Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC TRUNG HỌC CƠ SỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.48 KB, 19 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH TƯỜNG
TRƯỜNG THCS KIM XÁ

CHUYÊN ĐỀ
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY
MÔN SINH HỌC BẬC THCS

Môn: Sinh học
Tổ bộ môn: Khoa học tự nhiên
Đơn vị: THCS ………..
Cụm chuyên môn : Số 1
Mã:
34
Người viết : ……………………
Email: ……………………………


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

Trang

MỤC LỤC
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

3

1.Lí do chọn đề tài.

4

2. Mục đích - phạm vi - đối tượng -phương pháp và thời gian nghiên cứu.



4

2.1. Mục đích nghiên cứu

2

4

2.2. Phạm vi nghiên cứu.

4

2.3. Đối tượng nghiên cứu.

4

2.4. Phương pháp nghiên cứu.

2

2.5. Thời gian nghiên cứu.

5
5
5

PHẦN II. NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung.


5
6

2.Phương pháp giảng dạy

7
9

2.1. Phương pháp dạy các kiến thức hình thái , giải phẫu.
2.2. Phương pháp dạy các kiến thức sinh lí, sinh thái.
2.3.Phương pháp dạy các kiến thức ứng dụng.

11

3. Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực của học
sinh trong giảng dạy môn sinh học ở THCS.

11

3.1. Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong
giảng dạy môn sinh học ở THCS.

12

3.2. Một số kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong
giảng dạy môn sinh học ở THCS.
4. Bài dạy minh hoạ.
5.Kết quả thực nghiệm và nhận xét.
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ


14 16
14 16
15 16

1. Kết luận.
2. Kiến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

18

17
18
19

2


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lí do chọn đề tài.
Dạy và học là hai hoạt động sư phạm nhằm mục đích hình thành các đơn vị
kiến thức và kỹ năng cho người học. Mục tiêu đó đạt được hay không phụ thuộc
nhiều vào phương pháp dạy học và sự hoạt động tích cực của thầy và trò.
Hiện nay, các phương pháp dạy học tích cực đã và đang được sử dụng phổ biến
ở hầu hết các môn học, trong đó có môn Sinh học. Muốn dạy học tích cực, điều khó
khăn nhất cần giải quyết đó chính là phải tạo được sự chủ động, tích cực của người
học. Bởi người dạy và các cá nhân khác không thể “học thay” hay bắt buộc được bản

thân người học, nhồi nhét nội dung kiến thức của bài học.Thay vào đó, sẽ là việc
khơi dậy, gợi mở tạo tâm thế và hứng thú cho người học, khiến người học tự giác,
chủ động đi tìm và lĩnh hội các tri thức của bộ môn.
Chính vì lẽ đó khi thực hiện chương trình theo định hướng đổi mới phương
pháp dạy học trước hết cần phải thay đổi quan niệm về dạy học tích cực.
Định hướng đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định trong Nghị
quyết Trung ương 4 khóa VII (1 - 1993), Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII (12 - 1996),được thểchế hóa trong Luật Giáodục (12 - 1998),được cụthể
hóa trong các chỉ thị của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đặc biệt là chỉ thị số 15
(4 - 1999). Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp
với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng
thú
học tập
cho
học sinh".
Với thiết bị dạy học,từ quan niệm thiết bị dạy học phục vụ chủ yếu cho việc
minh họa lời bình, và thuyết trình của giáo viên sang phục vụ chủ yếu cho các hoạt
động học tập của học sinh. Có như vậy học sinh mới có điều kiện được tư duy một
cách độc lập, chủ động và tích cực tìm tòi, phát hiện kiến thức.
Trong dạy học bộ môn Sinh học ở trường phổ thông trung học cơ sở, người
giáo viên dạy sinh học là người giữ vai trò chủ đạo trong việc hướng dẫn học sinh;
hay nói cách khác là người tổ chức, dẫn dắt học sinh tìm tòi những tri thức Sinh học.
Lúc này học sinh là người chủ động, tính tích cực tìm tòi, phát hiện và có ý thức
vận dụng kiến thức vào thực hành phục vụ nhu cầu bản thân, gia đình và xã hội.
Do đặc trưng cơ bản của bộ môn Sinh học rất gần gũi, thành tựu nghiên cứu
ngày càng phát triển nhanh nên người giáo viên sinh học phải nắm được mục tiêu
chung của bộ môn, hiểu sâu và vận dụng kiến thức một cách linh động vào thí

nghiệm vào thực hành nhằm đưa tiết học trở nên sinh động, khoa học, sáng tạo, đưa
học sinh đi đến đích nhanh nhất và có áp dụng vào thực tế. Cũng từ bài học sinh học
giáo dục cho các em lòng yêu thích thiên nhiên, và có ý thức bảo vệ môi trường tự
nhiên mà cụ thể là thực vật, động vật con người, từ đó có thái độ yêu, ghét rõ ràng và
có niềm tin vào khoa học.

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

3


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

Để làm được điều này việc dạy và học Sinh học không chỉ đơn thuần sử dụng
một phương pháp nào mà phải phối hợp các phương pháp một cách khoa học, phù
hợp như từ Tranh, ảnh, mô hình, vật mẫu, các khu dự trữ thiên nhiên hay trong phim
ảnh sẽ giúp học sinh hình thành được kiến thức nhanh nhất và cụ thể nhất.
Cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục nói chung bộ môn Sinh học nói
riêng. Việc cải tiến phương pháp dạy học là một nhân tố rất quan trọng. Vì thế Bộ
giáo dục đã “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo khắc phục lối dạy
truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy, sáng tạo của người học từng bước
áp dụng phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học”. Mặt
khác rèn luyện cho giáo viên và học sinh những suy nghĩ để sáng tạo ra những dụng
cụ học tập và áp dụng vào dạy học chủ động.
Trong việc đổi mới và cải tiến phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của
học sinh có ý nghĩa rất quan trọng. Bởi vì xét cho cùng công việc giáo dục phải được
tiến hành trên cơ sở tự nhận thức, tự tìm hiểu đi đến tự hành động, nền giáo dục phải
thực hiện thông qua hành động và bằng hành động của bản thân (đi từ tư duy, trừu
tượng hóa, khái quát hóa đến thực tiễn, cho nên việc khơi dậy, phát triển ý thức, ý
chí, năng lực bồi dưỡng rèn luyện phương pháp tự học, tự vận dụng là con đường

phát triển tốt nhất của giáo dục - đào tạo).
Học tập bộ môn Sinh học càng cần đến sự phát triển tính tích cực, sáng tạo của
học sinh để không những chỉ hiểu biết về khoa học sinh học mà còn biết chắt lọc và
áp dụng vào bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên và phát triển thiên nhiên, đặc biệt
hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và con người; áp dụng kiến thức
Sinh học vào xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân và bảo vệ sức khỏe con
người, khai thác và bảo vệ nguồn lợi Sinh học một cách hợp lý.
Với lý do nêu trên, tôi đã chọn cho mình một đề tài nghiên cứu với mong
muốn đóng góp một phần nhỏ bé kiến thức của mình vào sự nghiệp giáo dục, qua
việc dạy học môn Sinh học ở trường phổ thông góp phần vào “sự nghiệp trồng
người” với chuyên dề:
" Phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng dạy môn Sinh học bậc THCS"
2. Mục đích- phạm vi - đối tượng - phương pháp và thời gian nghiên cứu.
2.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu , đánh giá và phân tích được hiệu quả của các phương pháp dạy học
nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong dạy học Sinh học.
Vận dụng một số phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy
tính tích cực của học sinh vào thực tế giảng dạy giảng dạy môn Sinh học ở THCS
nói chung và Sinh học 8 nói riêng.
2.2 . Phạm vi nghiên cứu:
- Nội dung chương trình Sinh học bậc THCS.
- Bài dạy Thực nghiệm tại lớp 8.( Tiết 52 – Vệ sinh mắt)
2.3. Đối tượng nghiên cứu:
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

4


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS


- Các phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh vào thực tế giảng dạy giảng dạy môn Sinh học ở THCS nói chung và
Sinh học 8 nói riêng.
2.4 . Phương pháp nghiên cứu :
Tôi thực hiện đề tài này với các phương pháp chủ yếu sau:
2.4.1.Phương pháp nghiên cứu lý luận dạy học.
2.4.2. Phương pháp thực nghiệm .
Bằng việc trực tiếp giảng dạy và thực nghiệm trên lớp
2.4.3. Phương pháp thống kê , phân tích, tổng hợp so sánh.
- Thống kê, điều tra khảo sát số liệu ban đầu trước khi áp dụng các phương
pháp tích cực và so sánh với số liệu, kết quả sau khi vận dụng các phương pháp đó.
2.4.4. Phương pháp nghiên cứu quan sát – phỏng vấn .
2.5.Thời gian nghiên cứu: :
Từ ngày: : 27/09/2013 đến 28/2/2014.
2.6. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu:
Về thuận lợi : Đội ngũ giáo viên đã được tập huấn cấp Sở, cấp Phòng nhiều
năm. BGH các nhà trường quan tâm tới hoạt động đổi mới phương pháp. Học sinh
hứng thú khi giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học tích cực.
Về khó khăn: Đối tượng nghiên cứu là Các phương pháp và kỹ thuật dạy học
tích cực nhằm phát huy tính tích cực của học sinh nên có nhiều khái niệm, đặc điểm
mang tính trừu tượng. Khó định tính, định lượng. Một số GV còn nhiều hạn chế khi
vận dụng sử dụng các phương pháp dạy học tích cực vào dạy học.
Phần II. NỘI DUNG
1. Những vấn đề chung :
Môn Sinh học là một môn khoa học thực nghiệm mà phương pháp dạy học
chủ yếu là quan sát và thí nghiệm. Như ta đã biết con người có nguồn gốc từ động
vật thuộc lớp thú nên cấu tạo cơ thể và các hoạt động sinh lí, về cơ bản là giống với
động vật thuộc lớp thú. Do đó người ta thường tìm hiểu cấu tạo và hoạt động sinh lí
của phần lớn các cơ quan, hệ cơ quan trên cơ thể động vật để tìm hiểu về con
người.Trong dạy học môn này cho học sinh quan sát các mẫu vật tự nhiên lấy từ

động vật ( tim, phổi, thận, não...) để nguyên mẫu hoặc mổ để tìm hiểu hình thái (hình
dạng, kích thước, màu sắc), giải phẫu, kết hợp với tranh vẽ mô hình các cơ quan, hệ
cơ quan của người.
“Con ngưới” là đối tượng nghiên cứu của sinh học 8 ở trường THCS, một đối
tượng gần gủi với học sinh là bản thân các em, là bạn bè xung quanh nên các em có
thể có những hiểu biết thực tế liên quan đến đời sống đến hoạt động hàng ngày của
mình. Do đó, giáo viên có thể khai thác những vốn hiểu biết đó trong quá trình dạy
học bằng phương pháp hỏi - đáp gợi mở, hoặc về phía học sinh có thể dùng những
hiểu biết khoa học để tìm hiểu, giải thích những hiện tượng thường gặp trong đời
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

5


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

sống. Chẳng hạn: Vì sao khi hoạt đông lao động hoặc chơi thể thao, nhịp hô hấp và
nhịp tim lại tăng? Hoặc giải thích câu ” Trời nóng chống khát; trời mát chống đói”...
Nội dung sinh học 8 có nhiều mối liên hệ với chương trình toàn cấp. Do đó
quá trình dạy học cần quán triệt tính kế thừa của các kiến thức trong việc xây dựng
các khái niệm mới (kiến thức giải phẫu) và phát triển các khái niệm có tính chất đại
cương (cấu tạo tế bào của cơ thể, tính thống nhất giữa cấu trúc và chức năng, giữa
các hệ cơ quan trong cơ thể và giữa cơ thể với môi trường ...)
2. Phương pháp giảng dạy:
Thế nào là tính tích cực học tập?
Tính tích cực (TTC) là một phẩm chất vốn có của con người, bởi vì để tồn tại
và phát triển con người luôn phải chủ động, tích cực cải biến môi trường tự nhiên,
cải tạo xã hội. Vì vậy, hình thành và phát triển xã hội là một trong những nhiệm vụ
của giáodục.
Tính tích cực học tập - về thực chất TTC có thể hiện đặc trưng ở khát vọng hiểu

biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm lĩnh tri thức. TTC nhận
thức trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng
tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo
nên tính tích cực. Tính tích cực sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm
mống của sáng tạo.
Ngược lại, phong cách học tập tích cực độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác,
hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. TTC học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như:
hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời của bạn, thích phát
biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn
kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận
thức vấnđề mới; tập trung chú ý vào vấn đề đang học; kiên trì hoàn thành các bài tập,
không nản trước những tình huống khó khăn…
Phương pháp dạy học tích cực:
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) là một thuật ngữ được dùng
để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. "Tích cực" trong PPDH - tích cực được dùng với
nghĩa là hoạt động chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không
dùng theo nghĩa trái với tiêu cực.
PPDH tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận
thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ
không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên
để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo
phương pháp thụ động.
Trong đổi mới phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và tro, sự
phối hợp nhịp nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành công.
Như vậy, thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động".
c tr n g c a các ph n g pháp d y h c tích c c
a.D y và h c thông qua t ch c các ho t n g h c t p c a h c sinh.
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ


6


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

b. D y và h c chú tr ng rèn luy n ph n g pháp t h c.
c. Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
d. K t h p ánh giá c a th y v i t ánh giá c a tro.
- Trong dạy học sinh học ở trung học cơ sở thì phương pháp trực quan và
phương pháp thực hành đi theo con đường tìm tòi, nghiên cứu, tỏ ra có nhiều ưu thế
trong việc thực hiện mục tiêu đào tạo, lại phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh
ở lứa tuổi 11-15, đồng thời cũng thể hiện được các phương pháp đặc thù của các bộ
môn khoa học tương ứng.
- Bên cạnh quan sát và thí nghiệm được sử dụng trong nhóm phương pháp trực
quan và thực hành thì phương pháp đàm thoại, vấn đáp trong nhóm phương pháp
dùng lời cũng được vận dụng phổ biến trong dạy học sinh học nhằm khai thác những
vốn kiến thức mà các em đã tích luỹ về thực vật, động vật, cơ thể người và các cơ
chế, quy luật Sinh học.
Đặc biệt là Sinh học 8, với những hiểu biết thực tế trong đời sống của bản thân
của các em, hoặc vận dụng những kiến thức về giải phẩu và sinh lí người để tìm hiểu
các biện pháp vệ sinh có liên quan đến việc bảo vệ và tăng cường sức khoẻ cho bản
thân và cộng đồng.
- Nội dung chủ yếu của chương trình sinh học THCS nói chung và sinh học 8
nói riêng bao gồm các kiến thức về cấu tạo và hoạt động sinh lí của các cơ quan và
các hệ cơ quan trong cơ thể sinh vật. Trên cơ sở đó đề cập đến các kiến thức bảo vệ
môi trường, vệ sinh cùng các biện pháp rèn luyện cơ thể, bảo vệ và tăng cường sức
khỏe, phòng chống bệnh tật.
Dựa vào các loại kiến thức của chương trình mà phân thành các dạng phương
pháp dạy học sau:
2.1 Phương pháp dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu:

2.1.1.Vai trò của các phương tiện trực quan trong dạy học các kiến thức
hình thái, giải phẩu.
Dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu cần coi trọng nguyên tắc trực quan.
Vận dụng nguyên tắc này GV thường sử dụng các phương tiện trực quan như:
- Các vật thật bao gồm các mẫu tươi, mẫu ngâm, các tiêu bản hiển vi.
- Các vật tượng hình như mô hình, tranh vẽ, các hình chụp, hình vẽ trên bảng
hoặc các sơ đồ cấu tạo, phim đèn chiếu ...
Trong các loại phương tiện trên thì mẫu tươi có nhiều ưu điểm hơn cả. Nó cho
phép học sinh hiểu rõ hình dạng, màu sắc và kích thước thực của các đối tượng quan
sát đôi khi còn cho các em thấy rõ qua cảm giác, xúc giác (sờ, nắn) về tính chất của
đối tượng nghiên cứu (độ cứng, mềm, trơn, nhẵn hay gồ ghề…) nhằm gây hứng thú
yêu thích môn học.
Chẳng hạn, qua nghiên cứu một mẫu tim lợn tươi, bằng sờ nắn các thành cơ
của các ngăn tim, các em có thể nhận biết thành cơ của các tâm nhĩ mỏng hơn so với
thành cơ các tâm thất, thành của tâm thất trái dày hơn thành của tâm thất phải. Nếu
không có được mẫu tươi, thì mẫu ngâm cũng vẫn là vật thật, có tác dụng tốt trong
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

7


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

giờ dạy, đảm bảo học sinh có được biểu tượng khá chính xác về đối tượng nghiên
cứu. Tất nhiên, mẫu ngâm khó giữ được màu sắc tự nhiên nhưng lại có ưu điểm là
được xử lí tốt về mặt sư phạm, thể hiện được rõ những đặc điểm cấu tạo cần quan
sát.
Tuy nhiên, không phải mọi vật đều đáp ứng được những yêu cầu sư phạm
của một số đồ dùng học tập. Có những vật thật quá nhỏ khó quan sát. Muốn cho học
sinh có được một ý niệm về sự tinh vi, phức tạp của kích thước thực của chúng như

cấu tạo của cơ quan tai trong, màng lưới và điểm mù của cầu mắt, cấu tạo của niêm
mạc ruột với các tế bào lông ruột…thì phải kết hợp với việc sử dụng mô hình.
Nhiều khi vật thật, mô hình không cho phép đi sâu vào cấu tạo chi tiết, cấu
trúc hiển vi của các cơ quan, lúc này tranh vẽ sẽ bổ sung tốt cho những hạn chế trên.
Đặc biệt là loại tranh “phân tích” và “tranh liên hoàn” cho phép đi sâu vào các mức
độ cấu trúc khác nhau của các cơ quan đó, hoặc đi sâu vào cấu trúc chi tiết của các
bộ phận quan trọng, tạo điều kiện cho việc tìm hiểu chức năng được thuận lợi.
Song các vật thật, mô hình hoặc tranh vẽ, ảnh chụp phóng to thường là phức
tạp khiến học sinh khó hình dung được những nét cơ bản trong cấu trúc, trong trường
hợp đó sử dụng các sơ đồ câú trúc sẽ có tác dụng khắc sâu những đặc điểm cấu trúc
của đối tượng nghiên cứu, đồng thời làm phát triển tư duy trừu tượng, tư duy khái
quát của học sinh.
Ngoài ra hình vẽ trên bảng của giáo viên cũng là một phương tiện trực quan có
giá trị sư phạm cao, được sử dụng kết hợp với giảng giải, giúp học sinh theo dõi một
cách dễ dàng.
Đặc biệt, cơ thể người cũng là một phương tiện trực quan sống cần được khai
thác trong quá trình dạy các kiến thức hình thái, giải phẫu. Chẳng hạn, mắt với màng
giác, mống mắt, con ngươi; lưỡi với các gai vị giác, da với các sản phẩm của da
(lông, móng); tai ngoài… các chi, xương đai, các loại khớp, các bắp cơ… có thể
quan sát trực tiếp trên cơ thể mình hoặc bạn.
2.1.2 Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan trong dạy học:
- Phương tiện trực quan sẽ đóng vai trò chủ yếu và tích cực trong quá trình
nhận thức khi chúng được sử dụng như một “nguồn” để dẫn tới kiến thức. Ở đây học
sinh độc lập quan sát dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo viên để đi tới những kết
luận cũng là những kiến thức cần lĩnh hội. Quan sát lúc này mang tính chất tìm tòi,
nghiên cứu. Nó có tác dụng phát huy tính chủ động, độc lập, phát triển óc quan sát,
phát triển tư duy cho học sinh.
- Hình vẽ trong SGK cũng được sử dụng làm phương tiện cung cấp thông tin
về cấu tạo của một cơ quan hay hệ cơ quan mà học sinh phải tự tìm hiểu, tự nghiên
cứu và hoàn thành các bài tập có tính chất củng cố để nắm chắc kiến thức.

- Bảo đảm các nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học. Phương tiện dạy học
có tác dụng làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức của học sinh, giúp cho học
sinh thu nhận được kiến thức về đối tượng thực tiễn khách quan. Tuy vậy, nếu không
sử dụng phương tiện dạy học một cách hợp lý thì hiệu quả sư phạm của phương tiện
dạy học không những không tăng lên mà còn làm cho học sinh khó hiểu, rối loạn,
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

8


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

căng thẳng... Do đó các nhà sư phạm đó nêu lên câc nguyên tắc đúng lúc, đúng chỗ,
đúng cường độ. Như vậy, không phải bao giờ và bất cứ lúc nào phương tiện dạy học
cũng có tác dụng tích cực đến hoạt động nhận thức của học sinh. Nhiều khi, nếu
được sử dụng không đúng với những yêu cầu sư phạm cụ thể, phương tiện dạy học
lại có tác dụng theo chiều tiêu cực, làm cho học sinh hoang mang, hiệu quả tiếp thu
kém... để phát huy hết hiệu quả và nâng cao vai trò của phương tiện dạy học khi sử
dụng phương tiện, người giáo viên phải nắm vững ưu nhược điểm và các khả năng
cũng như yêu cầu của phương tiện để việc sử dụng phương tiện dạy học phải đạt
đựơc mụch đích dạy học và phải góp phần nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học
2.2. Phương pháp dạy các kiến thức sinh lí, sinh thái:
2.2.1. Vai trò của thí nghiệm trong dạy học kiến thức sinh lí, sinh thái.
Trong việc dạy học các kiến thức sinh lí, sinh thái, thí nghiệm đóng một vai
trò rất quan trọng. Thí nghiệm cho phép đi sâu nghiên cứu các hiện tượng, các quá
trình và cơ chế sinh lí trong những điều kiện nhân tạo được khống chế, thí nghiệm
được tiến hành trên các đối tượng (cây cỏ,ếch, cóc, chuột thỏ …) hoặc ngay trên
chính cơ thể học sinh để tìm hiểu nguyên nhân, tìm ra cơ chế, rút ra các quy luật hoạt
động của các cơ quan, hệ cơ quan trong mối quan hệ của các cấu trúc của chúng.
2.2.2. Sử dụng các thí nghiệm trong dạy học kiến thức sinh lí, sinh thái.

Sử dụng các thí nghiệm như thế nào để đạt được hiệu quả cao về mặt nhận
thức là một vấn đề đáng được lưu ý về mặt phương pháp.
- Thí nghiệm có thể được sử dụng làm điểm xuất phát cho quá trình nhận thức
là nguồn cung cấp thông tin trong nhóm phương pháp trực quan của GV biểu diễn
(thí nghiệm biểu diễn) hoặc trong nhóm phương pháp thực hành do học sinh trực tiếp
tiến hành (thí nghiệm học tập của HS). Ở đây dưới sự tổ chức và chỉ đạo của giáo
viên, học sinh phải độc lập quan sát các bước trong thí nghiệm (do GV biểu diễn
hoặc do HS tự tay tiến hành), tích cực tư duy, chủ động, giành lấy kiến thức. Do đó,
thí nghiệm có tác dụng tích cực trong hoạt động nhận thức, giúp phát triển tư duy
khoa học tới mức tối đa, đồng thời phát triển năng lực quan sát, rèn luyện một số kỹ
năng thực hành. Thí nghiệm trong trường hợp này mang tính chất tìm tòi, nghiên cứu
được gọi là thí nghiệm biểu diễn có tính chất nghiên cứu (do GV tiến hành) hoặc thí
nghiệm thực hành (do HS tiến hành). Trong thí nghiệm được tiến hành theo phương
pháp tìm tòi nghiên cứu, HS phải tập trung chú ý quan sát, tích cực tư duy (so sánh,
đối chiếu các kết quả trong quá trình thí nghiệm) để tự mình rút ra những nhận xét,
đi tới các kết luận cần thiết dưới sự hướng dẫn của GV.
- Trong dạy các kiến thức sinh lí, thí nghiệm còn được sử dụng như một biện
pháp để xác định nhiệm vụ nhận thức, vì nhu cầu và hứng thú chỉ nảy sinh khi các
em hiểu được ý nghĩa, ý thức được rõ ràng vấn đề cần tìm hiểu, nghiên cứu học tập,
từ đó các em sẽ tập trung chú ý vào vấn đề học tập, nghiên cứu.
Chẳng hạn, khi chuẩn bị cho việc nghiên cứu chức năng của rễ tuỷ (rễ trước và
rễ sau), GV có thể xác định nhiệm vụ nhận thức bằng tiến hành biểu diễn thí nghiệm.
Tìm và cắt đôi dây thần kinh toạ (là một dây thần kinh tuỷ) và lần lượt kích
thích các đầu dây thần kinh (đầu ngoại biên (a) và đầu trung ương (b)).
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

9


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS


Qua quan sát hiện tượng phản ứng của ếch (khi kích thích đầu a chi đó co, có
nghĩa là xung truyền theo hướng li tâm, nhưng khi kích thích đầu b thì chi đó không
co, nhưng làm chi bên đối diện co, có khi co cả các chi trên, nghĩa là dây thần kinh
toạ không chỉ truyền xung động li tâm mà truyền cả xung động hướng tâm. HS sẽ rút
ra nhận xét là dây thần kinh tuỷ dẫn truyền hai chiều: hướng tâm (dẫn truyền cảm
giác) và li tâm (dẫn truyền vận đông). Nó là dây pha.
Giáo viên đặt vấn đề "Vậy, để hiểu rõ tính chất "pha", hãy tìm hiểu cấu trúc
của dây thần kinh tuỷ và chức năng của các thành phần cấu trúc đó".
Từ đó, GV đi vào giới thiệu cấu trúc " Bằng phương pháp giảng giải minh
hoạ” và tìm hiểu chức năng của các rễ tuỷ (bằng phương pháp thí nghiệm nghiên
cứu) do đó sẽ hiểu rõ chức năng của dây thần kinh tuỷ: Do sự nhập lại của các sợi
dây thần kinh hướng tâm và li tâm và nối với tuỷ sống qua các rễ sau (rễ cảm giác)
và rễ trước (rễ vận động).
- Ở mức độ cao, thí nghiệm có thể sử dụng như một biện pháp để tạo tình
huống có vấn đề,gây hứng thú nhận thức cho học sinh .
Thí dụ: Tạo tình huống có vấn đề bằng thí nghiệm về "tính bền vững của
xương" khi dạy về thành phần hoá học của xương.
Cho HS quan sát chiếc xương đùi của ếch nhỏ bé và "thử dự đoán với trọng tải
là bao nhiêu sẽ làm gãy chiếc xương đó khi đặt ở vị trí nằm ngang?"
GV lần lượt đặt vào đĩa cân các quả cân ban đầu lớn, sau đó cho thêm các quả
cân nhỏ dần, vừa đặt vừa thông báo khối lượng mà xương đang gánh chịu. HS sẽ rất
ngạc nhiên, không ngờ một chiếc xương nhỏ bé như vậy mà có thể chịu đựng được
một khối lượng tới 3-4 kg vẫn chưa gãy. Một câu hỏi nãy sinh, "Như vậy sức chịu
đựng lớn của xương do đâu mà có?" HS dự đoán: "Phải chăng do cấu trúc đặc biệt
của xương, thành phần hoá học của xương hay do sự phối hợp của cả hai?
- Thí nghiệm không chỉ sử dụng trong lúc dạy các kiến thức mới mà còn được
dùng cả trong khâu củng cố, hoàn thiện và kiểm tra các kiến thức sinh lí, trong
trường hợp này không lặp lại hoàn toàn thí nghiệm đã sử dụng lúc dạy bài mới mà là
một biến dạng của thí nghiệm đó (thí nghiệm góc), sử dụng hình thức thí nghiệm

tương đương (thí nghiệm ảo).
Ví dụ: Củng cố kiểm tra vai trò tác dụng của enzim trong dịch tiêu hóa, có thể
tiến hành thí nghiệm sau: GV đưa ra thí nghiệm và thông báo: "An đang tiến hành thí
nghiệm về vai trò của enzim trong dịch tiêu hoá thì gió làm bay các mảnh giấy đã
đánh dấu trong 4 ống nghiệm đã được đặt trong cốc nước ấm. Một bạn đã giúp An
thử nhỏ Iốt vào 4 ống nghiệm thì thấy 1 ống không cho màu (I) còn 3 ống kia có màu
xanh. An tiếp tục dùng giấy quỳ để thử thì thấy 1 ống làm đỏ giấy quỳ tím (II),
ngược lại một ống lại chuyển giấy quỳ màu đỏ sang màu tím nhạt (III), ống còn lại
(IV) làm chuyển màu giấy quỳ".
Tới đây cả An và bạn An đang loay hoay chưa biết trong mổi ống nghiệm
chứa gì để báo cáo với thầy giáo. Em có thể làm gì để giúp cho hai bạn đó không?
- Ngoài ra còn có thể hướng dẫn học sinh tiến hành những thực nghiệm ngay
trên cơ thể của các em. *Chẳng hạn:
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

10


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

-Nghiên cứu sự thay đổi của nhịp tim mạch, nhịp hô hấp trong một phút sau
khi lao động hay chạy tại chổ hoặc làm động tác đứng lên ngồi xuống 10 lần, so với
trước lúc tiến hành các hoạt động trên và giải thích.
- Tìm hiểu khả năng nhịn thở (tính bằng giây) trước và sau khi thở hít sâu
khoảng 10 lần, giải thích sự khác nhau về số liệu thu được.
- Thí nghiệm về ảnh hưởng của nhịp cơ và trọng tải đối với công của cơ.
2.3 Phương pháp dạy các kiến thức ứng dụng vào thực tế:
2.3.1 Đặc điểm của các kiến thức ứng dụng
- Các kiến thức ứng dụng thường vận dụng các kiến thức cơ bản đã được lĩnh
hội trước đó để tìm ra các biện pháp vệ sinh, rèn luyện cơ thể, nhằm tăng cường sức

khoẻ, phương pháp xử lí các tình huống bất thường xảy ra đối với cơ thể và trong
việc xây dựng các thói quen tập quán tốt.
- Ngoài ra, các kiến thức ứng dụng cũng chưa liên quan đến những nhu cầu
nảy sinh trong đời sống thực tế hằng ngày của con người nên rất gần gũi đối với học
sinh và cũng liên quan đến vốn sống mà các em đã tích luỹ được trong đời sống sinh
hoạt của bản thân.
2.3.2 Phương pháp dạy học các kiến thức ứng dụng.
- Căn cứ vào các đặc điểm đã trình bày, khi dạy giáo viên khai thác triệt để
vốn tri thức đã có, những vốn sống và kinh nghiệm mà học sinh đã tích luỹ bằng
phương pháp đàm thoại có tính chất tìm tòi, thảo luận nhóm, trao đổi thông tin trong
nhóm để học sinh tự tìm ra các biện pháp vệ sịnh. Phương pháp xử lí các tình huống
(hô hấp nhân tạo, băng bó khi gãy xương, cầm máu…); giải thích cơ sở khoa học của
các ứng dụng, của các hiện tượng thực tế, những mặt tích cực và tiêu cực trong cách
sống, sinh hoạt của bản thân, gia đình và cộng đồng.
- Đây là cách củng cố kiến thức bằng vận dụng kiến thức để giải thích các hiện
tượng thực tế, đồng thời cũng là cách kiểm tra mức độ nắm vững kiến thức của học
sinh và chắc chắn các em sẽ nhớ lâu.
Trên đây đã trình bày những yêu cầu cần đạt và những phương pháp cơ bản để
sử dụng khi dạy các kiến thức chủ yếu trong nội dung của chương trình sinh học 8.
Trên cơ sở phân tích các đặc điểm của từng loại kiến thức giáo viên có thể vận dụng
vào dạy học tuỳ theo nội dung từng bài và căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể của từng
trường, từng địa phương, vào trình độ của từng lớp mà quyết định các phương pháp
dạy học cho thích hợp nhằm dạt chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh việc lựa chọn và sử dụng các phương pháp dạy học thích hợp còn
cần quan tâm tới hình thức tổ chức dạy học… Xu hướng dạy học mới chú trọng
nhiều tới hình thức tổ chức dạy học theo nhóm nhỏ. Hình thức dạy học này tạo điều
kiện cho nhiều học sinh được trực tiếp tham gia vào hoạt động học tập, có điều kiện
được bộc lộ những suy nghĩ, lập luận, lí giải một vấn đề trong thảo luận, tranh luận
để tìm ra chân lí. Đây là dịp học sinh được tập dượt sử dụng ngôn ngữ khoa học
trong lúc giao tiếp, là dịp để nâng cao năng lực tự đánh giá khii đối chiếu ý kiến của

mình trong lúc lắng nghe ý kiến phát biểu của bạn, kết luận của thầy từ đó để tự điều
chỉnh, để chính xác hoá những hiểu biết của bản thân giúp học sinh phát triển.
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

11


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

3. Một số phương pháp và kỹ thuật dạy học phát huy tích cực của học sinh
trong giảng dạy môn sinh học ở THCS:
3.1. Một số phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong
giảng dạy môn sinh học ở THCS:
3.1.1 Phương pháp vấn đáp, tìm tòi :
a) Bản chất: Phương pháp có nhiều ưu thế
Thuộc nhóm phương pháp dùng lời. Là một trong những phương pháp có
nhiều ưu thế trong việc tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh.
Giáo viên tổ chức trao đổi ý kiến, kể cả tranh luận giữa thầy và cả lớp, có khi
giữa trò với trò về một chủ đề nhất định, thông qua đó học sinh nắm được kiến thức
mới. Trong phương pháp này, hệ thống câu hỏi của giáo viên đóng vai trò chủ đạo,
quyết định chất lượng lĩnh hội của học sinh.
b) Quy trình thực hiện:
Xác định những kiến thức nào có thể sử dụng phương pháp vấn đáp, tìm tòi.
Tìm mối liên quan giữa các kiến thức đã biết và những kiến thức chưa biết.
Dự kiến hình thức hỏi, thời điểm hỏi.
Soạn các câu hỏi theo trình tự chặt chẽ về mặt lôgíc có thể giúp học sinh từng
bước tìm tòi để phát hiện ra kiến thức mới.
Dự kiến câu hỏi trả lời của học sinh các câu nhận xét hoặc trả lời của giáo
viên, dự kiến những câu hỏi phụ để tuỳ tình hình và đối tượng cụ thể mà trực tiếp
gợi ý hoặc dẫn dắt học sinh.

Giáo viên sử dụng hệ thống các câu hỏi dự kiến, phù hợp với trình độ nhận
thức của từng loại học sinh trong tiến trình bài dạy, chú ý thu thập thông tin phản hồi
từ học sinh.
Chỉnh sửa, rút kinh nghiệm về tính rõ ràng, chính xác và trật tự lôgíc của hệ
thống câu hỏi đã được sử dụng trong giờ dạy.
3.1.2 Phương pháp trực quan:
a) Bản chất:
Là cách sử dụng phương tiện trực quan như một nguồn cung cấp thông tin để
học sinh khai thác, phát hiện và lĩnh hội kiến thức.
b) Quy trình thực hiện
Các phương tiện trực quan rất phong phú và đa dạng, với mỗi loại trực quan
cần có cách sử dụng khác nhau để có thể tiếp cận và lĩnh hội được kiến thức tiềm ẩn
trong đó.
Khi sử dụng các phương tiện trực quan có thể tiến hành theo các bước:
Bước 1: Giáo viên giới thiệu phương tiện trực quan.
Bước 2: Giáo viên nêu yêu cầu và kiến thức, kĩ năng cần có từ phương tiện
trực quan đó.
Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát.
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

12


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

Bước 4: Học sinh nêu và tổng hợp những kiến thức rút ra được từ những nhận
xét, kết luận về những hiện tượng, sự vật được thể hiện qua phương tiện trực quan.
Bước 5: Giáo viên chính xác hoá và chốt kiến thức.
3.1.3 Phương pháp dạy học đặt và giải quyết vấn đề:
a) Bản chất:

Dạy học đặt và giải quyết vấn đề là phương pháp dạy học trong đó giáo viên
tạo ra những tình huống có vấn đề; tổ chức, hướng dẫn học sinh đặt vấn đề, hoạt
động tích cực, chủ động, sáng tạo để giải quyết vấn đề; thông qua đó học sinh chiếm
lĩnh tri thức, rèn luyện kĩ năng và đạt được những mục đích học tập khác.
Đặc trưng cơ bản của dạy học có vấn đề là học sinh được đặt vào "tình huống
có vấn đề". Là một tình huống gợi ra cho học sinh những khó khăn mà các em thấy
cần và có khả năng vượt qua, nhưng không thể ngay lập tức giải quyết được, mà trải
qua quá trình tích cực suy nghĩ (chú ý: Tình huống đó phải vừa sức học sinh ,không
quá dễ hoặc quá khó).
Kinh nghiệm cho thấy, ta có thể hướng dẫn HS tự sưu tầm, tìm đọc các
tài liệu hoặc lĩnh vực chuyên biệt nào đó qua tuyển tập bộ sách 10 vạn câu hỏi
vì sao – Sinh học.( Ví dụ: Về Thực vật – Vi sinh vật– Sâu bọ -Chân khớp- Thân
mềm – Thú –Cơ thể người – Công nghệ Sinh học...) Các em sẽ tự làm sáng tỏ
được nhiều câu hỏi Sinh học. Từ đó bồi đắp thêm tình yêu bộ môn, tích cực tự
giác học tập.
b) Quy trình thực hiện:
Bước 1: Đặt vấn đề, xây dựng bài toán nhận thức.
- Xây dựng bài toán có vấn đề.
- Phát hiện và nhận dạng vấn đề nảy sinh.
- Giải thích và chính xác hoá tình huống để hiểu đúng vấn đề được đặt ra.
Bước 2: Giải quyết vấn đề được đặt ra.
- Phân tích tìm hiểu vấn đề, làm rõ mối quan hệ giữa caí đã biết và cái cần tìm.
- Lập kế hoạch và giải quyết vấn đề.
- Tiến hành giải quyết vấn đề, và đưa ra lời giải.
Bước 3: Đánh giá kết quả; phân tích, khai thác lời giải.
- Kiểm tra hợp lí, tối ưu của lời giải.
- Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra.
- Đề xuất những vấn đề mới có liên quan và giải quyết nếu có thể.
3.1.4 Phương pháp thảo luận nhóm:
a) Bản chất:

Là phương pháp mà trong đó giáo viên tổ chức cho học sinh trong cùng một
nhóm phân công, thực hiện, hợp tác cùng giải quyết một vấn đề nhất định.
Phương pháp thảo luận nhóm được sử dụng nhằm giúp học sinh tham gia một
cách chủ động vào quá trình học tập, tạo cơ hội cho các em chia sẻ kiến thức, kinh
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

13


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

nghiệm, ý kiến để giải quyết các vấn đề có liên quan đến nội dung bài học; tạo cơ hội
cho các em được giao lưu, học hỏi lẫn nhau;hợp tác giải quyết nhiệm vụ chung.
b) Quy trình thực hiện:
Bước 1: Giới thiệu chủ đề.
Bước 2: Chia nhóm, bầu nhóm trưởng.
Bước 3: Giao nhiệm vụ trong nhóm, cá nhân, giáo viên hướng đẫn học sinh
thực hiện nhiệm vụ thảo luận, quy định thời gian và phân công vị trí làm việc cho
các nhóm.
Bước 4: Các nhóm thảo luận giải quyết nhiệm vụ được giao.
Bước 5: Đại diện từng nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm. Các nhóm
khác nhau quan sát , lắng nghe, chất vấn, bình luận và bổ sung ý kiến.
Bước 6: Giáo viên tổng kết và nhận xét.
3.2. Một số ký thuật dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong giảng
dạy môn Sinh học ở THCS:
3.2.1 Kỹ thuật đặt câu hỏi:
Trong dạy học theo phương pháp cùng tham gia, giáo viên phải sử dụng câu
hỏi để gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá thông tin, kiến thức, kĩ năng
mới, để đánh giá kết quả học tập của học sinh; học sinh cũng phải sử dụng câu hỏi để
hỏi lại, hỏi thêm giáo viên và các học sinh khác về những nội dung bài học chưa

sáng tỏ.
Sử dụng câu hỏi có hiệu quả đem lại sự hiểu biết lẫn nhau giữa học sinh và
giáo viên, học sinh và học sinh. Kĩ năng đặt câu hỏi càng tốt thì mức độ tham gia của
học sinh càng nhiều; học sinh sẽ học tập tích cực hơn.
Khi đặt câu hỏi cần đảm bảo các yêu cầu sau:
- Câu hỏi phải liên quan đến việc thực hiện mục tiêu bài học.
- Ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu.
- Đúng lúc, đúng chỗ.
- Phù hợp với trình độ học sinh.
- Kích thích suy nghĩ của học sinh.
- Phù hợp với thời gian thực tế.
- Sắp xếp theo trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
- Không ghép nhiều câu hỏi thành một câu hỏi móc xích.
- Không hỏi nhiều vấn đề cùng một lúc.
3.2.2 Kỹ thuật động não:
Động não là kĩ thuật giúp cho học sinh trong một thời gian ngắn nảy sinh được
nhiều ý tưởng mới mẻ, độc đáo về một chủ đề nào đó. Các thành viên được cổ vũ
tham gia một cách tích cực, không hạn chế ý tưởng.
Động não thường được:
- Dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề.
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

14


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

- Sử dụng để tìm một phương án giải quyết vấn đề.
- Dùng để thu thập các khả năng lựa chọn và suy nghĩ khác nhau.
Động não có thể tiến hành theo các bước sau:

- Giáo viên nêu câu hỏi hoặc vấn đề cần được cả lớp hoặc trước nhóm.
- Khích lệ học sinh phát triển và đóng góp ý kiến càng nhiều càng tốt.
- Liệt kê mọi ý kiến,không loại trừ ý kiến nào, trừ trường hợp trùng lặp.
- Phân loại ý kiến và Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng
- Tổng hợp ý kiến của học sinh và rút ra kết luận.
3.2.3 Kỹ thuật "Trình bày 1 phút":
Đây là kỹ thuật tạo cơ hội cho học sinh tổng kết lại kiến thức đã học và đặt
những câu hỏi về những điều còn băn khoăn, thắc mắc bằng các bài trình bày ngắn
gọn và cô đọng với bạn bè cùng lớp. Các câu hỏi cũng như câu trả lời học sinh đưa
ra sẽ giúp củng cố quá trình học tập của các em và cho giáo viên thấy được các em
đã hiểu được vấn đề như thế nào.
Kỹ thuật này có thể tiến hành như sau:
- Cuối tiết học (thậm chí giữa tiết học), giáo viên yêu cầu học sinh nêu hôm
nay học được điều gì? Vấn đề gì là quan trọng nhất mà chưa được giải đáp?...
- Học sinh suy nghĩ và viết ra giấy. Các câu hỏi của học sinh có thể dưới nhiều
hình thức khác nhau.
- Mỗi học sinh trình bày trước lớp trong thòi gian 1 phút về những điều các em
đã học được và những câu hỏi các em muốn được giải đáp hay những vấn đề các em
muốn được tiếp tục tìm hiểu thêm.
3.2.4 Kỹ thuật"Hỏi và trả lời":
Đây là kỹ thuật dạy học giúp học sinh có thể củng cố, khắc sâu kiến thức đã
học thông qua việc hỏi và trả lời các câu hỏi.
Kỹ thuật này tiến hành như sau:
Giáo viên nêu chủ đề.
Giáo viên(hoặc 1 học sinh) sẽ bắt đầu đặt 1 câu hỏi về chủ đề và yêu cầu 1 học
sinh khác trả lời câu hỏi đó.
- Học sinh trả lời xong câu hỏi đầu tiên lại được đặt tiếp một câu hỏi tiếp theo
và yêu cầu một học sinh khác trả lời.
- Học sinh này sẽ tiếp tục quá trình trả lời và đặt câu hỏi cho các bạn cùng
lớp...

Cứ như vậy cho đến khi giáo viên quyết định dừng hoạt động này lại.
3.2.5 Kỹ thuật"Đọc hợp tác"(Còn gọi là đọc tích cực):
Kỹ thuật này nhằm gíup học sinh tăng cường khả năng tự học và giúp giáo
viên tiết kiệm thời gian đối với những bài học phần đọc có nhiều nội dung nhưng
không quá khó đối với học sinh.
Cách tiến hành như sau:
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

15


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

- Giáo viên nêu câu hỏi yêu cầu định hướng học sinh đọc bài/ phần đọc.
Học sinh làm việc cá nhân:
+ Đoán trước khi đọc: Để làm việc này, học sinh cần đọc lướt qua bài học,
phần đọc để tìm ra những gợi ý từ hình ảnh, tựa đề, từ/ cụm từ quan trọng.
+ Đọc và đoán nội dung: Học sinh đọc bài/ phần đọc và biết liên tưởng tới
những gì mình đã biết và đoán nội dung khi đọc những từ hay khái niệm mà các em
phải tìm ra.
+ Tìm ý chính: Học sinh tìm ra ý chính của bài/ phần đọc qua việc tập trung
vào các ý quan trọng theo cách hiểu của minh.
+ Tóm tắt ý chính.
- Học sinh chia sẻ kết quả đọc của mình theo nhóm 2 hoặc 4 em và giải thích
cho nhau thắc mắc(nếu có), thống nhất với nhau ý chính của bài/ phần đọc.
- Học sinh nêu câu hỏi để giáo viên giải đáp (nếu có)
* Lưu ý: Một số câu hỏi giáo viên thường dùng để giúp học sinh tóm tắt ý
chính:
- Em có chú ý gì khi đọc........?
- Em nghĩ gì về...........?

- Em so sánh A và B như thế nào?
- A và B khác nhau như thế naò?
3.2.6 Kỹ thuật"Hoàn tất một nhiệm vụ":
- Giáo viên đưa ra một câu chuyện/ một vấn đề/ một bức tranh/một thông
điệp/....mới chỉ được giải quyết một phần và yêu cầu học sinh/ nhóm học sinh hoàn
tất phần còn lại.
- Học sinh/ nhóm học sinh thực hiện nhiệm vụ được giao
- Học sinh/ nhóm học sinh trình bày sảm phẩm
- Giáo viên hướng dẫn cả lớp cùng bình luận, đánh giá.
* Lưu ý: Giáo viên cần hưỡng dẫn cho học sinh cẩn thận và cụ thể để các em
hiểu được nhiệm vụ của mình. Đây là một hoạt động giúp các em đọc lại những tái
hiện đã được học hoặc các tái hiện theo yêu cầu của giáo viên.
3.2.7 Phân tích phim:
Phim video hoặc flash có thể là một trong các phương tiện để truyền đạt nội
dung bài học. Phim tương đối ngắn gọn (3-5 phút). Giáo viên cần xem qua trước để
đảm bảo là phim phù hợp để chiếu cho các em xem.
Trước khi cho học sinh xem phim, hãy nêu một số câu hỏi thảo luận hoặc liệt
kê các ý mà các em cần tập trung. Làm như vậy sẽ giúp các em chú ý tốt hơn.
Học sinh xem phim.
Sau khi xem phim , yêu cầu học sinh làm việc cá nhân hoặc theo cặp và trả lời
các câu hỏi hoặc viết tóm tắt những ý cơ bản về nội dung phim đã xem.
4. Bài dạy minh hoạ: Tiết 52: VỆ SINH MẮT ( Sinh học 8 )
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

16


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

5. Kết quả thực nghiệm và nhận xét:

Sau khi thực nghiệm đề tài dạy học thế nào để học sinh tự lực tiếp thu kiến
thức trên lớp 8A1, 8A2, 8A3, 8A4 trường THCS Kim Xá thu được kết quả như sau:
5.1 Kết quả trước khi áp dụng (Khảo sát ban đầu)
Lớp

Sĩ số

8A1

Giỏi

Khá

T.bình

Yếu

kém

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL% SL


37

10

27

20

54,1

7

18,9

8A2

36

6

16,7

18

50

10

27,7


2

5,6

8A3

38

4

10,6

17

44,7

14

36,8

3

7,9

8A4

32

2


6,3

8

25

17

53,1

5

15,6

22

15,4

63

44,1

48

33,6

10

6,9


Tổng 143

TL%

SL TL%

5.2. kết quả sau khi vận dụng:
Lớp

Sĩ số

8A1

Giỏi

Khá

T.bình

SL

TL%

SL

TL%

37


15

40,5

22

59,5

8A1

36

9

25

17

8A1

38

6

15,8

8A1

32


5
35

Tổng 143

Yếu

SL

TL% SL

47,2

10

27,8

20

52,6

12

31,6

15,6

9

28,1


18

56,3

24,5

68

47,6

40

27,9

kém
TL%

SL TL%

*So sánh kết quả trước khi vận dụng (khảo sát ban đầu) và sau khi vận
dụng:
Nhận xét:
Qua kết quả thực nghiệm ở khối 8 gồm 4 lớp 8A1,2,3,4 thu được kết quả khá
khả quan, tỉ lệ Khá - Giỏi tăng, tỉ lệ trung bình - yếu giảm, cụ thể như sau:
- Loại giỏi tăng: 9,1%
- Loại khá tăng : 3,5%
- Loại trung bình giảm : 5,7%
- Loại yếu giảm : 6,9%
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận:
- Phương pháp dạy học gắn với phương tiện trực quan, nhất là đối với việc
nghiên cứu về giải phẩu và sinh lí cần tiến hành quan sát và thí nghiệm. Do đó mô
hình, tranh vẽ, mẫu vật thật, mẫu ngâm, tiêu bản hiển vi ... và các thiết bị thí nghệm
là các phương tiện không thể thiếu. Qua đó nhằm phát huy được tính tự giác tích cực
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

17


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

và tự lực, tính chủ động sáng tạo, học sinh tự giành lấy kiến thức dưới sự tổ chức và
chỉ đạo của giáo viên, kiến thức thu nhận được sẽ trở thành tài sản riêng của các em.
Vì vậy, các em hiểu bài sâu và nắm vững hơn. Ngoài ra gây hứng thú nhận thức rất
lớn đối với các em, mà hứng thú là yếu tố tâm lí ban đầu có tác dụng tích cực đối với
quá trình nhận thức. Các phương pháp đã góp phần phát triển tư duy rèn luyện các kĩ
năng cho học sinh, cho các em tập dượt làm quen với phương pháp nghiên cứu nói
riêng, phương pháp nhận thức nói chung, đặc biệt là khi kết hợp với các yếu tố nêu
và giải quyết vấn đề.
- Việc lựa chọn đúng đắn và sự kết hợp hài hoà các phương pháp dạy học
nhằm đạt hiệu quả cao phụ thuộc rất nhiều vào trình độ nghệ thuật sư phạm và lòng
nhiệt tình. Không thể có một bản hướng dẫn mẫu cho việc lựa chọn các phương pháp
dạy học một bài, một kiến thức, cũng không thể có một gợi ý nào đó bất di bất dịch.
Tất cả mọi khó khăn sẽ vượt qua, nếu có lòng nhiệt tình và ý thức trách nhiệm cao
đối với sự nghiệp giáo dục thế hệ tương lai cho đất nước.
2. Kiến nghị:
- Trên đây là những phương pháp chủ yếu thường sử dụng trong giảng dạy bộ
môn và đem lại hiệu quả cao trong điều kiện cho phép nhưng không loại trừ khả
năng vận dụng những phương pháp khác. Trong từng bài tuỳ từng thành phần kiến

thức, trong những trường hợp cụ thể (trình độ học sinh, điều kện cơ sở vật chất, thiết
bị dạy học) cần lựa chọn các phương pháp dạy học thích hợp nhằm đạt hiệu quả cao
nhất.
- Dù tôi có cố gắng nhiều nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong được nhiều ý kiến đóng góp của các bạn đồng nghiệp để đề tài được
hoàn chỉnh hơn.
Xin chân thành cảm ơn !

TÀI LIỆU THAM KHẢO
NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ

18


CHUYÊN ĐỀ:PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH TRONG GIẢNG DẠY MÔN SINH HỌC BẬC THCS

1. Phương pháp dạy học tích cực
/>2. Trao đổi để lựa chọn phương pháp dạy học
/>32517D/View/Cam-Nghi-Ve-Giao-Duc/Trao_doi_ve_lua_chon
_phuong_phap_day_hoc/?print=40467761
3. Ths. Trần Văn Đạt, Đại học An Giang, Sử dụng dạy học hợp tác -chiến lược
thúc đẩy sự năng động của sinh viên
/>4. Dạy học giải quyết vấn đề
/>5. Giáo án tham khảo sinh học THCS
- />;
/>7. />8.
9. Bộ sách mười vạn câu hỏi Vì sao?
10. Luật Giáo dục 2005. ( đã sửa đổi)

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGUYỄN VĂN DƯƠNG – THCS KIM XÁ


19



×