Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Công tác thanh tra về việc thực hiện pháp luật lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.75 KB, 26 trang )

Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

LỜI NÓI ĐẦU
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cùng với những chích sách đổi mới
về tăng trưởng kinh tế, tăng cường củng cố quan hệ ngoại giao, đến nay đất
nước ta đã và đang trên con đường phát triển hội nhâp với các nền kinh tế trên
thế giới. Đi đôi với việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã mở ra
cho đất nước ta một sân chơi mới, ở đó chúng ta phải khẳng định vị thế của
mình trên trường quốc tế. Bởi ở đây là sân chơi chung, luật chung, ai mạnh
người đó thắng và phải chơi đúng luật. Đến nay, sau 6 năm tham gia sân chơi
những thành quả mà hội nhập mang lại cho nền kinh tế Việt Nam hết sức to lớn.
Tuy nhiên kèm theo đó là những thách thức, những tồn tại về cơ chế buộc chúng
ta phải thay đổi cho phù hợp với các chính sách chung.
Trên quan điểm đó hệ thống pháp luật Việt Nam đã từng bước được điều
chỉnh để tạo điều kiện tốt nhất cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước có một
môi trường đầu tư ổn định, cạnh tranh lành mạnh. Từ những bước đi đúng
hướng với chính sách mở cửa hợp lý, môi trường đầu tư được cải thiện làm cho
số lượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong thời gian qua,
góp phần to lớn vào sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Bên cạnh những mặt
đạt được thì hiện nay còn tồn tại một vấn đề rất lớn đó là tình trạng các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vi phạm Pháp luật lao động Việt Nam, vi phạm
quyền lợi hợp pháp chính đáng của các bên trong quan hệ lao động, làm mất đi
tính nghiêm minh của pháp luật, anh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư.
Trước những thực trạng trên em đã chọn đề tài: “Công tác thanh tra về việc
thực hiện pháp luật lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài” làm đề tài nghiên cứu.
Chuyên đề này được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận cơ bản từ quá trình tìm
hiểu thông tin, tài liệu từ nhiều nguồn, các văn bản quy phạm pháp luật và các
kiến thức em đã được học. Trong quá trình hoàn thiện chuyên đề do những điều


kiện khách quan cũng như vốn hiểu biết vấn đề còn nhiều hạn chế nên trong bài
viết không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong có được những góp ý
quý báu của thầy cô.

1


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I.

1.

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC THANH TRA

Khái niệm thanh tra

Thanh tra là là sự xem xét, đánh giá và xử lý việc thực hiện pháp luật của các tổ
chức, cá nhân do tổ chức, người có thẩm quyền thực hiện theo trình tự pháp luật
quy định nhằm phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước, bảo vệ lợi ích nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp và tổ
chức, cá nhân khác.
2.

Mục đích thanh tra


Phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Đây là mục
tiêu chủ yếu, trực tiếp của hoạt động thanh tra.
Phát hiện các vi phạm pháp luật cũng là một mục tiêu quan trọng của hoạt
động thanh tra.
Phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục.
Phát huy nhân tố tích cực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
quản lý nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.
3.

Nguyên tắc hoạt động thanh tra

Theo Điều 5 Luật thanh tra quy định:
- Hoạt động thanh tra phải tuân theo pháp luật
- Bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời
- Không làm cản trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân
là đối tượng thanh tra.

4.

Vai trò của công tác thanh tra

Thanh tra là nội dung không thể thiếu của quản lý nhà nước, là một giai
đoạn trong chu trình quản lý, có vai trò kiểm định, đánh giá hiệu quả của quản lý
nhà nước.
2


Chuyên đề Thanh tra Lao động


Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

Thanh tra có sứ mạng tìm ra các kiến nghị nhằm khắc phục kịp thời những
sơ hở, yếu kém, đề xuất những biện pháp đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý,
sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm quản lý tốt hơn, hiệu quả hơn. Chính vì vậy
trong hoạt động quản lý nhà nước phải có thanh tra và thanh tra phải phục vụ
cho yêu cầu quản lý nhà nước.
Thanh tra là phương thức bảo đảm trật tự, kỷ cương trong quản lý, góp
phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Hoạt động thanh tra còn được hiểu là việc chính chủ thể quản lý tự kiểm
tra, xem xét, đánh giá, kiểm nghiệm chủ trương, chính sách của mình, đồng thời
xem xét, kiểm tra việc triển khai thực hiện của các cơ quan, cá nhân có trách
nhiệm trong hệ thống cơ quan quản lý. Hoạt động thanh tra góp phẩn bảo đảm
quyền dân chủ của nhân dân.
Thanh tra không chỉ là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước
mà còn là nhu cầu khách quan của nhân dân, của xã hội.

5.

Các loại hình thanh tra

Thanh tra Nhà nước là việc xem xét, đánh giá, xử lý của cơ quan quản lý
Nhà nước đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm cụ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự quản lý theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định
trong Luật này và các quy định khác của pháp luật. Thanh tra nhà nước bao gồm
thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước
theo cấp hành chính đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp.

Thanh tra chuyên ngành là hoạt động thanh tra của cơ quan quản lý nhà
nước theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp
hành pháp luật, những quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý của
ngành, lĩnh vực thuộc thẩm quyền quản lý.
Thanh tra nhân dân là hình thức giám sát của nhân dân thông qua Ban
thanh tra nhân dân đối với việc thực hiện chính sách, pháp luật, việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo, việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có trách nhiệm ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp nhà nước.

3


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

Công tác thanh tra về việc thực hiện vi phạm pháp luật là do thanh tra
chuyên ngành lao động thực hiện.
II.
1.

NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA THANH TRA LAO ĐỘNG

Những quy định chung về Thanh tra lao động

- Điều 185 Bộ luật Lao động quy định: Thanh tra nhà nước về lao động có
chức năng thanh tra chính sách lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và cơ quan quản lý nhà nước về
lao động địa phương thực hiện thanh tra nhà nước về lao động.

- Theo quy định tại Điều 1 Quyết định số 47/QĐ-TTr ngày 27/5/2008 của Thanh
tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định: “Phòng thanh tra chích sách
lao động là phòng nghiệp vụ thuộc Thanh tra Bộ, giúp Chánh thanh tra Bộ thực
hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về chính sách lao động theo quy định
của pháp luật lao động trong phạm vi cả nước; Thanh tra việc đưa lao động đi
làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng”
Căn cứ vào nghị định số 31/2006/NĐ/CP ngày 29/03/2006 về tổ chức và
hoạt động của thanh tra lao động.
2.

Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra lao động

2.1. Vị trí và chức năng
Thanh tra Lao động là tổ chức thanh tra thuộc ngành lao động, thương binh
và xã hội; ở Trung ương có Thanh tra Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
Thanh tra Tổng cục Dạy nghề; ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Thanh
tra Sở Lao động - Thương binh và Xã hội; thực hiện chức năng thanh tra hành chính
và thanh tra chuyên ngành về lao động trong phạm vi quản lý nhà nước theo quy
định của pháp luật.
2.2. Đối tượng thanh tra
Cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản
lý nhà nước về lao động, thương binh và xã hội.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động theo quy định của Bộ luật
Lao động.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thuộc lĩnh vực dạy nghề,
người có công và xã hội trong phạm vi cả nước.
4


Chuyên đề Thanh tra Lao động


Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

Trong trường hợp Điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác với Nghị định này thì áp dụng Điều
ước quốc tế đó.
2.3. Nguyên tắc hoạt động
Hoạt động của Thanh tra Lao động phải tuân theo pháp luật; bảo đảm chính
xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ và kịp thời; không làm cản trở
hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng thanh tra.
Khi tiến hành thanh tra, người ra quyết định thanh tra, Chánh Thanh tra,
Trưởng đoàn thanh tra, Thanh tra viên, thành viên Đoàn thanh tra phải thực hiện
các quy định về pháp luật công tác thanh tra, pháp luật khác có liên quan và phải
chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình.
2.4. Mối quan hệ công tác
Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội hoạt động dưới sự quản lý,
chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về lao động, thương
binh và xã hội cùng cấp và sự chỉ đạo về công tác, tổ chức và nghiệp vụ thanh
tra của cơ quan thanh tra cấp trên.
Thanh tra Bộ chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ
chức và nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ theo quy định của pháp luật;
Thanh tra Tổng cục Dạy nghề chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Tổng
cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công
tác, tổ chức, nghiệp vụ thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành của
Thanh tra Bộ;
Thanh tra Sở chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Giám đốc Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội (sau đây gọi tắt là Giám đốc Sở), đồng thời chịu sự chỉ
đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp vụ thanh tra hành chính của
Thanh tra cấp tỉnh và hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành
của Thanh tra Bộ.

Thanh tra Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Thanh tra các
Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở địa
phương trong quá trình thanh tra các vấn đề liên quan đến công tác lao động,
thương binh và xã hội để tránh chồng chéo và nâng cao hiệu quả thanh tra, kiểm
tra, phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật.
5


Chuyên đề Thanh tra Lao động
3.

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

Tổ chức của Thanh tra Lao động

3.1. Tổ chức của Thanh tra lao động
– Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có Thanh tra Bộ (sau đây gọi tắt là
Thanh tra Bộ) và Thanh tra Tổng cục Dạy nghề.
– Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương có Thanh tra Sở (sau đây gọi tắt là Thanh tra Sở).
– Tổ chức thanh tra quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều này có con dấu và tài
khoản riêng.
3.2. Tổ chức của Thanh tra Bộ
– Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giúp Bộ
trưởng quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện chức năng thanh tra
hành chính đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của Bộ
trưởng về việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đơn vị; thanh tra
chuyên ngành đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực lao
động, thương binh và xã hội trên phạm vi cả nước.
– Thanh tra Bộ có Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên.

Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra
viên thực hiện theo quy định của pháp luật.
– Thanh tra Bộ được tổ chức cấp phòng; Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và biên
chế của Thanh tra Bộ.
3.3. Tổ chức của Thanh tra Tổng cục Dạy nghề
– Thanh tra Tổng cục Dạy nghề là cơ quan của Tổng cục Dạy nghề; thực hiện
chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản
lý nhà nước của Tổng cục Dạy nghề.
– Thanh tra Tổng cục Dạy nghề có Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và
Thanh tra viên.
– Chánh Thanh tra Tổng cục Dạy nghề do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức theo đề nghị của Tổng cục
trưởng Tổng cục Dạy nghề, sau khi thống nhất ý kiến với Chánh Thanh tra Bộ.

6


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

– Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Chánh Thanh tra Tổng cục Dạy
nghề thực hiện theo quy định của pháp luật và phân cấp quản lý cán bộ.
– Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm chức danh Thanh tra viên thực hiện theo quy
định của pháp luật.
3.4. Tổ chức của Thanh tra Sở
– Thanh tra Sở là cơ quan của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội giúp
Giám đốc Sở thực hiện chức năng thanh tra hành chính đối với các cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của Giám đốc Sở về việc thực hiện chính

sách, pháp luật, nhiệm vụ của đơn vị; thanh tra chuyên ngành đối với các cơ
quan, tổ chức, cá nhân thuộc lĩnh vực lao động, thương binh và xã hội trên địa
bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
– Thanh tra Sở có Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra viên.
Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh thanh tra, Phó Chánh thanh tra và Thanh tra
viên thực hiện theo quy định của pháp luật.Giám đốc Sở quy định cụ thể về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và biên chế của Thanh tra Sở.
3.5. Thanh tra viên Lao động
– Thanh tra viên Lao động là công chức nhà nước, được bổ nhiệm vào ngạch
thanh tra để thực hiện thanh tra hành chính; thanh tra chuyên ngành về lao động,
thương binh và xã hội.
– Thanh tra viên Lao động thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại
Điều 50 và Điều 51 Luật Thanh tra; Điều 186 và Điều 187 Bộ luật Lao động.
– Ngoài những quy định chung về điều kiện, tiêu chuẩn của ngạch thanh tra,
Thanh tra viên Lao động phải đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn khác phù hợp
với ngành, lĩnh vực theo quy định của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội.
– Bộ trưởng Bộ Lao động quy định cụ thể chức danh, điều kiện, tiêu chuẩn,
nghiệp vụ của ngạch Thanh tra viên Lao động ; trình tự cấp, thu hồi thẻ Thanh
tra viên Lao động.
– Việc tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm và cấp thẻ Thanh tra viên Lao
động theo quy định của pháp luật.
3.6. Cộng tác viên Thanh tra
7


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1


– Cộng tác viên Thanh tra là người được trưng tập làm nhiệm vụ thanh tra
theo yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Chánh Thanh
tra Bộ; Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, Chánh Thanh tra Tổng cục Dạy nghề;
Giám đốc Sở, Chánh Thanh tra sở để thực hiện nhiệm vụ thanh tra về lao động,
thương binh và xã hội.


Cộng tác viên thanh tra phải có đủ các tiêu chuẩn sau đây:

+ Có phẩm chất đạo đức tốt, có ý thức trách nhiệm, liêm khiết, trung thực,
công minh, khách quan;
+ Có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp với nhiệm vụ thanh tra về lao
động, thương binh và xã hội;
+ Có kiến thức pháp luật và kiến thức về lao động, thương binh và xã hội theo
quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.
– Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành Quy chế cộng
tác viên thanh tra lao động
4.

Hoạt động của Thanh tra lao động

4.1. Hoạt động Thanh tra hành chính
Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của cơ quan, tổ
chức, cá nhân thuộc quyền quản lý của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội, Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề, Giám đốc Sở.
4.2. Hoạt động của Thanh tra Chuyên ngành
Thanh tra đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân về việc thực hiện chính sách,
pháp luật của Nhà nước trong các lĩnh vực:
– Lao động, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, xuất khẩu lao động, an
toàn lao động, vệ sinh lao động, dạy nghề.



Ưu đãi người có công với cách mạng.



Phòng chống tệ tạn xã hội, bảo trợ xã hội.



Các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật.

5.

Hình thức Thanh tra

– Thanh tra được thực hiện với hình thức thanh tra theo chương trình, kế
hoạch và thanh tra đột xuất.
8


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

– Thanh tra theo chương trình, kế hoạch sau khi được Bộ trưởng Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Tổng cục trưởng Tổng cục Dạy nghề hoặc Giám
đốc Sở phê duyệt.
– Thanh tra đột xuất được tiến hành khi phát hiện cơ quan, tổ chức, cá nhân
có dấu hiệu vi phạm pháp luật; theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo

hoặc do Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền giao.
6.

Phương thức hoạt động thanh tra

– Việc thanh tra được thực hiện theo phương thức Đoàn Thanh tra hoặc thanh
tra độc lập.
– Đoàn Thanh tra và Thanh tra viên hoạt động theo quy định của pháp luật về
thanh tra và pháp luật khác có liên quan.
7.

Kinh phí hoạt động

Kinh phí hoạt động của Thanh tra lao động, thương binh và xã hội do
ngân sách nhà nước cấp và nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật.
Việc cấp phát, quản lý kinh phí thực hiện theo Luật Ngân sách nhà nước
và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.
III.

ĐẶC ĐIỂM CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI

Hiện nay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài so với doanh nghiệp Nhà
nước hay doanh nghiệp ngoài quộc doanh, tư nhân vẫn có những phân biệt đáng
kể về quyền lợi và nghĩa vụ. Theo Luật đầu tư của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp được thành lập bởi đầu tư nước ngoài để
thực hiện hoạt động đầu tư tai Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua cổ
phiếu, sát nhập mua lại, thành lập công ty nước ngoài, công ty liên doanh, văn
phòng đại diện... Trên nhiều phương diện hoạt động đầu tư vốn sản xuất, ngày
càng xuất hiện nhiều công ty nước ngoài hiện đã và đang làm ăn trên lãnh thổ

Việt Nam. Bên cạnh những mặt tích cực mà doanh nghiệp mang lại như: tạo
công ăn việc làm cho người lao động, tạo nguồn lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, mở rộng hội nhập, chuyển giao khoa học kỹ thuật, tận dụng được tối đa
những cơ hội về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong nước…

9


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

Tuy vậy, bên cạnh những mặt tích cực thì ở môi trường kinh doanh này còn
tồn tại những hạn chế rất lớn về thực hiện chính sách pháp luật của Việt Nam
đối với người lao động như: Chốn tránh việc đóng BHXH cho người lao động
dẫn đến tình trạng nợ đọng BHXH ở khu vực này là rất đáng báo động, phần lớn
các doanh nghiệp nợ tiền BHXH không phải vì làm ăn thua lỗ mà họ cố tình
chiếm dụng vốn. Họ tiếp tục dùng khoản tiền chiếm dụng đó để tái đầu tư hoặc
gửi vào ngân hàng để sinh lãi tạo ra lợi nhuận cho họ. Tình trạng vi phạm các
quy định của pháp luật lao động về hợp đồng lao động, công tác bảo hộ lao
động, thỏa ước lao động cũng thường xuyên xẩy ra. Một mặt là do họ chưa được
tìm hiểu cụ thể về PLLĐ Việt Nam, nhưng đa phần là do doanh nghiệp cố tình
vi phạm để tránh những tốn kém và đem lại lợi ích cho họ. Ngoài ra những vấn
đề về đảm bảo việc làm, tiền lương, điều kiện lao động, xây dựng nội quy, tạo
điều kiện để thành lập công đoàn cũng không được quan tâm. Doanh nghiệp
chưa xây dựng thang bảng lương công bố công khai trong doanh nghiệp, các chế
độ thưởng và phúc lợi khác cũng chưa được quan tâm thỏa đáng…
Từ những tồn tại trên buộc cơ quan thanh tra chuyên ngành về lao động các
cấp trong phạm vi cả nước phải tích cực vào cuộc. Công tác thanh tra cần thiết
phải được thắt chặt nhằm nâng cao ý thức chấp hành pháp luật lao động, đồng

thời phát huy và khai thác hiệu qủa những lợi thế từ các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
IV.

NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG
Pháp luật lao động có một số nội dung cơ bản sau:
• Thoả ước lao động tập thể
• Hợp đồng lao động
• Tiền lương
• Thời giờ làm việc - thời giờ nghỉ ngơi
• Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
• An toàn lao động - vệ sinh lao động

10


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THANH TRA PHÁP LUẬT LAO
ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I.

CƠ SỞ PHÁP LÝ QUY ĐỊNH VỀ CÔNG TÁC THANH TRA VÀ
THANH TRA LAO ĐỘNG

1. Các văn bản luật có liên quan

-

Luật Thanh tra Việt Nam (thông qua ngày 15/6/2004)
Bộ luật Lao động Việt Nam (sửa đổi bổ sung năm 2007)

2. Các văn bản dưới luật
Nghị định số 31/2006/NĐ-CP ngày 20/4/2006 cuả Chính phủ Về tổ chức
và hoạt động của Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hộiVề tổ chức và
hoạt động của Thanh tra lao động - Thương binh và Xã hội.
Quyết định số 47/QĐ-TTr ngày 27/5/2008 của Thanh tra Bộ Lao động Thương binh và Xã hội về quy định chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của
Phòng Thanh tra chính sách lao động
II. LỰC LƯỢNG THANH TRA LAO ĐỘNG NƯỚC TA HIỆN NAY
1.

Cơ cấu tổ chức, chất lượng và số lượng

Ba năm qua, dù liên tục được tăng cường, nhưng đến nay, Thanh tra Bộ
Lao động Thương binh Xã hội chỉ vẻn vẹn 43 người, thanh tra tại các Sở là 326.
Trong khi đó, lực lượng này phải thanh tra việc thực hiện pháp luật lao động của
hơn 360.000 doanh nghiệp cả nước; thanh tra thực hiện chính sách đối với
khoảng 10 triệu người có công với cách mạng; và việc thực hiện chính sách đối
với khoảng 30 triệu trẻ em của cả nước...Năm 2010, cả nước sẽ có khoảng 8001.000 thanh tra viên ngành lao động và đến năm 2015 con số này sẽ là 1.500.
Theo khuyến cáo của Tổ chức lao động quốc tế, tại nước kém phát triển như
Việt Nam thì cứ 40.000 lao động phải có 1 thanh tra viên. Như vậy Việt Nam
cần bố trí khoảng 550 thanh tra lao động. Đó là chưa tính tới số thanh tra viên
11


Chuyên đề Thanh tra Lao động


Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

thực hiện thanh tra về người có công, bảo hiểm xã hội, trẻ em, giải quyết khiếu
nại tố cáo và các vấn đề xã hội khác.
Theo ông Nguyễn Văn Tiến chánh thanh tra Bộ Lao động - thương binh và xã
hội việc thanh tra pháp luật lao động đối với từng doanh nghiệp là hết sức khó
khăn dường như không thế. Bình quân một năm ngành thanh tra lao động cả
nước chỉ mới tiến hành thanh tra được 3000 doanh nghiệp, trong đó doanh
nghiệp chỉ thanh tra được một lần, khả năng tái thanh tra nằm ngoài khả năng.
Qua hoạt động thanh tra, trung bình với một doanh nghiệp lực lượng chức năng
phát hiện ít nhất 7 lỗi vi phạm, phổ biến là lỗi về thời gian làm việc, an toàn lao
động, BHXH. Tại TPHCM 6 tháng đầu năm 2010 các doanh nghiệp nợ BHXH
từ 3 đến 12 tháng gần 196 tỷ đồng. Từ 12 tháng trở lên là 91 tỷ đồng. Đặc biệt
nợ khó đòi vượt lên 47 tỷ đồng. BHXH thành phố và các BHXH các quận,
huyện đã tiến hành khởi kiện trên 20 doanh nghiệp, nhưng số tiền thu được chưa
bằng 50% số nợ phải đòi
2.
Tình hình vi phạm pháp luật lao động tại các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay
Trong những năm qua, cùng với chính sách mở cửa và hội nhập, hệ thống
luật pháp của Việt Nam từng bước được hoàn chỉnh, môi trường đầu tư được cải
thiện, làm cho số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh, góp phần
đáng kể vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Tuy nhiên, tại một số doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn tình trạng vi phạm pháp luật lao động, dẫn
đến quyền lợi hợp pháp của các bên, đặc biệt là của người lao động chưa được
đảm bảo, tính nghiêm minh của pháp luật chưa được tôn trọng, ảnh hưởng tiêu
cực đến môi trường đầu tư.
Thực trạng Báo cáo kết quả thanh tra các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài của Bộ Lao động - TBXH và một số địa phương từ năm 1995 đến năm
2004, cho thấy: Tình hình vi phạm pháp luật lao động diễn ra chủ yếu từ phía

người sử dụng lao động và người lao động:
Về phía người sử dụng lao động: Để nâng cao năng lực cạnh tranh họ đã
tìm cách giảm chi phí, hạ giá thành bằng cách lẩn tránh việc thực hiện các chế
độ, nghĩa vụ đối với người lao động, áp đặt các biện pháp quản lý không phù
hợp với pháp luật lao động Việt Nam, như:
12


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

+ Giao kết hợp đồng lao động không đúng tính chất công việc như hầu hết
các doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng lao động đối với một số công việc có tính
chất ổn định thường xuyên hơn một năm nhưng lại ký theo hình thức dưới 12
tháng. Nhiều doanh nghiệp đã ký hợp đồng lao động không đầy đủ với người lao
động, phần lớn chỉ thỏa thuận bằng miệng, mặc dù người lao động thường xuyên
làm việc hơn ba tháng. Một số doanh nghiệp cố tình ký hợp đồng lao động với
công nhân từ 1 đến 3 năm thay vì hợp đồng lao động dài hạn dẫn đến tình trạng
doanh nghiệp vắt kiệt sức lao động của công nhân từ năm họ 18 tuổi, đến khi
người lao động sau 35 tuổi, đặc biệt là lao động nữ, các doanh nghiệp tìm cách
cho họ “nghỉ hưu” sớm. Nhiều trường hợp các doanh nghiệp kéo dài thời gian
thử việc không đúng quy định của pháp luật.
+ Không tham gia BHXH bắt buộc đầy đủ cho người lao động, đóng BHXH
ở mức lương thấp (lương tối thiểu). Mặc dù người lao động (đã được ký hợp
đồng lao động có thời hạn) tham gia bảo hiểm xã hội, nhưng chỉ có họ bị doanh
nghiệp đều đặn trừ 5% lương hàng tháng để gọi là đóng bảo hiểm trong khi đó
15% còn lại tính theo lương của người lao dộng thì chủ doanh nghiệp không
chịu trích nộp. Hiện vẫn còn tình trạng doanh nghiệp có số lao động lớn nhưng
chưa tham gia bảo hiểm thất nghiệp; chưa đăng ký nội quy lao động với Sở Lao

động – Thương binh và xã hội, chưa xây dựng nội quy lao động cũng như không
lập quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm.
+ Doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ các quy định về an toàn vệ sinh lao
động. Tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp diễn biến phức tạp. Năm 2009, cả
nước có khoảng 6.000 vụ tai nạn lao động, làm chết 550 người và trên 1.200
người bị thương, nguyên nhân chủ yếu là do người sử dụng lao động và người
lao động vi phạm về an toàn vệ sinh lao động . Nhiều doanh nghiệp chưa thực
hiện nghiêm túc công tác huấn luyện về ATVSLĐ và cấp thẻ an toàn cho người
lao động theo quy định. Công tác tự kiểm tra ở các cơ sở còn thực hiện theo hình
thức chiếu lệ và không đúng định kỳ quy định. Chưa trang bị đầy đủ phương
tiện bảo vệ cá nhân theo quy định hiện hành của pháp luật. Nhiều doanh nghiệp
có trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân nhưng phương tiện không đảm bảo an
toàn, không đúng chủng loại,... Chưa thực hiện chế độ bồi dưỡng bằng hiện vật
cho người lao động làm việc trong môi trường độc hại..
+ Nhiều doanh nghiệp liên tục và kéo dài tình trạng kéo dài thời gian làm việc
của người lao động từ 12 đến 14 giờ làm việc/ngày. Đối với lao động nữ tại
13


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

doanh nghiệp may mặc, thủy sản, da giày, thời gian làm thêm từ 2 giờ đến 5
giờ/ngày, khoảng 600 giờ đến 1.000 giờ/năm, vượt quá xa quy định.Tình trạng
không trả lương làm thêm giờ hay bắt buộc người lao động phải nghỉ ngày thứ
bảy và khấu trừ vào phép năm diễn ra phổ biến ở nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc,
Đài Loan, Trung Quốc... Khi tăng ca, doanh nghiệp không báo trước và không
có sự thoả thuận với người lao động. Theo số liệu khảo sát cho thấy trong số lao
động được hỏi có 35,8% người cho rằng phải làm thêm ít nhất 2 giờ/ngày;

18,8% phải làm 3 giờ/ngày và 7,5% phải làm thêm từ 4 giờ đến 5 giờ/ngày.
Điều này đã vi phạm các quy định của pháp luật lao động xâm hại đến
quyền lợi hợp pháp của người lao động.
- Về phía người lao động: Do sức ép về việc làm nên người lao động vẫn
ký kết với người sử dụng lao động loại hợp đồng lao động có thời hạn xác định
mặc dù công việc đảm nhận mang tính chất thường xuyên, ổn định lâu dài. Đồng
thời, nội dung trong bản hợp đồng lao động chưa quy định cụ thể quyền lợi của
người lao động nhưng người lao động vẫn cho rằng đó là điều "có thể chấp nhận
được". Người lao động không từ chối khi bị người sử dụng lao động điều
chuyển sang làm việc khác trái nghề với thời gian dài hơn so với quy định của
pháp luật lao động, thậm chí chuyển hẳn sang làm việc khác mà hai bên không
thương lượng và ký kết hợp đồng lao động mới. Bản thân một số người lao động
cũng không muốn tham gia bảo hiểm xã hội để hàng tháng nhận được một
khoản thu nhập lớn hơn so với phải tham gia bảo hiểm xã hội. Nhiều trường hợp
người lao động đã được trang bị bảo hộ lao động đầy đủ nhưng vẫn không sử
dụng bảo hộ lao động vì cảm thấy vướng víu, bất tiện. Hầu hết người lao động
làm các công việc nguy hiểm, độc hại không muốn được bồi dưỡng bằng hiện
vật mà chỉ muốn được cấp bằng tiền. Vì vậy, ở mức độ nào đó, người lao động
cũng đã tự nguyện vi phạm pháp luật lao động.
Lấy ví dụ về hành vi không tham gia bảo hiểm xã hội đầy đủ cho người lao
động của một doanh nghiệp ngành giày da ở Gò Vấp, trong vòng hai năm 20072008 đã giúp doanh nghiệp “tiết kiệm” 5,2 tỉ đồng. Khi bị phát hiện doanh
nghiệp này bị xử phạt hành chính ở mức cao nhất là 20 triệu, đồng thời bị buộc
phải truy nộp bổ sung bảo hiểm xã hội cho người lao động với số tiền 5,2 tỉ
đồng. Bài toán kinh tế đặt ra ở chỗ, nếu 5,2 tỉ đồng được gửi ngân hàng trong
thời hạn hai năm, số tiền lãi thu được sẽ cao hơn gấp nhiều lần số tiền phải nộp
phạt 20 triệu đồng. Như vậy sẽ không tránh khỏi việc doanh nghiệp cố tình chây
14


Chuyên đề Thanh tra Lao động


Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

ì không tham gia bảo hiểm xã hội cho người lao động, chỉ khi nào cơ quan nhà
nước tiến hành kiểm tra, phát hiện và xử lý thì đến thời điểm đó số tiền doanh
nghiệp phải chi cũng chỉ bằng số tiền đáng ra phải nộp bảo hiểm xã hội và một
khoản tiền phạt, mà trong một số trường hợp khi so sánh với lợi ích thu được chỉ
mang tính chất như một khoản tiền phạt tượng trưng.
Còn ngược lại, nếu việc phát hiện, xử lý không đến nơi đến chốn thì khoản
“tiết kiệm” đó doanh nghiệp hưởng. Chính vì lý do này mà hiện tượng doanh
nghiệp nợ bảo hiểm xã hội ngày càng tăng và phổ biến. Chỉ tính riêng quý 1
năm 2011, số nợ tiền bảo hiểm xã hội của riêng các doanh nghiệp đã có tham gia
bảo hiểm xã hội trên địa bàn thành phố là trên 47 tỉ đồng (*) .
Doanh nghiệp sẽ không mạo hiểm để thực hiện hành vi vi phạm khi hậu
quả phải gánh chịu từ việc vi phạm cao hơn nhiều so với lợi ích đạt được từ việc
thực hiện các hành vi này. Nhưng ngược lại, khi lợi ích thu được từ việc thực
hiện hành vi vi phạm cao hơn nhiều so với chế tài, doanh nghiệp sẽ bằng cách
này hoặc cách khác vi phạm.
Nếu có bị áp dụng chế tài thì các khoản chi phí bỏ ra để khắc phục, nộp
phạt được doanh nghiệp xem như một loại chi phí trong quá trình sản xuất, lưu
thông hàng hóa và chính người tiêu dùng sẽ chịu chi phí này một cách gián tiếp
thông qua giá thành sản phẩm. Lúc này đối tượng phải chịu chế tài không phải là
doanh nghịệp mà gián tiếp đã là người tiêu dùng.
Việc tăng cường hoạt động thanh tra lao động trong các năm qua bao gồm
cả việc nâng cao số lượng và chất lượng thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước
thực tế chỉ mới tập trung vào việc phát hiện và xử lý hành vi đã và đang xảy ra
mà chưa hướng đến việc ngăn chặn và phòng ngừa vi phạm một cách có hiệu
quả từ gốc.
Điều này chỉ được giải quyết khi pháp luật tính đến yếu tố kinh tế trong hệ
thống chế tài áp dụng đối với các chủ thể kinh tế, nghĩa là cần cho doanh nghiệp

thấy vi phạm pháp luật lao động sẽ phải trả một cái giá cao hơn là lợi ích thu
được từ việc vi phạm, lách luật.
DN có vốn đầu tư nước ngoài thì ngoài việc thu hút lao động, giải quyết
việc làm, hầu hết chưa thực hiện tốt các chế độ đối với người lao động. Ví như
Công ty TNHH Chế biến thủy hải sản xuất khẩu Trung Hải - Khu kinh tế mở
Chu Lai, hay như Xí nghiệp gạch Ngọc Ánh, ở Duy Hòa (Duy Xuyên), Công ty
TNHH Pou Yeun Việt Nam ở quận Bình Tân (tp Hồ Chí Minh) quy mô lớn, sử
15


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

dụng nhiều lao động; nhưng ngoài trả tiền lương, trang bị phần nào dụng cụ bảo
hộ lao động, còn lại chưa thực hiện các điều khoản khác của pháp luật lao động.
Đặc biệt, các cơ sở dịch vụ du lịch, kinh doanh khách sạn, nhà hàng, vì lợi
nhuận mà bỏ qua việc chăm lo các quyền lợi chính đáng của người lao động. Rõ
ràng, hiện nay việc thực hiện pháp luật lao động trong các DN là vấn đề cần
được báo động.
Sai phạm lớn nhất của hầu hết DN là thực hiện không đúng chế độ bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động. Theo quy định, người lao động
làm việc và hưởng lương liên tục 3 tháng trở lên thì thuộc diện bắt buộc tham
gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Nhưng thực tế, chẳng mấy doanh nghiệp
thực hiện quy định này. Như Công ty TNHH Đông An (Hội An), sử dụng gần
3.000 lao động nhưng chỉ đóng bảo hiểm cho 58 người, chủ yếu là lực lượng
quản lý. Phần lớn DN tránh né việc tham gia bảo hiểm cho người lao động bằng
cách đưa lao động vào diện “thời vụ” (thời gian lao động không quá 3 tháng).
Từ đó dẫn đến chuyện DN ký kết hợp đồng lao động không đúng đối tượng. Lao
động trong diện phải ký hợp đồng lao động có thời hạn bị đẩy xuống ký hợp

đồng lao động thời vụ, cứ xong 3 tháng lại ký hợp đồng thời vụ mới.
Sáng ngày 25/02/2011, tại thành phố Hồ Chí Minh, Sở LĐ-TBXH thành
phố đã có buổi làm việc với Lãnh sự quán Hàn Quốc về việc các doanh nghiệp
Hàn Quốc chưa thực hiện tốt pháp luật lao động, dẫn đến tình trạng tranh chấp
lao động tập thể và quan hệ lao động ngày càng xấu hơn, đồng thời tìm biện
pháp giải quyết các vấn đề nêu trên.
Theo báo cáo, trên địa bàn TP. HCM hiện có gần 600 doanh nghiệp có vốn
đầu tư của Hàn Quốc, chiếm 20,30% trên tổng số 2.793 doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Trong đó, 219 đơn vị đã xây dựng nội quy lao động (chiếm
38,62%), 96 đơn vị đã xây dựng thỏa ước lao động tập thể (chiếm 16,93%) và
222 đơn vị đã xây dựng thang lương bảng lương (chiếm 39,15%). Về việc thực
hiện quy định về bảo hiểm xã hội, tính đến ngày 30/9/2009, trên địa bàn thành
phố có 324 doanh nghiệp Hàn Quốc đã tham gia bảo hiểm xã hội, trong đó có 87
doanh nghiệp nợ bảo hiểm xã hội với tổng số tiền 41.941.934.259 đồng. Thời
gian gần đây, phát sinh thêm một số doanh nghiệp không chỉ nợ bảo hiểm xã hội
kéo dài, mà còn nợ tiền lương của người lao động, chủ doanh nghiệp bỏ về
nước, dẫn đến đời sống người lao động hết sức khó khăn. Vì quá bức xúc, họ đã
kéo đi kêu cứu ở nhiều nơi, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên
16


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

địabàn. Do đó, các cơ quan ban ngành quận, huyện, thành phố đã phải mất nhiều
công sức để xử lý và giải quyết.
Chỉ tính riêng trong năm 2008, thành phố có 66 vụ đình công tại các doanh
nghiệp Hàn Quốc, chiếm 45,20% trong tổng số 146 vụ đình công xảy ra tại các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trong 2 tháng đầu năm 2010, doanh

nghiệp Hàn Quốc cũng để xảy ra 6 vụ đình công, chiếm 56,25% so với tổng số
16 vụ đình công xảy ra tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nguyên
nhân chủ yếu là đòi tăng lương, điều chỉnh thang lương, bảng lương hợp lý, giải
quyết chế độ thâm niên, các chế độ phụ cấp độc hại, ốm đau, đi lại, tăng ca,
thưởng, nâng cao chất lượng bữa ăn giữa ca, nghỉ hàng năm…Trước đề nghị cần
có sự phối hợp từ lãnh sự quán Hàn Quốc, Hiệp hội doanh nghiệp Hàn Quốc tại
TP. HCM để hỗ trợ trong việc giải quyết những vấn đề trên, Ông Chang Keun
Sop - phụ trách vấn đề lao động thuộc lãnh sự quán Hàn Quốc tại TP. HCM cho
biết: Phía Hàn Quốc rất tiếc vì có những doanh nghiệp đã làm xấu đi hình ảnh
đất nước và làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai nước. Bộ phận phụ trách
về lao động thuộc lãnh sự quán Hàn Quốc sẽ có gắng nỗ lực hết sức để phối hợp
với các cơ quan, ban ngành ở Việt Nam nhằm chia sẽ những kinh nghiệm cũng
như tìm ra biện pháp hữu hiệu để giải quyết tình trạng nêu trên.
3.
Nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật lao động của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến các vi phạm nhưng có thể tựu trung ở 3
nhóm nguyên nhân thuộc các đại diện của các bên như sau:
- Về phía người sử dụng lao động: Do muốn thu được lợi nhuận càng
nhiều càng tốt, kể cả nếu phải vi phạm pháp luật và xâm hại đến quyền lợi hợp
pháp của người lao động, nhiều chủ doanh nghiệp đã cố tình trốn tránh các nghĩa
vụ, trách nhiệm đã được pháp luật quy định. Tuy nhiên, cũng có một số ít doanh
nghiệp do gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh hoặc hiểu biết pháp luật lao
động còn hạn chế, dẫn đến hiện tượng xem nhẹ pháp luật lao động của nước sở
tại. Ngoài ra, còn có nguyên nhân người sử dụng lao động chưa hiểu nhiều về
văn hoá, phong tục, tập quán của người Việt Nam, còn hiện tượng coi rẻ lao
động Việt Nam.

17



Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

- Về phía người lao động: Nhận thức cũng như hiểu biết pháp luật của
người lao động còn nhiều hạn chế do không được đào tạo nghề nghiệp cũng như
học tập, nghiên cứu pháp luật lao động trước khi vào làm việc. Chưa có tác
phong công nghiệp và tinh thần kỷ luật cao, trình độ tay nghề còn hạn chế, chưa
đáp ứng được những đòi hỏi của một nền công nghiệp hiện đại. Mặt khác, đời
sống của người lao động có nhiều khó khăn, nên họ cần việc làm bằng mọi giá,
kể cả điều kiện lao động nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, đe doạ đến sức khoẻ và
tính mạng của mình, chấp nhận cả mức thù lao thấp, không tương xứng với sức
lao động mà họ bỏ ra.
- Về phía các cơ quan quản lý Nhà nước: Sự phối kết hợp giữa các cơ quan
chức năng trong việc quản lý các doanh nghiệp chưa tốt. Cơ chế xử phạt không
đủ tính răn đe, việc phối hợp với các ngành chức năng trong việc xử lý vi phạm
pháp luật về lao động chưa thật chặt chẽ. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được
thực hiện đầy đủ, thường xuyên, nhiều khi lại chồng chéo, chất lượng, hiệu quả,
hiệu lực các cuộc thanh tra chưa cao. Một số nội dung trong các văn bản quy
phạm pháp luật chưa phù hợp với thực tế…
- Về phía cán bộ Thanh tra: Do lương thấp, chẳng mấy người mặn mà với
công tác thanh tra vốn cần có kinh nghiệm thì mới hiểu được những quy chuẩn
an toàn lao động, từ đó mới “soi” nổi doanh nghiệp làm đúng hay sai. Chuyện
thiếu người đi xử phạt đã là một vấn đề nhức nhối, nhưng chế tài đối với những
vi phạm về an toàn lao động quá “non” cũng khiến cho công tác quản lý lĩnh vực
này càng lâm vào thế khó. Một số cuộc thanh tra còn kéo dài thời gian; tiến hành
thanh tra nhưng không có quyết định thanh tra, không lưu báo cáo kết quả thanh
tra và kết luận thanh tra; không gửi kết luận thanh kiểm tra cho Thanh tra cấp
trên để theo dõi, tổng hợp...Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo một số vụ việc còn

chậm; việc theo dõi tình hình giải quyết các vụ việc khiếu kiện chưa được đầy
đủ, thường xuyên.

18


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG
TÁC THANH TRA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TẠI CÁC
DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
I.

TRÁCH NHIỆM CỦA THANH TRA LAO ĐỘNG

1.

Về cơ cấu tổ chức

- Tăng biên chế và nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội ngũ cán bộ
làm công tác thanh tra lao động trong phạm vi toàn ngành.
- Thực hiện việc phân cấp, phân quyền, tránh sự trồng cheo, lấn sân trong
việc thực thi nhiệm vụ thanh tra.
- Trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật cần thiết, hiện đại nhằm đảm
bảo phục vụ tốt nhất cho hoạt động tác nghiệp của các thanh tra viên trong qúa
trình thanh tra tại doanh nghiệp.
- Có chế độ thù lao hợp lý đảm bảo ổn định đời sống cho đội ngũ cán bộ

làm công tác thanh tra, qua đó mà hạn chế được những tiêu cực phát sinh như:
tham ô, phong bì lót tay, cậy chức, cậy quyền, vòi vĩnh doanh nghiệp…
2.

Về chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan thanh tra lao động

- Cần tăng cường hơn nữa tính độc lập tương đối trong hoạt động thanh tra,
hoàn thiện quy định về thẩm quyền của các cơ quan thanh tra nhằm khắc phục
những tồn tại, bất cập trong hoạt động thanh tra hiện nay.
- Bổ sung thẩm quyền cho Chánh thanh tra các cấp được ra quyết định
thanh tra khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật để bảo đảm tính kịp thời
của hoạt động thanh tra, đồng thời chánh thanh tra cũng được quyền ra kết luận
cuối cùng nhằm đảm bảo tính khách quan và nghiêm minh của pháp luật.
- Quy định rõ nội dung tự chịu trách nhiệm trước pháp luật của cơ quan
thanh tra về kết luận thanh tra và trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan quản lý
nhà nước trong việc xem xét, xử lý kết luận thanh tra.

19


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

- Bổ sung quy định cơ quan thanh tra được yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân liên quan cung cấp thông tin phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước về
thanh tra.
- Hoàn thiện các quy định nhằm xác định trách nhiệm, xử lý hành vi vi
phạm của đối tượng thanh tra trong việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, quyết định
xử lý về thanh tra, quyết định thanh tra của cơ quan thanh tra.

- Quy định rõ trách nhiệm cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc
thực hiện kết luận thanh tra.
- Ngoài ra cần có các quy định cụ thể về việc theo dõi, kiểm tra, đôn đốc
việc thực hiện yêu cầu, kiến nghị, kết luận thanh tra, quyết định xử lý về thanh
tra; việc công khai, minh bạch đối với kết luận thanh tra, quyết định xử lý kết
quả thanh tra...
3.

Trách nhiệm của Thanh tra viên lao động

Vai trò của thanh tra lao động là giúp doanh nghiệp hiểu đúng và sâu sắc
hơn về việc thực hiện đúng các quy định pháp luật lao động. Bên cạnh đó, thanh
tra lao động có thẩm quyền dùng biện pháp cưỡng chế xử phạt hành chính và
yêu cầu các doanh nghiệp phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả do vi
phạm gây ra.
Thay đổi phương thức hoạt động thanh tra theo đoàn trước đây sang hoạt
động thanh tra viên phụ trách vùng và sử dụng phiếu tự kiểm tra pháp luật lao
động tại doanh nghiệp.
– Thanh tra viên phụ trách vùng phối hợp với thanh tra viên lao động của các
Sở tiến hành phát phiếu, phân tích kết quả và gửi phiếu kiến nghị đến từng
doanh nghiệp, kịp thời chấn chỉnh các vi phạm pháp luật, tư vấn và hướng dẫn
pháp luật lao động cho doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả phân tích phiếu, các
thanh tra viên phụ trách vùng tập trung kiểm tra một số doanh nghiệp không
chấp hành việc tự kiểm tra có nhiều sai phạm để xử lý theo pháp luật.
– Thanh tra lao động còn tổ chức đào tạo, huấn luyện cho chủ sử dụng lao
động về quản lý rủi ro trong sản xuất và tổ chức triển khai công tác bảo hộ lao
động, an toàn vệ sinh lao động trong các doanh nghiệp.
– Cần thực hiện các hoạt động tư vấn, hướng dẫn phòng ngừa thông qua công
tác kiểm tra, thanh tra, giám sát để đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện
đúng pháp luật lao động trên tất cả các phương diện về quan hệ lao động, an

20


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

toàn lao động và vệ sinh lao động nhằm thúc đẩy sự phát triển của doanh
nghiệp.

II. TRÁCH NHIÊM CỦA NHÀ NƯỚC VÀ CÁC BỘ NGÀNH LIÊN
QUAN
1.

Trách nhiệm của Nhà nước

Hoàn thiện hệ thống thể chế pháp luật, đặc biệt là việc sửa đổi bổ sung Luật
Thanh tra; sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ Luật lao động quy định về công
tác thanh tra lao động.

- Kịp thời đổi mới và nâng cao về chất lượng đào tạo, đào tạo chuyên
sâu đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra nói chung và đội ngũ thanh tra
viên lao động nói riêng. Đảm bảo đủ về số lượng và không ngừng củng cố
nâng cao về chất lượng.
Hàng năm trong xây dựng dự toán chi ngân sách cần quan tâm tăng nguồn
chi phục vụ cho công tác thanh tra thanh tra nói chung và công tác thanh tra
chính sách lao động nói riêng.
2.

Trách nhiệm của các Bộ, ngành liên quan


Các bộ, ngành liên quan như: Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Bảo
hiểm xã hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam…trong phạm vi chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn của từng ngành, từng lĩnh vực có liên quan thực hiện tốt
công tác phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về thanh tra pháp
luật lao động tại các doanh nghiệp nói chung và thanh tra việc thực hiện pháp
luật lao động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng.

21


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

KẾT LUẬN
Đất nước ta vẫn còn rất nghèo, xung quanh chúng ta vẫn còn nhiều những
mảnh đời lam lũ phải lo miếng cơm manh áo hàng ngày. Đã có rất nhiều những
những công ty, nhà máy, xí nghiệp đuợc mọc lên ở khắp các tỉnh thành trong cả
nước, điều đó qủa là một cơ hội rất tốt cho việc giải quyết bài toán về việc làm,
nâng cao thu nhập và từng bước cải thiện đời sông người dân.
Tuy nhiên, nhìn lại những con số thống kế về tình hình vi phạm các quy
định của pháp luật lao động tại hầu hết các doanh nghiệp nói chung và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng thì đây qủa thực là những con số
đáng báo động cho những nhà hoạch định chính sách pháp luật của nước ta.
Chúng ta không thể đổ lỗi cho người lao động vì họ là những người đang phải
sống dựa vào đồng lương ít ỏi, họ không làm chủ về tư liệu sản xuất, không dám
đấu tranh để bảo vệ chính mình. Chúng ta cũng không thể đổ hết lỗi cho những
“ông chủ” vì đã không chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, vi
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động vì họ là những nhà tư bản,

luôn nắm trong tay về tư liệu sản xuất, họ luôn mong muốn đạt được lợi nhuận
cao nhất.
Thực trạng lớn nhất của công tác thanh tra việc thực hiện pháp luật lao
động tại các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong tình hình hiện nay là
thiếu trầm trọng đội ngũ thanh tra viên đủ kiến thức chuyên môn để tìm ra
những sai phạm pháp luật, đủ kinh nghiệm để nhìn thấy những vi phạm pháp
luật lao động mà doanh nghiệp cố tình vi phạm để xử lý theo đúng luật. Việc
buông lỏng quản lý và cơ chế luật pháp chưa nghiêm đã dựng lên kẽ hở để các
“ông chủ” tự do lộng hành trên sức lao động của người lao động trong nhiều
năm qua.
Để từng bước hoàn thiện về cơ chế, chính sách và hệ thống luật pháp có liên
quan đến người lao động thi các cấp, các ngành phải nhanh chóng điều chỉnh
công tác thanh tra lao động để các doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc các chính
sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài đang giữ một vị trí quan trọng và đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng
22


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

kinh tế của quốc gia. Đồng thời các cán bộ thanh tra lao động làm việc phải
công tâm, phải thật sự am hiểu chuyên môn nghiệp vụ, dày dạn kinh nghiệm
trong xử lý tình huống và giao tiếp tốt với các bên liên quan.

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................


1
I. Những vấn đề chung về công tác Thanh tra ......................................................
1
1. Khái niệm Thanh tra.............................................................................................
1
2. Mục đích thanh tra................................................................................................
1
3. Nguyên tắc hoạt động thanh tra............................................................................. 1
4. Vai trò của công tác thanh tra................................................................................ 1
5. Các loại hình thanh tra.......................................................................................... 2
II. Những nội dung chính về Thanh tra lao động .................................................
3
1. Những quy định chung về Thanh tra Lao động......................................................3
2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Thanh tra Lao động.............................................3
3. Tổ chức của Thanh tra Lao động........................................................................... 5
4. Hoạt động của Thanh tra lao động......................................................................... 7
5. Hình thức Thanh tra.............................................................................................. 8
6. Phương thức hoạt động Thanh tra.........................................................................8
7. Kinh phí hoạt động............................................................................................... 8
III. Đặc điểm của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ..................................8
IV. Nội dung của pháp luật lao động ....................................................................9
CHƯƠNG II. THỰC TRANG CÔNG TÁC THANH TRA VIỆC THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM................................................................................. 10

I. Cơ sở pháp lý quy định về công tác Thanh tra và Thanh tra lao động ............10
1. Các văn bản luật có liên........................................................................................ 10
2 Các văn bản dưới luật............................................................................................ 10
II. Lực lượng Thanh tra nước ta hiện nay ............................................................10
23



Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

1. Cơ cấu tổ chức, chất lượng và số lượng.................................................................10
2. Tình hình vi phạm pháp luật lao động tại các doanh nghiệp nước ngoài hiện nay. .11
3. Nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật lao động tại các doanh nghiệp NN.........16
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
THANH TRA PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP NN...................18

I. Trách nhiệm của Thanh tra .............................................................................. 18
II. Trách nhiệm của Nhà nước và các Bộ, Ngành liên quan .....................................20
KẾT LUẬN

24


Chuyên đề Thanh tra Lao động

Phạm Thanh Tú – Lớp Đ4-QL1

25


×