Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.27 KB, 36 trang )

Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Theo kết quả giải quyết việc làm, phát triển thị trường lao động, vào năm
2009, cả nước có 57 triệu người trong độ tuổi lao động, trong đó 43,8 triệu
người có việc làm, chiếm 51,1% dân số. Trong năm này, nước ta đã tạo được
việc làm mới cho 1,51 triệu lao động, trong đó, giải quyết việc làm trong nước
khoảng 1,6 triệu lao động, ngoài nước khoảng 73 nghìn lao động, tuyển mới dạy
nghề đạt 104,5% kế hoạch; tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 11,3%, việc triển
khai Đề án hỗ trợ các huyện nghèo xuất khẩu lao động góp phần giảm nghèo
nhanh và bền vững giai đoạn 2009-2020, đến nay đã có 3.500 người được đào
tạo nghề, học ngoại ngữ, trong đó có 1.000 người đã được xuất cảnh đi làm việc
ở nước ngoài. Cơ cấu lao động tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm
tỷ lệ lao động làm việc trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp và tăng trong khu
vực công nghiệp, xây dựng và thương mại dịch vụ.
Đứng trước thềm 2010, chỉ tiêu đặt ra là việc làm trong nông nghiệp giảm
xuống còn 40% vào năm 2015; đạt cơ cấu kỹ năng của lực lượng lao động ở
mức 60% lao động qua đào tạo và 40% lao động qua đào tạo nghề; tỷ lệ thất
nghiệp đô thị dưới 5% , với tốc độ tăng này cùng với bối cảnh kinh tế đất nước
ngày càng khởi sắc, Việt Nam có thể thực hiện được mục tiêu giảm tỷ lệ lao
động trong nông nghiệp đã đề ra. Theo ý kiến của nhiều chuyên gia, yếu tố
chuyển dịch lao động rất quan trọng trong việc xây dựng, phát triển thị trường
lao động. Cùng với quy định về cung cầu, tiền lương, quan hệ lao động, thì
chuyển dịch lao động được coi là vấn đề mấu chốt.
Hiện nay, nền kinh tế nước ta đang trên đà phát triển , tuy nhiên tình trạng
thất nghiệp vẫn còn là vấn đề nan giải tạo sức ép lớn về lao động và việc làm, do
đó xuất khẩu lao động là một hướng giải quyết hữu hiệu và ngày càng được chú
trọng nhằm giải quyết việc làm cho người lao động trong nước, tăng thu nhập,
tạo sự ổn định và phát triển đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (năm


2006) về xuất khẩu lao động lại tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết của
Đại hội: “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Xây dựng và thực hiện đồng bộ, chặt
chẽ cơ chế chính sách về tạo nguồn lao động đưa lao động ra nước ngoài, bảo
vệ quyền lợi và tăng uy tín của người lao động Việt Nam ở nước ngoài”.
Tuy nhiên, yêu cầu về xuất khẩu lao động ngày càng khắt khe về trình độ
lao động, kỹ năng tay nghề, về kỹ luật lao động và ngoại ngữ, nhất là đối với
công việc trong các công xưởng, nhà máy. Hiện lao động của nước ta ra nước
ngoài cơ bản đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp nước sở tại tuy nhiên tay nghề,
trình độ còn hạn chế, gây khó khăn khi thâm nhập vào thị trường lao động của
các nước có nền kinh tế phát triển. Vậy xuất khẩu lao động ở nước ta nói chung
và các địa phương nói riêng có đặc điểm như thế nào? chúng ta phải làm gì để
1


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

cho lao động Việt Nam ngày càng đứng vững và khẳng định được thương hiệu
trên thị trường lao động quốc tế? Để trả lời được câu hỏi lớn đó không phải dễ
dàng bởi lẽ nó bao gồm nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau.
Tuy nhiên nếu xét trên cấp độ vi mô thì thông qua một điển hình chúng ta có thể
trả lời một phần câu hỏi đó, vì vậy em quyết định chọn đề tài xuất khẩu lao động
và chọn tỉnh Nghệ An, một trong những điển hình có số lao động xuất khẩu
hàng đầu trong cả nước làm địa điểm nghiên cứu để hiểu rõ hơn về hoạt động
xuất khẩu lao động ở địa phương này.
2.Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu tập trung vào việc làm rõ thực trạng, nguyên nhân và
giải pháp cho vấn đề xuất khẩu lao động hiện nay ở tỉnh Nghệ An.
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi tỉnh Nghệ An và đối tượng là lực lượng
lao động ra nước ngoài làm việc trong những năm gần đây bằng các hình thức

khác nhau mà không vi phạm pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước sở tại.
4.Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng tài liệu có được từ việc thống kê tổng kết vấn đề xuất khẩu
lao động của nhiều nguồn khác nhau kết hợp hai phương pháp diễn giải và quy
nạp để làm rõ mục tiêu đã đặt ra.
5.Nguồn số liệu
- Niên giám thống kê năm 2007 tỉnh Nghệ An - Chi cục Thống kê Nghệ
An;
- Niên giám thống kê năm 2008 tỉnh Nghệ An - Chi cục Thống kê Nghệ
An;
- Niên giám thống kê năm 2009 tỉnh Nghệ An - Chi cục Thống kê Nghệ
An;
- Báo cáo kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An năm 2009.

2


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN.
1.1.Một số khái niệm:
Thuật ngữ xuất khẩu lao động được sử dụng ở Việt Nam để chỉ hoạt động
chuyển dịch lao động từ quốc gia này sang quốc gia khác. Tham gia vào quá
trình này gồm hai bên: Bên nhập khẩu lao động và bên xuất khẩu lao động.
Nghị định số 152/NĐ-CP nêu rõ: “Xuất khẩu lao động và chuyên gia là
một hoạt động kinh tế - xã hội góp phần phát triển nguồn lực, giải quyết việc
làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước… Cùng với giải pháp giải quyết việc làm trong

nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng,
lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nước
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá…”.
Theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam: “Người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp đồng là công dân Việt Nam, đang cư trú tại Việt
Nam và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật
của nước tiếp nhận người lao động được đi làm việc ở nước ngoài theo quy định
của pháp luật".
Nhà nước ta cũng thể hiện sự quan tâm đối với hoạt động này thông qua
việc khuyến khích các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, cá nhân tìm kiếm và mở
rộng thị trường lao động nhằm tạo việc làm ở nước ngoài cho người lao động
Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với pháp luật nước sở
tại và điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc gia nhập. Đồng thời Đảng và
Nhà nước còn thể hiện sự quan tâm cụ thể trong việc chỉ đạo, thu hút được sự
quan tâm của các ngành, các cấp và các đoàn thể cũng như gia đình và bản thân
người lao động trong hoạt động xuất khẩu lao động.
1.2. Các hình thức Xuất khẩu lao động:
Điều 134a – Bộ luật lao động đã có quy định,Xuất khẩu lao động có thể
được thực hiện thông qua 4 hình thức:
a) Đưa lao động đi bồi dưỡng, học nghề, nâng cao trình độ và làm việc
có thời gian ở nước ngoài: Đây là hình thức được chúng ta thực hiện chủ yếu
trong giai đoạn 1980 -1990. Thông qua việc ký hiệp định hợp tác, sử dụng lao
động với các nước: Liên xô (cũ), CHDC Đức, Tiệp Khắc trước đây, lao động
của nước ta ở tại các nước này được sống, sinh hoạt theo đoàn, đội, có sự
quản lý thống nhất từ trên xuống dưới và làm việc xen ghép với lao động của
các nước. Đây là hình thức được áp dụng cho cả hai đối tượng là lao động có
nghề và lao động không có nghề.
3



Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

b) Hợp tác lao động và chuyên gia: Đây là hình thức được áp dụng đối
với các nước Trung Đông và Châu Phi trong việc cung ứng lao động và
chuyên gia sang làm việc tại một số nước. Số lao động này có thể đi theo các
đoàn, đội hay các nhóm, cá nhân… Đưa lao động đi làm tại các công trình
doanh nghiệp Việt Nam nhân thầu khoán xây dựng, liên doanh hay liên kết tạo
ra sản phẩm ở nước ngoài hay đầu tư ra nước ngoài. Hình thức này được áp
dụng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. Đây là hình thức người lao động thuộc
quyền quản lý của các doanh nghiệp Việt Nam được đi nước ngoài làm việc
đồng bộ tại các công trình cho doanh nghiệp Việt Nam.
c) Cung ứng lao động trực tiếp theo các yêu cầu của công ty nước ngoài
thông qua các hợp đồng lao động được ký kết bởi các doanh nghiệp Việt Nam
làm dịch vụ cung ứng lao động: Được hình thành từ sau khi có nghị định
370/HĐBT ngày 9/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) hình
thức này đã trở nên phổ biến nhất hiện nay. Việc cung ứng lao động cho các tổ
chức, cá nhân nước ngoài chủ yếu được giao cho các tổ chức kinh tế có chức
năng đưa lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Đây là các doanh nghiệp
chuyên doanh về XKLĐ, được Nhà nước cấp giấy phép hành nghề, thực hiện
việc ký kết, đưa lao động đi nước ngoài làm việc và quản lý số lao động đó theo
quy định của Nhà nước. Hình thức này đòi hỏi đối tượng lao động tương đối đa
dạng, tuỳ theo yêu cầu và mức độ phức tạp của công việc mà bên nước ngoài
yêu cầu lao động giản đơn hay lao động có tay nghề cao. Người lao động trực
tiếp ký với cá nhân, tổ chức nước ngoài nhưng khi làm thủ tục phải thông qua
một doanh nghiệp chuyên doanh về xuất khẩu lao động để thực hiện các nghĩa
vụ, trách nhiệm với nhà nước, với tổ chức kinh tế đưa đi và cũng là để đảm bảo
quyền lợi cho người lao động trong quá trình làm việc ở nước ngoài. Hình thức
này hiện nay ở nước ta chưa phổ biến lắm do người lao động vẫn chưa có nhiều
cơ hội để tiếp xúc và tìm hiểu về các công ty nước ngoài đang cần thuê lao
động một cách trực tiếp và phổ biến.

d) Xuất khẩu lao động tại chỗ: là hình thức các tổ chức kinh tế của ta
cung ứng lao động cho các tổ chức kinh tế nước ngoài ở Việt Nam, bao gồm:
Các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; các khu chế xuất, khu công nghiệp, khu
công nghệ cao; các tổ chức, cơ quan ngoại giao của nước ngoài tại Việt Nam.
Bộ luật lao động cũng có quy định đối với những doanh nghiệp được phép
đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, bao gồm:
 Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động xuất khẩu lao động.
 Doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận khoán công trình ở nước
ngoài
có sử dụng lao động Việt Nam.
 Doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ở nước ngoài có sử dụng lao động là
người Việt Nam.
 Tất cả các doanh nghiệp trên muốn xuất khẩu lao động thì phải được
Cục
quản lý lao động Nhà nước cấp giấy phép.
4


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

I. KHÁI QUÁT VỀ THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VN
1. Lợi ích và hạn chế của Xuất khẩu lao động:
1.1. Lợi ích của việc Xuất khẩu lao động :
Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, chúng ta đã xây
dựng được nhiều mối quan hệ kinh tế quốc tế, một trong những mối quan hệ
kinh tế này là việc hợp tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài, hay còn gọi là xuất khẩu lao động. Hoạt động xuất khẩu lao động của
Việt Nam đang ngày càng mở rộng đến nhiều quốc gia và các vùng lãnh thổ trên
toàn thế giới, đáp ứng một phần nhu cầu về nguồn lao động của các nước, với đủ
các loại hình lao động khác nhau,hoạt động này đã tạo cho người lao động Việt

Nam nhiều cơ hội làm việc, tìm kiếm được nguồn thu nhập tốt, góp phần tích
cực vào việc giải quyết việc làm cho xã hội .
Xuất khẩu lao động thời gian qua đã mang lại hiệu quả kinh tế đáng khích
lệ, góp phần quan trọng trong việc cải thiện đời sống cho người lao động và tăng
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, nó không những làm tăng thu nhập quốc dân
mà còn là cơ hội tốt để người lao động tích lũy vốn, cải thiện đời sống và điều
kiện làm việc của bản thân và gia đình họ. Theo thống kê, đến tháng 6 năm 2009
Việt Nam đã có hơn 96.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Phần lớn, người
lao động Việt Nam đi sang các thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Đài
Loan, Nhật Bản, Malaysia, Macau và một số quốc gia Trung Đông… (95%); số
còn lại sang lao động tại một số nước Châu Âu và Châu Mỹ.
Theo Cục Quản lý lao động ngoài nước, để đạt mục tiêu tăng số lượng lao
động đi làm việc ở nước ngoài đến năm 2010 là hơn 100.000 lao động, Cục sẽ
thực hiện một số giải pháp trọng tâm như đẩy mạnh tuyên truyền, vận động
người lao động sang thị trường trọng điểm Malaysia; mở rộng các thị trường
mới, thị trường có thu nhập cao, khuyến khích xuất khẩu lao động có nghề, lao
động kỹ thuật… So với nguồn lao động dồi dào của Việt Nam hiện nay, thì việc
hoàn thành chỉ tiêu trên không phải là khó. Nếu như trong thời gian qua, các
hoạt động liên quan tới việc xuất khẩu lao động được thực hiện nghiêm túc, có
sự quản lý tốt, thì chắc chắn con số đi lao động ở nước ngoài còn lớn hơn nhiều,
so với kết quả đã đạt được.
Mặt khác, đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài giúp Nhà nước giảm
được khoản chi phí đầu tư đào tạo nghề và tạo chỗ làm việc mới cho người lao
động. Thông qua lao động ở nước ngoài, người lao động đã nâng cao trình độ
chuyên môn kỹ thuật, ngoại ngữ, tiếp thu được những công nghệ và tác phong
sản xuất công nghiệp tiên tiến, do đó từng bước đáp ứng các yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khi họ trở về. Như vậy, hoạt
động xuất khẩu lao động nước ta đã đem lại lợi ích kinh tế - xã hội không nhỏ,
góp phần trực tiếp và gián tiếp vào việc tăng tích lũy vốn cho công nghiệp hóa.
1.1.2. Khó khăn, hạn chế :


5


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

Bên cạnh các mặt tích cực như đã nêu trên, trước nhu cầu hội nhập và
cạnh tranh ngày càng gay gắt thì tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam vẫn
đang phải đối mặt với nhiều thử thách to lớn, người sử dụng lao động ngày càng
có điều kiện để đưa ra nhiều đòi hỏi khắt khe hơn. Công nhân không những phải
có sức khỏe tốt, có ý thức kỷ luật cao, mà cũng phải sử dụng được ngôn ngữ của
nước tiếp nhận, đây là những điểm yếu của người lao động Việt Nam. Người lao
động Việt Nam nhiều khi chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu mà thị trường
đặt ra như ngoại ngữ, tay nghề, sức khỏe và đặc biệt là ý thức kỷ luật, tỷ lệ bỏ
trốn hiện tại ở Hàn Quốc là khoảng 59,25%, Nhật Bản là 27,09%, Đài Loan 7%.
Tại thị trường Malaysia, nhiều lao động Việt Nam vi phạm kỷ luật như: uống
rượu, đánh nhau... do đó, để phấn đấu mỗi năm có được số lượng lao động là 9 10 vạn người đang còn là vấn đề khó khăn. Trong khi đó, Philippin là nước
trong khối Đông Nam Á, có diện tích và dân số tương tự như Việt Nam, hàng
năm họ đưa gần 1 triệu lao động và chuyên gia đi làm việc ở trên 100 nước và
vùng lãnh thổ trên khắp thế giới (mỗi ngày có trên 2.500 người xuất cảnh đi làm
việc ở nước ngoài và số ngoại tệ mà người lao động và chuyên gia chuyển về
hàng năm từ 12 - 14 tỷ USD).
Thách thức lớn nhất của xuất khẩu lao động ở Việt Nam hiện nay là chất
lượng đội ngũ lao động. Chất lượng ở đây được hiểu theo các tiêu chí bao gồm:
trình độ tay nghề và kinh nghiệm làm việc, sức khoẻ, ngoại ngữ và một khía
cạnh cũng rất quan trọng là ý thức tuân thủ kỷ luật lao động và kỷ luật sinh hoạt.
Mặc dù trong thực tế nhiều chủ sử dụng lao động nước ngoài có nhận xét tốt về
lao động Việt Nam là cần cù, khéo tay, thích làm thêm giờ... Nhưng nhìn chung
số lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài trong thời gian qua tỷ lệ có tay
nghề mới ở mức 30 - 35%, cộng với nhận thức và kỷ luật làm việc chưa cao...

nên thường phải chấp nhận làm việc ở nơi có thu nhập thấp và phải chấp nhận
trả phí môi giới cao thì mới có đơn hàng. Từ những nguyên nhân này cộng với
môi trường một số nước sở tại khá tự do nên tình trạng lao động Việt Nam ở
một số thị trường (Đài Loan, Nhật Bản...) đã tự ý phá vỡ hợp đồng để ra ngoài
làm việc. Đây là điều rất đáng báo động vì nó ảnh hưởng xấu đến hàng chục
nghìn người đang làm việc nghiêm chỉnh theo hợp đồng và làm cho giới sử dụng
lao động e ngại khi tuyển lao động Việt Nam (từ năm 2004 Đài Loan đã dừng
nhận lao động giúp việc gia đình của Việt Nam; nhiều doanh nghiệp của Nhật
Bản đã ghi trong hợp đồng không nhận lao động từ một số tỉnh...). Từ đó doanh
nghiệp xuất khẩu lao động không chủ động được nguồn lao động để cung cấp
cho các đơn hàng đã ký, hậu quả là các đối tác kém hấp dẫn khi đàm phán với
các doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam.
Bên cạnh đó, năng lực và trình độ của các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động Việt Nam hiện nay cũng là một thách thức lớn, trong tổng số trên 140
doanh nghiệp được cấp lại và cấp mới Giấy phép xuất khẩu lao động theo Luật
người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, thì có khoảng
1/3 là doanh nghiệp mạnh, bảo đảm được một số tiêu chí chính như: tìm kiếm
được các đơn hàng hấp dẫn (điều kiện làm việc, thu nhập, điều kiện sống, đi lại
6


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

tốt, không có hoặc có ở mức thấp về tiền môi giới...), tạo nguồn nhanh và phù
hợp với yêu cầu của đối tác, có cơ sở đào tạo nghề hoặc chủ động hợp tác với cơ
sở đào tạo nghề để tạo nguồn; quản lý tốt và sử lý mọi phát sinh nhanh gọn phù
hợp với pháp luật... Còn lại 2/3 số doanh nghiệp năng lực và trình độ ở mức
trung bình và thấp (năm 2007 chỉ có trên 20 doanh nghiệp và tổ chức đưa được
từ 1.000 lao động trở lên đi làm việc ở nước ngoài; 6 tháng đầu năm 2008 có 15
doanh nghiệp và tổ chức đưa được từ 500 người trở lên đi làm việc ở nước

ngoài, thậm chí có tới 33 doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm 2008 chỉ đưa đi
được dưới 50 người).
Và còn nhiều thách thức khác ảnh hưởng tới sự phát triển công tác xuất
khẩu lao động của Việt Nam như: ý thức tuân thủ hợp đồng của người lao động
còn yếu; sự cạnh tranh không lành mạnh ở một số doanh nghiệp làm công tác
xuất khẩu lao động; chưa có chính sách và sự gắn kết của các tổ chức trong việc
bố trí sử dụng số lao động đã hoàn thành hợp đồng về nước, chưa có một chiến
lược toàn diện và lâu dài cho lĩnh vực này. Đa số người Việt Nam đi lao động ở
nước ngoài là nông dân, tiếp thu ngoại ngữ chậm, lại được đào tạo trong thời
gian quá ngắn, nên vốn kiến thức mà họ được trang bị cũng như học hỏi được là
rất ít và không đồng bộ. Ưu điểm của số lao động này là có sức khỏe, nhưng họ
lại không có nghề nghiệp chuyên môn và chưa quen với tác phong công nghiệp
trong nền sản xuất của nước bạn. Mặt khác, hệ thống đào tạo của nước ta chưa
chú trọng về việc cho người lao động tìm hiểu cũng như có kiến thức về văn
hóa, chính trị, luật pháp cũng như những đặc trưng của nước sở tại mà họ sẽ lao
động, vì vậy tạo cho người lao động sự bỡ ngỡ khi làm việc trong môi trường
hoàn toàn mới và xa lạ này. Ngoài ra, công tác xuất khẩu lao động cũng còn bị
hạn chế trong quá trình tiến hành, mặc dù Nhà nước đã có nhiều chủ trương
khuyến khích, nhưng người lao động vẫn là người phải bỏ vốn như là khoản chi
phí ban đầu cho công việc mới của họ, khoản phí ban đầu này là quá lớn đối với
người lao động, đặc biệt là đối với lao động nông thôn không có việc làm phải đi
xuất khẩu lao động. Tại Quyết định 33/2006 QĐ/TTg ngày 07-02-2006 của Thủ
tướng Chính phủ đã khẳng định cần phát triển công tác xuất khẩu lao động một
cách có hiệu quả và bền vững với mục tiêu cho năm 2010 và 2015 là hàng năm
Việt Nam đưa 10 vạn lao động đi làm việc ở nước ngoài; đến năm 2010 số
lượng lao động có nghề đạt 70%, các nghề cao trở lên đạt 30% và tới năm 2015
con số đó tương ứng là 100% và 40%.
Như vậy, bên cạnh những lợi ích to lớn mà xuất khẩu lao động mang lại,
hiện nay công tác xuất khẩu lao động vẫn đang còn nhiều hạn chế cần được khắc
phục để ngày càng có thể hoàn thiện hơn.

2. Quan điểm, chính sách và vấn đề quản lý xuất khẩu lao động:
2.1. Quan điểm xuất khẩu lao động:
Đảng và Nhà nước ta luôn cho rằng, phát triển hợp tác quốc tế trong việc
tổ chức đưa người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
7


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

là một hoạt động kinh tế - xã hội nhằm góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải
quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động,
tăng nguồn thu cho đất nước và tăng cường quan hệ hợp tác với các nước trên
thế giới. Song song với quan điểm này, Chính phủ cũng đó ban hành nhiều văn
bản quy định cụ thể về hoạt động xuất khẩu lao động như Bộ luật lao động, nghị
định, thông tư hay các công văn hướng dẫn thi hành… Quan điểm về xuất khẩu
lao động được thủ tướng Phan Văn Khải khẳng định trong một hội nghị về xuất
khẩu lao động quy tụ hơn 350 đại biểu của các bộ, các ngành trên cả nước và 5
đại sứ tại các nước có người Việt Nam rằng: “xuất khẩu lao động và chuyên gia
là một chiến lược quan trọng trước mắt và lâu dài”.
Qua những quan điểm như trên cho thấy rằng, mặc dù đây là một hoạt
động còn non trẻ, nhưng trong tương lai với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
cùng các cấp chính quyền, hoạt động này sẽ mang lại nhiều thành tựu to lớn, góp
phần đáng kể trong công cuộc Công Nghiệp Hóa đất nước.
2.2.Chính sách xuất khẩu lao động:
Nhằm đưa những quan điểm trên vào thực tiễn, Chính phủ sử dụng nhiều
chính sách khuyến khích nhằm tạo cho hoạt động xuất khẩu lao động những con
đường phát triển thuận lợi nhất. Mới đây, thông qua nghị định 81/2003/NĐ-CP,
Chính phủ đã có quyết định về việc thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động,
theo đó quỹ này sẽ hỗ trợ chi phí cho việc phát triển thị trường lao động mới,
cho việc đào tạo người lao động, việc hỗ trợ người lao động và doanh nghiệp

giải quyết rủi ro cũng như việc thưởng cho các cơ quan, đơn vị có thành tích
trong hoạt động xuất khẩu lao động. Như vậy, quỹ này ra đời sẽ góp phần phát
triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng và khả năng cạnh tranh của lao
động Việt Nam trên thị trường lao động quốc tế, đồng thời hỗ trợ rủi ro cho
người lao động và doanh nghiệp trong hoạt động này.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ cho vay đối với
người lao động đi xuất khẩu, theo đó người lao động đi xuất khẩu lao động
không thuộc diện chính sách được vay tối đa là 20 triệu đồng mà không yêu cầu
thế chấp tài sản, điều này đã tháo gỡ rất nhiều khó khăn cho người lao động,
nhất là với những lao động nghèo ở nông thôn – lực lượng chính của xuất khẩu
lao động, những người không có tiền để đóng góp chi phí xuất khẩu lao động
hoặc không có tài sản để thế chấp. Đồng thời với chính sách này, hồ sơ thủ tục
xin đi xuất khẩu lao động cũng đã được giảm bớt và trở nên đơn giản, thuận lợi
hơn. Mặc dù chủ trương chính sách đó được ban hành tương đối đồng bộ và
từng bước hoàn thiện, nhưng vẫn còn chậm trong công tác triển khai vào cuộc
sống,một số ngành, địa phương đứng ngoài hoạt động xuất khẩu lao động hoặc
có tham gia nhưng thiếu triệt để, cán bộ quan liêu,hạch sách dân trong việc giải
quyết thủ tục đi xuất khẩu lao động.
Còn nhiều khoản mục cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước nhưng
chưa được quan tâm đúng mực. Ví dụ như chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối
8


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

với vấn đề tạo lập, giữ vững và phát triển thị trường, vấn đề tư pháp quốc tế, vấn
đề bảo hộ hoạt động xuất khẩu lao động khi tham gia vào thị trường mới.…
2.2.3.Quản lý hoạt động xuất khẩu lao động:
Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội là cơ quan trực tiếp giúp Chính
phủ quản lý hoạt động xuất khẩu lao động. Tùy từng trường hợp mà một số cơ

quan khác như Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ Thương mại,
Ngân hàng Nhà nước, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cũng như
các đoàn thể liên quan đều chịu trách nhiệm liên đới trong việc quản lý hoạt
động này. Nhằm thực hiện một cách có hiệu quả nhất, công tác quản lý đó được
tăng cường nhằm hạn chế những vi phạm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao
động cũng như góp phần tích cực ngăn ngừa các hành vi lừa đảo của các tổ chức
cá nhân ngoài xã hội.
Trong thời gian qua các cơ quan chức năng đã tiến hành 140 cuộc kiểm
tra và 37 cuộc thanh tra đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong đó
thu hồi giấy phép của 8 doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả, đình chỉ có thời
hạn 10 doanh nghiệp do vi phạm trong buông lỏng quản lý hoặc có tỷ lệ lao
động bỏ trốn cao, buộc ngưng hoạt động vô thời hạn đối với 7 đơn vị đóng trên
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Việc xử lý các hành vi vi phạm của doanh
nghiệp và của người lao động đó từng bước góp phần lập lại kỷ cương trong
hoạt động xuất khẩu lao động, ổn định và giữ vững uy tín cho doanh nghiệp Việt
Nam trên thị trường lao động quốc tế. Mặc dù vậy, công tác quản lý lao động
xuất khẩu vẫn còn nhiều yếu kém, đội ngũ cán bộ mỏng, năng lực chưa đáp ứng
được yêu cầu đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu lao động, không thể bảo
vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hoạt động trên thị
trường xuất khẩu lao động cũng như xử phạt nghiêm minh những hành vi vi
phạm của doanh nghiệp và người lao động.
Hiện nay mới chỉ có 6 ban quản lý lao động ở nước ngoài trong khi thị
trường xuất khẩu lao động Việt Nam lại trải rộng trên hơn 40 nước, dẫn đến tình
trạng quá tải trong công tác điều hành, nhất là điều hành từng thị trường. Mặt
khác, đối với từng doanh nghiệp, việc quản lý lao động xuất khẩu chỉ giới hạn
trong phạm vi hẹp ở các vấn đề như: quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp và người
lao động khi ký kết hợp đồng xuất khẩu lao động giữa người lao động Việt Nam
với chủ sử dụng lao động ở nước ngoài hoặc người môi giới…
3. Chất lượng của các doanh nghiệp và trung tâm làm công tác XKLĐ:
Bước đầu phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế để phát triển thị trường

xuất khẩu lao động, hình thành được đội ngũ doanh nghiệp và các trung tâm làm
công tác xuất khẩu lao động tương đối mạnh về cơ sở vật chất, về cán bộ, năng
lực đào tạo lao động. Có 154 doanh nghiệp có giấy phép xuất khẩu lao động
được hình thành, trong đó chiếm gần 90% là doanh nghiệp được bổ sung chức
năng xuất khẩu lao động. Nhiều doanh nghiệp đã tích cực, chủ động trong việc
tìm kiếm thị trường ngoài nước, phối hợp với các cơ quan chức năng, cơ sở đào
tạo nghề để trang bị kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, luật pháp, phong tục tập
9


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

quán, ngoại ngữ cho người lao động. Ngày càng nhiều doanh nghiệp hoạt động
có hiệu quả, có uy tín đối với đối tác nước ngoài, rất thuận lợi cho việc phát
triển thị trường lao động.
Nhưng trên thực tế, chất lượng của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
vẫn tồn tại nhiều bất cập. Đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực này vẫn còn mỏng,
yếu về kinh nghiệm, thiếu về cơ sở vật chất, tiềm lực tài chính, vì vậy khả năng
khai thác và phát triển thị trường còn hạn chế. Song song với những khó khăn
này, chất lượng của các trung tâm dạy nghề cũng có nhiều vấn đề đáng bàn, các
cơ sở đào tạo nghề hiếm, lại nghèo nàn và lạc hậu về cơ sở vật chất, đội ngũ
giáo viên mỏng và yếu về chuyên môn nghiệp vụ, phần lớn những nghề mà
trường đào tạo cho học viên là những nghề trường có khả năng đào tạo chứ chưa
dựa vào nhu cầu thực tiễn của từng thị trường lao động ngoài nước. Mặt khác,
việc đào tạo nghề chỉ nặng về việc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ mà chưa đi
sâu, đi sát để lồng ghép tốt giữa đào tạo chuyên môn nghiệp vụ với ngoại ngữ,
giáo dục pháp luật, phong tục tập quán của nước nhập khẩu lao động.
Như vậy, vấn đề cần quan tâm của các doanh nghiệp cũng như các trung
tâm làm công tác xuất khẩu lao động là không chỉ nâng cao số lượng lao động
xuất khẩu, mà còn phải làm thế nào để cung cấp lao động xuất khẩu vượt ra khỏi

tầm lao động giản đơn, không có nghề; vươn tới xuất khẩu lao động có trình độ
tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu về cơ cấu, chất lượng nghề đào tạo trên thị trường
lao động quốc tế.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG TỈNH NGHỆ
AN
I. Khái quát chung về tỉnh Nghệ An
1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý:
10


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

Nghệ An nằm ở vùng Bắc Trung bộ nước ta, có tọa độ địa lý từ 18 o33' đến
20o25' vĩ độ Bắc và từ 103o53' đến 105o46' kinh độ Đông. Phía Bắc giáp Thanh
Hoá, phía Nam giáp Hà Tĩnh, phía Tây giáp nước bạn Lào và phía Đông giáp
với biển Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Vinh nằm cách thủ
đô Hà Nội 291km về phía Nam. Diện tích: 16.487km². Dân số (theo điều tra
dân số ngày 01/04/2009) có 3.113.055 người, mật độ 177 người/km². Quy mô
hành chính bao gồm: 1 thành phố trực thuộc, 2 thị xã, 17 huyện, 462 xã phường
và 17 thị trấn.
Địa hình Nghệ An gồm có núi, đồi, thung lũng. Độ dốc thoải dần từ Đông
Bắc xuống Tây Nam. Hệ thống sông ngòi dày đặc, có bờ biển dài 82 km. Giao
thông đuờng bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường không đều thuận lợi (có Quốc
lộ 1A và tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua dài 94km, có cảng biển Cửa Lò,
sân bay Vinh...). Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa
rõ rệt. Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm, tỉnh chịu ảnh hưởng của gió
Lào Tây Nam khô và nóng. Vào mùa đông, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông
bắc lạnh và ẩm ướt.
2. Thực trạng lao động tỉnh Nghệ An

2.1. Quy mô lực lượng lao động:
Hiện nay Nghệ An có gần 1,8 triệu lao động, hàng năm số lao động đến
tuổi lao động xấp xỉ 30.000 người. Xét về cơ cấu, lực lượng lao động ở Nghệ An
phần lớn là lao động trẻ, độ tuổi từ 15 - 24 chiếm 22,45%; từ 25 - 34 chiếm
14,16%; từ 35 - 44 chiếm 13% và từ 45 - 54 chiếm 8,71% (xem bảng1). Tỷ lệ
lao động qua đào tạo chiếm 35,7%, tập trung vào một số nghề như sửa chữa xe
có động cơ, lái xe, may mặc, điện dân dụng, điện tử...; các nghề như chế biến
nông, lâm sản, nuôi trồng thủy sản, vật liệu xây dựng… có quá ít lao động đã
qua đào tạo.
Bảng 1.1: Số lao động từ độ tuổi 15 đến 54 của Nghệ An (năm 2009)
Tổng số lao động của tỉnh: 1,8 triệu người
Độ tuổi
Số lao động (người)

15-24

25-34

35-44

45-54

404.100

254.880

234.000

156.780


(nguồn: Báo cáo kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An năm 2009)

Nghệ An có rất nhiều lợi thế về mặt kinh tế do có vị trí thuận lợi trong
giao thương, buôn bán. Vị trí địa lý của tỉnh Nghệ An nằm trên trục giao thông
Bắc - Nam cả về đường bộ, đường sắt, đường biển lẫn đường hàng không. Vì
vậy tỉnh có điều kiện giao lưu kinh tế với các tỉnh thành trong cả nước và một số
nước trong khu vực. Bên cạnh đó, tỉnh còn có lợi thế là quỹ đất nông nghiệp
rộng hơn 19,5 vạn ha, diện tích đất trống, đồi núi trọc chưa sử dụng trên 58 vạn
ha, tài nguyên rừng và biển rất phong phú, có giá trị kinh tế cao. Mặc dù thời tiết
11


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

có phần khắc nghiệt, khi nóng, khi bão lụt nhưng khí hậu ở đây lại thích hợp với
nhiều loại cây trồng và vật nuôi như: lúa, cà phê, cao su, cam, nhãn, xoài... Bên
cạnh đó, nguồn nhân lực của tỉnh lại tương đối dồi dào, có truyền thống cần cù,
hiếu học, trình độ sản xuất ngày càng cao.
Chính nhờ các yếu tố thiên thời - địa lợi - nhân hòa và nội lực của mình
mà tổng giá trị GDP toàn tỉnh Nghệ An vẫn tăng đều qua các năm; sự chuyển
dịch cơ cấu giữa các ngành kinh tế trong tỉnh cho thấy là rất phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế chung của cả nước. Những ngành có lợi ích kinh tế cao
như Công nghiệp và Xây dựng hay Dịch vụ đang dần chiếm được vị trí quan
trọng bên cạnh các ngành vốn đã được coi là ngành truyền thống, tạo nên sự cân
bằng và ổn định trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh hiện nay cũng như thời
gian sắp tới (xem số liệu tại bảng 2 và bảng 3).
Bảng 2: Tổng GDP trong tỉnh qua các năm (2002 - 2006)
Chỉ tiêu GDP
trong tỉnh


Đơn vị

2002

2003

2004

2005

2006

(tỉ đồng)

7.654

8.524

9.386

10.282

11.330

Bảng 3: Cơ cấu GDP trong các ngành kinh tế qua các năm (2002 - 2006)
Chỉ tiêu các ngành Đơn vị

2002

2003


2004

2005

2006

Công nghiệp và Xây
dựng

%

23,35

25,88

28,73

29,30

26,39

Nông - Lâm nghiệp
và Thuỷ sản

%

41,01

37,95


36,92

34,41

33,09

Dịch vụ

%

35,65

36,18

34,35

36,29

37,52

(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2007 tỉnh Nghệ An - Chi cục thống kê Nghệ An)

Tỷ lệ lao động Nông - Lâm nghiệp trong tổng số lao động xã hội giảm từ
73,5% năm 2005 xuống 67,3% năm 2008; Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu
vực nông thôn tăng từ 74,16% năm 2005 lên 80,65% năm 2008. Trong các năm
từ năm 2006 – 2008, toàn tỉnh đã tạo việc làm mới cho hơn 97 nghìn người,
giảm tỷ lệ lao động thất nghiệp ở khu vực thành thị xuống còn 3,55%. Riêng 10
tháng đầu năm 2009, toàn tỉnh đã tạo việc làm cho 28.600 người, trong đó tạo
việc làm mới tập trung 8.500 người. Cơ cấu lao động tiếp tục có sự chuyển dịch

đúng hướng, với tỷ trọng giữa các khu vực: công nghiệp, xây dựng 15,4%; nông
lâm, ngư nghiệp 63,6%; dịch vụ 20,9%. Phát triển nhanh mạng lưới cơ sở dạy
nghề, nhất là dạy nghề ngoài công lập. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 60 cơ sở
dạy nghề (với 25 cơ sở dạy nghề ngoài công lập), trong đó có 05 trường cao
đẳng nghề và có dạy nghề; 09 trường trung cấp nghề và có dạy nghề (nguồn:
Báo cáo kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An năm 2009).
12


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

2.2 Chất lượng của lực lượng lao động:
Trong những năm qua nhờ các chính sách đầu tư cho giáo dục và các vấn
đề liên quan đến phát triển con người nên trình độ học vấn nói riêng và chất
lượng của lực lượng lao động nói chung của tỉnh Nghệ An ngày càng được nâng
cao. Cho đến nay, tất cả các huyện, thị, thành phố trong tỉnh và 100% số xã,
phường đã được công nhận phổ cập tiểu học và chống mù chữ.Tỷ lệ lao động
được đào tạo khoảng 15%. Toàn tỉnh hiện có 105 tiến sỹ, trên 400 thạc sỹ, gần
24.000 người có trình độ đại học, 14.000 người có trình độ cao đẳng, 60.000
người có trình độ trung học chuyên nghiệp. Năm 2008, các cơ sở đào tạo nghề
tuyển mới 43.800 học viên thì đến năm 2009 con số đó là 66.900 học viên. Cùng
với sự phát triển về mạng lưới cơ sở đào tạo, tỉnh đã ban hành nhiều cơ chế,
chính sách khuyến khích việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ, thu hút nhân lực có
trình độ cao, hỗ trợ học nghề cho người lao động, tăng ngân sách đầu tư xây
dựng cơ bản và mua sắm trang thiết bị kỹ thuật cho các trường đào tạo nghề của
tỉnh và các trung tâm dạy nghề ở các địa phương. Đáng chú ý là theo đề án đào
tạo công nhân kỹ thuật bậc cao, trong giai đoạn 2007-2010 các trường dạy nghề
sẽ bổ sung cho thị trường lao động khoảng 34.000 công nhân bậc 3, 4.Hằng năm
toàn tỉnh đã đào tạo cho trên 5 vạn lao động, đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo đến
nay lên gần 40 % trong tổng nguồn lao động, trong đó đào tạo nghề 26,8%, cơ

bản đáp ứng mục tiêu của Đại hội Đảng bộ tỉnh khóa XVI.
3. Thực trạng việc làm tỉnh Nghệ An:
Những năm qua, bên cạnh việc đầu tư phát triển kinh tế xã hội của tỉnh,
Nghệ An đã có nhiều nỗ lực trong việc giải quyết việc làm, tích cực kêu gọi các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. 6 tháng đầu năm 2009, toàn tỉnh đã tạo việc làm
cho 16.400 người, trong đó tạo việc làm mới tập trung 4500 người; tỷ lệ thất
nghiệp lao động khu vực thành thị đến tháng 6/2009 là 3,18%.đến cuối 2009
toàn tỉnh đã tạo việc làm cho 3,2 vạn lao động. Trong đó, tạo việc làm mới tập
trung 10.000 người. Giảm tỷ lệ thất nghiệp lao động khu vực thành, thị xuống
2,8%; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động khu vực nông thôn lên trên 85%.
Tình hình kinh tế xã hội của tỉnh giai đoạn 2004-2008:
Bảng 1.2: Nông nghiệp
TT

Nội dung

Đơn vị
tính

2004

2005

2006

2007

2008

1 Giá trị sản xuất nông nghiệp tr.đồng 7.027.450 7.479.661 8.8485.675 9.740.793 13.111.956

nghìn
Sản lượng lương thực có hạt
1.098
1.041
1.144
1.054
1.154
tấn
2
- Lúa
881
882
911
847
932
- Ngô
217
219
233
207
223
3 Sản lượng chăn nuôi gia súc
tấn
gia cầm
- Thịt trâu
3.634
4.240
4.139
4.437
5.324

- Thịt bò
4.333
5.512
6.126
6.694
8.701
13


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp
- Thịt lợn
- Thịt gia cầm
- Trứng (nghìn quả)

-

80.321
17.506
277.033

93.810
18.512
288.313

94.982
17.835
290.601

104.018
18.522

297.459

111.300
24.078
325.021

Bảng 1.3: Lâm nghiệp
TT

1
2
3
4

Đơn vị tính
Nội dung
Giá trị sản xuất lâm
Triệu đồng
nghiệp
Sản lượng gỗ khai
m3
thác
Diên tích rừng tự
ha
nhiên
Diện tích rừng trồng
ha

2004


2005

810.689 851.599
92.129

2006

2007

2008

918.878

986.624 1.087.254

93.462

92.741

98.897

102.496

620.398 643.120

643.020

641.960

641.373


84.640

93.013

101.850

87.628

74.785

Bảng 1.4: Thuỷ sản
Đơn vị
tính
1 Gia trị sản xuất thuỷ sản Triệu đồng
Tấn
2 Tổng sản lượng thuỷ sản
Tấn
3 Sản lượng khai thác
Tấn
4 Sản lượng nuôi trồng
ha
5 Diện tích nuôi trồng
ha
6 Nuôi nước ngọt
ha
7 Nuôi nước măn, lợ
Cái
8 Số lượng tàu thuyền
cv

9 Tổng công suất

TT

Chỉ tiêu

2004

2005

2006

2007

2008

624.747 799.575 901.908 1.050.256 1.239.309
61.133 66.604 70.894
79.466
86.168
41.362 44.503
45.785
50.835
54.855
19.771 22.101 25.109
28.631
31.313
17.415 18.772 19.782
20.364
21.131

16.076 17.493 18.222
18.765
19.455
1.339
1.279
1.560
1.599
1.676
3.169
3.476
3.845
153.190 154.680 153.570
-

(nguồn:Niêm giám thống kê năm 2008 tỉnh Nghệ An - Chi cục Thống kê Nghệ An)

Bảng 1.5: Giá trị sản xuất công nghiệp Sản phẩm chủ yếu công nghiệp trong
toàn tỉnh (Đơn vị: Triệu đồng)
Năm
2004
2005
2006
2007
Chỉ tiêu
Giá trị sản xuất công nghiệp
5.049.032 6.722.022 7.936.511 9.921.143
Trong đó:
Công nghiệp quốc doanh
2.281.919 3.330.949 3.698.525 4.262.054
Công nghiệp ngoài quốc doanh; 2.049.964 2.557.682 3.376.798 4.800.728

Khu vực có vốn đầu tư nn
717.149
833.391 861.188
858.361

2008
13.216.488
5.253.661
6.744.664
1.218.163

Bảng 1.6: Cơ cấu giá trị sản xuất công nghiệp (Đơn vị: %)
Năm
Chỉ tiêu
Giá trị sản xuất CN quốc doanh
Giá trị sản xuất CN ngoài quốc doanh
Giá trị sản xuất CN có vốn đầu tư NN

2004
45,2
40,6
14,20

2005
49,55
38,05
12,40

2006
46,6

42,55
10,85

2007
42,96
48,39
8,65

2008
39,75
51,03
9,22
14


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

Bảng 1.7: Giá trị sản suất công nghiệp phân theo ngành công nghiệp
(Đơn vị: Triệu đồng)
Năm
Chỉ tiêu
1. Công nghiệp khai thác
2. Công nghiệp chế biến
3. Sản xuất và phân phối điện nước

2006
463.074
5.103.603
24.457


2007

2008

544.945
6.125.483
58.610

650.150
7.473.114
69.336

Bảng 1.8: Sản phẩm chủ yếu công nghiệp trong toàn tỉnh
TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16

17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27

Đơn vị
tính
1000 tấn
Than sạch
tấn
Quặng
1000 tấn
Đá phiến
1.000 m3
Đá các loại
100 m3
Cát sỏi các loại
1000 tấn
Muối
tấn
Thuỷ sản đông lạnh
1000 lít
Nước mắm

tấn
Đường kính
tấn
Bánh kẹo các loại
1000 lít
Bia các loại
1000 m
Vải lụa thành phẩm
1000 cái
Quần áo dệt kim
1000 cái
Quần áo may sẵn
Nghìn bìa
Da thuộc mềm
Nghìn đôi
Giầy, dép da
1000 m3
Gỗ xẻ các loại
Tr.trang
Trang in
1000 m3
Oxy
Nghìn tấn
Phân bón hỗn hợp
1000 cái
Lốp xe đạp
1000 Tấn
Xi măng các loại
1000 viên
Gạch nung

1000 viên
ngói nung
Cái
Xe cải tiến
1000 m3
Nước máy sản xuát
Cái
Máy tuốt lúa có động cơ

Tên sản phẩm

2004

2005

2006

2007

17,0
16,5
16
16,0
210
791
868
470
166,37
42,18
150

214
867,39 890,97 1111,83
1279
1518,84 1465,23 1818,33
1661
68,14
97,10
93,05
93
914
1606
2583
2405
17910
20357
21097 23558
147397
96651
87596 117019
569
577
762
1246
29509
30801
30451
38709
111
162
12

12
2970
1713
1700
2400
3553
4404
4750
5169
745
512
467
181
43
38,9
40
38
46,11
56,57
62,71
86
2155
2328
2267
2363
1047,38 1096,49
889,1
1343
32,52
35,12

75
84
400
126
2
5
1033,62 1327,21 1482,14
1582
267678 352519 377880 427063
50895
64713
65600 72599
2844
2760
3104
5226
7566
10402
1158 13583
550
611
1600
1810

2008
15,5
520
270
1370
1800

98
2540
27000
140215
1300
47450
2700
5540
182
40
88
2603
1668
90
1637
510700
83500
5750
15355
2000

(Nguồn: Niêm giám thống kê năm 2008 tỉnh Nghệ An - Chi cục Thống kê Nghệ An)

Bảng 1.9: Dịch vụ du lịch
Nội dung
1 Số lượt khách đến

TT

Đơn vị

Người

2004
2005
2006
2007
2008
1.180.604 1.509.776 1.599.334 1.864.636 1.943.880
15


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp
trong đó:
- Người Việt Nam ;
- Người nước ngoài:
Tổng số doanh thu:
- Của cơ sở lưu trú
2
- Của cơ sở lữ hành

Người
Người
Triệu
đồng

1.148.110 1.465.416 1.546.124 1.814.205 1.878.380
26.758
44.360
53.210
50.431

165.500
153188
198101
253022
297988
355798
146549
188992
236985
277068
330148
6639
9109
16037
20920
25650

* Thương mại - Dịch vụ:
Bảng 1.10: Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ toàn tỉnh
(Đơn vị: Triệu đồng)
Năm
2004
Chỉ tiêu
Tổng số
I -Phân theo thành phần kinh tế
1. Khu vực kinh tế trong nước
- Nhà nước
1.159.661
- Tập thể
33.208

- Cá thể
4.752.499
- Tư nhân
1.774.654
2. Khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài.
II Phân theo ngành hoạt động
- Thương mại
6.582.873
- Du lịch
6.639
- Khách sạn nhà hàng
832.540
- Dịch vụ
297.970

2005

2006

1.241.591 1.261.707
34.756
38.968
5.622.756 6.109.686
2.154.113 3.069.433

2007

2008


1.570.625
42.387
6.995.094
3.883.184

1.969.290
73.260
8.697.890
5.219.820

7.723.201 8.873.420 12.491.290
9.109
16.037
20.231
87.887 1.163.772 10.417.636
333.032 426.565
571.179

15.960.260
25.650
13.136.120
851.850

Bảng 1.11: Xuất nhập khẩu

16


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp
Năm

Chỉ tiêu
Xuất khẩu hàng hoá
Giá trị xuất khẩu
1 - Lạc nhân
2- Thuỷ sạn đông lạnh
3- đường kính
4- Chè
5 - Cà phê hạt
6- Gạo tẻ
7- Quần, áo dệt kim
8- Sản phẩm bằng gỗ
9- Tinh bột sắn
10- Vừng
11- Nhựa thông
12- đá vôi trắng
13- Khoáng sản
14- Thủ công mỹ nghệ
Nhập khẩu hàng hoá
- Giá trị nhập khẩu
Mặt hàng chủ yếu
Xe ô tô các loại
Xe máy
Sắt thép
Linh kiện điện tử
Phân bón
Nhựa đường
Gỗ tròn
Gỗ xẻ
Phụ tùng máy nông nghiệp
Máy móc thiết bị


Đơn vị
tính

2004

2005

2006

2007

2008

1000 USD
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
Tán
1000 cái
1000 USD
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
Tấn
1000 USD


54.483
15.271
12
135
4.363
593
10.069
1.445
3.241
75.592
30
3.358
59.249
25.473
1.701

86.589
13.792
70
5.041
4.439
15.467
1.246
1.324
87.505
2.765
138.098
28.087
2.441


98.547
4.382
332,9
6.713
9.173,9
6.862
777
2.100
87.505
1.818
150.744
47.101
3.012

114.416
9.627
478
936
5.390
5.522
6.570
745
2.427
61.501
284
691
254.876
15.650
2.950


146.694
2.332
116
120
5.940
743
17.060
995
2.033
27.564
227.809
24.445
2.159

1000USD

105.047

105.062

80.981

117.878

203.638

Cái
Cái
Tấn
1000 USD

Tấn
Tấn
m3
m3
1000 USD
1000 USD

381
24.983
15.344
2.031
122.208
7.920
39.139
5.610
17.000
1.500

205
9.511
7.830
1.606
79.401
10.589
46.188
851
25.572

108
11.257

11.667
2.423
26.901
14.178
70.669
989
4.185

77
33.161
1.905
4.055
37.599
5.246
174.171
3.281
9.861

20
23.308
246
3000
115.749
4.611
336.058
2.363
3.240
6.148

(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008 tỉnh Nghệ An - Chi cục Thống kê Nghệ An)


* Bưu chính - Viễn thông
Bảng 1.12: Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết quả hoạt động của ngành BC-VT

17


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp
ĐVT

2002

2003

2004

2005

2006

2007

2008

Mạng lưới điểm Bưu
Đơn vị
cục
Bưu cục cấp 1
"
Bưu cục cấp 2

"
Bưu cục cấp 3
"
Số thuê bao điện thoại Thuê bao

129

129

1
18
110
95916

1
18
110

Cố định

"

92624

150909 186821 236931 294480

399540

Di động


"

3292

12952 143393 253986 506338

656449

Số thuê bao điện thoại
"
bình quân 100 dân
Số thuê bao internet
"
(ADSL)
Số cơ sở có trang tin
Cơ sở
điện tử riêng
Số máy vi tính đang sử
Nghìn cái
dụng
Số đơn vị có giao dịch
Đơn vị
thương mại điện tử
Sản lượng
Nghìn
Bưu phẩm
bưu phẩm
Bưu kiện
Bưu kiện
Thư và điện chuyển tiền Cái

Báo chí phát hành
Nghìn tờ
Nghìn
Điện báo
tiếng
Nghìn
Điện thoại
phút
Nội tỉnh
"
Liên tỉnh
"
Quốc tế
"
Doanh thu bưu chính,
Tỷ đồng
viễn thông

123
...

...

286
...

...

244
11729

87690
10767
550
82320

121

120

123

123

122

1
1
1
1
1
18
18
18
18
18
102
101
104
104
103

163861 330214 490917 800818 1055989

567

591

2080

11591

28587

...

...

...

...

15

261

279

308

194


...

...

...

...

...

...

326

410

501

556

695

28857 24912 27106 31187
137701 288190 292934 382001
13767 18932 14229 16281

30094
67370
14632


761

751

657

509

...

116498 116892 132275 119145

...

40826
41267
227

64755
51064
679

73423
42836
633

80579
50871
825


73483
44882
780

...
...
...

...

...

510

675

836

1100

(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2009 tỉnh Nghệ An - Chi cục Thống kê Nghệ An)

II.Tình hình xuất khẩu lao động ở Nghệ An
1.Thành tựu đạt được
Mặc dù nền kinh tế suy thoái ảnh hưởng toàn cầu về vấn đề nay, nhưng
các ngành, các cấp tiếp tục quan tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện, nhất là: đẩy
mạnh tuyên truyền, quảng bá, thông tin sâu rộng làm ổn định, tạo lòng tin cho
người lao động về tình hình thị trường, về chính sách, quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm của cá nhân, tổ chức trong xuất khẩu lao động; tiếp tục mời gọi, tạo điều
18



Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

kiện cho các doanh nghiệp có uy tín, có tư cách pháp nhân về tỉnh tuyển lao
động xuất khẩu và duy trì có hiệu quả mô hình liên kết giữa chính quyền xã,
phường với đơn vị xuất khẩu lao động
để tổ chức tuyển chọn, giáo dục định
hướng tạo nguồn cho xuất khẩu lao
động theo yêu cầu của thị trường.Theo
thống kê đến 30/11/2009, trong gần 4
năm ( 2006-2009) toàn tỉnh đã đưa
được hơn 42.000 lượt lao động; trong
đó: năm 2006 là 8.780 người, năm
2007 là 13.450 người, năm 2008 là
11.280 và 11 tháng đầu năm 2009 có
gần 8.500 người; thị trường lao động
đi làm việc ở Đài Loan chiếm 19%,
Malaysia 35%, Hàn Quốc 5,7% , Nhật
Bản 0,9%, các nước Trung Đông
10,4% và các nước khác còn lại 29%.
Thu nhập bình quân hàng năm từ
nguồn ngoại tệ gửi về nước gần 70
triệu USD qua các Ngân hàng thương mại, chưa kể chuyển tiền theo các hình
thức khác. xuất khẩu lao động tạo việc làm ở ngoài nước có tác động tích cực
đem lại công ăn việc làm cho số lao động ở các vùng chuyển đổi mục đích sử
dụng đất, vùng đông dân cư, dư thừa lao động và đặc biệt là sự gắn kết giữa
chương trình XKLĐ với giải quyết chính sách cho bộ đội xuất ngũ và hoàn
thành nghĩa vụ quân sự hàng năm.
2.công tác tuyển chọn nguồn lao động

Công tác chuẩn bị nguồn lao động xuất khẩu được chú trọng, nâng cao
chất lượng đào tạo ngoại ngữ, bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho lao động trước
khi đi làm việc ở nước ngoài. Nhiều địa phương cơ sở thực hiện tốt công tác
phối hợp với doanh nghiệp XKLĐ tạo nguồn lao động với số lượng và chất
lượng tăng như: huyện Nghi Lộc 967 người, Diễn Châu 808 người, Nam Đàn
772 người, Hưng Nguyên 725 người, Đô Lương 634 người, Cửa Lò 566
người...Một số huyện miền núi đã triển khai có hiệu quả công tác này, điển hình
như: huyện Nghĩa Đàn: 943 người, Thanh Chương 761 người, Anh Sơn 599
người, Quỳ Hợp 211 người.Các xã trong tỉnh có người lao động đi xuất khẩu
như Nghĩa Lộc ,Hưng Lam,Hưng Thông,Hưng Đạo …cũng đã thành lập các ban
chỉ đạo có nhiệm vụ tham mưu cho UBND xã trong công tác tuyên truyền, vận
động và tổ chức thực hiện đề án trong đời sống cộng đồng dân cư. Đồng thời
chịu trách nhiệm trước UBND xã về việc liên hệ chọn lọc tìm đối tác tin cậy, có
đủ điều kiện để phối hợp trong công tác này. Bên cạnh đó, hoạt động của các
trung tâm dịch vụ việc làm đó được triển khai một cách có hiệu quả và cũng thu
được những thành tựu nhất định. So với trước đây, công tác cung ứng lao động
cho các doanh nghiệp XKLĐ chủ yếu do các trung tâm DVVL tự khai thác, tổ
19


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

chức thực hiện, không được quán triệt sâu rộng đến từng địa bàn dân cư như
thôn xóm hay tổ dân phố nên không huy động được mọi nguồn lực tham gia,
nhiều người có nguyện vọng, đủ điều kiện nhưng do không được thông tin nên
không có cơ hội tham gia để được đi làm việc ở nước ngoài.Công tác quản lý
nhà nước về XKLĐ đó được tăng cường, nhằm hạn chế những vi phạm cảu các
doanh nghiệp XKLĐ, góp phần tích cực ngăn ngừa các hành vi lừa đảo của các
tổ chức, cá nhân ngoài xã hội. Đó quyết định thu hồi giấy phép XKLĐ của các
doanh nghiệp vi phạm và hoạt động không hiệu quả như Công ty Cung ứng xuất

khẩu lao động và chuyên gia Nghệ An (Napeco).Bước đầu đã xây dựng được
một số doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có uy tín và độ tin cậy cao đối với
đối tác nước ngoài và người lao động làm cho người lao động tin tưởng hơn và
quyết tâm hơn trong việc tham gia XKLĐ.
3.Công tác giáo dục – định hướng cho người lao động.
Giáo dục định hướng có vai trò quan trọng, giúp nâng cao nhận thức, hiểu
biết của người lao động trong thời gian sống và làm việc ở nước ngoài. Nhờ thế
họ có thể sống và làm việc tốt hơn ở nước ngoài, đặc biệt là nâng cao được ý
thức tôn trọng pháp luật, kỷ cương của nươc sở tại. Những năm trước đây công
tác XKLĐ chủ yếu là tự phát, chạy theo số lượng nên công tác giáo dục, đào tạo
định hướng cho lao động cũng bị coi nhẹ, dẫn đến tình trạng người lao động
sang làm việc ở nước ngoài gặp nhiều bỡ ngỡ, không được trang bị những kiến
thức, kỹ năng cần thiết nên tình trạng vi phạm hợp đồng phải trả về nước do bất
đồng ngôn ngữ, do thiếu hiểu biết chiếm tỷ lệ đáng kể, điển hình là lao động đi
giúp việc gia đình ở Đài Loan.Khắc phục tình trạng trên,trong những năm gần
đây công tác tuyên truyền, giáo dục định hướng, tuyển chọn và đào tạo đó được
các địa phương quan tâm, phối hợp cùng với các doanh nghiệp XKLĐ chỉ đạo
các cơ sở đào tạo tại địa phương tổ chức đào tạo tại chỗ, theo đó người lao động
không phải tập trung về các doanh nghệp XKLĐ, giảm được thời gian và chi phí
cho người lao động. Công tác này đó gúp phần bổ sung nhiều kiến thức cũng
như kinh nghiệm cho người lao động,đồng thời trang bị những kiến thức phù
hợp với yêu cầu, đòi hỏi cũng như đặc trưng của từng thị trường.

4.chính sách hỗ trợ người lao động xuất khẩu lao động.
Thấy được tầm quan trọng của XKLĐ đối với việc tạo việc làm, xoá đói
giảm nghèo, các chương trình quốc gia Ngân hàng Nhà nước sớm triển khai và
hỗ trợ người lao động vay các chi phí cần thiết khi đi làm việc ở nước ngoài.
Căn cứ quyết định số 440/2001/QĐ- NHNN ngày 17/04/2001 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước về việc cho vay đối với người lao động đi làm việc có thời
hạn ở nước ngoài, ngân hàng nông nghiệp đó ban hành hướng dẫn số

3582/NHNo-TD ngày 26/01/2002, số 392/NHNo-TD ngày 21/2/2003, theo đó
người lao động đi XKLĐ không thuộc diện chính sách được vay tối đa 20 triệu
mà không cần thế chấp. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với những
20


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

người đi XKLĐ đặc biệt là những người lao động nghèo. Bên cạnh đó, các thủ
tục vay vốn cũng được sửa đổi, giảm bớt theo hướng ngày càng đơn giản và
thuận lợi hơn cho họ.
Nhìn chung, hoạt động xuất khẩu lao động tỉnh Nghệ An mới chỉ phát
triển mạnh và được chú ý nhiều trong vòng 2-3 năm trở lại đây, nhưng hoạt
động này hiện nay đã có được sự quan tâm chú ý và thu được những thành quả
đáng lưu ý, giúp phần giải quyết việc làm cho người lao động, đồng thời cũng
góp phần tăng GDP hàng năm của tỉnh thông qua số ngoại tệ thu được nhờ các
chi phí cho họat động xuất khẩu lao động cũng như số tiền mà họ gửi về cho gia
đình.
II.Những tồn tại của hoạt động xuất khẩu lao động tỉnh Nghệ An.
1.Công tác chỉ đạo,kiểm tra,tuyên truyền giúp người lao động nắm rõ pháp
luật còn yếu.
Do chưa nắm rõ hoạt động,lợi ích của việc xuất khẩu lao động,cũng như
trình độ quản lý chưa cao nên một số địa phương trên địa bàn tỉnh còn chưa khai
thác hết tiềm năng nguồn lao động của tỉnh,chưa có chính sách hỗ trợ kịp thời
cho người đi lao động nước ngoài,thiếu thông tin về thị trường nên xảy ra tình
trạng bị các công ty ma tung ra những chiêu thức lừa đảo quá tinh vi và chính
những người lao động phải ngậm ngùi bởi những khoản nợ chồng chất do đi vay
để nộp tiền đặt cọc. Và thêm vào đó là hàng loạt các rủi ro khác như: không xuất
khẩu lao động được sau một thời gian dài chờ đợi và cũng không thể lấy lại
được số tiền đã đặt cọc, hoặc nếu có thì chỉ là một phần nhỏ.Thực tế cho thấy, số

vụ lừa đảo không những đã tăng lên hàng năm mà diễn biến của nó cũng hết sức
phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Bên cạnh việc tuyển dụng lao động bất
hợp pháp của một số cán bộ chi nhánh, trung tâm thuộc một số doanh nghiệp
đầu mối là sự xuất hiện một số doanh nghiệp không có chức năng này cũng làm
công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh nghĩa
đưa đi học và làm việc tại nước ngoài. Có trường hợp đối tượng lừa đảo còn
chọn vị trí ngay gần các doanh nghiệp có uy tín, thương hiệu trong lĩnh vực này
để hoạt động. Ngoài ra, chúng còn thông qua các trung tâm đào tạo nghề, thành
lập các doanh nghiệp ở vị trí lẩn khuất, giả danh cán bộ đi tuyển sinh, đưa người
lao động đi học để gây được niềm tin… Vì thế mà nhiều người sau một thời gian
dài đi học, đã đóng một khoản tiền lớn cho cò mồi mới hay mình bị lừa.
Hiện nay, việc đưa người lao động đi xuất khẩu lao động nước ngoài là
một trong những hoạt động hấp dẫn khá nhiều các đối tượng tham gia. Những
lợi ích trước mắt trong việc đưa người đi lao động khiến cho nhiều tổ chức tham
gia vào hoạt động này, nhưng đáng tiếc là họ không đủ khả năng. Thị trường lao
động nước ngoài mặc dù đem lại cho nguồn lao động trong nước cơ hội làm việc
với mức thù lao lớn hơn trong nước nhưng nó cũng có rất nhiều vấn đề pháp lý
liên quan, nếu không nắm bắt rõ được các quy định của cả trong nước và nước
ngoài thì quyền lợi của người lao động Việt Nam sẽ rất khó được đảm bảo. Theo
quy định tại mục c khoản 2 Điều 27 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc
21


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 thì doanh nghiệp dịch vụ có nghĩa vụ
“Phối hợp với chính quyền địa phương thông báo công khai, cung cấp cho người
lao động đầy đủ các thông tin về số lượng, tiêu chuẩn tuyển chọn và các điều
kiện của Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài”. Tuy nhiên,
những người lao động đã từng đi đăng ký ở một số Công ty, Trung tâm Xuất

khẩu lao động nước ngoài phải trở về quê vì không được đi, đa số họ chỉ thông
qua một người giới thiệu nào đó để đi đến các Công ty, các Trung tâm Xuất
khẩu lao động đăng ký. Đến các Công ty hay Trung tâm này, họ cũng được yêu
cầu nộp hồ sơ, đóng tiền phí và được học tiếng của nước mình sẽ đi xuất khẩu
lao động, song có một điều quan trọng mà họ không hề được biết là công ty
nước ngoài nào thuê mình, vì trong hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài do các Công ty, các Trung tâm cấp cho họ, không hề ghi tên và số
của hợp đồng cung ứng lao động. Mà bản hợp đồng này chỉ có giá trị làm thủ
tục vay tiền ngân hàng, họ được học trong một thời gian dài nhưng không được
ký hợp đồng. Có người đã học xong tiếng để đi Hàn Quốc, nhưng lại phải
chuyển qua lớp học tiếng Đài Loan, vì Trung tâm thông báo nhu cầu của bên
Hàn Quốc hiện thời không có. Lúc đầu, các Công ty, Trung tâm cũng thông báo
thời gian xuất cảnh đi lao động, nhưng đến hạn lại thông báo chuyển sang thời
điểm khác vì nhiều lý do khác nhau.Hơn thế nữa, ngay cả đối với những trường
hợp đã được đi, thì quyền và lợi ích của những người lao động này cũng không
được bảo đảm đầy đủ. Nhiều doanh nghiệp dịch vụ đã không thực hiện đúng các
nghĩa vụ đã cam kết sau khi họ đưa người lao động ra làm việc ở nước ngoài.
Tại mục e khoản 2 Điều 27 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng cũng đã quy định cho các doanh nghiệp dịch vụ phải có
nghĩa vụ: “Phối hợp với bên nước ngoài giải quyết các vấn đề phát sinh khi
người lao động chết, bị tai nạn lao động, tai nạn rủi ro, bị bệnh nghề nghiệp, bị
xâm hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và giải quyết tranh
chấp liên quan tới người lao động”. Nhưng thực tế thì hiện tượng người lao động
không được bảo vệ thích đáng trong quá trình lao động còn xảy ra khá phổ biến,
vì khi sang nước ngoài họ không hề liên lạc được với doanh nghiệp dịch vụ đã
đưa mình đi cũng như không có tổ chức nào ở nước ngoài đứng ra bảo vệ họ.bên
cạnh đó Hình thức tuyên truyền cũng đơn giản và mang tính một chiều, chưa có
nhiều hoạt động thông tin tuyên truyền rộng rãi ở trên đài phát thanh truyền
hình, băng rôn quảng cáo hay tổ chức những “hội chợ xuất khẩu lao động” trên
địa bàn tỉnh để cho người lao động có thể tiếp cận được nhiều hơn thông tin về

các thị trường cần lao động nhập khẩu,mà mới chỉ có những chỉ thị mang tính
chất hành chính từ ban chỉ đạo cấp trên đưa xuống các huyện,thành phố để đề ra
mục tiêu thực hiện hoặc các mục tiêu năm, chưa có sự bố trí thu thập thông tin
phản hồi từ người lao động.
Việc thông tin - tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng
cũng quá ít về số đợt cũng như thời lượng làm cho người lao động không được
tiếp cận đầy đủ thông tin, tạo nên sự kém hiệu quả trong công tác xuất khẩu lao
động của tỉnh những năm qua.Nguồn thông tin tuyên truyền trước khi đi lao
22


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

động bị thiếu hụt, do vậy một bộ phận người lao động và gia đình chưa có được
nhận thức đúng đắn về trách nhiệm, nghĩa vụ thực hiện đúng hợp đồng đó cam
kết nên tình trạng lao động bỏ trốn ra làm ngoài ở một số nước đang ở mức báo
động, nhất là mấy năm trở lại đây, tình hình này lại càng diễn ra phổ biến hơn.
2.Công tác tuyển chọn lao động
Một số doanh nghiệp đã triển khai về đến tận các địa phương để tuyển
chọn lao động nhưng công tác tuyển chọn này chưa tốt nên chất lượng lao.lao
động thấp cả về chuyên môn, nghề nghiệp lẫn kiến thức ngoại ngữ, sức khỏe và
ý thức tổ chức kỷ luật.Lao động đủ điều kiện về sức khỏe cũng như các điều
kiện tiêu chuẩn trong các đợt tuyển lao động chỉ chiếm 20-25%,tỷ lệ trúng
tuyển chung của toàn tỉnh đạt mức 70%. Đây là những tồn tại mà lao động Nghệ
An cũng như lao động của cả nước đang gặp phải. Mặt khác hệ thống trung tâm
dịch vụ việc làm hoạt động còn yếu, chưa nắm chắc khả năng cung cầu về thị
trường xuất khẩu lao động, chưa làm tốt chức năng tư vấn giới thiệu trong lĩnh
vực xuất khẩu lao động - là chức năng chính của các trung tâm, cũng như chưa
thực sự là cầu nối giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động với người lao động
trong mô hình liên kết giữa doanh nghiệp - trung tâm dịch vụ việc làm - người

lao động.
Bên cạnh đó một số trung tâm dịch vụ việc làm,công ty xuất khẩu lao
động xuống địa phương trực tiếp tuyển chọn lao động nhưng do không thông
qua cơ quan chỉ đạo nên đó gây ra khó khăn cho công tác quản lý của các cấp và
việc thẩm định của các cơ quan nhà nước, do vậy việc xác định các doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả hay không là rất khó khăn, việc đầu tư cho những
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả do vậy mà cũng không thể tiến hành được.
Tình trạng làm việc không công khai như trên cũng gây ra hiện tượng không
minh bạch, thống nhất trong việc xác định mức đóng góp cho từng chương trình
xuất khẩu lao động. Tồn tại trên cũng gây ra sự chồng chéo, chưa có sự chỉ đạo
thống nhất về việc phân vùng địa bàn tuyển chọn lao động cho từng doanh
nghiệp dẫn đến tình trạng một doanh nghiệp về tuyển chọn trên nhiều địa bàn,
ngược lại một địa bàn có quá nhiều doanh nghiệp về tuyển chọn lao động nhưng
lại có những địa bàn chưa hề có một doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao
động nào quan tâm tới.
3.Nguồn vốn hỗ trợ cho người lao động xuất khẩu
Thực tế, để hoạt động
xuất khẩu lao động được
diễn ra thuận lợi, cần phải có
tài chính đầy đủ cho chương
trỡnh từ cụng tỏc tuyển chọn
ở từng địa phương đến công
tác đào tạo cho đến khi
người lao động đi xuất khẩu
sang nước bạn.Thực tế cho
23


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp


thấy, hiện có rất nhiều kênh để lao động có cơ hội tiếp cận nguồn vốn vay xuất
khẩu lao động. Ngoài chương trình cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội,
rất nhiều ngân hàng cũng đã triển khai chương trình chương trình cho vay này.
Tuy nhiên, theo đánh giá của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, nguồn vốn để cho vay hiện còn hạn
chế, mức cho vay còn thấp, thủ tục vẫn quá phức tạp.Với mức cho vay khoảng
20 triệu đồng/người (không cần tài sản thế chấp), chỉ đủ cho người lao động chi
phí đi làm việc tại một số thị trường có mức thu nhập thấp như Trung Đông,
Malaysia. Với thị trường có yêu cầu cao hơn như Hàn Quốc, Đông Âu, Nhật
Bản, Australia... thì tiền vay chỉ đáp ứng được một phần nhỏ chi phí,thậm chí
với khoản vốn vay 20 triệu đồng, lao động không thể tiếp cận bất cứ thị trường
nào bởi lẽ ngoài chi phí xuất cảnh, người lao động còn phải lo thêm nhiều khoản
khác như học nghề, ngoại ngữ, giáo dục định hướng, khám sức khoẻ...
III. Nguyên nhân của những tồn tại trên
Như đã trình bày ở trên nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên chủ yếu là do
sự chủ quan của tỉnh.Tuy nhiên có những nguyên nhân chính sau:
Về công tác chỉ đạo,quản lý vẫn chưa tạo được sự thống nhất trong bộ
máy của cấp trên cộng vào đó là sự quản lý lỏng lẻo của cơ quan có thẩm quyền,
Theo số liệu từ Sở LĐTB &XH thì tính đến thời điểm này, toàn tỉnh Nghệ An có
120 doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong đó có
lĩnh vực XKLĐ. Riêng khoảng thời gian từ năm 2003 -2005, Phòng Đăng ký
Kinh doanh (Sở Kế hoạch và Đầu tư) đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh về dịch vụ cung ứng, tuyển dụng, môi giới lao động đi làm việc ở nước
ngoài cho 55 Doanh nghiệp. Kết luận mới đây của Đoàn Kiểm tra liên ngành
thanh tra việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài cho biết: chỉ có 7/55
doanh nghiệp trong tỉnh thực hiện khá nghiêm túc hoạt động XKLĐ; có19/55
doanh nghiệp không thực hiện việc tuyển dụng, cung ứng XKLĐ mặc dù đã
được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh; có 9/55 doanh nghiệp không hoạt động
theo địa chỉ đã đăng ký; 20 doanh nghiệp còn lại không có báo cáo kết quả hoạt
động mặc dù Đoàn Thanh tra đã có yêu cầu. Điều đáng nói là các doanh nghiệp

không hoạt động theo địa chỉ, ngành nghề đã đăng ký, nhưng hiện vẫn chưa bị
Sở Kế hoạch và Đầu tư kiểm tra, xử lý theo quy định của Luật Doanh nghiệp,
công tác quản lý vẫn bị buông lỏng.
Đối với công tác thông tin tuyên truyền, do ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế toàn cầu và những biến động chính trị lớn ở các thị trường truyền thống nên
hoạt động xuất khẩu lao động ở Nghệ An mới được đẩy mạnh phát triển từ
những năm gần đây nên công tác này vẫn thể hiện nhiều thiếu sót, hệ thống
thông tin tuyên truyền từ trên xuống tận phường, xóm còn mỏng, một chiều gây
khú khăn cho người lao động nếu muốn tìm hiểu thông tin về thị trường lao
động mà mình quan tâm cũng như khó khăn trong việc thay đổi quan niệm của
một số bộ phận dân cư về hoạt động xuất khẩu lao động
24


Xuất khẩu lao động ở Nghệ An, thực trạng và giải pháp

Hệ thống chính sách hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, trung tâm dịch vụ
việc làm cũng như đối với người lao động đó không đồng bộ, tuy nhiên vẫn
chưa thu được hiệu quả cao là do hệ thống này mới được đưa vào áp dụng, chưa
phổ biến đến mọi người dân, hơn nữa các kế hoạch đưa ra để thực hiện chính
sách trên được đưa ra khá muộn so với nhu cầu thực tế của người lao động do
vậy không đáp ứng được yêu cầu vay vốn khi người lao động cần để đi xuất
khẩu lao động.
Đối với công tác tuyển chọn lao động,đây là một khâu quan trọng trong
hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, nhưng công tác này lại
chưa được quản lý tốt ở Nghệ An, dẫn đến tình trạng có địa phương thì quá
nhiều doanh nghiệp tuyển chọn,địa phương thì không có một bóng doanh nghiệp
nào tuyển chọn lao động. Bên cạnh đó, các trung tâm lam nhiệm vụ giới thiệu
người lao động đi xuất khẩu lao động cũng như các doanh nghiệp chuyên doanh
trong ngành chưa được quan tâm lớn, do vậy hiệu quả hoạt động chưa cao và

chưa thực sự trở thành địa chỉ tin cậy cho người lao động mỗi khi có nhu cầu
đào tạo cũng như nhu cầu đi xuất khẩu lao động.
Đối với nguồn vốn cho người xuất khẩu lao động vay thì chưa thật sự sát
với thực tế nhu cầu của người lao động,sát với giá cả các thủ tục xuất khẩu lao
động.nguồn vốn cho vay chỉ tính đến các thị trường trong khu vực châu Á,thị
trường truyền thống với tỉ giá đồng tiền gần như ngang nhau mà chưa tính đến
các thị trường châu Âu,châu Mỹ,Trung đông…
Hiện nay đa số các ngân hàng đã tạo điều kiện cho người lao động vay
vốn, nhưng cũng có ngân hàng yêu cầu người lao động phải có quá nhiều giấy tờ
như: Giấy giới thiệu của sở, phòng LĐTB-XH cho phép doanh nghiệp tuyển
chọn lao động tại địa phương... bên cạnh đó hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu
lao động đã phải ký quỹ tại một ngân hàng thương mại nơi đặt trụ sở chính,
nhưng khi đặt vấn đề cho lao động vay, ngân hàng nơi đó lại buộc doanh nghiệp
phải tiếp tục ký quỹ, thậm chí tỉ lệ ký quỹ lên đến 10% số tiền giải ngân. Điều
này tăng thêm gánh nặng cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động.
(nguồn: />Hệ thống pháp luật điều chỉnh nội dung xuất khẩu lao động còn hạn chế,
đặc biệt là trong vấn đề xử lý các sai phạm. Các chế tài tỏ ra thiếu mạnh mẽ và
cứng rắn khiến cho việc tôn trọng pháp luật còn yếu.
IV.Giải pháp
Về hoạt động quản lý :Thắt chặt quản lý hoạt động xuất khẩu lao động
xuống tận địa phương thông quan việc thành lập các ban quản lý cấp huyện,xã
gắn trách nhiệm cụ thể cho các ban này.Báo cáo định kì cho cơ quan quản lý cấp
tỉnh,thành phố về hoạt động xuất khẩu lao động tại địa phương.
Phân công địa bàn hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
tránh tình trạng chồng chéo nhau trong việc tuyển lao động đi xuất khẩu.
25


×