Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Nghiên cứu chuyển cơ sở sản xuất ngành nghề từ khu dân cư đến nơi sản xuất tập trung ở thị xã từ sơn, tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.74 KB, 10 trang )

Đề bài 1: Vai trò của Liên hợp quốc đối với sự phát triển và hoàn thiện các nguyên tắc và quy phạm
của một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế.

MỤC LỤC
A. Đặt vấn đề

1

B. Giải quyết vấn đề
I. Khái quát chung về Liên hợp quốc và Luật biển quốc tế
1 . Khái quát về vai trò của LHQ trong việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật quốc tế.
2. Khái quát chung về Luật biển quốc tế
II. Vai trò của Liên hợp quốc đối với sự phát triển và hoàn thiện
các nguyên tắc và quy phạm của Luật biển quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc tế.
1. Hội nghị Luật biển lần thứ nhất của Liên hợp quốc.
2. Hội nghị Luật Biển lần thứ hai của Liên hợp quốc
3. Hội nghị Luật Biển lần thứ ba của Liên hợp quốc

1
2

3
3
5

III. Một số nhận xét về vai trò của Liên hợp quốc đối với sự phát triển
và hoàn thiện các nguyên tắc và quy phạm của Luật quốc tế trong hệ thống
pháp luật quốc tế
7
C. Kết thúc vấn đề


7

1


A. Đặt vấn đề

Liên hợp quốc là tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất hiện nay, được thành lập trên cơ
sở của Hiến chương Liên Hợp Quốc. Từ khi thành lập đến nay, tổ chức này đã đạt được nhiều thành
tựu trong việc duy trì hòa bình và an ninh thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân
tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền
tự quyết của các dân tộc. Và một trong số đó chính là phát triển và hoàn thiện các nguyên tắc và
quy phạm của các ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc tế. Luật biển quốc tế là một ngành luật
trong hệ thống pháp luật quốc tế, đồng thời Luật biển thể hiện rõ nét vai trò nói trên của Liên hợp
quốc.
B. Giải quyết vấn đề
I. Khái quát chung về Liên hợp quốc và Luật biển quốc tế
1 . Khái quát về vai trò của LHQ trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc tế.
Liên Hợp Quốc thành lập ngày 24/10/1945, là một tổ chức quốc tế có mục đích duy trì hòa bình
và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác
quốc tế giữa các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 192 thành viên. Không chỉ dừng lại ở nhiệm vụ bảo vệ hoà bình và an
ninh quốc tế, Liên hợp quốc còn là diễn đàn nơi các quốc gia thảo luận và thông qua các quy phạm
pháp luật quốc tế nhằm thúc đẩy sự phát triển của thế giới. Đồng thời, tổ chức này cũng có thẩm
quyền và phương tiện để đảm bảo tuân thủ luật pháp quốc tế. Liên Hiệp Quốc đóng vai trò quan
trọng trong việc xây dựng, bảo vệ, củng cố hệ thống pháp luật quốc tế. Trong hoạt động xây dựng
và hoàn thiện pháp luật quốc tế, vai trò của Liên hợp quốc được thể hiện qua hai con đường:
Một là, hoạt động xây dựng pháp luật quốc tế trực tiếp: đây là hoạt động của Liên hợp quốc với
tư cách là chủ thể của Luật quốc tế. Liên hợp quốc kí kết các điều ước quốc tế hoặc chấp nhận các
tập quán quốc tế để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình trong khuôn khổ thẩm quyền mà

các quốc gia thành viên trao cho tổ chức.
Hai là, hoạt động xây dựng pháp luật gián tiếp: đây là hoạt động đưa ra sáng kiến, bảo trợ để kí
kết các điều ước quốc tế. Thông thường, Liên hợp quốc sẽ tổ chức các diễn đàn, các hội nghị để các
bên thương lượng và kí kết điều ước quốc tế. Ngoài ra, Liên hợp quốc còn tham gia soạn thảo các
điều ước quốc tế, thiết lập nên các thiết chế để giám sát thực hiện các điều ước này.
2. Khái quát chung về Luật biển quốc tế
2


- Khái niệm: Luật biển quốc tế là một ngành luật độc lập thuộc hệ thống Luật quốc tế, bao gồm
tổng thể các nguyên tắc, quy phạm Luật quốc tế, được các quốc gia và chủ thể khác của Luật quốc
tế thỏa thuận xây dựng trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, nhằm điều chỉnh những quan hệ phát sịnh
giữa các chủ thể đó trong các hoạt động quản lý, sử dụng, khai thác và bảo vệ môi trường biển và
trong trường hợp cần thiết được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế do chính các chủ
thể của Luật Quốc tế thi hành.
- Đặc điểm:
+ Chủ thể của luật biển quốc tế là chủ thể của Luật quốc tế, trong đó chủ yếu và quốc gia và tổ
chức quốc tế liên chính phủ. Các chủ thể khác của Luật quốc tế chỉ tham gia rất hạn chế vào quan
hệ pháp luật là đối tượng điều chỉnh của Luật Biển.
+ Quan hệ pháp luật thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật biển quốc tế là những quan hệ phát
sinh giữa các quốc gia và các chủ thể khác của Luật Quốc tế trong quá trình quản lý, khai thác và sử
dụng biển, bao gồm những quan hệ phát sinh trong quá trình xác lập và thực hiện chủ quyền cũng
như quyền chủ quyền trên các vùng biển, bảo vệ môi trường, hợp tác khai thác nguồn tài nguyên
biển và giải quyết tranh chấp quốc tế…
II. Vai trò của Liên hợp quốc đối với sự phát triển và hoàn thiện các nguyên tắc và quy
phạm của Luật biển quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc tế.
Có thể thấy rằng Luật Biển trong giai đoạn trước năm 1930 bao gồm chủ yếu các quy phạm
mang tính tập quán. Sau chiến tranh thế giới thứ 2 ngày càng có nhiều tranh cãi, tranh chấp liên
quan đến việc sử dụng nguồn lợi biển. Bên cạnh đó, tình hình giao lưu, khai thác biển giữa các quốc
gia trên thế giới đặt ra yêu cầu cần thống nhất các nguyên tắc và quy phạm của Luật biển quốc tế.

Liên hợp quốc có vai trò quan trọng trực tiếp tác động đến việc phát triển hoàn thiện các nguyên tắc
và quy phạm của Luật biển quốc tế. Vai trò đó được thể hiện rõ nét tại ba Hội nghị của Liên hợp
quốc về Luật biển. Trong lịch sử hình thành và phát triển Luật Biển quốc tế, các hội nghị quốc tế về
Luật biển được tổ chức vào các thời gian khác nhau. Để thấy được một cách toàn diện vai trò của
Liên hợp quốc, chúng ta cần phải nhìn nhận những thành công mà Liên hợp quốc đã đạt được qua
các hội nghị quốc tế về luật biển.
1. Hội nghị Luật biển lần thứ nhất của Liên hợp quốc.

Năm 1956, Liên Hiệp Quốc tổ chức Hội nghị về Luật Biển đầu tiên ở Geneva, Thụy Sĩ. Hội
nghị này đã đạt được một số thành tựu góp phần phát triển hoàn thiện các nguyên tắc và quy phạm
của Luật biển quốc tế. Hội nghị luật biển lần thứ nhất được tổ chức nhằm hệ thống hóa pháp luât về
3


biển đối với lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, thềm lục địa và biển xa bờ, và kết quả đã thông qua
bốn hiệp định ký kết năm 1958 đó là Công Ước về Lãnh Hải và Vùng Tiếp Giáp, có hiệu lực vào
ngày 10/09/1964, Công Ước về Thềm Lục Địa, có hiệu lực vào ngày 10/06/1964, Công Ước về Hải
Phận Quốc Tế, có hiệu lực vào ngày 30/09/1962, Công Ước về Nghề Cá và Bảo Tồn Tài Nguyên
Sống ở Hải Phận Quốc Tế, có hiệu lực vào ngày 20/03/1966. Ngoài ra, các nước tham dự còn thông
qua được một Nghị định thư về phương thức giải quyết tranh chấp. Đây được đánh giá là kết quả
quan trọng về phương diện lập pháp quốc tế; đặc biệt, sự ra đời của bốn Công ước đã pháp điển hoá
nhiều nguyên tắc và quy phạm của Luật tập quán về biển (như tự do biển cả, qua lại không gây hại,
chế độ nội thuỷ, lãnh hải, chế độ thềm lục địa…). Có thể nói, bằng sự ra đời của các Công ước này
thì một số quy phạm và nguyên tắc cơ bản của luật biển quốc tế đã được ghi nhận chính thức trong
các văn bản pháp lý. Mặc dù cho đến nay, các hiệp ước năm 1958 đã hết hạn, tuy nhiên, những quy
định của nó là cơ sở cho việc xây dựng Công ước luật biển năm 1982- văn bản pháp lý thay thế cho
các công ước này.
Mặc dù thành công trong việc luật hóa nhiều quy tắc điều chính các vùng biển, Hội nghị lần thứ
nhất vẫn còn những vấn đề không thể giải quyết nổi, nên Đại hội đồng Liên hiệp quốc phải nhận
định: “cần phải triệu tập một Hội nghị quốc tế lần thứ hai có toàn quyền về luật biển để giải quyết

các câu hỏi về bề rộng của lãnh hải và giới hạn của việc khai thác thủy sản”. Hai câu hỏi này đã
được đưa ra giải quyết tại Hội nghị Liên hợp quốc lần thứ hai về luật biển diễn ra năm 1960. Công
ước này thất bại trong việc thống nhất bề rộng lãnh hải; trong việc xây dựng khái niệm khoa học về
thềm lục địa và hạn chế hơn nữa là không thể hiện được lợi ích của các nước vừa và nhỏ. Vấn đề
giải quyết tranh chấp liên quan đến Luật biển lần đầu tiên được đưa ra tại Hội nghị lần thứ nhất
trong khuôn khổ thảo luận của Công ước về thềm lục địa. Tuy nhiên, Hội nghị lần thứ nhất này vẫn
chưa thể thông qua bất cứ một cơ chế giải quyết thường trực nào. Mặc dù vậy, các thành công về
phương diện lập pháp của hội nghị này vẫn có ý nghĩa trong việc tạo tiền đề để cộng đồng quốc tế
tiếp tục con đường phát triển hiện đại Luật Biển quốc tế.
2. Hội nghị Luật Biển lần thứ hai của Liên hợp quốc

Hội nghị này được tổ chức với mong muốn nhằm giải quyết những tồn tại của hội nghị Luật biển
lần thứ nhất, đặc biệt là về vấn đề chiều rộng của lãnh hải. Nhưng thực tế, do thời gian giữa hai kỳ
hội nghị quá ngắn để các bên có thể đạt đến một sự nhất trí chung nên hội nghị đã không thống nhất
được về chiều rộng lãnh hải và không thông qua được điều ước quốc tế nào.
3.

Hội nghị Luật Biển lần thứ ba của Liên hợp quốc
4


Hội nghị Luật Biển lần thứ ba của Liên hợp quốc bao gồm 11 phiên họp, kéo dài 9 năm (từ
tháng 12 – 1973 đến tháng 12 – 1982). Hội nghị lần này là một sự kiện lịch sử quan trọng trong việc
phát triển tiến bộ và pháp điển hoá Luật quốc tế nói chung và luật biển quốc tế nói riêng. Để chuẩn
bị cho Hội nghị này, Đại hội đồng liên hợp quốc đã thành lập một ủy ban Ad hoc để nghiên cứu về
phương thức hòa bình sử dụng vùng đáy biển nằm ngoài vùng nước thuộc quyền tài phán của các
quốc gia. Sau ba năm chuẩn bị kỹ lưỡng, năm 1970, Đại hội đồng đã thông qua Nghị quyết 2759C
để triệu tập Hội nghị lần thứ ba về Luật biển với mục đích thiết lập được sự thống nhất về khái niệm
di sản chung của nhân loại, cũng như xác định được bề rộng lãnh hải và chế độ khai thác có hiệu
quả các nguồn tài nguyên thủy sinh trong khi vực biển tiếp giáp với lãnh hải. Trong cuộc họp đầu

tiên, Hội nghị thành lập các Ủy ban để điều khiển Hội nghị (Ủy ban tổng hợp, Ủy ban biên tập và
các Ủy ban chính). Tám năm đàm phán kết thúc với việc thông qua Công ước tại New York ngày
30/4/1982 với tỷ lệ 130 phiếu ủng hộ, 4 phiếu chống và 17 phiếu trắng. Với việc 60 quốc gia phê
chuẩn vào ngày 28/07/1994 khi Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua “Thỏa thuận 1994” về việc
thực thi Phần XI của Công ước, Công ước Liên hợp quốc về luật biển đã chính thức có hiệu lực từ
ngày 16/11/1994. Công ước Liên hợp quốc về luật biển quốc tế năm 1982 đã thể chế những quy
định tiến bộ cuả các Công ước Giơnevơ về luật biển năm 1958 và ghi nhận một số lượng đáng kể
các quy phạm pháp lý quốc tế mới. Đây là thỏa thuận chọn gói các vấn đề pháp lý về biển, tức là
Công ước không cho phép có bảo lưu đối với bất kỳ điều khoản nào trong nội dung Công ước.
Công ước Liên hợp quốc về Luật biển quốc tế năm 1982 được hội nghị thông qua là một văn
kiện tổng hợp, toàn diện, đề cập tất cả các vấn đề thuộc lĩnh vực pháp lý, kinh tế, khoa học kỹ
thuật…Không chỉ tiếp tục ghi nhận các vùng biển được thiết lập tại các Hội nghị pháp điển hóa
Luật Biển quốc tế, công ước giải quyết nhiều vấn đề pháp lý còn tồn tại, thậm chí chưa được đề cập
trong những hội nghị trước đó như hoàn thiện về xác định chiều rộng và quy chế pháp lý của các
vùng biển1, đặc biệt thống nhất về chiều rộng lãnh hải 2, đưa ra khái niệm khoa học về xác định ranh
giới phía ngoài của thềm lục địa 3. Bên cạnh đó, Công ước thiết lập nhiều vùng biển mới, bao gồm
vùng đặc quyền kinh tế, Vùng, vùng nước quần đảo và eo biển quốc tế 4, đảm bảo sự qua lại tự do
1
2
3
4

5


cho tàu bè trên các eo biển dùng cho hàng hải quốc tế 5; giải quyết các vấn đề đánh bắt cá; đảm bảo
tự do hàng hải và nghiên cứu khoa học biển ở vùng biển cả 6; thiết chế quy chế đáy biển ngoài thềm
lục địa và thành lập tổ chức quốc tế về các tài nguyên ở đáy biển này, bảo vệ môi trường biển và cải
thiện quản lý các tài nguyên thiên nhiên đại dương7, cơ chế giải quyết tranh chấp, quy định quyền
và trách nhiệm của các quốc gia trong việc sử dụng biển 8, thông qua các quy phạm nhằm ngăn ngừa

sự ô nhiễm biển…Công ước 1982 có sự phát triển vượt bậc với Công ước 1958 khi đã dành riêng
một phần XII để quy định về bảo vệ và giữ gìn môi trường biển. Đây là phần quy định khung để
thống nhất quy định về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển dưới góc độ luật biển quốc tế hiện đại,
tương đồng với các quy định pháp luật liên quan về vấn đề này. Trước đó, nhiều quốc gia đã ban
hành các văn bản pháp luật nhằm hạn chế các hành vi gây ô nhiễm môi trường thiên nhiên nói
chung và môi trường biển nói riêng. Vào cuối thế kỉ XX sau một loạt các thảm họa sự cố gây ô
nhiễm trên biển các quốc gia đã có nhiều nỗ lực hơn trong việc bảo vệ môi trường biển, một loạt
các điều ước quốc tế về vấn đề này đã ra đời như Công ước London 1972 về ngăn ngừa ô nhiễm
biển từ các chất thải do tàu và các chất khác, Công ước 1973 về ngăn ngừa các chất thải do tàu…Và
lĩnh vực bảo vệ môi trường biển đặc biệt được củng cố trong công ước luật biển 1982 của Liên hợp
quốc. Đối với các nguyên tắc của Luật biển quốc tế, Công ước này đã quy định chi tiết tự do biển cả
được thừa nhận như một nguyên tắc cơ bản nhất của luật biển quốc tế:“tất cả những vùng biển
không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc gia, cũng như không
nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo”( điều?), quy định 1 cách rõ ràng
nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ (còn gọi là chiếm hữu thực sự) là một tập quán quốc tế 9 (Điều?) , công
nhận nguyên tắc sử dụng biển cả vì mục đích hòa bình (điều ?), nguyên tắc vùng và tài nguyên trên
vùng là di sản chung của nhân loại( điều?) , nguyên tắc sử dụng hợp lí và bảo vệ sinh vật sống trên
biển (điều ?).

5
6
7
8
9 Trước đây nó là một nguyên tắc trong Định ước Berlin ký năm 1885 giữa 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ, sau đó đưa vào Tuyên bố
Lausanne của Viện Pháp luật quốc tế năm 1888. Tuy nhiên, nguyên tắc này bị Hiệp ước Saint Germain năm 1919 hủy bỏ. Hủy bỏ
không phải vì nguyên tắc này không còn giá trị mà vì trên thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa. Những thay đổi trong pháp luật
quốc tế nửa đầu thế kỉ XX đã làm thay đổi phương pháp thụ đắc chủ quyền lãnh thổ trên thế giới.

6



III. Một số nhận xét về vai trò của Liên hợp quốc đối với sự phát triển và hoàn thiện các nguyên
tắc và quy phạm của Luật quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc tế
Qua việc phân tích ở trên, có thể thấy rằng Liên hợp quốc có vai trò quan trọng đối với sự phát
triển và hoàn thiện các nguyên tắc và quy phạm của Luật biển. Vai trò của Liên hợp quốc được thể
hiện ở nhiều mặt khác nhau như đóng vai trò tích cực trong việc tổ chức các hội nghị quốc tế về luật
biển, tạo môi trường thuận lợi cho các quốc gia tham gia trực tiếp vào quá trình đàm phán và xây
dựng các điều ước quốc tế về luật biển, chuẩn bị cho việc tổ chức các Hội nghị về Luật biển, bảo trợ
tổ chức hội nghị đàm phán giữa các quốc gia về luật biển quốc tế. Hoạt động tổ chức hội nghị đàm
phán về vấn đề xây dựng luật biển Liên hợp quốc chỉ đóng vai trò gián tiếp, tạo môi trường cho các
bên tham gia thương lượng. Tuy nhiên, hoạt động này lại đóng vai trò rất quan trọng, diễn ra thường
xuyên, việc tổ chức các hội nghị sẽ là nơi để các quốc gia có thể trực tiếp tham gia vào quá trình
đàm phán, xây dựng một công ước song phương hoặc đa phương. Trong số các cơ quan của Liên
hợp quốc thì Đại hội đồng của Liên hợp quốc đóng vai trò quan trọng nhất. Theo Hiến chương Liên
hợp quốc, một trong những nhiệm vụ chính của Đại hội đồng là thúc đẩy việc xây dựng và pháp
điển hoá luật pháp quốc tế theo hướng tiến bộ. Điều 11,13 Hiến chương quy định: “Đại hội đồng có
thể thảo luận tất cả các vấn đề hoặc các công việc thuộc phạm vi Hiến chương đồng thời Đại hội
đồng có nhiệm vụ tổ chức nghiên cứu và thông qua kiến nghị nhằm phát triển sự hợp tác quốc tế
trong các lĩnh vực chính trị, thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật pháp quốc tế
theo hướng tiến bộ”. Theo đó, trong quá trình pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển, Đại hội
đồng đóng vai trò thúc đẩy việc xây dựng và pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển theo
hướng tiến bộ. Đại hội đồng thực hiện nhiệm vụ thúc đẩy quá trình xây dựng và pháp điển hoá luật
pháp quốc tế thông qua các cơ quan chính: Uỷ ban luật pháp quốc tế (ILC), Uỷ ban thương mại
quốc tế (UNCIRAL); các Uỷ ban ad hoc và các hội nghị thành viên. Tuy nhiên, nhiệm vụ thúc đẩy
quá trình pháp điển hóa các quy phạm quốc tế về biển của Đại hội đồng được thực hiện thông qua
hai cơ quan chính là Ủy ban lập pháp quốc tế và các hội nghị thành viên. Uỷ ban luật pháp quốc tế (
ILC) là cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc gồm những chuyên gia luật pháp quốc tế có nhiệm
vụ giúp Liên hợp quốc xây dựng và soạn thảo những Điều ước quốc tế đa phương. Uỷ ban luật pháp
quốc tế đóng một vai trò quan trọng trong việc pháp điển hoá luật pháp quốc tế. Uỷ ban đã xây
dựng và hoàn thiện nhiều Dự thảo tuyên bố, Công ước trong đó có Công ước luật biển năm 1982.

Ủy ban pháp luật quốc tế đã xây dựng bốn công ước Giơnevơ về lãnh hải, vùng tiếp giáp, biển cả,

7


thềm lục địa và việc đánh cá, bảo vệ các nguồn tài nguyên sinh vật tại biển cả làm cơ sở cho việc
thông qua Công ước Luật biển tại Hội nghị Liên hợp quốc về Luật biển.
Với ba Hội nghị mà Liên hợp quốc đã tổ chức, mỗi hội nghị có một ý nghĩa khác nhau đối với
việc phát triển và hoàn thiện các nguyên tắc và quy phạm của Luật biển. Đối với Hội nghị lần thứ
nhất, đó là lần đầu tiên các quy phạm và nguyên tắc của Luật biển mà trước đó mới được thừa nhận
là tập quán được luật hóa, sự thành công của hội nghị đã tạo tiền đề, nền móng cho việc tổ chức các
Hội nghị sau đó. Đối với Hội nghị lần thứ hai, dù bị coi là thất bại vì chưa đưa ra được một thỏa
thuận, thống nhất nào nhưng những mâu thuẫn được đặt ra trong Hội nghị này đã thúc đẩy quá trình
nghiên cứu trong nhiều năm của Liên hợp quốc về một số vấn đề phức tạp, từ đó có thể tổ chức
thành công Hội nghị lần thứ ba với quy mô lớn hơn (số nước tham gia nhiều hơn và các vấn đề
được thảo luận cũng rộng hơn, tính chất phức tạp hơn). Hội nghị này là nơi đại diện các quốc gia
trên thế giới trực tiếp đàm phán về những quy định liên quan đến luật biển và và sau chín năm đàm
phán, Hội nghị đã đạt được một thoả thuận là Công ước Luật biển năm 1982, đánh dấu bước phát
triển mới của luật biển về cả hai phương diện nội dung và hình thức, tạo nên sự thống nhất chung
của cộng đồng quốc tế trong việc thiết lập trật tự pháp lý quốc tế trên biển. Có thể nói, nhờ những
thành công của các Hội nghị được tổ chức trước đó, thiện chí của các quốc gia và đặc biệt là vai trò
của Liên hợp quốc, Công ước Luật biển năm 1982 đã được thông qua với sự đồng thuận của đa số
các quốc gia tham gia Hội nghị. Đây là công ước lớn nhất trong khuôn khổ Liên hợp quốc kể từ khi
thành lập, là một điển hình của quá trình nỗ lực pháp điển hóa luật quốc tế của Liên hợp quốc với
các quy phạm tương đối hoàn thiện, đề cập một cách toàn diện các vấn đề pháp lý, kinh tế, khoa học
kỹ thuật, hợp tác, giải quyết tranh chấp… phát sinh trong quá trình sử dụng luật biển quốc tế. Sự ra
đời của các công ước về luật biển và các quy phạm tập quán hiện hành đã khẳng định sự tồn tại độc
lập của Luật biển quốc tế trong hệ thống luật quốc tế.
C. Kết thúc vấn đề
Luật biển là một trong những ngành luật của Luật quốc tế, xuất hiện từ thời xa xưa và có vai trò

quan trọng trong đời sống quan hệ quốc tế. Lúc đầu mới hình thành, luật biển chỉ tồn tại dưới dạng
những tập quán được một số ít quốc gia thừa nhận và vận dụng. Trải qua thời gian dài hợp tác và
đấu tranh giữa các quốc gia, luật biển ngày càng phát triển và hoàn thiện tạo nên môi trường pháp lý
cho cộng đồng quốc tế trong việc quản lý, khai thác và sử dụng biển có hiệu quả. Trong quá trình
đó, vai trò của Liên hợp quốc được thể hiện trên nhiều phương diện khác nhau, góp một phần hết
sức quan trọng đối với sự phát triển và hoàn thiện các nguyên tắc và quy phạm của luật biển.
8


9


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước của Liên hợp quốc năm 1982 về luật biển.
2. Công ước của Liên hiệp quốc năm 1958 về luật biển.
3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Nxb. CAND, Hà Nội, 2007.
4. Th.s. Nguyễn Thị Kim Ngân- Ths. Chu Mạnh Hùng (đồng chủ biên), Giáo trình Luật Quốc Tế,

Nxb. Giáo dục Việt Nam, năm 2010.
5. Lê Mai Anh & Trần Văn Thắng, Luật quốc tế - Lí luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001.
6. Lê Mai Anh, Luật biển quốc tế hiện đại, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2005.
7. Tiến sỹ Nguyễn Hồng Thao, Những điều cần biết về Luật biển, Nxb.CAND, năm 1997.
8. Khóa luận tốt nghiệp Cơ chế giải quyết tranh chấp trên biển theo Công ước Liên hợp quốc về Luật

biển năm 1982, Viengphim Latsachanh, năm 2011.
9. Và một số trang web:

http:// biendong.com



10



×