Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Vấn đề văn hóa trong quá trình xây dựng chủ mac lenin

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (274.31 KB, 36 trang )

MỤC LỤC

A. NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA
I. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.....................................................
1. Khái niệm văn hóa và nền văn hóa...............................................................
2. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa......................................................
3. Đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa................................................
II. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.................
III. Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.......
1. Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa..........................
2. Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa..................................
B. LIÊN HỆ VẤN ĐỀ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM
I. Sự hình thành nền văn hóa..........................................................................
II. Đặc điểm, tính chất nền văn hóa Việt Nam...............................................
III. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam ....................................................
1. Những thành tựu đạt được.....................................................................
2. Những mặt hạn chế ......................................................................................
3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế ..........................................................
IV. Phương hướng và giải pháp xây dựng ......................................................
1. Phương hướng:..............................................................................................
2.Giải pháp thực hiện:.......................................................................................
C. KẾT LUẬN....................................................................................................
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................

1


A. NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA
I. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
1. Khái niệm văn hóa và nền văn hóa:
1.1. Khái niệm văn hóa:


Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra
bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình; biểu hiện
trình độ phát triển xã hội trong từng thời kì lịch sử nhất định.
Khi nghiên cứu quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, C.Mac và
Ph.Anghen đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ bản
là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Do đó văn hóa bao hàm cả văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần.
Khái niệm văn hóa được biểu hiện theo hai nghĩa:
+ Nghĩa rộng: Văn hóa bao gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất : Là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh
trong sản phẩm vật chất.
Văn hóa tinh thần: Là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra
trong đời sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Đó là những giá trị cần
thiết cho hoạt động tinh thần, những tiêu chí, nguyên tắc chi phối hoạt động nói chung
và hoạt động tinh thần nói riêng, chi phối hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng,
giá trị khoa học, nghệ thuật được con người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của
mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và những phương thức thỏa mãn nhu
cầu đó.
+ Nghĩa hẹp: Văn hóa được hiểu chủ yếu là văn hóa tinh thần.
Như vậy nói tới văn hóa là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng
lực thuộc bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do
vậy văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người như: kinh tế, chính trị-xã hội,
tinh thần…
1.2. Bản chất và chức năng của văn hóa:
1.2.1.Văn hóa có tính khách quan, hiểu theo ý nghĩa đó là tổng hòa những giá trị
vật chất và tinh thần của loài người. Tuy xuất hiện với tư cách là sản phẩm của con
người nhưng theo dòng lịch sử, những thành tựu ấy tựa hồ như siêu thời gian, tạo ra
truyền thống và không phụ thuộc vào cá nhân riêng rẻ, không với tư cách là cá nhân,
mà với tư cách là một thực thể được phát triển về mặt xã hội.
2



1.2.2. Văn hóa là một biểu hiện xã hội không chỉ bao quát quá khứ, hiện tại mà
còn trải qua trong tương lai. Văn hóa quá khứ với những tấm gương tốt đẹp cũng tham
dự và sống lại với hiện tại, và sáng tạo hôm nay lại truyền thụ tư tưởng của mình, kết
quả lao động của mình cho những thế hệ thay thế mình theo dòng lịch sử.
1.2.3. Văn hóa, đó là thước đo bản chất, tộc loài của con người với các chức năng:
giáo dục nhận thức, định hướng, đánh giá, xác định chuẩn mực của hành vi, điều chỉnh
các quan hệ ứng xử, giao tiếp. Song cốt lõi trong các chức năng của những giá trị văn
hóa đem lại là chủ nghĩa nhân đạo, tính đạo đức. Không có tính đạo đức thì tất cả các
dạng giá trị (giá trị vật chất và giá trị tinh thần) sẽ mất đi mọi ý nghĩa. Ngày nay, nền
văn hóa nhân loại với tất cả tầm vóc của nó gợi cho con người những điều tự hào cao
cả và tinh thần trách nhiệm. Bên cạnh đó, con người không thể không lo lắng và thậm
chí cả sợ hãi trước vô số vấn đề của thế giới hiện đại.
1.2.4. Trên bình diện triết học Mác-xít, chức năng của văn hóa là cái bản chất mà
văn hóa ấy vốn có. Chức năng của văn hóa trong quan niệm của triết học Mác-xít như
là vấn đề biến đổi bản thân con người là vấn đề hình thành lịch sử hiện thực của con
người. Văn hóa bao gồm nhiều phương thức và hình thức đa dạng trong sự vận động
lịch sử của nó. Văn hóa thúc đẩy quá trình tạo lập nhân cách trong quá trình xã hội.
Văn hóa xác lập các phương thức và chuẩn mực tổ chức xã hội, điều hòa hoạt động
sống, thực hiện các chức năng xã hội, truyền đạt kinh nghiệm tri thức, các kết quả
được tư tưởng hóa của hoạt động con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rằng: Văn hóa là một kiến trúc thượng tầng, những cơ
sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được và có đủ điều kiện
để phát triển. Người còn nói văn hóa không thể đứng ngoài mà phải ở trong kinh tế và
chính trị. Sự phát triển của văn hóa cho phép chúng ta giải quyết các vấn đề xã hội tốt
hơn và ngược lại, khi xã hội phát triển sẽ tạo ra những tiềm năng, những khả năng
thuận lợi cho sự phát triển văn hóa.
1.2.5. Trong quá trình phát triển xã hội, các chức năng của văn hóa tuy liên quan
đến hệ tư tưởng nhưng chúng có sự “chọn lọc xã hội khách quan”, độc lập với ý thức

của các chủ thể đang hoạt động. Các chức năng văn hóa có ảnh hưởng đến đời sống xã
hội luôn đồng nhất với sự sáng tạo văn hóa. Sự sáng tạo lịch sử, sự sáng tạo văn hóa
khi tham gia vào quá trình tương tác xã hội. Vì vậy, vấn đề chức năng của văn hóa theo
quan niệm của chủ nghĩa duy vật lịch sử phải giải quyết mối quan hệ của nền tảng hoạt
động sáng tạo kết tinh trong văn hóa. Là một hình thái ý thức xã hội, văn hóa không
3


phải là sản phẩm trực tiếp của đời sống. Nó nhận thức các quy luật của tự nhiên và xã
hội. Trong các hoạt động văn hóa hay các sản phẩm nghệ thuật đều ghi lại các thành
quả của con người. Văn hóa phản ánh một cách độc đáo đời sống kinh tế – xã hội.
Trong lý luận phản ánh của mình, V.I.Lênin đã khẳng định tất cả mọi hiện tượng của ý
thức đều gắn liền với tồn tại. Chức năng nhận thức là chức năng đầu tiên của văn hóa
theo quan điểm hình thái ý thức xã hội của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Trong chủ nghĩa xã hội, văn hóa chính là điều kiện quan trọng nhất để
đảm bảo cho quần chúng tham gia trực tiếp vào sự phát triển xã hội. Văn hóa trong chủ
nghĩa xã hội xóa bỏ mặc cảm giai cấp, đồng đều hóa quá trình hưởng thụ, đánh giá và
sáng tạo của toàn xã hội. Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa có chức năng hình thành những
con người xã hội chủ nghĩa, kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống và tinh hoa văn
hóa nhân loại, nền văn hóa xã hội chủ nghĩa hướng sự giáo dục của nó vào phát triển
nhân cách, có tinh thần yêu nước trong sáng, có sự phát triển hài hòa giữa đời sống vật
chất và đời sống tinh thần, có đời sống tập thể và cá nhân phong phú. Mục tiêu của văn
hóa xã hội chủ nghĩa là phát triển các giá trị thể chất, giá trị đạo đức, giá trị tri thức, giá
trị thẩm mỹ trong con người một cách nhịp nhàng, cân đối và hài hòa.
1.2.6. Văn hóa được thử thách trong thời gian. Các di sản văn hóa giữ gìn những
gì mà thế hệ trước đã gây dựng nên. Các di sản văn hóa chứa đựng những suy tính,
khát vọng và tài năng của con người trải qua biết bao thăng trầm. Các di sản văn hóa
mang những năng lượng sống. Tính bền vững của văn hóa là yếu tố thiết yếu để duy trì
và điều chỉnh lâu dài các biến động trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là một ký
ức lịch sử có nhiệm vụ giữ gìn các chương trình sáng tạo của những người đi trước.

Mỗi bước phát triển của văn hóa đều có các quá trình phủ định biện chứng. Phát triển
văn hóa không có nghĩa là thay cũ đổi mới. Biện chứng của phát triển văn hóa là giữ
gìn được các giá trị trong những thời kỳ biến động để sao cho mọi sự thay đổi phải
được kế thừa.
1.3. Nền văn hóa:
Nền văn hóa: Là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được
hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế- chính trị của một thời kì lịch sử, trong đó ý
thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết hệ thống các
chính sách, pháp luật quản lí các hoạt động văn hóa.
Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau, đặc
biệt là của giai cấp thống trị, là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác
4


nhau. Mọi nền văn hóa trong xã hội bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản chất
của giai cấp cầm quyền.
Kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa. Một nền kinh tế lành mạnh được xây
dựng trên nguyên tắc công bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là điều kiện
để xây dựng một nền văn hóa tinh thần lành mạnh và ngược lại.
Chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một nền văn hóa, tạo
nên nội dung ý thức của văn hóa. Do đó,nền văn hóa của bất cứ thời kì nào của lịch sử
cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những
giá trị văn hóa mới.
Như vậy,trong xã hội có giai cấp và quan hệ giai cấp, các giai cấp thống trị của
mỗi thời kỳ lịch sử đều in dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo
ra nền văn hóa của xã hội đó, tạo ra những giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển
văn hóa.
2. Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, văn hóa luôn trong quá trình phát triển và
có sự biến đổi không ngừng theo quy luật vận động, phát triển từ thấp đến cao. Sự thay

đổi từ một nền văn hoá này bằng một nền văn hóa khác luôn diễn ra và là một hiện
tượng thường xuyên trong lịch sử xã hội. Sự ra đời của nền văn hóa XHCN là một tất
yếu trong quá trình phát triển của lịch sử.
Nền văn hóa XHCN là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa đã
hình thành .
Chế độ mới XHCN được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị và
tiền đề kinh tế. Từ hai tiền đề này cách mạng XHCN tiếp tục phát triển trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa tinh thần.
Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ
tư tưởng của giai cấp công nhân và do Đảng cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu
không ngừng tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần, trình độ dân trí của nhân dân, đưa
nhân dân lao động thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Như vậy cách mạng XHCN là một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh
vực kinh tế chính trị, văn hóa, xã hội. Chính vì thế Lênin khẳng định sự thay thế nền
văn hóa tư sản bằng nền văn hóa vô sản là một sự thay đổi lớn về tư tưởng “ lịch sử tư
5


tưởng chính là lịch sử của quá trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư
tưởng”. ( Trích V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcova 1980, t.25, tr.131).
3. Đặc trưng của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
Nền văn hóa XHCN có ba đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là: hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ
đạo, quyết định phương hướng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong xã hội có giai cấp, ý thức hệ giai
cấp là nội dung cốt lõi của mọi nền văn hóa. Vì vậy, sau khi giai cấp công nhân trở
thành giai cấp cầm quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống tinh thần của xã hội. Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách
mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân đều nhất định dẫn đến kết cục là không thể xây

dựng được nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất giai cấp công nhân của nên văn hóa XHCN.
Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân
đều nhất định dẫn đến kết cục là không thể xây dựng được nền văn hóa XHCN.
Hai là: nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và
tính dân tộc sâu sắc.
Đặc trưng này thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền
văn hóa XHCN, quá trình xây dựng xã hội mới.
Trong các xã hội cũ giai cấp thống trị bóc lột độc quyền chiếm hữu tư liệu sản
xuất và trên cơ sở đó cũng độc quyền chi phối đời sống tinh thần, nền văn hóa của xã
hội.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt
động sáng tạo và hưởng thụ văn hóa không còn là đặc quyền đặc lợi của thiểu số giai
cấp bóc lột. Giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng
tạo và hưởng thụ văn hóa.
Văn hóa luôn có sự kế thừa. Trong bất kì thời kì nào của lịch sử, văn hóa đều
đồng thời bao gồm việc kế thừa, sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra những giá trị
mới. Sự kế thừa và sáng tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa luôn mang tính giai cấp
công nhân với tư tưởng chính trị tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc.
Đông đảo nhân dân và cả dân tộc là chủ thể của văn hóa. Do đó, nền văn hóa XHCN là
nền văn hóa mang tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
6


Ba là: nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển
một cách tự giác, đặc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức
Đảng cộng sản, có sự quản lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành và phát triển một cách tự phát.
Trái lại, nó phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lí của nhà
nước và có sự lãnh đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Moị sự coi nhẹ hoặc

phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò quản lí của nhà nước đối với
đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ
làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất phương hướng chính trị.
II. Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng triệt để và toàn diện, được triển khai trên
quy mô rộng lớn với những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp, vừa cải tạo XHCN, vừa xây
dựng CNXH trên mọi lĩnh vực cảu đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng văn
hóa. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề
cần chủ ý, cũng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa.
Tính tất yếu của việc thực hiện những biến đối cách mạng trên lĩnh vực văn hóa
là xuất phát từ những căn cứ sau:
1. Tính triệt để ,tính toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải
thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần
phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội chủ nghĩa.
Hệ tư tưởng thường gắn liền với đại diện cho một phương thức sản xuất nhất định.
Cách mạng văn hóa là cần thiết và tất yếu để xây thay đổi phương thức sản xuất tinh
thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần của xã hội phù hợp với phương thức sản
xuất mới.
Cách mạng đã giải phóng được giai cấp công nhân và nhân dân lao động , xác lập
quyền làm chủ của sản xuất và tiêu dùng, sấng tạo và cảm thụ các sản phẩm văn hóa,
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần thực sự của mình, xóa bỏ ảnh hưởng tiêu cực của
đạo đức, lối sống tư sản.
2. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm
lý, ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao
động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng ,ý thức của xã hội cũ lạc hậu.
7


Mặt khác ,xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết

trong việc đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng ,
sáng tạo và hưởng thụ văn hóa tinh thần .
Đó là một nhiệm vụ cơ bản ,phức tạp, lâu dài của quá trình xây dựng nền văn hóa
mới xã hội chủ nghĩa.Về thực chất ,đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh
vực văn hóa,đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng vô sản trong quá trình
phát triển xã hội.
3. Nhằm khắc phục tình trạng thiếu văn hóa ,nâng cao trình độ văn hóa cho
nhân dân lao động,tất yếu phải xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Đó chính là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo
nàn ,lạc hậu ,nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của nhân dân lao động.
4. Xuất phát từ yêu cầu khách quan:văn hóa vừa là mục tiêu,vừa là động lực
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nên xây dựng nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa là tất yếu.
Văn hóa, mà trong đó hệ tư tưởng đóng vai trò cốt lõi, là nền tảng tinh thần của xã
hội, nếu một xã hội không có một nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không
giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì sự
phát triển kinh tế xã hội cũng không thể bền vững và cũng không đạt được mục đích
giải phóng con người và xã hội.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, dân giàu, nước mạnh
xã hội công bằng dân chủ và vản minh, con người phát triển toàn diện.
Chỉ có phát triển văn hóa, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của quần chúng
mới có thể làm cho họ trở thành chủ thể thực sự của xã hội mới. Nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa tạo những tiền đề quan trong nâng cao chất lượng , phẩm chất , học vấn ,
giác ngộ chính trị của quần chúng nhân dân lao động , tạo cơ sở năng suất lao động xã
hội. Văn hóa xã hội chủ nghĩa với nền tảng là hệ tư tưởng giai cấp công nhân trở thành
điều kiện tinh thần của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và là động lực mục tiêu
của chủ nghĩa xã hội .

III. Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
8



1. Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa:
Việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung chính sau đây:
Một là: cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Theo V.I.Lênin, “ Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân
quần chúng nhân dân”. Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về mặt tinh thần,
trí lực, tư tưởng… càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Do đó, nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức mới trở thành nội
dung cơ bản của nền văn hóa XHCN.
Trí tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội.Do đó, nâng cao đân trí, đào tạo nguồn lao động có chất lượng và bồi
dưỡng nhân tài, hình thành và phát triển đội ngũ trí thức là nhu cầu cấp bách, thiết yếu
lâu dài của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
Hai là: xây dựng con người mới phát triển toàn diện.
Con người là sản phẩm của lịch sử, chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra
lịch sử. Vì vậy xã hội muốn phát triển, các giai cấp cầm quyền của mỗi thời kì lịch sử
khác nhau khi đã ý thức về xã hội mà mình tạo dựng, thì trước tiên giai cấp đó phải
quan tâm đến việc xây dựng con người.
Khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, thì việc xây dựng con người
mới đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp xây dựng CNXH trở thành một yêu cầu tất
yếu. Do đó, xây dựng con người mới phát triển toàn diện của xã hội mới là một trong
những nội dung cơ bản của văn hoá vô sản, của nền văn hoá XHCN.
Con người mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển toàn
diện. Đó là con người có tinh thần và năng lực xây dựng thành công CNXH, là con
người lao động mới, là con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc
tế trong sáng, là con người có lối sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao.
Ba là: xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
Lối sống : là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác
nhau; là tổng thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất,

tinh thần xã hội của con người ; là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh tế-xã hội và
có tác động đến hình thái kinh tế xã hội đó.
Lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có tính nguyên tắc của xã hội chủ
nghĩa, việc xây dựng lối sống mới tất yếu trở thành một nội dung của nền văn hoá xã
hội chủ nghĩa. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được hình thành trên những điều kiện cơ
9


bản như: chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nguyên tắc phân phối theo lao động,
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai
cấp, xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc, giới tính, thể hiện công bằng, mở rộng
dân chủ…
Bốn là: xây dựng gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Gia đình là một trong những hình thức tổ chức căn bản trong đời sống cộng đồng
của con người, một thiết chế văn hóa-xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát
triển trên quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục…
giữa các thành viên.
Gia đình là một giá trị văn hoá của xã hội. Văn hoá gia đình luôn gắn bó, tương
tác với văn hoá cộng đồng dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội trong các thời kì. Cách
mạng xã hội chủ nghĩa là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình văn hoá mới. Muốn
xây dựng gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa trước tiên phải xây dựng cơ sở kinh
tế-xã hội của nó.
Gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa phát triển cùng với tiến trình của công cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy xây dựng gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là
một yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó, cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá có tác động trực tiếp và nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ quyết định nhất đến việc xây dựng gia đình văn
hoá mới xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là nhằm góp
phần xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia

đình hoà thuận, hạnh phúc, ổn định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định lành mạnh
của xã hội và ngược lại.
Gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát
triển trên cơ sở giữu gìn và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc,xoá bỏ
những yếu tố lạc hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến,tư
bản chủ nghĩa, đồng thời tiếp thu những những giá trị tiến bộ.
Việc xây dựng gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa trở thành một nội dung quan
trọng của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của nên văn hoá XHCN
so vói các nền văn hoá trước. Có nhiều nội dung cần phải thực hiện trong quá trình xây
dựng gia đình văn hoá mới XHCN. Tuy nhiên, với tính chất cơ bản của gia đình trong
chủ nghĩa xã hội, thì việc xây dựng mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và
10


giữa gia đình với xã hội là nội dung quan trọng nhất.Mối quan hệ trong gia đình là một
bộ phận của quan hệ xã hội, đồng thời là biểu hiện của quan hệ xã hội. Phải tạo dựng
mối qua hệ vợ chồng bình đẳng, thương yêu giúp đỡ nhau về mọi mặt. Bình đẳng,
thương yêu, tôn trọng lẫn nhau là những yếu tố gắn bó mật thiết với nhau trong quan
hệ vợ chồng. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình là
mối quan hệ huyết thống, tình cảm của tình thương thương yêu và trách nhiệm.
2. Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
Để thực hiện được nội dung chính yếu của nền văn hóa XHCN cần thực hiện các
phương thức cơ bản sau đây :
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp
công nhân trong đời sống tinh thần của xã hội.
Phải làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo
trong xã hội. Đây là phương thức quan trọng để xây dựng nền văn hoá XHCN vì nó là
phương thức cơ bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền văn hóa xã hội chủ
nghĩa.truyền bá hệ tư tưởng vào các tầng lớp nhân dân bằng những phương pháp và
hình thức thích hợp

Quá trình tư tưởng diễn ra không ngừng cùng với quá trình sản xuất vật chất.
trong đời sống văn hoá tinh thần, quá trình đó diễn ra với tất cả tính đa dạng, phức tạp
của nó. Chính vì thế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,giai cấp công nhân với
tư cách là giai cấp cầm quyền, phải cố gắng tác động,chi phối các quan hệ tư tưởng,
quá trình tư tưởng nhằm giữ vững, tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp
công nhân của mình trong đời sống tinh thần xã hội.
Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò
quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.
Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước XHCN đối với hoạt động văn
hóa là phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định sự thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng nền văn hóa XHCN .Phương thức này được coi là sự bảo đảm về
chính trị, tư tưởng để nền văn hóa xây dựng trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp
công nhân đi đúng quĩ đạo và mục tiêu xác định.
Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách văn
hóa của mình và sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp
luật, chính sách. Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo nguyên tắc, quan điểm, chủ
trương của Đảng cộng sản.
11


Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết
hợp giữa việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có
chọn lọc những tinh hoa của văn hóa nhân loại.
Nền văn hoá XHCN không hình thành từ hư vô, trái lại nó hình thành trên cơ sở
kế thừa những giá trị văn hoá dân tộcVăn hoá dân tộc là nền móng trên cơ sở đó tiếp
thu tinh hoa văn hoá nhân loại
Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại
với quá trình sản sinh giá trị mới tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữ gìn
và sáng tạo văn hóa. Đây được coi là phương thức nhằm xây dựng nền văn hóa xã hội
chủ nghĩa phong phú, đa dạng.

Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng
tạo văn hóa.
Trong tiến trình cách mạng XHCN cũng như trong sự nghiệp xây dựng CNXH,
nhân dân lao động trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Để phát huy tối đa tính chủ động, sáng tạo của quần chúng, Đảng cộng sản và nhà
nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân
dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.

B. LIÊN HỆ VẤN ĐỀ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM:
I. Sự hình thành nền văn hóa:
1. Mở đầu:
12


Nền văn hóa cổ truyền của người Việt Nam được xây dựng trên vùng địa văn hóa
gió mùa nhiệt đới, bán đảo. Trong cái nôi phát sinh của loài người, người Việt đã trải
qua con người bộ lạc, con người của các mường Đông Nam Á rồi đến con người làng
xã định cư, trồng lúa nước. Trải qua các quá trình hoàn thiện các công cụ lao động từ
nền văn hóa đá cũ, đá mới đến thời đồ đồng, người Việt đã nhảy xuống đồng bằng khai
phá đất đai hoang dại, ẩm thấp, sình lầy, quần cư, từ đó hình thành nên các làng, bản
giống như các cư dân Nam Á khác.
Nền văn hóa cổ truyền của người Việt đã kết tinh nhiều giá trị tốt đẹp. Chẳng hạn:
Tinh thần yêu nước, chủ nghĩa thích ứng, tình cảm vị tha, đức tính hiếu học, cần cù,
tiết kiệm và sáng tạo gắn chặt với cộng đồng làng xã là biểu tượng văn hóa đậm đà bản
sắc Việt Nam. Trong nền văn hóa cổ truyền có sự phát triển ưu trội của các quan hệ
đạo đức. Con người phải có bổn phận với cộng đồng trên là vua, dưới là làng là cha
mẹ, anh em và gia đình. Thiện ác, các tư tưởng bình quân ngấm rất sâu vào văn hóa lao
động, giao tiếp, gia đình và nhân cách mỗi người. Bản chất kinh tế - xã hội của nó thể
hiện lợi ích cộng đồng.
2. Thực trạng nền văn hóa truyền thống VN trước Cách mạng Tháng Tám:

Thực trạng nền văn hóa truyền thống Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám
1945 có những biểu hiện sau:
2.1 Đó là một nền văn hóa theo chủ nghĩa dân tộc chật hẹp. Nền văn hóa truyền
thống đã đạt được những giá trị yêu nước to lớn, song nó phát triển cạnh chủ nghĩa
bành trướng Đại Hán nên cũng trở thành một chủ nghĩa Đại Việt hẹp hòi.
2.2 Đó là một nền văn hóa thiếu hụt một truyền thống khoa học, đặc biệt là khoa
học tự nhiên. Kết cấu giai cấp trong xã hội cổ truyền không những không có giai cấp
đại biểu cho công nghiệp mà còn vắng bóng cả tầng lớp trí thức đại biểu cho khoa học.
Kẻ sĩ trong xã hội truyền thống làm quan (văn, võ) thảo binh thư, quốc pháp, lúc bãi
triều thường làm thầy đồ, thầy thuốc và thầy địa lý để dạy chữ, bốc thuốc chữa bệnh và
trấn an tâm linh cho cộng đồng dân cư. Tư duy lý luận, các khái niệm khoa học,
phương pháp khoa học chưa được coi trọng trong nền văn hóa truyền thống.
2.3 Nền văn hóa truyền thống của người Việt có hai dòng văn hóa rõ rệt. Dòng
văn hóa dân gian, văn hóa đại chúng thường phản ánh các kinh nghiệm sản xuất, tình
cảm yêu thiên nhiên, tình cảm trai gái, trữ tình. Nó không phải là những quan hệ,
khuynh hướng văn hóa chính thống và ưu tiên của xã hội, còn nền văn hóa bác học
thường chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung Quốc.
13


2.4 Văn hóa Trung Hoa và các tư tưởng của hệ tư tưởng Nho-Phật-Lão ảnh
hưởng rất mạnh trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Các tư tưởng này chi phối thiết
chế văn hóa lao động, văn hóa giao tiếp và các quan hệ khác, vừa ảnh hưởng lớn đến
nhân cách làm người đặc biệt là nhân cách kẻ sĩ.
3. Sự vận dụng tư tưởng sáng tạo của Hồ Chí Minh trong xây dựng nền văn
hoá mới:
Năm 1943 với Đề cương về văn hóa Việt Nam của mình, Đảng Cộng sản ra
tuyên ngôn cơ cấu lại nền văn hóa truyền thống theo tư tưởng mácxít. Nhấn mạnh các
tư tưởng của Đảng Cộng sản thể hiện trong Đề cương về văn hóa Việt Nam 1943, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ phương thức cơ cấu lại nền văn hóa truyền thống trong

giai đoạn lịch sử mới của dân tộc. Như đã trình bày trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, ngày 11-2-1951, Hồ Chí Minh viết rằng: “Xúc tiến
công tác văn hóa để đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng chiến
kiến quốc. Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng của văn hóa đế
quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ
những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có
tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”.
Dân tộc Việt Nam hướng tới chủ nghĩa xã hội nếu đúng quy luật và theo quan
điểm về tính hợp lý, cách mạng phải làm hai việc với truyền thống văn hóa:
1- Phát triển các truyền thống tốt đẹp, xác lập một truyền thống văn hóa dân tộc
mới để đảm bảo tính liên tục lịch sử.
2- Hấp thụ những cái mới để nâng văn hóa mới lên một tầm cao mới.
Nội dung xã hội chủ nghĩa trong tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh là phản ánh các
quan hệ mới giữa con người và con người, xác lập một hệ chuẩn giá trị mới mà từ đó
con người sống đúng hơn, tốt hơn, đẹp hơn. Đó là một nền văn hóa trong lao động mỗi
người được cộng đồng tôn trọng và các cá nhân có trách nhiệm với cộng đồng; trong
giao tiếp mọi người sống có đạo đức và tình yêu thương; trong gia đình thì có lễ giáo,
có kỉ cương; mỗi nhân cách đều được phát triển hết năng lực sáng tạo nhưng luôn luôn
tôn trọng cộng đồng.
II. Đặc điểm, tính chất nền văn hóa Việt Nam:
Nội dung tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thể hiện những đặc điểm sau:
14


1. Tính hiện đại: đó là tác phong công nghiệp, khoa học và thực tiễn; đạt trình độ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa của khu vực Đông Nam Á và một số đạt trình độ quốc
tế; sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
2. Tính văn minh: đó là một lối sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng,
có nội dung “nhân đạo, dân chủ, tiến bộ” như “cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội

trong thời kỳ quá độ” đòi hỏi. Theo tinh thần trên thì đặc điểm văn minh được cụ thể
hóa bằng các tính chất: phong phú, đa dạng, dân chủ và tiến bộ tức là công bằng, dân
chủ và bình đẳng.
Nội dung đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa, phát huy các đặc điểm tích
cực của truyền thống dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh.
3. Ý thức tự hào, tôn vinh quốc gia, dân tộc : tức chủ nghĩa yêu nước chân
chính trong cuộc đấu tranh dựng nước nhằm thoát khỏi tình trạng là một trong những
quốc gia nghèo nhất thế giới.
4. Nếp sống cộng đồng tình nghĩa: tối lửa tắt đèn có nhau, giúp đỡ, thăm hỏi
nhau khi gặp hoàn cảnh khó khăn, cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn,…
5. Phong tục tập quán theo hướng thế tục và thuần hậu:
Những đặc điểm nêu trên của nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ dần
dần hiện ra rõ nét nếu chúng ta xây dựng được một chiến lược văn hóa quán xuyến
suốt giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và điều quyết định là
ý tưởng xem văn hóa là nền tảng tinh thần, mục tiêu, động lực công nghiệp hóa, hiện
đại hóa phải được thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực hoạt động của con người từ sản xuất
kinh doanh đến sinh hoạt gia đình, hưởng thụ cá nhân. Đặc biệt, nó phải được thấm sâu
vào tất cả các khâu của quá trình lãnh đạo và quản lý ở các cấp ngành.
III. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam :
1. Những thành tựu đạt được:
Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của vǎn hóa, đã có
những chuyển biến quan trọng.
Chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển
sáng tạo ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và của cách mạng nước ta, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh
thần xã hội phát triển đúng hướng.
15



Ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và
nǎng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét
mới trong giá trị vǎn hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính nǎng động
và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường và nǎng lực cá nhân được khuyến
khích. Không khí dân chủ trong xã hội tǎng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến
thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến,
tưởng nhớ các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân vǎn hóa, đền ơn đáp nghĩa
những người có công, giúp đỡ những người hoạn nạn... trở thành phong trào quần
chúng. Tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng được tôn trọng.
Sự nghiệp giáo dục, khoa học thu được những thành tựu quan trọng, góp
phần nâng cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân, làm tǎng thêm sức mạnh
nội sinh.
 Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại
hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học.
Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu
học; đến giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ
lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm 1980 lên 95% năm
2004.
Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các
huyện và khu vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở
thêm nhiều, các trường dạy nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong trào
khuyến học, khuyến tài được phát động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo dục
ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực hưởng ứng. Nhờ những cố gắng đó mà
nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng. Tính đến giữa năm 2004, 22,5%
số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là 13,3%.
 Khoa học - công nghệ và tiềm lực khoa học - công nghệ có bước phát triển
nhất định.
Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế,
mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y

tế, bưu chính viễn thông...Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được tăng lên.
Nước ta đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh
thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm Khoa học Xã
16


hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học
phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước;
tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ
và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài.
Trên lĩnh vực vǎn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển
mới. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều bộ môn nghệ thuật
truyền thống được gìn giữ. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và
kháng chiến, về công cuộc đổi mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng vǎn hóa
dân gian và vǎn hóa bác học Việt Nam trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho
việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ của
dân tộc. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những kết quả tích cực, khẳng định
mạnh mẽ vǎn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước những quan điểm sai
trái.
Số đông vǎn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có
vốn sống, giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó
khǎn của đời sống vẫn giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ
nhân dân, làm sứ mệnh người nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều vǎn nghệ sĩ tuy tuổi cao, vẫn
tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có nhiều cố gắng tìm tòi cái mới.
Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và
phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất
trong đa dạng. Vǎn học, nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội
ngũ những nhà vǎn hóa người dân tộc thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã
có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các lĩnh vực vǎn học, nghệ thuật.
Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và quy mô, về nội dung và

hình thức, về in, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng
trong đời sống vǎn hóa tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và
quốc tế được thiết lập, tạo khả nǎng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích
phục vụ đông đảo công chúng. Đội ngũ các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng
thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ.
Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng. Chúng ta có dịp
tiếp xúc rộng rãi với những thành tựu vǎn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân
dân các nước những giá trị tốt đẹp, độc đáo của vǎn hóa Việt Nam. Hoạt động giao
lưu, hợp tác quốc tế về văn hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt
17


Nam trên trường quốc tế được nâng cao; văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam
được bạn bè hiểu biết rõ hơn.
Hệ thống thể chế vǎn hóa được xây dựng tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng về cǎn
bản bảo đảm được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Thể chế vǎn
hóa mới khuyến khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng vǎn hóa trên cả
hai mặt sáng tạo và hưởng thụ; giúp đội ngũ vǎn nghệ sĩ chuyên nghiệp làm tốt vai trò
nòng cốt trong việc sáng tạo các giá trị vǎn hóa mới; tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm
vụ giữ gìn và phát huy bản sắc vǎn hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa vǎn hóa
thế giới.
Đảng và Nhà nước đã quan tâm tǎng cường bộ máy tổ chức, ban hành những vǎn
bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành vǎn hóa.
Một bộ phận quan trọng thiết chế vǎn hóa (nhà vǎn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng, thư
viện, cửa hàng sách báo, khu vui chơi giải trí...), gần đây đã có những phương thức
hoạt động mới có hiệu quả.
2. Những mặt hạn chế:
2.1. Về nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống.
Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động,
hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội

hiện thực trên thế giới, phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ
nhận lịch sử cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không ít người còn mơ
hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ
chế độ ta.
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối
sống thực dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc.
Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan
hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại
dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tǎng. Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục
cũ và mới lan tràn, nhât là trong việc cưới, việc tang, lễ hội...
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ
cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng
tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ǎn chơi sa đọa không được ngǎn chặn có hiệu
quả. Hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa

18


phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân
dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà nước.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng
như sự suy thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp;
lối sống thiếu lý tưởng, hoài bão, ǎn chơi, nghiện ma túy... ở một bộ phận học sinh,
sinh viên; việc coi nhẹ giáo dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học
xã hội và nhân vǎn.
2.2 .Đời sống vǎn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập.
Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến
vĩ đại của dân tộc và thành quả của đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc
đã nảy sinh khuynh hướng phủ nhận thành tựu vǎn học cách mạng và kháng chiến, đối
lập vǎn nghệ với chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về

kháng chiến đã không phân biệt chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa. Xu
hướng "thương mại hóa", chiều theo những thị hiếu thấp kém, làm cho chức nǎng giáo
dục tư tưởng và thẩm mỹ của vǎn học, nghệ thuật bị suy giảm.
Nghị quyết 04 của Trung ương (khóa VII) về vǎn hóa - vǎn nghệ được đại bộ
phận vǎn nghệ sĩ đồng tình. Một số có nhận thức lệch lạc đã trở lại với cái đúng; các
khuynh hướng xấu từng bước bị đẩy lùi. Tuy vậy, một số quan điểm sai trái vẫn xuất
hiện. Các loại vǎn hóa phẩm độc hại vẫn còn xâm nhập vào xã hội và các gia đình.
Nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ǎn, khách sạn, sàn nhảy mở tràn lan, chạy theo đồng
tiền, hoạt động tùy tiện, không tuân thủ những quy định của pháp luật; các cơ quan
quản lý nhà nước không có biện pháp hữu hiệu để xử lý.
Tiềm lực đội ngũ sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình về vǎn học nghệ thuật
còn yếu. Nhà nước chậm ban hành các chính sách để phát huy những nǎng lực hiện có.
Một số ngành nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp
rất nhiều khó khǎn. Việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh
niên, thiếu niên, nhi đồng, học sinh chưa được coi trọng.
Lãnh đạo quản lý trong xuất bản vǎn học, nghệ thuật còn nhiều sơ hở. Thiếu sự
đầu tư trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn và
phát triển những ngành nghệ thuật truyền thống.
2.3.Về thông tin đại chúng: còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời
phát hiện và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu dương
đúng mức những điển hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê phán kịp
19


thời những việc làm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức
xã hội. Không ít trường hợp thông tin thiếu chính xác, làm lộ bí mật quốc gia. Khuynh
hướng "thương mại hóa", lạm dụng quảng cáo để thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít
nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu trung thực, gây tác động xấu
đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời theo pháp luật.
2.4.Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở.

Số vǎn hóa phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong
khi đó, số tác phẩm vǎn hóa có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít.
Lực lượng hoạt động vǎn hóa - vǎn nghệ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước
ngoài hiện nay không nhỏ, đã có những công trình nghiên cứu, tác phẩm vǎn học, nghệ
thuật tốt hướng về Tổ quốc. Song chúng ta còn thiếu những biện pháp tích cực giúp
đồng bào tìm hiểu sâu vǎn hóa dân tộc, liên hệ mật thiết với quê nhà, góp phần đấu
tranh với những hoạt động chống phá đối với Tổ quốc.
2.5.Việc xây dựng thể chế vǎn hóa còn chậm và nhiều thiếu sót.
Chính sách xã hội hóa các hoạt động vǎn hóa chậm được ban hành. Bộ máy tổ
chức ngành vǎn hóa chưa được sắp xếp hợp lý để phát huy cao hơn hiệu lực lãnh đạo
và quản lý.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý vǎn hóa chưa đáp ứng yêu
cầu, còn hẫng hụt cán bộ vǎn hóa ở các vị trí quan trọng.
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển vǎn hóa còn
chưa rõ. Hệ thống các thiết chế vǎn hóa cần thiết nói chung bị xuống cấp và sử dụng
kém hiệu quả. Ở nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số, vùng cǎn cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống vǎn hóa còn
quá nghèo nàn.
3. Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế:
Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng vǎn hóa một mặt chứng tỏ đường lối
và chính sách của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định
hướng đúng đắn cho sự phát triển đời sống vǎn hóa xã hội; mặt khác đó là kết quả của
sự tham gia tích cực của nhân dân và những nỗ lực to lớn của các lực lượng hoạt động
trên lĩnh vực vǎn hóa.
Tuy nhiên những mặt chưa được còn nhiều, thậm chí có mặt nghiêm trọng, nhất là
trong lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Nguyên nhân của tình trạng yếu kém đó là:
Về nguyên nhân khách quan:
20



Trước hết, sự sụp đổ ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã gây
xáo động lớn về tư tưởng, tình cảm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bên cạnh đó, do sự mở cửa hội nhập, các thế lực thù địch tìm mọi cách tiến hành
âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa rất
quyết liệt. Cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực đối
với văn hóa rất rõ. Và nước ta còn nghèo, nhu cầu về văn hóa của người dân là rất lớn.
Nhà nước mong đầu tư cao hơn cho văn hóa nhưng ngân sách không cho phép.
Mặc dù hội nhập quốc tế là tất yếu, đã mang lại những giá trị văn hóa bổ sung cho
bản sắc văn hóa dân tộc của chúng ta như đã nói ở trên. Nhưng nó cũng có mặt trái, đó
là xu thế đòi “thống nhất văn hóa” toàn cầu, thực chất là sự áp đặt những giá trị văn hóa
của các nước lớn, nước giàu, dễ dẫn đến mất dần đi bản sắc văn hóa truyền thống của
dân tộc mình, rất dễ bị lai căng, mất gốc. Hội nhập kinh tế với các nước lớn, không khéo
sẽ bị động trong việc ngăn ngừa những lối sống tư bản không tốt của các nước đó.
Về nguyên nhân chủ quan:
Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng chưa lường hết những tác
động tiêu cực nói trên, từ đó chưa đặt đúng vị trí của vǎn hóa, chưa coi trọng công tác
giáo dục về tư tưởng, đạo đức và lối sống, thiếu các biện pháp cần thiết trên cả hai mặt
"xây" và "chống" trên lĩnh vực vǎn hóa. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ
nhiều vấn đề có liên quan đến vǎn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định
những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các
mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, vǎn hóa và chính trị,
vǎn hóa và kinh tế... Chưa xây dựng được chiến lược phát triển vǎn hóa song song với
chiến lược phát triển kinh tế.
Việc xử lý những phần tử thoái hóa biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước
chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ đảng. Nội dung
giáo dục tư tưởng, chính trị trong sinh hoạt đảng và các đoàn thể rất yếu. Những điều
đó làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, nhưng Trung ương và Bộ
Chính trị, Chính phủ chưa có những biện pháp khắc phục hữu hiệu.
Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh.
Trong hoạt động kinh tế, chưa chú ý đến các yếu tố vǎn hóa, các yêu cầu phát triển vǎn

hóa tương ứng. Mức đầu tư ngân sách cho vǎn hóa còn thấp. Chính sách đào tạo, bồi
dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ làm công tác vǎn hóa còn nhiều bất hợp lý. Những

21


lệch lạc và việc làm sai trái trong vǎn hóa, vǎn nghệ chưa được kịp thời phát hiện, việc
xử lý bị buông trôi hoặc có khi lại dùng những biện pháp hành chính không thích hợp.
Đặc biệt, chưa xây dựng được phong trào “quần chúng xây dựng nếp sống văn
hóa, bảo vệ truyền thống văn hóa dân tộc”; Chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội
lực của nhân dân; chưa tạo được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham gia phát triển
vǎn hóa, xây dựng nếp sống vǎn minh, bảo vệ vǎn hóa dân tộc. Chưa coi trọng bồi
dưỡng, giáo dục và phát huy khả nǎng của tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ
yếu của hoạt động vǎn hóa.
Tóm lại, văn hóa Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi nhưng nguy cơ và
thử thách cũng nhiều. Làm sao giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề
khó khăn. Vì vậy, cần có những phương hướng, giải pháp đúng đắn để nền văn hóa
Việt Nam trở thành động lực, mục tiêu, góp phần vào sự phát triển của đất nước trong
công cuộc hiện nay.

IV. Phương hướng và giải pháp xây dựng :
1. Phương hướng:
1.1. Phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tại các hội nghị TW Đảng:.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam cho đén nay Đảng ta đã xây dựng
được một hệ quan điểm khá vững chắc về văn hóa và xây dựng nền văn hóa XHCN.
Điều này thể hiện qua những văn kiện quan trọng sau đây:
- Năm 1943 : “Đề cương văn hóa Việt Nam” đã xác định 3 phương châm: Dân
tộc, khoa học và đại chúng, trong đó có nguyên tắc “đại chúng” tức là tính nhân dân
được coi là phương châm quan trọng nhất để phát triển văn hóa. Trong đó, Đảng ta
khẳng định nhân dân là người sáng tạo và hưởng thụ văn hóa và văn hóa chỉ phát triển

mạnh mẽ trong nhân dân và thông qua nhân dân.
- Năm 1948 : Báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam “đã xác định hệ tư
tưởng của nền văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin và từ đại hôi VIII là chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Từ Đại hội II (1951), Đảng ta xác định nội dung XHCN của nền văn hóa mới
đang xây dựng ở Việt Nam. Đại hội V (1982) đã chỉ rõ nền văn hóa mới là nền văn hóa
có nội dung XHCN và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm
nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Cùng với việc xác định đầy đủ
nội dung của nền văn hóa mới, lần đầu tiên tại Đại hội V, Đảng ta trình bày khái niệm
22


“con người mới XHCN” và “lối sống XHCN”, đồng thời đưa ra phương châm “Nhà
nước và nhân dân cùng làm” văn hóa”.
- Đại hội VI : dành phần lớn tâm sức vào việc đổi mới kinh tế cho nên vấn đề văn
hóa chỉ được chú ý vừa phải. Đại hội VII của Đảng (1991) xác định rõ 2 đặc trưng của
nền văn hóa mới là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Còn các Đại hội trước đó
thường xác định nền văn hóa mới “có nội dung XHCN và hình thức dân tộc” (Đại hội
III) hoặc “nội dung XHCN và tính chất dân tộc” (Đại hội IV, V, VI). Cương lĩnh xây
dựng XHCN trong thời kỳ quá dộ được thông qua tại Đại hội đòi hỏi nền văn hóa mới
có nội dung nhân đạo, dân chủ và tiến bộ “nhằm tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp,
phong phú và đa dạng”. Hiến pháp năm 1992 thì xác định ba đặc điểm quan trọng của
nền văn hóa mới là: dân tộc, hiện đại, và nhân văn.
- Đại hội VII : Nghị quyết hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương
khoá VII, đã khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực phát triển kinh tế xã hội". Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 09 về
các định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay, xác định văn hoá là nền tảng tinh
thần của xã hội, là động lực thúc đẩy sự phát triển, là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã
hội. Trong 6 định hướng về công tác tư tưởng, có một định hướng lớn là phát triển văn
hoá với hai nội dung cơ bản: phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn

hoá nhân loại. Điều đó chứng tỏ quan điểm đúng đắn về văn hoá và vai trò của văn hoá
đối với phát triển.
- Đại hội lần thứ XIII: Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta chủ trương
“xây dựng nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (Nghị Quyết
TW5, khoá VIII, năm 1998). Nền văn hoá đó được xây dựng trên cơ sở kiên định Chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tinh thần chủ đạo là chủ nghiã yêu
nước Việt Nam; nhấn mạnh vai trò, chức năng quan trọng của văn hoá đối với sự tồn
tại và phát triển xã hội ngày nay; văn hoá vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu và
động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Phải nhận thức rõ nền văn hoá Việt Nam là
nền văn hoá thống nhất và đa dạng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, cho nên cần
phát huy và bảo tồn từng bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Phải thấm nhuần quan điểm
xây dựng văn hoá là sự nghiệp của toàn dân trong đó đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo
có vai trò quan trọng. Văn hoá là một mặt trận, xây dựng văn hoá là sự nghiệp cách
mạng lâu dài cần phải có ý chí cách mạng đồng thời phải kiên định và thận trọng, kết
hợp giữa xây với chống và lấy xây làm chính
23


- Đại hội lần thứ IX: Trên cơ sở thực trạng văn hoá nước ta mà Hội nghị TW5
(khoá VIII) đã đánh giá, Hội nghị TW10 (khoá IX) tiếp tục khẳng định: Văn hoá đã
gắn kết chặt chẽ hơn với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã góp phần quan trọng vào
việc giữ vững ổn định chính trị và tạo nên những thành tựu về kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng, đối ngoại… của đất nước. Đã có sự tham gia tích cực, tự giác của nhân
dân vào các hoạt động văn hoá, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống VH” đã tạo được chuyển biến bước đầu và tiền đề rất quan trọng để văn
hoá nước nhà tiếp tục phát triển đúng hướng và vững chắc. Để đạt được kết quả bước
đầu đó, chính là nhờ toàn Đảng, toàn dân ta đã không ngừng học tập, thấm nhuần tư
tưởng và những căn dặn trong Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Về phương hướng, hội nghị đã nhấn mạnh ba cái mới:

Thứ nhất là đặt lại vị trí văn hóa nước ta, xác định văn hóa phải gắn kết chặt chẽ
và phát triển đồng bộ với kinh tế và xây dựng Đảng để hình thành ba trụ cột bảo đảm
phát triển bền vững.
Thứ hai là tăng đầu tư cho văn hóa, đạt ít nhất 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước
cho đến năm 2010
Thứ ba là vấn đề văn hóa trong Đảng, phải gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa với
xây dựng chỉnh đốn Đảng. Đảng đối xử với nhau, với dân và với công việc đất nước
phải thật văn hóa và kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những kẻ tha hóa, biến chất.
1.2. Phương hướng xây dựng nền văn hóa XHCN ở Việt Nam:
1.2.1. Về nội dung: cơ bản là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại
đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường,… xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.2.2. Về yêu cầu của sự tác động vào xã hội: là làm cho văn hóa thấm sâu vào
toàn bộ hoạt động đời sống xã hội của từng người, từng gia đình, tập thể và cộng đồng,
từng địa bàn dân cư và mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ của con người.
1.2.3. Về mục tiêu: thời đại ngày nay khi sự giao lưu kinh tế và văn hóa phát triển
mạnh mẽ ở khắp các châu lục thì việc xây dựng nền văn hóa không thể khép kín trong
mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Nhất định sẽ có sự tác động qua lại giữa các nền văn hóa
của các dân tộc. Sự tác động dẫn đến hai hệ quả khác nhau. Nếu biết tiếp thu có chọn
lọc, nghĩa là tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại thì càng làm tăng thêm, làm
24


giàu bản sắc văn hóa dân tộc. Ngược lại, nếu tiếp thu không chọn lọc sẽ làm mai một
bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi vậy, việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với việc
tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là hai mặt của một thể thống nhất. Chính vì vậy,
Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu xây dựng nền văn hóa mới của chúng ta là xây dựng
một xã hội “có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
2.Giải pháp thực hiện:

Để đạt được những phương hướng và mục tiêu đó, chúng ta cần tập trung thực
hiện các giải pháp chủ yếu sau:
2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa coi sự nghiệp
văn hóa là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân; xem đầu tư cho văn hóa là đầu
tư cho con người và cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững.
Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã
hội; xây dựng và phát triển văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy kinh tế –
xã hội phát triển là những quan điểm lớn, mang tầm chiến lược lâu dài, chỉ đạo toàn bộ
quá trình xây dựng đời sống văn hóa tinh thần của đất nước ta. Xây dựng và phát triển
văn hóa chính là phát huy nguồn lực con người – nguồn nội lực lớn nhất và quyết định
nhất của đất nước ta để phát triển kinh tế – xã hội bền vững. Nhận thức về vị trí, vai
trò, tầm quan trọng của văn hóa phải được thể hiện trong nội dung quy hoạch và phát
triển kinh tế – xã hội của đất nước, của từng cấp ngành, từng lĩnh vực và địa phương;
trong việc phân bổ ngân sách để giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc và
xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa, công trình văn hóa mới; trong việc thực
hiện chính sách bồi dưỡng, phát huy các tài năng văn hóa nghệ thuật; trong việc nâng
cao mức hưởng thụ và năng lực sáng tạo văn hóa của nhân dân.
2.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước là một trong những nhiệm vụ đặc
biệt quan trọng của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa nghệ thuật, tạo điều
kiện thuận lợi cho mọi người hưởng thụ, tham gia hoạt động và sáng tạo văn hóa;
ngăn chặn có hiệu quả những sản phẩm văn hóa nghệ thuật độc hại, các tệ nạn xã
hội xâm nhập vào đời sống xã hội.
Nhanh chóng tăng cường nguồn lực và cơ sở vật chất – kỹ thuật cho hoạt động
văn hóa. Đặc biệt coi trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực và các tài năng văn hóa
nghệ thuật. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tri thức văn hóa cho dân tộc thiểu
số, có chế độ ưu đãi khuyến khích họ trở về địa phương công tác. Nâng mức đầu tư và
kinh phí cho sự nghiệp văn hóa thông tin phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành và
25



×