư duy. Ta đã
phải công nhận những doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thường làm ăn
không hiệu quả, thua lỗ năm này qua năm khác. Muốn nó tốt lên, muốn tài
sản nhà nước không mất đi, không còn cách nào khác là phải cải cách, vì phần
lớn của chiếc bánh to còn hơn cả chiếc bánh nhỏ .Cải cách bao nhiêu kiểu rồi,
tù’ tự’ chủ tài chính , cải cách cơ chế làm việc , cơ chế trả lương.... Tuy nhiên
hiệu quả đều không như mong muốn. Cuối cùng qua thực tiễn các nước trên
thế giới cũng như ở Việt nam đã nhận ra , việc đổi mới DNNN phải lấy thay
đối hình thức sở hữu làm nền tảng tức là cổ phần hóa mới đem lại sự chuyến
biến sâu sắc nhất và mạnh mẽ nhất, từ đó đem lại hiệu quả cao nhất và bền
vũng nhất.
Nhưng dù cố phần của nhà nước đang được bán cho những cá nhân,
những tổ chức của một nhóm cá nhân nhưng chúng ta lại muốn rằng cố phần
hóa không phải tư nhân hóa. Vậy cố phần hóa là chuyển quyền sở hữu của
nhà nước sang ai? Làm sao đế CPH mà hoàn toàn không phải là tư nhân hóa?
Chỉ có cách bán cố phần cho các công ty nhà nước khác mới không là tư nhân
hóa, bởi vì vẫn chỉ có một chủ sở hữu duy nhất là nhà nước. Neu như thế thì
cũng không khác trước là mấy , vấn đề vẫn chưa được giải quyết tận gốc .
Neu không có một phần tư nhân hóa , túc không gắn chặt lợi ích doanh
nghiệp với lợi ích của nhà quản lý , không có cơ chế kiếm tra kiếm soát trong
nội bộ công ty trên cơ sở tự’ giác cao ... tất yếu sẽ không đạt hiệu quả như
mong muốn .Chúng ta nên nên thừa nhận trong cố phần hóa có một phần là

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp


22

tư nhân hóa, tất nhiên cũng không hoàn toàn là tư nhân hóa .Nhà nước vẫn
phải giữ một tỷ lệ cố phần phù họp tùy theo tùng nghành và vai trò của tùng
doanh nghiệp cổ phần nhằm đảm bảo sự ổn định của cả nền kinh tế , tránh xảy
ra sự chi phối của tư nhân làm lũng đoạn thị trường . Do không nhất quán
trong quan điểm nên quá trình cổ phần hóa vẫn còn chậm , gượng gạo, nhiều
nơi không thống nhất cách làm, dẫn đến tình trạng có địa phương hô hào về
chủ trương nhưng khi tiến hành cô phần hóa thì lại hạn chế.
Có thời điểm ta chỉ cho những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, yếu kém cổ
phần hóa, còn những công ty có lãi thì không tiến hành ,một phần vì chưa
nhận ra nguyên nhân của sự yếu kém là xuất phát từ chính doanh nghiệp. Từ
sự yếu kém trong điều hành quản lý, sự thiếu động lực lao động sáng tạo do
được nhà nước bao cấp ... Như vậy là không hiếu rõ vì sao lại tiến hành CPH
một cách sâu sắc mà chỉ biết rằng thua lồ là CPH còn không thua lỗ thì thôi.
Đen nay nhiều nơi vẫn bị ảnh hưởng tâm lý này. Nghịch lý này khiến tính
toàn dân trong cổ phần hóa như Chính phủ đề ra không đảm bảo vì không
phải ai muốn mua cô phần của Nhà nước cũng được trong khi về bản chất tài
sản nhà nước chính là tài sản của toàn dân.
Mâu thuẫn thứ hai: mâu thuẫn thứ hai là chúng ta muốn cổ phần hóa đế
tăng vốn cho doanh nghiệp nhưng lại giới hạn quyền góp vốn của người dân
với tỉ lệ cố định ở mức thấp. Còn rất nhiều doanh nghiệp không nhạy cảm về
an ninh quốc phòng, cũng không thuộc ngành ngân hàng, nhưng các cơ quan
chủ quản doanh nghiệp hoặc bản thân ban lãnh đạo doanh nghiệp vẫn không
cho bán quá 49% vốn đế giữ quyền lãnh đạo và những lợi ích hẹp hòi trước
mắt.
về bản chất sở hữu nhà nước là của toàn dân , DNNN thuộc sở hữu nhà
nước nên nó cũng là sở hữu toàn dân và Nhà nước được nhân dân giao cho
quản lý. Thực lực này không phải đế phân bổ rải ra khắp nơi, chi phối tất cả


Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

23

các vấn đề trong xã hội, mà chỉ nên tập trung phân bố ở một số điếm quan
trọng theo định hướng của Nhà nước ,còn lại là tận dụng nguồn vốn trong dân
cư. Việc định hướng không có nghĩa là phải nắm, nhất là nắm thật nhiều đến
mức chi phối hoàn toàn, Neu ta muốn định hướng tiến tới một nền kinh tế tri
thức thì phải tập trung nguồn lực đầu tư cho ngành công nghệ cao như công
nghệ thông tin, công nghệ điện tử ,ô tô...chứ không phải hô hào, rồi vẫn giữ
chặt vốn đế nắm chi phổi hoàn toàn các doanh nghiệp không phải then chốt,
không đóng vai trò động lực cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
như mía đường , bông sợi .... Như thế nguồn lực sẽ phân tán , không phát
huy được hiệu quả như mong muốn. Neu biết tập trung nguồn vốn vào những
ngành then chốt, đáp ứng đủ nhu cầu tiếp cận công nghệ tiên tiến , nhu cầu
nghiên cún sản phấm mới ...thì sức mạnh của các doanh nghiệp đó sẽ lớn lên
một cách nhanh chóng . Thà giữ cổ phần ở ít công ty nhưng vốn hóa của nó
lớn còn hơn là giữ ở nhiều công ty làm ăn kém với mức chi phối . Trong khi
đó cách làm hiện tại của ta, cứ quyết tâm giữ cổ phần chi phối ở hầu hết các
doanh nghiệp, nếu cứ giữ cố phần chi phối đế rồi giá trị cổ phần ấy nó không
tăng lên thậm chí còn giảm đi thì chi phối đế làm gì? Đó là thất thoát khống lồ
tiếp theo bởi vì đầu tư vốn của nhà nước không hiệu quả, không sinh lời theo
thời gian. Nhà nước cũng là một nhà đầu tư, dùng tiền của nhân dân đầu tư do
vậy phải có trách nhiệm với những đồng tiền đó .Do vậy phải tìm biện pháp

hiệu quả nhất, có lợi nhất cho tài sản của Nhà nước, của nhân dân.
Mâu thuẫn thứ ba: cũng tù' thói quen muốn giũ' cố phần chi phối nên
chúng ta tạo nên mâu thuẫn thứ ba. cổ phần hóa đặt ra mục tiêu thay đối cơ
chế quản lý nhưng thực tế, với cách nắm giũ' cố phần chi phối thì doanh
nghiệp sau CPH cơ bản vẫn giữ lại toàn bộ CO' chế điều hành cũ, bởi quyền
lãnh đạo vẫn thuộc về nhà nước ,đế rồi những cá nhân được nhà nước trao cho
quyền quản lý tùy quyền quyết định mọi vấn đề mà ít quan tâm hay không cần

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

24

quan tâm tới ý kiến của những cổ đông nhỏ lẻ . Như vậy thì cổ phần hóa
không thay đối được bản chất doanh nghiệp , đó không khác gì một cách huy
động vốn từ cá nhân, tổ chức trong nền kinh tế cho DNNN sử dụng mà
thôi.Trường hợp này hầu như toàn bộ ban lãnh đạo cũ của doanh nghiệp vẫn
giữ nguyên, cố phần hóa rồi nhưng cơ chế trông chờ, mệnh lệnh hành chính
đã hằn bao nhiêu năm có thay đối được thì cũng chỉ là tí chút. Trong khi đó,
chỗ dựa (là Nhà nước) không còn được như trước , nên nhiều công ty cố phần
hóa xong còn thua lỗ và yếu kém hơn trước.. Như vậy thì dù cố đông có năng
động, có đặt mục tiêu cao bao nhiêu, tình hình doanh nghiệp vẫn không thế có
bước ngoặt quyết định.
Trước đây ta đế cho doanh nghiệp tự' định giá, rồi sau đó là tạo ra hội
đồng định giá, cố nghĩ rằng với bản lĩnh chính trị người ta sẽ không móc
ngoặc tham nhũng, nhưng thực tế không được như vậy . Ớ không ít doanh

nghiệp người ta đã định giá không đúng và thấp hơn rất nhiều so với thực tế ,
như vậy những cán bộ không trong sạch sẽ mua được nhiều cổ phần với giá
thấp và hưởng lợi một cách bất chính , trong khi đó nhà nước thu về được ít
vốn hơn gây thất thoát rất lớn. Bên cạnh đó chúng ta vẫn qui định phải bán giá
ưu đãi cho người lao động, cho lãnh đạo doanh nghiệp một phần quá lớn, giá
đã thấp hơn thực tế rồi còn ưu đãi nữa thì nhà nước thu về lại càng ít nữa. Việc
làm đó hoàn toàn mang tính đạo đức ,việc đắt rẻ không phải trong phạm trù
đạo đức mà nó là khái niệm của thị trường. Chúng ta đang sống trong nền
kinh tế thị trường nên phải chấp nhận những quy luật của thị trường chứ
không nên theo ý muốn chủ quan. Mong muốn cổ phần hóa không phải tư
nhân hóa nên chúng ta dành một lượng đáng kế cố phiếu đế bán ưu đãi cho
công nhân. Đấy là việc tốt nhưng thực tế nó có đồng nghĩa với việc chuyến sở
hữu nhà nước cho tập thế công nhân không, hay nó đang là cơ hội cho nhiều
kẻ tham ô, lũng đoạn? Thực tế nếu công nhân nắm được cổ phần thì đó chỉ là

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

25

tỉ lệ cực nhở, không đáng kế. Tiếng là 10-20% nhưng những công nhân lẻ loi
liệu có thế đòi được quyền mua công bằng? Qua 1-2 năm, thậm chí chỉ vài
tháng, chỉ còn rất ít người giữ được “quyền làm chủ” của mình qua việc
chiếm giữ cố phiếu. Hoặc là cố phiếu đó được bán tự do, hoặc chính những
người lãnh đạo doanh nghiệp mua, mở đường cho cá nhân nào đấy, có thể là
chính lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước sở hữu công ty.Cơ chế và cách quản lý

cố phần hóa như thế thì không thế không thất thoát. Người ta có thế định giá
thấp doanh nghiệp, thậm chí giấu tịt một khoản vốn tương đối mà không ai
biết. Vì vậy nên ngay cả những công ty nhỏ khi “lên sàn” giá cũng thường
tăng gấp nhiều lần là chuyện bình thường và tất nhiên được lợi là rất ít cá
nhân trong khi thiệt hại thuộc về nhà nước và người lao động doanh nghiệp đó
1.5 Nhũng vấn đề cần chú ý khi thực hiện cố phần hóa
Nội dung cốt lõi của đường lôi đốỉ mới của đảng và nhà nước ta là phát
triển sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường
định hướng XHCN với mục tiêu làm cho đất nước giàu mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Với cơ chế thông thoáng hơn đã thúc đấy sự ra đời
của hàng trăm nghìn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cố phần tư nhân, hàng trăm nghìn trang trại, củng cố kiện toàn và sự
ra đời của hàng chục nghìn họp tác xã bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước .
Sự xuất hiện các thành phần kinh tế khác là phù hợp với điều kiện hoàn cảnh
mới.
Qua hơn 20 năm sau thời kì đối mới các thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh đã khắng định được vai trò to lớn của mình đối với nền kinh tế . Đã
xuất hiện những tập đoàn kinh tế với năng lực tài chính hùng mạnh , trình độ
quản lý cao, dây chuyền sản xuất hiện đại hơn hẳn các doanh nghiệp nhà
nước . Trong khi đó các doanh nghiệp nhà nước thì phần lớn làm ăn thua lồ,

Nguyễn Quốc Thịnh

Lớp: Tài chỉnh 46C


Luận văn tôt nghiệp

26


kém năng động, khó lòng đảm đương được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế
quốc dân .Đứng trước tình hình đó Chính phủ đã đây mạnh đối mới các doanh
nghiệp nhà nước mà quan trong nhất là thúc đấy quá trình cổ phần hóa . Đẩy
mạnh cổ phần hóa là một chiến lược đúng đắn cần phát huy ít nhất là trong
thời điểm hiện tại . Tuy nhiên, trong quá trình cổ phần hóa có một số vấn đề
cần chú ý :
Thứ nhất: cố phần hóa nhưng việc định giá doanh nghiệp phải theo giá
thị trường trên cơ sở đấu giá công khai, minh bạch để hình thành giá trị thị
trường của doanh nghiệp. Tránh tình trạng bán tống, bán tháo làm thất thoát
tài sản của Nhà nước, của toàn dân - thành quả của bao nhiêu năm xây dựng
và phát triến.
Thứ hai: cố phần hóa đế đa dạng hóa sở hữu vốn tại doanh nghiệp, tránh
tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước, để rồi hình thành các tỉ phú trên cơ sở tài
sản của Nhà nước. Đối với nước ta trước đây cần tránh tình trạng cổ phần hóa
như đã xảy ra đối với khách sạn Phú Gia mà tổng giá trị doanh nghiệp còn
thấp hơn cả giá đất, chưa kế vị trí đắc địa hay thương hiệu của các doanh
nghiệp này. cần tránh tình trạng tư nhân hóa trong thời kỳ đầu của nước Nga
đế rồi mới chỉ sau mười lăm năm chuyển từ cơ chế phân phối bình quân sang
cơ chế thị trường mà tổng tài sản của các tỉ phú đã chiếm tới một phần tư
GDP của cả nước
Thứ ba: cổ phần hóa để người lao động tại doanh nghiệp có vị thế mới là
trở thành cổ đông - chủ sở hữu một phần vốn của doanh nghiệp - có quyền
tham gia vào việc quyết định đối với doanh nghiệp. Việc dành một lượng cổ
phiếu un đãi cho người lao động trong doanh nghiệp là cần thiết và do được
định giá theo giá thị trường nên thị giá sẽ đủ lớn, cũng không có sự chênh
lệch lớn về giá cả sẽ giảm bớt việc "bán lúa non", việc mua vét của một số cá
nhân, dẫn đến tình trạng người lao động trở thành trắng tay, hoàn toàn trở

Nguyễn Quốc Thịnh


Lớp: Tài chỉnh 46C


×