MỞ ĐẦU
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành
phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là một trong những điều kiện không
thể thiếu cho hoạt đông sản xuất và đời sống con người. Việc xây dựng kế hoạch sử
dụng đất đai có ý nghĩa đặc biệt quan trọng không chỉ trước mắt mà cả lâu dài.Trong
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước việc sử dụng đất hợp lý, có hiệu quả
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng tránh gây lãng phí
hạn chế sự hủy hoại đất và tránh phá vỡ môi trường sinh thái. Ngành lâm nghiệp có
tác dụng rất lớn đối với nền kinh tế có nhiều mặt không chỉ cung cấp đặc sản rừng mà
còn tác dụng giữ đất, điều tiết nguồn nước, chống ô nhiễm môi trường, điều hòa khí
hậu, phòng hộ, bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học và các giá trị cảnh
quan, du lịch, văn hóa…Vậy mà những năm qua dường như con người đã lãng quyên
ý nghĩa quan trọng đó, chỉ tập trung khai thác triệt để thỏa mãn nhu cầu trước mắt
của mình. Đầu tiên là sự khai thác kiệt quệ những loài gỗ quý, có giá trị cao về mặt
kinh tế và thẩm mỹ, làm giảm tính đa dạng sinh học, mất đi nguồn gen sinh vật quý
và những giá trị văn hóa tổn tại trong nó mà còn làm xuất hiện hàng loạt các biến đổi
tiêu cực của khí hậu như hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ozon hay sự xuất hiện của lũ
quét gây thiệt hại nặng nề về người và của.
Nước ta là một nước nông nghiệp với dân số khoảng 85 triệu người trong đó
có trên 75% dân số sống dựa vào nông nghiệp nên đời sống còn gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt ở những vùng nông thôn miền núi mà thu nhập của họ chủ yếu từ nông lâm
nghiệp. Nhưng ở nước ta nói chung và ở miền núi nói riêng thì ngành lâm nghiệp còn
kém phát triển, hoạt động sản xuất gặp nhiều khó khăn, trình độ canh tác chưa cao
nên dẫn đến năng suất lao động thấp. Hơn nữa nhiều nơi việc sử dụng đất đai còn
nhiều bất hợp lý, việc sử dụng đất mới chỉ dừng lại ở việc lợi dụng mà chưa có biện
pháp cải tạo đất, nâng cao chất dinh dưỡng trong đất nhằm sử dụng đất một cách bền
vững. Do vậy, để có thể nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai, góp phần nâng cao năng
suất trong sản xuất cho hợp lý. Việc quy hoạch sử dụng đất khu vực nông thôn là việc
làm cần thiết góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân khu vực nông thôn..
Hà Quảng là huyện miền núi, vùng cao, biên giới, nằm về cực bắc của tỉnh
Cao Bằng. Huyện có địa hình bán sơn địa với tổng diện tích tự nhiên là 45.322,66 ha.
Trong đó diện tích nông nghiệp 42.056,88 chiếm 92,79 % diện tích tự nhiên của toàn
huyện, tổng diện tích lâm nghiệp 34.581,20 ha chiếm 76,30%. Diện tích chưa sử
dụng 2.329,40 ha chiếm 5,14% tổng diện tích tự nhiên toàn huyện. với 19 đơn vị
hành chính cấp xã. Trong đó, có 9 xã vùng biên giới và có 5 dân tộc cùng sinh sống
Trang
1
đó là: Tày, Nùng, Mông, Kinh, Dao. Do trình độ dân trí chưa cao, sản xuất manh
mún, đời sống gặp nhiều khó khăn, cơ sở hạ tầng còn kém phát triển. Tình hình quản
lý sử dụng đất đai trong những năm qua còn nhiều bất cập hiệu quả sử dụng đất chưa
cao ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế xã hội và ổn định đời sống nhân
dân trong huyện. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiến trên nên tôi chọn đề tài này
“Nghiên cứu đề xuất mô hình nông lâm kết hợp để cải tạo đất gò đồi tại huyện
Hà Quảng - tỉnh Cao Bằng” đề tài sẽ góp phần nghiên cứu và phát triển một cây
trồng có nhiều tiềm năng trong phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng đất dốc, đặc
biệt là các tỉnh miền núi. Trong tương lai, che phủ đất sẽ giảm đáng kể nhu cầu sử
dụng phân hoá học, như vậy sẽ tiết kiệm được năng lượng cần phải tiêu tốn để sản
xuất ra các loại phân này. Điều này cũng đồng nghiã với việc giảm thải vào khí
quyển các khí hiệu ứng nhà kính, giảm ô nhiễm môi trường. Sản phẩm nông nghiệp
sẽ là những sản phẩm hữu cơ có độ an toàn cao. Môi trường sinh thái sẽ được cải
thiện, sức khoẻ cộng đồng sẽ được đảm bảo.
Trang
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Mỗi quốc gia, đơn vị hành chính từ tỉnh, huyện, xã đều có chiến lược phát
triển cho tương lai. Nội dung xây dựng mô hình nông lâm kết hợp là việc bố trí sử
dụng đất đai ổn định lâu dài theo các mục đích khác nhau để thỏa mãn những nhu cầu
lương thực và chất lượng, ngoài ra còn chú ý mở rộng diện tích đất canh tác, thay đổi
giống cây trồng, vật nuôi cho năng suất cao hơn, thực hiện khuyến nông, khuyến lâm
để lợi dụng tiềm năng đất đai một cách có hiệu quả nhất.
1.1 Trên thế giới
Theo tổ chức nông lương thế giới (FAO), Hiện nay trên toàn thế giới có
khoảng 1,476 tỷ ha đất nông nghiệp. Trong đó có khoảng 65,9% diện tích đất dốc ở
đồi núi và có khoảng 544 triệu ha đất canh tác mất khả năng sử dụng. Để đảm bảo
nhu cầu về nông sản cho con người trên trái đất, ngoài việc nghiên cứu hướng thâm
canh tăng vụ trên cơ sở bố trí các hệ thống cây trồng tối ưu ở các vùng đất bằng, xu
hướng hiện nay trên thế giới là tập trung nghiên cứu, khai thác đất nông nghiệp ở
vùng gò đồi theo hướng cây trồng và bảo vệ đất canh tác trên đất dốc để phát triển
một số cây trồng có nhiều tiềm năng trong phát triển nông nghiệp bền vững ở vùng
đất dốc.
Các vùng đồi núi trên thế giới có độ dốc đất trên 100 chiếm từ 50-60% diện
tích đất nông nghiệp. Do đó, nghiên cứu khai thác đất nông nghiệp ở vùng đồi núi
thực chất là vấn đề nghiên cứu canh tác trên đất dốc hay canh tác trên nương rẫy,
nghiên cứu quan hệ giữa hệ thống cây trồng trên đất dốc với vấn đề rửa trôi và xói
mòn đất, nghiên cứu ứng dụng hệ thống canh tác nông lâm kết hợp trên đất dốc.
Các nghiên cứu về tình hình và nguyên nhân đất bị xói mòn, thoái hóa mối
liên hệ kiểu sử dụng đất và xói mòn ở một số nước châu Á trong hội thảo tại Nepal
cho rằng: Hệ canh tác truyền thống trên đất dốc theo kiểu du canh gây xói mòn
nghiêm trọng, rửa trôi từ 100-120 tấn đất/năm. Đồng thời khẳng định hệ thống canh
tác ruộng bậc thang và trồng cây theo băng có tác dụng giảm xói mòn rõ rệt, lượng
đất bị rửa trôi chỉ còn khoảng 2-16 tấn đất/năm. Các kết quả nghiên cứu cũng đã đưa
ra bốn nguyên nhân làm thoái hóa đất, nhân tố tự nhiên ( khí hậu, độ dốc) quản lý
kém ( khai thác rừng bừa bãi ) gây cháy rừng và chính sách vĩ mô quyền sở hữu đất
đai, thiếu sự hướng dẫn.
Hạn chế xói mòn và thoái hóa đất là một vấn đề quan trọng được đặt trong
hoàn cảnh hiện nay của thế giới.
Trang
3
1.2 Ở Việt Nam
Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới, các tập quán canh tác nông lâm
kết hợp đã có ở Việt Nam từ lâu đời, như các hệ thống canh tác nương rẫy truyền
thống của đồng bào các dân tộc ít người, hệ sinh thái vườn nhà ở nhiều vùng địa lý
sinh thái trên khắp cả nước v.v... Làng truyền thống của người Việt cũng có thể xem
là một hệ thống nông lâm kết hợp bản địa với nhiều nét đặc trưng về cấu trúc và các
dòng chuyển vật chất năng lượng.
Từ thập niên 60, song song với phong trào thi đua sản xuất, hệ sinh thái Vườn
- Ao - Chuồng (VAC) được nhân dân các tỉnh miền Bắc phát triển mạnh mẽ và lan
rộng khắp cả nước với nhiều biến thể khác nhau thích hợp cho từng vùng sinh thái cụ
thể. Sau đó là các hệ thống Rừng - Vườn - Ao - Chuồng (RVAC) và vườn đồi được
phát triển mạnh ở các khu vực dân cư miền núi. Các hệ thống rừng ngập mặn- nuôi
trồng thủy sản cũng được phát triển mạnh ở vùng duyên hải các tỉnh miền Trung và
miền Nam. Các dự án được tài trợ quốc tế cũng giới thiệu các mô hình canh tác trên
đất dốc theo đường đồng mức (SALT) ở một số khu vực miền núi. Trong hai thập
niên gần đây, phát triển nông thôn miền núi theo phương thức nông lâm kết hợp ở các
khu vựccó tiềm năng là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Quá trình
thực hiện chính sách định canh định cư kinh tế mới, mới đây các chương trình 327,
chương trình 5 triệu ha rừng (661) và chính sách khuyến khích phát triển kinh tế
trang trại đều có liên quan đến việc xây dựng và phát triển các hệ thống nông lâm kết
hợp tại Việt Nam. Các thông tin, kiến thức về nông lâm kết hợp cũng đã được một số
nhà khoa học, tổ chức tổng kết được những góc độ khác nhau. Điển hình là các ấn
phẩm của Lê Trọng Cúc và cộng sự (1990) về việc xem xét và phân tích các hệ sinh
thái nông nghiệp vùng trung du miền Bắc trên cơ sở tiếp cận sinh thái nhân văn. Các
hệ thống nông lâm kết hợp điển hình trong nước đã được tổng kết bởi FAO và IIRR
(1995), cũng như đã được mô tả trong ấn phẩm của Cục Khuyến Nông và Khuyến
lâm dưới dạng các "mô hình" sử dụng đất Mittelman (1997) đã có một công trình
tổng quan về hiện trạng nông lâm kết hợp và lâm nghiệp xã hội ở Việt Nam, đặc biệt
là các nhân tố chính sách ảnh hưởng đến sự phát triển nông lâm kết hợp. Tuy nhiên
các tư liệu nghiên cứu về tương tác giữa phát triển nông lâm kết hợp với môi trường
tự nhiên, kinh tế xã hội xung quanh (vi mô và vĩ mô) vẫn còn rất ít.
1.2.1 Tình hình về sử dụng đất ở việt nam
Diện tích tự nhiên (phần đất liền) nước ta khoảng 33 triệu hécta, đứng hàng
thứ 58 trên thế giới nhưng dân số lại đông cho nên bình quân đất đai tính theo đầu
người thuộc loại thấp, chỉ khoảng 0,5 ha/người, là một trong số 40 nước có diện tích
đất đai bình quân tính theo đầu người thấp nhất trên thế giới hiện nay. Đặc biệt là
trong tổng số diện tích đất đai này, có tới hơn hai phần ba diện tích là đất đồi núi dốc,
Trang
4
còn lại gần một phần ba là đất đồng bằng. Tính đến năm 2003, đất đã được sử dụng
cho sản xuất nông lâm nghiệp là gần 17 triệu hecta, chiếm hơn hai phần ba diện tích
là đất đồi núi dốc, còn lại gần một phần ba là đất đồng bằng. Tính đến năm 2003, đất
đã được sử dụng cho sản xuất nông lâm nghiệp là gần 17 triệu hecta, chiếm hơn một
nửa diện tích đất cả nước (51,5%) và được chia ra như sau: Đất nông nghiệp hơn 7,3
triệu hecta, trong đó đất trồng cây hàng năm là 5,6 triệu hecta, cây lâu năm là 1,4
triệu hecta và mặt nước là 0,273 triệu hecta. Đất lâm nghiệp hơn 9, 6 triệu hecta gồm
đất rừng tự nhiên hơn 8,8 triệu hecta và đất rừng trồng gần 0,8 triệu hecta. Như vậy là
tỷ lệ đất đã sử dụng còn thấp, về nông nghiệp mới có 22,3%, trong đó đất trồng cây
hàng năm chiếm đến 17% diện tích tự nhiên. Đất lâm nghiệp có cao hơn chiếm
29,2% nhưng vẫn còn quá thấp so với yêu cầu nhất là về mặt đảm bảo an toàn môi
trường và phòng hộ.
Đất chưa sử dụng còn 14,2 triệu hecta chiếm 43% diện tích tự nhiên trong đó
gần 6,7 triệu ha là đồi núi trọc, chiếm gần 20,3 % diện tích tự nhiên. Đáng chú ý là
trong diện tích đất này có khoảng 10,4 triệu hecta (31,5% diện tích tự nhiên) là có
khả năng sử dụng cho nông lâm nghiệp nhưng đã bị thoái hoá mạnh, đòi hỏi phải có
đầu tư lớn.
Thực trạng nêu trên cho thấy là quỹ đất đai của nước ta quá ít, đất đai được sử
dụng càng ít. Đất trống đồi núi trọc đang bị thoái hoá nghiêm trọng. Điều này ảnh
hưởng đến tính bền vững trong sử dụng đất.
1.3 Tổng quan sử dụng mô hình nông lâm kết hợp ở Việt nam
1.3.1 Mô hình nông lâm kết hợp trên đất gò đồi và trung du
Mô hình này thường xuất hiện ở vùng bán sơn địa thuộc các tỉnh trung du,
miền núi phía Bắc và miền Trung. Tại đây, đất đai và khí hậu có những đặc điểm
chính như sau:
Đất xám bạc màu, chủ yếu phát triển trên phù sa cổ, đá macma axit và đất cát.
Đất có thành phần cơ giới nhẹ, dung trọng 1,3 -1,5 cm
3
, tỷ trọng 2,65 -2,70 g/cm3BB,
độ xốp 43 - 44 %. Phản ứng của đất từ chua vừa đến chua (pH (KCl) giao động 3,4 -
4,5) nghèo cation kiềm trao đổi, độ no bazơ và dung tích hấp phụ thấp, hàm lượng
mùn của tầng đất mặt nghèo. Đất xám bạc màu có nhược điểm là chua, nghèo dinh
dưỡng, thường bị khô hạn và xói mòn. Tuy nhiên do địa hình không dốc, thoáng khí
dễ thoát nước, đất nhẹ dễ canh tác nên loại đất này thường thích hợp cho canh tác
theo phương thức nông lâm kết hợp với các loại cây rừng, cây công nghiệp, cây
lương thực khí hậu vùng này ôn hoà, lượng mưa quân bình hàng năm 1800-2200
mm/năm. Nhiệt độ bình quân năm 22-28 Po PC, có sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm
Trang
5
tương đối rõ. Mô hình canh tác nông lâm kết hợp thường có quy mô 2- 3 ha cho một
hộ gia đình, bố trí trên một mái đồi hay cả quả đồi, cây trồng trên mô hình này được
phân bổ như sau:
• Rừng ở đỉnh và sườn cao, diện tích 1- 2 ha, trồng các loại cây lâm nghiệp như:
Mỡ, bồ đề, bạch đàn, keo để lấy gỗ, giữ nước và ngăn chặn xói mòn, những năm đầu
nơi đất dày ẩm được trồng xen dứa, chè hoặc đỗ lạc để tận dụng đất.
• Nương ở sườn đồi, diện tích 0,5 – 1 ha, trồng lúa nương, có đào rãnh và đắp
bờ đất ngang đốc để giữ nước. Nhiều nơi đã trồng xen đỗ lạc giữa các hàng cây hoặc
các băng cây cốt khí hay cây gỗ, rộng 1 – 2m cách nhau 10 -15m ngang dốc để giữ
nước, làm phân xanh hoặc lấy gỗ củi. Nhiều gia đình có tập quán làm bậc thang để
giữ nước, giữ màu.
. • Vườn ở chân đồi, nơi thấp nhất, gần thung lũng, gần đường đi lại, rộng 0,2–
0,3 ha, trồng các loại cam, chanh, bưởi, chè và các cây có giá trị hàng hoá khác ở
quanh nhà. Đối với mô hình canh tác trên đất đã bị bạc màu, thoái hoá, một số giải
pháp kỹ thuật nhằm chống xói mòn, tăng năng suất cây trồng sau đây thường được áp
dụng như sau:
Bảng 1.1 Giải pháp cải tạo đất
Giải pháp kỹ thuật Mô tả
1. Cải tạo đất nơi có địa hình dốc
Hàng rào cây xanh Các loài cây họ đậu, cốt khí, đậu triều,
Làm rãnh chống xói mòn Chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống
Tạo ruộng bậc thang khoảng cách nhỏ Dựa vào kinh nghiệm của địa phương
Cây che phủ (lưu niên) Trồng cây ăn quả lưu niên (Nhãn, ải,
xoài....)
Trồng xen vụ cây lương thực Ngô, đậu, lạc .
Bón phân hợp lý tăng độ phì của đất Bón các loại phân chuồng, phân xanh
2. Thâm canh cây lương thực
Trồng các loài cây lương thực đã được cải
thiện
Các giống ngô, sắn, đậu lạc,………
Bón phân cho cây trồng hợp lý Bón phân hữu cơ
3. Trồng cây ăn quả/ cây lưu niên
Cải tạo các vườn cây ăn quả hiện có Các loài cây bản địa có giá trị kinh tế
Đa dạng các loại cây ăn quả đã được cải
tạo
Trồng thâm canh các loại cây ăn quả
Nguồn: Kết quả nghiên cứu Nông lâm kết hợp vùng Tây Bắc của Dự án LNXH Sông Đà
Trang
6
• Lợi ích có được từ mô hình trên -Rừng trồng sau 5- 10 năm thu được khoảng 50 –
100 m3 gỗ làm nguyên liệu giấy trị giá 10 – 15 triệu đồng, bình quân 1,5 – 2 triệu
đồng/năm, tuy không thu được lợi ngay, nhưng các năm đầu có sản phẩm trồng
xen, cành lá và cây tỉa thưa để bán và đun nấu.
• Nương cũng cho 1 – 2 tấn lương thực quy thóc hàng năm để giải quyết cái ăn
hàng ngày. Vườn cung cấp thực phẩm hàng ngày cho gia đình, ngoài ra còn có thể
bán các nông sản, được 1 – 3 triệu đồng tiền mặt mỗi năm để mua sắm các thứ
cần thiết. Như vậy là đất đai tuy xấu nhưng đã được sử dụng hợp lý và tổng hợp,
biết áp dụng những biện pháp canh tác đất dốc đơn giản, có đầu tư cao hơn nhờ
biết tận dụng lao động và thời gian tiềm năng sẵn có của gia đình mà đất đai được
cải thiện, duy trì được độ màu mỡ để canh tác được lâu dài hơn.
1.3.2 Mô hình nông lâm kết hợp vùng núi cao
Đất đai vùng núi cao chủ yếu là 2 nhóm đất: (1) Đất nâu vàng, loại đất này có
màu phổ biến là nâu vàng, thành phần cơ giới nặng, tầng đất trung bình và dày thoát
nước tốt, hình thát phẫu diện tương đối đồng nhất, cấu trúc khá tốt và bền. Tuy nhiên
một số nơi đất đã bị rửa trôi xói mòn, thoái hoá do sử dụng không hợp lý đất trở nên
khô cằn, nghèo dinh dưỡng. Loại đất này thường thích hợp với cây lâm nghiệp, cây
ăn quả, cây công nghiệp.(2) Đất mùn vàng đỏ trên núi, loại đất này nằm ở vùng núi,
trung bình từ độ cao 700-900 m đến 2000 m so với mặt biển. Khí hậu lạnh và ẩm hơn
vùng đồi núi thấp, nhiệt độ bình quân năm vào khoảng 15-20Po PC. Do địa hình cao
dốc hiểm trở nên đất thường bị xói mòn mạnh, mặt khác do quá trình phong hoá yếu
nên đa số đất có phẫu diện không dày. Đất có phản ứng chua vừa đến ít chua, hàm
lượng mùn cao. Đất mùn vàng đỏ trên núi thích hợp cho áp dụng các phương thức
nông lâm kết hợp. Áp dụng các kỹ thuật luân canh tốt như luân canh cây lương thực,
cây hoa màu họ đậu. Canh tác và trồng các loại hoa màu dọc theo các đường đồng
mức để chống xói mòn, giữ đất và giữ nước. Sử dụng toàn bộ chất hữu cơ dư thừa có
sẵn (các phẩm vật dư thừa sau thu hoạch, phân động vật) để bón cho đất, chất hữu cơ
có tác dụng cải tạo đất làm cho đất tơi xốp và tăng độ phì của đất. Đa dạng hoá cây
trồng bao gồm cả trồng cây lâu năm. Cây lâu năm có giá trị phòng hộđặc biệt trên đất
dốc. Cây ăn quả và cây công nghiệp có thể được trồng thành các vườn nhỏ hoặc xen
lẫn cây nông nghiệp, trồng rừng và bảo vệ rừng ở khu vực cao nhất của trang trại.
Các khu rừng này vừa có tác dụng bảo vệ đất và nước đồng thời cho sản phẩm gỗ,
củi phục vụ sinh hoạt. Bảo vệ đất trong giai đoạn bỏ hoá. Sử dụng các chất liệu che
phủ mặt đất bảo vệ đất khỏi phơi ra nắng gắt, bị bào mòn do gió và mưa. Nuôi gia
súc nhốt trong chuồng hay buộc tại chỗ. Vì chăn thả tự do có thể là nguyên nhân gây
ra xói mòn ở vùng cao.
Trang
7
1.4 Nhu cầu và thách thức đối với phát triển bền vững nông thôn miền
núi
1.4.1 Phát triển bền vững nông thôn và miền núi
Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững là quản lý và bảo tồn các nguồn
tài nguyên thiên nhiên và định hướng các thay đổi kỹ thuật và định chế nhằm đảm
bảo thoả mãn các nhu cầu của con người của các thế hệ hiện tại và trong tương lai.
Đó là sự phát triển đảm bảo bảo tồn đất, nước và các nguồn trên động thực vật,
chống xuống cấp về môi trường, phù hợp về kỹ thuật, khả thi vê kinh tế và được xã
hội chấp nhận (FAO,1995). Nói một cách đơn giản hơn, phát triển bền vững chính là
việc sử dụng tài nguyên đáp ứng được các nhu cầu về sản xuất của thế hệ hiện tại,
trong khi vẫn bảo tồn được nguồn tài nguyên cần cho nhu cầu của các thế hệ tương
lai.
1.4.2. Các thách thức
Như vậy, bối cảnh thay đổi trên đã cho thấy một nhu cầu và cũng là một thách
thức lớn cho phát triển bền vững nông thôn và miền núi là:
• Hình thành và phát triển các phương thức quản lý sử dụng tài nguyên thiên
nhiên (bao gồm rừng, đất và nước) một cách tổng hợp trong đó có sự dung hòa giữa
các lợi ích về kinh tế và bảo tồn tài nguyên môi trường.
• Quản lý và sử dụng đất đồi núi có hiệu quả.
• Quản lý và sử dụng đất đảm bảo tính công bằng, được sự chấp nhận của người dân
hình thành và phát triển hệ thống quản lý sử dụng đất được sự chấp chấp nhận của
người dân và các nhóm đối tượng có liên quan khác.
Nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng đất tổng hợp giữ lâm nghiệp
với các ngành nông nghiệp (bao gồm cả chăn nuôi) và thủy sản, có nhiều ưu điểm và
ý nghĩa về bảo vệ tài nguyên môi trường, phát triển kinh tế xã hội được công nhận
rộng rãi trên khắp thế giới.
Trang
8
Bảng 1.2 Mâu thuẫn giữa trồng trọt và lâm nghiệp trong điều kiện áp lực tăng dân số
dẫn đến sự phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp đa dạng ở vùng cao
1.5 Lợi ích của các hệ thống nông lâm kết hợp.
1.5.1 Các lợi ích của nông lâm kết hợp
Thực tiễn sản xuất cũng như nhiều công trình nghiên cứu trung và dài hạn ở
nhiều nơi trên thế giới đã cho thấy nông lâm kết hợp là một phương thức sử dụng tài
nguyên tổng hợp có tiềm năng thoả mãn các yếu tố của phát triển nông thôn và miền
núi bền vững. Các lợi ích mà nông lâm kết hợp có thể mang lại rất đa dạng, tuy nhiên
có thể chia thành 2 nhóm nhóm các lợi ích trực tiếp cho đời sống cộng đồng và nhóm
các lợi ích gián tiếp cho cộng đồng và xã hội.
1.5.2 Các lợi ích trực tiếp của nông lâm kết hợp
Cung cấp lương thực và thực phẩm: Nhiều mô hình nông lâm kết hợp được
hình thành và phát triển nhằm vào mục đích sản xuất nhiều loại lương thực thực
phẩm, có giá trị dinh dưỡng cao đáp ứng nhu cầu của hộ gia đình. Điển hình là hệ
Trang
Để cân bằng sinh thái
cần phát triển và bảo vệ
tài nguyên rừng
Sản xuất đất dốc
canh tác
Lâm nghiệp
Lấy phòng hộ bảo vệ làm
chính
Rừng và đất rừng được
khai hoang để gia tăng
diện tích sản xuất lương
thực
Trồng trọt
Lấy sản xuất làm căn cứ
Gia tăng mâu
thuẫn trong sử
dụng đất
Phát triển nô
ng
lâm kết hợp
Chiều hướng Sản
xuất đa dạng
Cây lâu năm và hoa màu
được quản lý tổng hợp
tối ưu hóa việc bảo vệ
đất nước trong khi vẫn
thỏa mãn nhu cầu sản
xuất lương thực
Trồng xen hoa màu và
cây lâu năm để tối đa
hóa sức sản xuất trong
điều kiện tài ngyên khan
hiếm
9
thống VAC được phát triển rộng rãi ở nhiều vùng nông thôn ở nước ta. Ưu điểm của
các hệ thống nông lâm kết hợp là có khả năng tạo ra sản phẩm lương thực và thực
phẩm đa dạng trên một diện tích đất mà không yêu cầu đầu vào lớn.
Các sản phẩm từ cây thân gỗ: Việc kết hợp cây thân gỗ trên nông trại có thể
tạo ra nhiều sản phẩm như gỗ, củi, tinh dầu, v.v. Để đáp ứng nhu cầu về nguyên vật
liệu cho hộ gia đình.
Tạo việc làm: Nông lâm kết hợp gồm nhiều thành phần canh tác đa dạng có
tác dụng thu hút lao động, tạo thêm ngành nghề phụ cho nông dân.
Tăng thu nhập nông hộ: Với sự phong phú về sản phẩm đầu ra và ít đòi hỏi về
đầu vào, các hệ thống nông lâm kết hợp dễ có khả năng đến lại thu nhập cao cho hộ
gia đình. Giảm rủi ro trong sản xuất và tăng mức an toàn lương thực: Nhờ có cấu trúc
phức tạp, đa dạng được thiết kế nhằm làm tăng các quan hệ tương hỗ (có lợi) giữa
các thành phần trong hệ thống, các hệ thống nông lâm kết hợp thường có tính ổn định
cao trước các biến động bất lợi về điều kiện tự nhiên (như dịch sâu bệnh, hạn hán,
v.v.). Sự đa dạng về loại sản phẩm đầu ra cũng góp phần giảm rủi ro về thị trường và
giá cho nông hộ.
1.5.3 Các lợi ích của nông lâm kết hợp trong việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên
và môi trường
• Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên đất và nước
Hơn 20 năm nghiên cứu nông lâm kết hợp phối hợp với các kết quả nghiên
cứu về sinh thái học, nông nghiệp, lâm nghiệp và khoa học đất đã cho thấy các hệ
thống nông lâm kết hợp nếu được thiết kế và quản lý thích hợp sẽ có khả năng giảm
dòng chảy bề mặt và xói mòn đất duy trì độ mùn và cải thiện lý tính của đất và phát
huy chu trình tuần hoàn dinh dưỡng, tăng hiệu quả sử dụng dinh dưỡng của cây trồng
và vật nuôi. Nhờ vậy làm gia tăng độ phì của đất, tăng hiệu quả sử dụng đất và giảm
sức ép của dân số gia tăng lên tài nguyên đất (Young, 1997).
Ngoài ra, trong các hệ thống nông lâm kết hợp do hiệu quả sử dụng chất dinh
dưỡng của cây trồng cao nên làm giảm nhu cầu bón phân hóa học, vì thế giảm nguy
cơ ô nhiễm các nguồn nước ngầm (Young, 1997).
• Nông lâm kết hợp trong bảo tồn tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:
Thông qua việc cung cấp một phần lâm sản cho nông hộ, nông lâm kết hợp có
thể làm giảm tốc độ khai thác lâm sản từ rừng tự nhiên. Mặt khác, nông lâm kết hợp
là phương thức tận dụng đất có hiệu quả nên làm giảm nhu cầu mở rộng đất nông
nghiệp bằng khai hoang rừng. Chính vì vậy mà canh tác nông lâm kết hợp sẽ làm
giảm sức ép của con người vào rừng tự nhiên, giảm tốc độ phá rừng (Young,1997).
Các hộ nông dân qua canh tác theo phương thức này sẽ dần dần nhận thức được vai
Trang
10
trò của cây thân gỗ trong việc bảo vệ đất, nước và sẽ có đổi mới về kiến thức, thái độ
có lợi cho công tác bảo tồn tài nguyên rừng.
Việc phối hợp các loài cây thân gỗ vào nông trại đã tận dụng không gian của
hệ thống trong sản xuất làm tăng tính đa dạng sinh học ở phạm vi nông trại và cảnh
quan. Chính vì các lợi ích này mà nông lâm kết hợp thường được chú trọng phát triển
trong công tác quản lý vùng đệm xung quanh các khu bảo tồn thiên nhiên và bảo tồn
nguồn tiền
• Nông lâm kết hợp và việc làm giảm hiệu ứng nhà kính:
Nhiều nhà nghiên cứu gợi ý rằng sự phát triển nông lâm kết hợp trên qui mô
lớn có thể làm giảm khí CO
2
và các loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác (Dioxon,
1995,1996; Schroeder, 1994). Các cơ chế của tác động này có thể là: Sự đồng hóa khí
CO2 của cây thân gỗ trên nông trại gia tăng lượng cacbon trong đất và giảm nạn phá
rừng (Young, 1997).
1.5.4 Một số hạn chế trong nghiên cứu và phát triển nông lâm kết hợp ở Việt
Nam
Có thể chia các hiện thống nông lâm kết hợp ở Việt Nam thành 2 nhóm các hệ
thống nông lâm kết hợp bản địa và các hệ thống nông lâm kết hợp mới được đưa vào.
Một thực trạng đã được chỉ ra và phân tích bởi một số nhà nghiên cứu là trong khi
các hệ thống bản địa hoạt động một cách có hiệu quả, là kế sinh nhai của nông dân từ
nhiều năm nay thì phần lớn các "mô hình" nông lâm kết hợp mới du nhập trong
những năm gần đây bộc lộ nhiều hạn chế về tính hiệu quả, độ bền vững, tính công
bằng và sự chấp nhận của người dân địa phương.
Vấn đề cốt lõi của sự hạn chế này là do các "mô hình" được thiết kế và áp
dụng theo lối suy diễn của người bên ngoài (thường là người miền xuôi), lại thường
được áp dụng một cách đồng bộ nên không phù hợp với các tính huống sinh thái nhân
văn đa dạng và đặc thù của từng địa phương. Việc sử dụng thuật ngữ "mô hình nông
lâm kết hợp" thay vì "hệ thống nông lâm kết hợp hoặc "tập quán/phương thức nông
lâm kết hợp" có thể là nguyên nhân của lối suy nghĩ phát triển theo lối suy diễn đơn
giản -"sao chép và nhân rộng mô hình" trong phát triển nông lâm kết hợp ở nhiều
vùng của nước ta. Hơn nữa, phương pháp tiếp cận nghiên cứu và phát triển nông lâm
kết hợp thường thiên lệch về kinh tế - kỹ thuật cô lập, chưa phối hợp được các kỹ
thuật mới với các yếu tố kiến thức kỹ thuật, đặc điểm văn hóa và nhân văn truyền
thống của các cộng đồng địa phương. Công tác phát triển kỹ thuật nông lâm kết hợp
nhiều nơi vẫn tiến hành theo lối áp đặt từ trên xuống, chưa phát huy được nội lực và
tính tự chủ của nông dân và cộng đồng dẫn đến tính bền vững của các chương trình
phát triển còn thấp. Các nghiên cứu phân tích đánh giá các mô hình thường còn quá
Trang
11
chú trọng về yếu tố kinh tế kỹ thuật và xem nhẹ khía cạnh xã hội thể chế cũng như
tương tác của các hệ thống nông lâm kết hợp với môi trường và cảnh quang. Vẫn còn
quá ít các kết quả nghiên cứu so sánh hệ thống nông lâm kết hợp với các hệ thống
nông nghiệp, lâm nghiệp trên các phương diện sinh thái, môi trường và kinh tế do
thiếu các dự án nghiên cứu/điểm nghiên cứu dài hạn.
Hình 1. Các lợi ích tiềm năng và một số giới hạn của hệ thống nông lâm kết hợp
Việc qui hoạch phát triển nông lâm kết hợp thường được tiến hành một cách
độc lập tách rời với tiến trình qui hoạch sử đụng đất ở nhiều nơi nên thường dẫn đến
việc đưa các "mô hình" nông lâm kết hợp thay thế các loại hình sử dụng đất hiện có
Trong khi đó về mặt nguyên lý thì việc phát triển nông lâm kết hợp phải được dựa
trên cơ sở chẩn đoán các hạn chế trong sử đụng đất hiện hành và điều chỉnh chúng
hơn là thay thế hoàn toàn (Young, 1987, 1997). Chính vì thế, phát triển nông lâm kết
hợp cần phối hợp và lồng ghép với tiến trình qui hoạch sử dụng đất cũng như qui
hoạch quản lý khu vực đầu nguồn. Để có thể thúc đẩy quá trình phát triển nông lâm
kết hợp trong thực tiễn có hiệu quả, phù hợp với nông dân, đảm bảo tính bền vững và
công bằng, cán bộ kỹ thuật cần được trang bị các kiến thức và kỹ năng và thái độ có
liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau: Sinh thái học, sinh thái nhân văn, các khoa
học lâm nghiệp, nông học, chăn nuôi, thủy sản, quản lý bảo tồn đất và nước, phân
tích kinh tế nông trại, các phương pháp nghiên cứu hệ thống và tiếp cận nghiên cứu-
phát triển có sự tham gia, v.v… Cũng như sự am hiểu sâu sắc về điều kiện sinh thái
và nhân văn cụ thể của từng địa phương.
Trang
12
Giới hạn
-Hạ tầng cơ sở
thiết bị
- trình độ kỹ
năng
- chi phí đầu vào
- nguồn lao động
- thị trường
Lợi ích
- Thực phẩm,
thức ăn gia
súc…..
- Chống xói mòn
- Xã hội ổn định
- Đa dạng sinh
học
1.6 Điều kiện tự nhiên, sinh thái môi trường của địa bàn nghiên cứu
1.6.1 Vị trí địa lý
Hà Quảng là một huyện miền núi,vùng cao,biên giới, nằm về cực bắc tỉnh
Cao Bằng, có đường biên giới giữa việt nam và trung quốc dài 61,7 km. Tổng diện
tích tự nhiên của toàn huyện 45.322,66 ha, với 19 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó,
có 9 xã vùng biên giới.
Tọa độ địa lý .
Huyện Hà Quảng có tọa độ địa lý nằm trong khoảng 105
0
45’ – 106
0
16’ kinh
độ đông và 22
0
45; - 22
0
59; vĩ độ Bắc.
Thị trấn Xuân Hòa là trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của huyện tuy
nhiên kết cấu hạ tầng còn nhiều hạn chế và cách thị xã cao bằng khoảng 50km.
Ranh giới cụ thể của huyện như sau:
- Phía bắc là đường biên giới giáp tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc .
- Phía nam giáp huyện Hòa An của tỉnh CaoBằng
- Phía đông giáp huyện Trà Lĩnh của tỉnh CaoBằng
- Phía tây giáp huyện Thông Nông của tỉnh CaoBằng.
1.6.2 Địa hình địa mạo
- Có đặc điểm là vùng núi cao, có nhiều núi đá vôi và đồi chiếm phần lớn diện
tích tự nhiên với độ dốc lớn và đổ xuống phía Nam, Đông Nam.
- Vùng thung lũng xen kẽ, có tiểu vùng bằng, nhỏ hẹp kéo dài từ Tây Bắc
xuống Đông Nam.
- Về vùng địa lý toàn bộ diện tích của huyện có thể chia làm 2 vùng, phục vị
phát triển kinh tế xã hội như sau:
+ Vùng cao gồm 12 xã, nằm về phía đông bắc của huyện với đặc điểm là vùng
núi đá, khô hạn và có xen vùng núi đất.
+ Vùng thấp có 6 xã và 1 thị trấn, có đồng bằng xen kẽ nhỏ hẹp với ruộng bậc
thang, không liền ở giải phía tây nam.
1.6.3 Khí hậu
Hà Quảng nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa với đầy đủ 4 mùa, bị
ảnh hưởng của tiểu vùng khí hậu phía Bắc, có núi đá. Nhiệt độ trung bình năm từ
22
0
c – 24
0
c tối cao lên đến 38
0
c (tháng 7) và tối thiểu là 0
0
c (tháng 12). Lượng mưa
trung bình năm thấp, đạt khoảng 1.800mm tập trung cao nhất vào tháng 7, tháng 8
chiếm 80% (mùa mưa) và thấp nhất vào tháng 1.
Trang
13
Gió mùa đông bắc thooit từ tháng 12 năm trước tới tháng 3 năm sau, mang
không khí lạnh từ phương Bắc đổ về với đặc điểm giá, đôi khi có sương muối, gió
mùa đông nam bắt đầu từ tháng 4 kết thúc vào tháng 11, gây ra mưa lũ. Độ ẩm trung
bình biến động từ 75% - 80%. Cao nhất vào mùa hạ 90% và thấp nhất vào mùa đông
55%.
1.6.4 Thủy văn
Hệ thống sông suối của Hà Quảng phân bố rất không đồng đều. Tiểu vùng cao
hầu như không có sông, suối. sông suối tập trung chủ yếu ở vùng thấp có 3 con sông
suối chính là suối Bằng Giang, suối Lê Nin và suối Phù Ngọc cùng với rất nhiều
nhánh tạo thành mạng lưới thủy văn và cảnh quan thiên nhiên rất đẹp.
Hệ thống hồ thưa thớt, có 2 hồ chính là hồ bản nưa, hồ kẻ hiệt cung cấp nước
cho sản xuất và sinh hoạt. Các xã phân bố ở vùng cao tuy đã được quan tâm làm bể
chứa nước nhưng hiện nay nước cấp sinh hoạt còn gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng rất
lớn đến sống cũng như sản xuất của nhân dân.
1.6.5 Các nguồn tài nguyên
1.6.5.1 Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên toàn huyện 45.322,66 ha, bao gồm những loại đất sau:
- Đất nông nghiệp có diện tích 45.056,88 ha chiếm 92,79 % diện tích tự nhiên của
toàn huyện.
- Diện tích phi nông nghiệp 936,38 ha chiếm 2,07% tổng diện tích tự nhiên toàn
huyện.
- Diện tích chưa sử dụng 2.329,40 ha chiếm 5,14% tổng diện tích tự nhiên toàn
huyện.
• Đất đai thổ nhưỡng
Do quá trình hình thành đất khá phức tạp, nên trong huyện có một số loại đất
chính như sau:
- Đất phù sa trung tính ít chua phân bố ở thung lũng hẹp và vùng trũng giáp các
sông suối lớn .
- Đất feralit màu đỏ phát triển trên đá mắc ma bazơ trung tính, phân bố ở vùng đồi
núi.
- Đất feralit màu nâu đỏ phát triển trên núi đá vôi, phân bố trên vùng đồi và chân
núi đá vôi.
- Đất feralit màu xám phát triển trên đá phiến thạch sét và đá biến chất, phân bố ở
vùng đồi núi thấp.
- Đất xám trên đá cát, phân bố ven suối.
Trang
14
- Đất nâu vàng trên đá vôi, phân bố dưới chân núi đá vôi.
Loại đất như đất feralit nâu đỏ, đỏ, xám và đất phù sa là các loại đất thích hợp
phát triển cây công nghiệp ngắn ngày như thuốc lá, đậu tương, lạc và ngô, lúa nước.
1.6.5.2 Tài nguyên nước
- Nước được phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trong huyện
được lấy từ 2 nguồn chính là nước mặt và nước ngầm.
- Nguồn nước mặt: nguồn cung cấp nước cho huyện Hà Quảng chủ yếu do 3
con suối chính là suối Bằng Giang, suối Lê Nin và suối Phù Ngọc và một số hồ, ao
phân bố rải rác trên địa bàn huyện.
- Vùng lục khu chỉ có suối nhỏ, nước chỉ chảy vào mùa mưa. Toàn bộ nước
sản xuất và sinh hoạt của toàn vùng phụ thuộc chủ yếu vào mùa mưa.
- Nguồn nước ngầm đến nay chưa có điều tra khảo sát, nghiên cứu đầy đủ vào
trữ lượng và chất lượng nước ngầm tuy nhiên qua điều tra sơ bộ nguồn nước ngầm là
do khai thác.
1.6.5.3 Tài nguyên rừng
Tổng diện tích lâm nghiệp 34.581,20 ha chiếm 76,30%. Tổng diện tích tự
nhiên của huyện, với thảm thực vật rừng khá phong phú tạo thành quần thể tự nhiên
có vai trò quan trọng trong việc phòng hộ và cũng có một vai trò kinh tế nhất định,
tuy nhiên trong thời gian qua vẫn có một số diện tích đất rừng bị cháy đặc biệt là
những diện tích rừng đặc dụng. Rừng là nơi cung cấp nguyên liệu phục vụ đời sống
và góp phần tô đẹp cảnh quan khu di tích lịch sử pác bó. Trong giai đoạn vừa qua
rừng mới được phục hồi nên chua có đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội
và bảo vệ sinh thái. Trong tương lai cần chú ý tăng diện tích rừng khoanh nuôi bảo vệ
rừng tăng độ che phủ rừng trong toàn huyện đảm bảo cân bằng sinh thái và bảo vệ tài
nguyên đất, chống xói mòn, bảo vệ sự đa dạng sinh học và điều hòa nguồn nước.
Tài nguyên nhân văn:
Huyện Hà Quảng đã tồn tại và phát triển lâu đời, có nhiều dân tộc anh em sinh
sống như: Tày, Nùng, Mông, Kinh, Dao và các dân tộc anh em khác mỗi dân tôc dều
có bản sắc văn hóa riêng tạo nên một nền văn hóa phong phú và đa dạng cần được
giữ gìn bảo vệ và phát triển.
Hiện nay toàn huyện có khoảng 35,240 người phân bố trên 19 đơn vị hành
chính gồn 18 xã và một thị trấn, trong các thời kỳ chống pháp và chiến tranh biên
giới, nhân dân huyện Hà Quảng đã đống góp nhiều sức người sức của để đánh giặc
ngoại xâm xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước trong cuộc kháng chiến chống
Pháp, Mỹ, và biên giới Trung Quốc con em dân tộc huyện nhà hăng hái chiến đấu lên
đường tòng quân đánh giặc có nhiều bà mẹ việt nam anh hùng tô thêm vẻ đẹp truyền
Trang
15
thống của huyện nhà và quê hương đất nước, trên địa bàn huyện hiện nay vẫn còn
nhiều di tích mang dấu ấn lịch sử văn hóa như: khu di tích lịch sử pác bó, mộ liệt sĩ
kim đồng. Dưới sự lãnh đạo của đảng và nhân dân hiện nay Hà Quảng đang từng
bước phát triển kinh tế xã hội nâng cao đời sống nhân dân đi dần vào ổn định, từng
bước được cải thiện đáng kể.
Môi trường cảnh quan
Môi trường Hà Quảng về hiện trạng chưa bị ô nhiễm, tuy nhiên với tốc độ
phát triển như hiện nay công tác bảo vệ môi trường cần phải được trú trọng nhất là
các khu trung tâm như trung tâm huyện lỵ, cửa khẩu sóc giang, chợ Nà Giàng phải có
chi tiết cụ thể về cơ sở hạ tầng để giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội thì vấn đề bảo vệ môi trường cải tạo đất là hết
sức cần thiết. Tạo mô hình canh tác chống xói mòn, rửa trôi đát thâm canh tăng vụ và
luân canh để tăng hệ số sử dụng đất, hạn chế sử dụng các chất gây ô nhiễm đất, bảo
vệ môi trường đất. Bố trí cây trồng hợp lý, khai thác có hiệu quả quý đất, bảo vệ tốt
diện tích rừng hiện có, đẩy mạnh việc trồng rừng, phủ xanh các diện tích đồi núi chưa
hay có thảm thực vật mỏng cần được bảo vệ đồng thời khoanh nuôi tái sinh rừng. Đối
với các chất thải cần được xử lý trước khi đưa ra môi trường. Đối với các khu dân cư,
khu đô thị cần có diện tích đất trồng cây xanh, trồng rừng tạo phong cảnh, tôn tạo và
giữ gìn cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp.
1.7 Điều kiện kinh tế xã hội
Huyện Hà Quảng có nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông lâm nghiệp:
- Về nông nghiệp cây trồng chủ yếu là cây lương thực như: Lúa, ngô, sắn…cây
công nghiệp ngắn ngày có mía, đỗ tương, ngoài ra còn trồng rau, đậu các loại
cung cấp cho thị trường.
- Chăn nuôi phát triển chăn nuôi ở huyện có chăn nuôi gia suc như: Trâu, bò, lợn và
chăn nuôi gia cầm: Gà, vịt ngoài ra còn có một số hộ nuôi ong mật và nuôi thả cá
góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập.
- Về lâm nghiệp sản xuất hiện nay ở huyện chủ yếu trồng rừng và khoanh nuôi bảo
vệ rừng tự nhiên phòng hộ, vì rừng trồng hiện nay trên địa bàn huyện chưa đến kì
khai thác nên chưa có thu nhập kinh tế về rừng.
- Các ngành kinh tế khác: Hiện nay ngành kinh tế của huyện vẫn tập trung vào sản
xuất nông lâm là chủ yếu, các ngành nghề dịch vụ đã có nhưng còn ở quy mô nhỏ.
CHƯƠNG 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trang
16
2.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
• Địa điểm: huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
• Thời gian: 6/ 12 / 2010 đến 30/4/2011
• Về lý luận
Xây dựng cơ sở khoa học và phương pháp luận cho việc đề xuất phương án xây
dựng mô hình nông lâm kết hợp.
• Về thực tiễn
Đề xuất phương án xây dựng mô hình nông lâm kết hợp, góp phần cung cấp tư
liệu cho việc xây dựng mô hình của huyện, làm căn cứ phát triển kinh tế xã hội
cho huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng.
2.2 phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Điều tra khảo sát thực địa.
- Điều tra bổ sung thu thập tài liệu về các loại đất, cơ sở hạ tầng, địa hình.
- Điều tra hiện trạng đất đai tài nguyên rừng, diện tích trữ lượng các loại rừng trên
địa bàn, đặc điểm tài nguyên động thực vật, đặc điểm tình hình sinh trưởng, phát
triển tái sinh phục hồi đất đồi…
- Phỏng vấn người dân về tập quán canh tác, nhu cầu sử dụng đất, cơ cấu các loại
cây trồng vật nuôi.
2.2.2 Hồi cứu số liệu
Thu thập thông tin số liệu từ các nguồn đã có trên địa bàn cũng như các tài
liệu liên quan đến công tác quản lý và cải tạo đất gò đồi tại huyện Hà Quảng, tỉnh
Cao Bằng.
Hình 2.1 Đất gò đồi được canh tác tại địa bàn nghiên cứu
CHƯƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BIỆN LUẬN
Trang
17
3.1 Hiện trạng sử dụng đất gò đồi của huyện Hà Quảng.
Hiện trạng sử dụng đất gò đồi của huyện trong những năm gần đây việc quản
lý đất đai của huyện đang được quan tâm thích đáng. Đang dần đáp ứng được yêu
cầu về quản lý đất đai. Tổng diện tích tự nhiên là 45.322,66 ha. Theo số liệu thống kê
của phòng tài nguyên và môi trường huyện Hà Quảng cho thấy tổng diện tích đất đồi
núi và dốc thoải của toàn huyện có độ dốc > 12
0
có diện tích chiếm 2,66%. Phân bố
theo đơn vị hành chính.
Bảng 3.1 hiện trạng đất gò đồi và dốc thoải phân theo đơn vị hành chính
Theo đơn vị hành chính Tổng( ha) Tỷ lệ %
% so với diện
tích tự nhiên
Diện tích tự nhiên 45322,66 100%
Tổng diện tích đất đồi > 12
0
1208 100% 2,66%
t.t xuân hòa 45 3,72 0,1
Trường hà 72 5,96 0,15
Sóc hà 61 5,04 0,13
Nà xác 73 6,04 0,16
Quỹ quân 60 4,96 0,13
Mã ba 57 4,71 0,12
Lũng nặm 58 4,80 0,13
Thượng thôn 62 5,13 0,14
Cải viên 70 5,79 0,15
Vân an 65 5,38 0,14
Vần dính 76 6,29 0,17
Phù ngọc 45 3,72 0,1
Đào ngạn 59 4,88 0,13
Tổng cọt 63 5,21 0,14
Sỹ hai 69 5,71 0,15
Hạ thôn 67 5,55 0,15
Nội thôn 62 5,13 0,14
Hồng sỹ 75 6,20 0,16
Kéo yên 69 5,71 0,15
Nguồn: Thống kê đất đai huyện Hà Quảng năm 2010
Trang
18
Qua bảng 3.1 cho thấy sự phân bố diện tích đất đồi trên địa bàn huyện khá
đồng đều. Xã có diện tích đất gò đồi ít nhất là xã Phù Ngọc và Thị trấn xuân hòa
chiếm 0,1 %
3.2 Đặc điểm canh tác trên đất dốc của các nông hộ ở địa bàn nghiên cứu
Qua quá trình thực tế khảo sát tôi có được lát cắt địa hình mô phỏng như sau:
Lát cắt địa hình nghiên cứu tại vùng nghiên cứu:
Hình 3.2 Lát cát tại địa bàn nghiên cứu ( chiếu đứng )
Trang
19
Địa hình
loại đất
nguồn
nước
thực vật
Dốc mạnh
vàng đỏ
mưa
rừng keo
Dốc mạnh
vàng đỏ
Mưa
Rừng keo,
chuối
Dốc mạnh
vàng đỏ
Mưa
Rừng chuối,
bưởi
Dốc vừa nhẹ
Vàng đỏ,
Lúa, ngô,
chuối, một số
cây ăn quả
Hình 3.3 lát cát tại địa bàn nghiên cứu ( chiếu bằng)
Nhìn vào lát cát chúng ta thấy vùng đất chuyển giao giữa các cấp độ dốc
thường bị bỏ trống. canh tác trên từng cấp độ dốc có sự khác nhau tuy nhiên nhìn
chung là canh tác kiểu độc canh. Vì vậy, vùng đất chuyển giao giữa các cấp độ dốc
không được cải thiện và sử dụng hợp lý, thì quá trình xói mòn và sạt lở ở các sườn
dốc trên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các vùng canh tác phía dưới.
3.3 Các mô hình canh tác trên địa bàn nghiên cứu
3.3.1 Nông nghiệp
Các hoạt động nông nghiệp ở đây chủ yếu là lúa, bắp, đậu, và cây ăn quả như
bắp, mít, mận, nhãn, vải…Và một số cây công nghiệp như chè.
3.3.2 Lâm nghiệp
Trên địa bàn hoạt động lâm nghiệp hiện tại có 3 loại cây lâm nghiệp đươc
người dân trồng là keo lai, thông, sa mộc trong đó keo lai và sa mộc là hai loài cây
được người dân ưu tiên lựa chọn, đây là loài cây dễ trồng ít tốn công chăm sóc và
thời gian khai thác không quá dài giá thành tương đối cao. Đặc biệt keo lai có sinh
trưởng nhanh, năng suất cao,chu kỳ kinh doanh ngắn, sản phẩm làm ra chủ yếu cung
cấp cho xây dựng và là nguyên liệu cho nhà máy giấy. Ngoài ra người dân còn trồng
thông nhằm phủ xanh đất trống đồi núi trọc góp phần cải tạo đất
Trang
20
Rừng
Đất trống
Rừng, chuối
Đất trống
Rừng, chuối, bưởi
Đất trống
Cây lương thực
Đất trống
Nhà ở
cây ăn trái
Hình 3.4 Đất gò đồi đang canh tác
3.3.3 Trang trại
Theo quá trình khảo sát và điều tra thì nhận định chung là các trang trại ở đây
hoạt động còn rời rạc, chủ yếu của các hộ nông dân tự phát. Nhiều trang tại bị bỏ
giữa chừng vì không có kinh nghiệm, không được tập huấn, nguyên nhân nữa là đất
đai khí hậu khắc nghiệt, thiếu vốn đầu tư nên các hoạt động sản xuất gặp nhiều khó
khăn. Tuy nhiên cũng có một số trang trại thành công và có tính khả thi cao có thể
nhân rộng tại địa bàn nghiên cứu.
Mô hình trang trại tổng hợp
Đây là một trang trại thuộc thôn bản giàng thị trấn Xuân Hòa huyện Hà
Quảng, mô hình trang trại thuộc Vườn - Ao - Chuồng- Rừng (VACR) trang trại có
vườn cây ăn quả như ổi, xoài, cam, nhãn, vải….. Đặc biệt ở mô hình trang trại này đã
trồng được vườn cây ăn quả có năng suất, khoảng cách giữa các cây ăn trái trồng xen
cỏ cho trâu, bò. Trang trại có nuôi bò, trâu, gà thả vườn, heo, ao cá. Rừng cũng không
khác gì với bản địa cây chủ lực của rừng là keo lai và sa mộc.
Trang
21
Hình 3.5 hình mô phỏng trang trại tổng hợp tại dịa bàn nghiên cứu
Ưu điểm: Mô hình này tận dụng được phế thải chăn nuôi, phân từ hoạt động
chăn nuôi có thể bón cho cây, hoạt động này cải tạo đất bằng phân xanh, phân
chuồng, tận dụng đất thừa trồng cỏ đồng thời bảo vệ đất khỏi bị xói mòn, rửa trôi.
Nhược điểm: Mô hình chưa có vành đai chắn gió bão
Mô hình trang trại nuôi ong mật
Trang trại thuộc thị trấn xuân hòa của địa bàn nghiên cứu là loại mô hình nuôi
ong mật kết hợp thả gà vườn. Rừng chủ yếu là keo và chè, trồng xen là đậu tương.
Trang
Chuông bò
Vườn cây ăn quả
Chuồng heo
Ao thả cá
Rừng
Trại nuôi ong
22
Rừng chuồng trại
Hình 3.6 lát cát mô phỏng trang trại nuôi ong
Qua mô hình ta thấy việc sử dụng đất trên đồi cao trồng rừng, phía dưới làm
trang trại là rất tốt cho việc tránh gió bão, xạt lở đất, xói mòn.
Kinh doanh ong mật:
Các hộ gia đình nông dân ở khu vực rừng đều biết gác kèo cho ong mật tự
nhiên (ong khoái) làm tổ. Mật ong lấy từ rừng có chất lượng cao hơn các loại rừng
khác và cao hơn mật ong nuôi thùng. Hoa keo, nhãn, vải… Có nhiều mật, mùa hoa lại
kéo dài nhiều tháng trong năm, tuy hoa nở rộ vào tháng 5. Sản lượng mật thu được
tuỳ thuộc vào số lượng kèo gác, số tổ ong định cư, độ lớn của bầy ong tự nhiên. Bình
quân 1 ha rừng người ta có thể thu được từ 5 - 7 lít mật ong.
Mô hình trang trại nuôi cá ở xã Trường Hà
Trang trại thuộc xã Trường Hà của địa bàn nghiên cứu là loại mô hình chuồng
vườn vật nuôi là cá rô phi, cá trắm, cá chép, tôm. Vườn có cây ăn trái như nhãn,
xoài,ổi, vải….
Trang
23
Hình 3.7 hình mô phỏng trang trại nuôi cá
Ưu điểm: trang trại có xây tường rào bảo vệ, tận dụng được nước tưới tiêu cho
vườn cây ăn trái, phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân.
Nhược điểm: Thiếu kiến thức, kinh nghiệm có thể là nguyên nhân chủ yếu dấn
đến thất bại của trang trại.
3.4 Xây dựng và đề xuất mô hình phù hợp cho địa bàn nghiên cứu
Căn cứ vào thực trạng việc khai thác sử dụng đất gò đồi hiện tại của huyện Hà
Quảng với những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong những năm tới, cũng như khả năng
về lao động và vốn đầu tư là cơ sở cho việc đề xuất một số giải pháp phục hồi khả
năng cải tạo đất gò đồi đem lại hiệu quả kinh tế kết hợp bảo vệ nguồn tài nguyên đất
đai và môi trường làm tăng diện tích đất sản xuất.
3.4.1 các nguyên nhân dẫn đến suy thoái đất
3.4.1.1. Thoái hóa đất do các yếu tố tự nhiên
Do địa hình hà quảng đa phần là đồi, núi nên có độ dốc lớn, phần lớn người
dân canh tác trên đất dốc. Khi thay đổi về khí hậu, sinh thái, đặc biệt là thảm thực vật
dễ dẫn đến hiện tượng xói mòn trượt lở, rửa trôi là suy thoái hóa học, mất chất dinh
dưỡng và chất hữu cơ. Những năm gần đây huyện Hà Quảng luôn phải hứng chịu
ngững trận lũ quét và gấy ngập lụt. Trong tháng 7 năm 2009 lũ quét xảy ra gây cuốn
trôi nhà cửa hoa màu, rửa trôi lớp đất mặt canh tác.
Trang
Vườn cây ăn quả
Cá trắm
Cá rô phi
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
x x x x x x x
24
Các quá trình trượt lở, rửa trôi, xói mòn, xói lở gây ra mạnh mẽ, lớp thổ
nhưỡng chịu ảnh hưởng và thay đổi do quá trình này. Đất ở các khu vực bị xói mòn,
rửa trôi, hàm lượng giảm mùn giảm, độ phì nhiêu giảm.
Quá trình xói mòn
Trong các nguy cơ gây xói mòn đất ở việt nam thì xói mòn do nước là nguy cơ
chủ đạo phổ biến nhất bởi các lý do sau:
- Lượng mưa lớn: 1.300 – 1.400mm / năm.
- Mưa phân bố không đều tập trung trong năm: 70 – 80% tập trung trong tháng 5 và
tháng 6.
- Cường độ mưa lớn: 40 – 60% lượng mưa vượt ngưỡng gây xói mòn ( 2,5 mm/h ).
- Tổng năng lượng mưa có khả năng gây xói mòn.
- Địa hình dốc: dốc > 20
0
chiếm 58,2% diện tích vùng đồi núi.
- Trong 10,8 triệu ha đất trống đồi trọc kiểm kê năm 2005 có đến 90,8% ( 9,4 triệu
ha) là đất dốc trên 16
0
.
- Phần lớn đất đồi núi có tầng mỏng < 50cm.
- Lớp phủ tự nhiên thấp: Bình quân 28% so với ngưỡng an toàn là 50%.
- Khả năng chống đỡ kẽm của cây trồng và cây rừng.
- Lớp thảm cành cây khô lá rụng mỏng: dày nhất là 5cm.
- Canh tác chưa hợp lý, chủ yếu trồng chay.
Xói mòn do gió tuy ít phổ biến hơn, nhưng so với đất có thành phần cơ giới
nhẹ cũng có vẻ nghiêm trọng: đất cát ven biển, đất đồi vùng bán khô hạn miền trung,
đất đỏ vàng tây nguyên trong mùa khô, vùng cao miền bắc…
Nguy cơ xói mòn do gió ở việt nam bị chi phối bởi các yếu tố sau:
- Tốc độ gió.
- Thành phần cấp hạt đất.
- Độ ẩm đất và không khí.
- Mức độ che phủ.
- Mức độ cản trở của băng chắn.
Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy đất có rừng che phủ có lượng xói mòn
ít nhất ( khoảng 2- 5 tấn/ha), đất trồng chè theo rãnh đồng mức 3 – 4 tấn/ ha đất trồng
các loại cây ngắn ngày khác có lượng đất trôi khoảng 40 – 100 tấn/ ha tùy theo mức
độ che phủ, trên đất trồng không có lượng che phủ lượng đất trôi lớn nhất 80 – 100
tấn/ha tùy theo loại đất. Thiệt hại do xói mòn và rửa trôi là rất lớn khi đất mất rừng
đưa vào canh tác cây ngắn ngày.
Trang
25