Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

ứng dụng chế phẩm vixura sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ rơm, rạ và phụ phẩm nông nghiệp tại huyện lạng giang, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (485.02 KB, 61 trang )

LỜI CẢM ƠN
Để có thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, em đã nhận được sự
giúp đỡ rất lớn từ nhà trường, thầy cô cũng như các cô chú anh chị trong
đơn vị thực tập.
Đầu tiên cho em gửi lời cảm ơn chân thành đến ban giám hiệu nhà
trường, khoa, bộ môn trong trường đã giúp em có được những kiến thức
bổ ích về chuyên ngành Công Nghệ Sinh Học cũng như đã tạo điều kiện
cho em được tiếp cận môi trường thực tế trong thời gian qua.
Đặc biệt cho em gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo: ThS.
Nguyễn Thị Chuyên. Trong thời gian viết luận văn, em đã nhận được sự
hướng dẫn tận tình của cô, cô đã giúp em bổ sung và hoàn thiện những
kiến thức lý thuyết còn thiếu cũng như việc áp dụng các kiến thức đó vào
thực tế trong đơn vị thực tập để em có thể hoàn thiện khóa luận tốt nghiệp
này.
Qua đây cho em gửi lời cảm ơn đến quý cơ quan Sở Khoa Học và
Công Nghệ Bắc Giang, đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú
trong Trung tâm ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ. Các cô chú, anh
chị đã giúp em tiếp cận thực tế, thu thập các thông tin, tài liệu liên quan
đến đề tài thực tập trong thời gian qua để em có tài liệu cần thiết để hoàn
thành được bài khóa luận này.
Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian, điều kiện tiếp cận và kiến thức
kinh nghiệm của bản thân, bài khóa luận này không tránh khỏi những
khiếm khuyết, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và người đọc
để có thể hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Bắc Giang, ngày tháng 6 năm 2010
Sinh Viên

Thân Đức Nam



Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong tình hình ô nhiễm môi trường hiện nay, do nhiều yếu tốt tác
động.Các tác nhân gây ô nhiễm không chỉ do chất thải của ngành sản xuất
công nghiệp mà một lượng lớn chất thải là của ngành sản xuất nông
nghiệp, từ nguồn chất thải trong chăn nuôi và trồng trọt (phế phụ phẩm
nông nghiệp như: rơm, rạ và các phụ phẩm nông nghiệp khác). Đòi hỏi
chúng ta phải thực hiện các biện pháp xử lý để bảo vệ môi trường.
Nước ta là một nước nông nghiệp nên chất thải nông nghiệp chiếm
một tỉ lệ lớn trong nguồn chất thải gây ô nhiễm môi trường đặc biệt là
nguồn phế thải của ngành trồng trọt.
Các loại cây trồng nói chung, cây lúa nói riêng sau khi thu hoạch đã
lấy đi của đất nguồn dinh dưỡng rất lớn. Một phần dinh dưỡng đó làm
trong sản phẩm thu hoạch phục vụ con người, phần không nhỏ còn lại lằm
trong phế thải nông nghiệp. Hiện nay các phế thải nông nghiệp mà chủ
yếu là rơm, rạ thường được người nông dân đốt ngay tại đồng ruộng, gây
ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến con người, gia súc, gia cầm và các cây
trồng khác, làm mất đi vĩnh viễn nhiều nguyên tố quan trọng mà cây trồng
đã lấy đi từ đất, đặc biệt là cacbon. Tình trạng này tiếp diễn cùng với sự
lạm dụng phân bón hoá học sẽ làm cho đất ngày càng cằn cỗi và chai cứng
ảnh hưởng không nhỏ đến năng suất cây trồng và gây ô nhiễm môi trường.
Bắc Giang là tỉnh nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao, diện tích gieo trồng
lúa hàng năm rất lớn, tại các vùng thâm canh cao như huyện Lạng Giang,
huyện Yên Dũng,…hàng năm đã tạo ra một lượng lớn rơm, rạ dư thừa,

hiện tượng đốt rơm, rạ trên đồng ruộng sau vụ gặt ngày càng trở lên phổ
biến gây ô nhiễm môi trường và bức xúc cho người dân ở các khu vực lân
cận. không những thế việc đốt rơm, rạ trên đồng ruộng còn tiêu diệt các vi
sinh vật có lợi trong đất làm giảm độ phì nhiêu của đất ảnh hưởng đến
năng suất, phẩm chất và chất lượng cây trồng.
Vài năm trở lại đây việc đốt rơm, rạ trên đồng ruộng làm ô nhiễm
môi trường ngày càng nghiêm trọng.
Việc đốt rơm, rạ không những lãng phí nguồn nhiên nguyên liệu mà
còn gây ô nhiễm môi trường, mất an toàn giao thông. Theo các nhà y học,
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

khói bụi khi đốt rơm, rạ làm ô nhiễm không khí, gây tác hại lớn đối với
sức khỏe con người. Trẻ em, người già, và người có bệnh hô hấp, bệnh
mãn tính, dễ bị ảnh hưởng nhất.
Các nhà khoa học cho biết thành phần các chất gây ô nhiễm không
khí do đốt rơm, rạ, tác động đến sức khỏe con người là hydrocacbon thơm
đa vòng (viết tắt là PAH); dibenzo-p-dioxin clo hoá (PCDDs), và
dibenzofuran clo hoá (PCDFs), là các dẫn xuất của dioxin rất độc hại, có
thể là tiềm ẩn gây ung thư.
Các thành phần chính của rơm, rạ là những hydratcacbon gồm:
licnoxenlulozơ, 37,4%; hemixenlulozơ (44,9%); licnin 4,9% và hàm

lượng tro (oxit silic) cao từ 9, đến 14%. Đó là điều gây cản trở việc xử
dụng rơm, rạ một cách kinh tế. Thành phần licnoxenlulozơ trong rơm, rạ
khó phân hủy sinh học.
Việc đốt rơm, rạ trực tiếp ngay trên đồng ruộng gây bất lợi cho đồng
ruộng lớn hơn nhiều lần so với việc làm phân bón như ta tưởng. Các chất
hữu cơ trong rơm rạ và trong đất biến thành các chất vô cơ do nhiệt độ cao.
Đồng ruộng bị khô, chai cứng, một lượng lớn nước bị bốc hơi do nhiệt độ
hun đốt trong quá trình cháy rơm, rạ. Quá trình đốt rơm, rạ ngoài trời không
kiểm soát được, lượng dioxit cacbon CO2, phát thải vào khí quyển cùng với
cacbon monoxit CO; khí metan CH4; các oxit nitơ NOx; và một ít dioxit
sunfua SO2. Các nhân tố này làm ảnh hưởng xấu đến môi trường, gây ô
nhiễm không khí tác động trực tiếp đến đời sống của người dân.
Công nghệ sinh học đã chở thành công cụ đắc lực cho phát triển
nông nghiệp trong đó việc xử lý phế thải nông nghiệp làm phân bón hữu
cơ đặc biệt là việc xử lý rơm, rạ sau thu hoạch làm phân bón ngoài tác
dụng giảm thiểu ô nhiễm môi trường, còn tạo ra một lượng lớn phân hữu
cơ sản xuất tại chỗ, góp phần hạn chế việc lạm dụng phân hoá học và
thuốc hoá học trên đồng ruộng mà vẫn đảm bảo được năng suất và nâng
cao chất lượng nông sản, không những thế nó còn bảo vệ được nguồn vi
sinh vật có lợi trong đất, dần lấy lại độ phì nhiêu cho đất, làm tăng hàm
lượng các chất khoáng, tăng độ tơi xốp của đất , làm tăng hàm lượng vi
sinh vật hữu hiệu trong đất, giảm tối thiểu các loại vi khuẩn có hại, các

Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm




Khoa Công nghệ sinh học

loại mầm mống sâu và bệnh hại. Đây là một giải pháp quan trọng trong
việc tạo nên một nền nông nghiệp sạch và bền vững.
Trước thực trạng đó, với mục tiêu giảm ô nhiễm môi trường, cải
tiến công nghệ sản xuất nông nghiệp bằng cách sản xuất phân hữu cơ vi
sinh từ rơm, rạ và các phụ phẩm nông nghiệp khác, góp phần cải tạo đất,
hạn chế dịch hại đối với cây trồng, giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng
suất và phẩm chất cây trồng. Chúng tôi được trung tâm ứng dụng tiến bộ
KH&CN Bắc Giang phân công thực hiện mô hình ứng dụng công nghệ vi
sinh:“ ứng dụng chế phẩm Vixura sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ rơm, rạ
và phụ phẩm nông nghiệp tại huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang.”
1.2. Mục Đích – Yêu Cầu
1.2.1.Mục đích.
- sản xuất được lượng phân bón hữu cơ vi sinh tại chỗ từ rơm, rạ để
cải tạo và tăng độ phì nhiêu cho đất , giảm ô nhiễm môi trường, bảo vệ
sức khoẻ cộng đồng, phục vụ phát triển nền nông nghiệp hữu cơ.
- Giảm tỉ lệ bón phân vô cơ, giảm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu
quả kinh tế cho người nông dân.
- Nâng cao năng suất cây trồng, tạo sản phẩm an toàn, chất lượng tốt.
- Xây dựng một nền nông nghiệp sạch, bền vững.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho vi sinh vật có lợi phát triển, giảm vi
sinh vật có hại, giảm thiểu dịch hại cây trồng.
-Giảm được ô nhiễm môi trường có ý nghĩa về mặt kinh tế và xã hội
rất lớn.
1.2.2.Yêu cầu
- khuyến cáo chuyển giao công nghệ và nhân rộng mô hình sản xuất
phân hữu cơ vi sinh từ rơm, rạ và phế phụ phẩm nông nghiệp, tại các địa

phương khác trong tỉnh.
- Sản xuất một lượng lớn phân hữu cơ vi sinh tại chỗ từ nguồn rơm,
rạ trên đồng ruộng, phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và giảm ô nhiễm
môi trường.
- Theo dõi quá trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ rơm, rạ trên
đồng ruộng, sử dụng chế phẩm Vixura.

Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

- Đánh giá hiệu quả của phương pháp sử dụng chế phẩm Vixura để
xử lý rơm, rạ thành phân hữu cơ vi sinh.
- Theo dõi hiệu quả của biện pháp sinh học trong xử lý rơm, rạ trên
đồng ruộng.
- Phân tích các chỉ tiêu, phân hữu cơ sản xuất từ rơm rạ sử dụng chế
phẩm sinh học Vixura.
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1.Phân hữu cơ vi sinh vật (Mcrobial organic fertilizer)
2.1.1. Đặc điểm phân hữu cơ vi sinh.
Đó là các chế phẩm trong đó có chứa các loài vi sinh vật có ích. Có
nhiều nhóm vi sinh vật có ích bao gồm vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn được sử
dụng để làm phân bón. Trong số đó quan trọng là các nhóm vi sinh vật cố

địch đạm, hoà tan lân, phân giải chất hữu cơ, kích thích sinh trưởng cây
trổng, v.v..
Để chế biến phân vi sinh vật, các loài vi sinh vật được nuôi cấy và nhân
lên trong phòng thí nghiệm. Khi đạt đến nồng độ các tế bào vi sinh vật
khá cao người ta trộn với các chất phụ gia rồi làm khô đóng vào bao.
Trong những năm gần đây, ở nhiều nước trên thế giới, người ta đã
tổ chức sản xuất công nghiệp một số loại phân vi sinh vật và đem bán ở
thị trường trong nước. Một số loại phân vi sinh vật được bán rộng rãi trên
thị trường thế giới. Tuy nhiên, các loại phân vi sinh vật còn rất ít và chỉ là
bộ phận nhỏ so với phân hoá học trên thị trường phân bón.
Phân vi sinh vật cố định đạm. Có nhiều loài vi sinh vật có khả
năng cố định N từ không khí. Đáng chú ý có các loài: tảo lam
(Cyanobacterium), vi khuẩn Azotobacter, Bradyrhizobium, Rhyzobium;
xạ khuẩn Actinomyces, Klebsiella.
Phần lớn các loài vi khuẩn cố định đạm thường sống cộng sinh với
các cây họ đậu. Chúng xâm nhập vào rễ cây và sống cộng sinh trong đó,
tạo thành các nốt sần ở rễ cây. Chúng sử dụng chất hữu cơ của cây để sinh
trưởng đồng thời hút đạm từ không khí để cung cấp cho cây, một phần
tích luỹ lại trong cơ thể chúng.
Tảo lam cộng sinh với bèo hoa dâu và hút đạm tích luỹ lại làm cho
bèo hoa dâu có hàm lượng đạm cao, trở thành cây phân xanh rất quý.
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm




Khoa Công nghệ sinh học

Thời gian gần đây, cùng với những tiến bộ của khoa học và công
nghệ, các nhà khoa học đã sử dụng công nghệ gen để tạo ra các chủng vi
sinh vật cố định đạm có nhiều đặc điểm tốt: khả năng cố định đạm cao,
khả năng cộng sinh tốt. Công nghệ sinh học cũng giúp tạo ra những chủng
vi sinh vật có đặc tính cạnh tranh cao với các loài vi sinh vật trong đất.
Mặt khác, công nghệ sinh học đã cho phép các nhà khoa học tách được
gen quy định đặc tính cố định đạm từ vi khuẩn và đem cấy vào nhân tế
bào cây trồng, làm cho một số loài cây trồng cũng tạo được khả năng cố
định đạm như vi khuẩn.
Hiện nay trên thị trường phân bón nước ta, phân vi sinh vật cố
định đạm được bán dưới các tên thương phẩm sau đây:
Phân nitragin chứa vi khuẩn nốt sần cây đậu tương.
Phân rhidafo chứa vi khuẩn nốt sần cây lạc.
Azotobacterin chứa vi khuẩn hút đạm tự do.
Azozin chứa vi khuẩn hút đạm từ không khí sống trong ruộng lúa.
Loại phân này có thể trộn với hạt giống lúa.
Vi sinh vật hoà tan lân. Cây chỉ có thể hút được lân từ đất dưới
dạng hoà tan trong dung dịch đất. Vì vậy, cây chỉ có thể hút được lân ở
dạng dễ tiêu trong đất. Lân ở dạng khó tan trong đất cây không hút được.
Vì vậy, có nhiều loại đất như đất đỏ bazan, đất đen, v.v.. hàm lượng lân
trong đất khá cao, nhưng cây không hút được vì lân ở dưới dạng khó hoà
tan.
Trong đất thường tồn tại một nhóm vi sinh vật có khả năng hoà tan
lân. Nhóm vi sinh vật này được các nhà khoa học đặt tên cho là nhóm
HTL (hoà tan lân, các nước nói tiếng Anh đặt tên cho nhóm này là PSM –
phosphate solubilizing microorganisms).
Nhóm hoà tan lân bao gồm: Aspergillus niger, một số loài thuộc
các chi vi khuẩn Pseudomonas, Bacillus, Micrococens. Nhóm vi sinh vật

này dễ dàng nuôi cấy trên môi trường nhân tạo. Nhiều nơi người ta đã đưa
trộn sinh khối hoặc bào tử các loại vi sinh vật hoà tan lân sau khi nuôi cấy
và nhân lên trong phòng thí nghiệm, với bột phosphorit hoặc apatit rồi bón
cho cây. Sử dụng các chế phẩm vi sinh vật HTL đem lại hiệu quả cao ở
những vùng đất cây bị thiếu lân.
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

Một số loài vi sinh vật sống cộng sinh trên rễ cây có khả năng hút
lân để cung cấp cho cây. Trong số này, đáng kể là loài VA mycorrhiza.
Loài này có thể hoà tan phosphat sắt trong đất để cung cấp lân cho cây.
Ngoài ra loài này còn có khả năng huy động các nguyên tố Cu, Zn, Fe…
cho cây trồng. Nhiều nơi người ta sử dụng VA mycorrhiza đã làm tăng
năng suất cam, chanh, táo, cà phê… Nuôi cấy VA mycorrhiza trên môi
trường nhân tạo rất khó. Vì vậy hiện nay các chế phẩm có chưa VA
mycorrhiza chỉ có bán rất hạn chế trên thị trường phân bón Mỹ.
Những năm gần đây, trên thị trường phân bón ở một số nước có
bán chế phẩm Phospho – bacterin trong có chứa vi khuẩn giải phóng lân
dễ tiêu từ các chất hữu cơ.
Vi sinh vật kích thích tăng trưởng cây. Gồm một nhóm nhiều loài
vi sinh vật khác nhau, trong đó có vi khuẩn, nấm, xạ khuẩn, v.v.. Nhóm
này được các nhà khoa học phân lập ra từ tập đoàn vi sinh vật đất.

Người ta sử dụng những chế phẩm gồm tập đoàn vi sinh vật được
chọn lọc để phun lên cây hoặc bón vào đất làm cho cây sinh trưởng và phát
triển tốt, ít sâu bệnh, tăng năng suất. Chế phẩm này còn làm tăng khả năng
nảy mầm của hạt, tăng trọng lượng hạt, thúc đẩy bộ rễ cây phát triển mạnh.
Như vậy, chế phẩm này có tác động tương đối tổng hợp lên cây trồng.
Để sản xuất chế phẩm vi sinh vật kích thích tăng trưởng của cây,
người ta sử dụng công nghệ lên men vi sinh vật. Ở các nước phát triển
người ta sử dụng các thiết bị lên men tự động, công suất lớn. Ở nước ta,
đã dùng kỹ thuật lên men trên môi trường bán rắn để sản xuất chế phẩm
này, bước đầu cho kết quả khá tốt.
Những năm gần đây ở nước ta đang tiến hành khảo nghiệm chế
phẩm EM của giáo sư người Nhật Teruo Higa. Chế phẩm này được đặt tên
là vi sinh vật hữu hiệu (Effective microorganisms – EM). Đây là chế
phẩm trộn lẫn một nhóm các loài vi sinh vật có ích trong đó có vi khuẩn
axitlactic, một số nấm men, một số xạ khuẩn, vi khuẩn quang hợp, v.v..
Tại hội nghị đánh giá kết quả sử dụng EM tại Thái Lan tháng 11/1989, các
nhà khoa học đã đánh giá tác dụng tốt của EM như sau:
- Cải tạo lý hoá tính và đặc tính sinh học của đất.
- Làm giảm mầm mống sâu bệnh trong đất.
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học


- Tăng hiệu quả của phân bón hữu cơ.
- Cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao, phẩm
chất nông sản tốt.
- Hạn chế sâu bệnh hại cây trồng.
- Góp phần làm sạch môi trường.
Chế phẩm EM còn được sử dụng trong chăn nuôi. Cho gia súc ăn,
EM làm tăng hệ vi sinh vật trong đường ruột, làm tăng sức khoẻ, giảm
mùi hôi của phân.
EM còn được dùng để làm sạch môi trường nước nuôi thuỷ sản.
Một số điểm cần chú ý khi sử dụng phân vi sinh vật:
Phân vi sinh vật sản xuất ở nước ta thường có dạng bột màu nâu,
đen, vì phần lớn các nơi sản xuất đã dùng than bùn làm chất độn, chất
mang vi khuẩn.
Phân vi sinh vật sản xuất trong nước thường được sử dụng bằng
cách trộn với các hạt giống đã được vảy nước để ẩm hạt trước khi gieo 10
– 20 phút. Nồng độ sử dụng là 100 kg hạt giống trộn với 1 kg phân vi sinh
vật.
Các chế phẩm vi sinh vật sản xuất trong nước thường không cất giữ
được lâu. Thường sau từ 1 đến 6 tháng hoạt tính của các vi sinh vật trong
chế phẩm giảm mạnh. Vì vậy, khi sử dụng cần xem kỹ ngày sản xuất và
thời gian sử dụng được ghi trên bao bì.
Chế phẩm vi sinh vật là một vật liệu sống, vì vậy nếu cất giữ trong
điều kiện nhiệt độ cao hơn 30oC hoặc ở nơi có ánh nắng trực tiếp chiếu
vào, thì một số vi sinh vật bị chết. Do đó hiệu quả của chế phẩm bị giảm
sút. Cần cất giữ phân vi sinh vật ở nơi mát và không bị ánh nắng chiếu
vào.
Phân vi sinh vật thường chỉ phát huy tác dụng trong những điều
kiện đất đai và khí hậu thích hợp. Thường chúng phát huy tốt ở các chân
đất cao, đối với các loại cây trồng cạn.
• Yêu cầu kỹ thuật của phân hữu cơ vi sinh.

Các chỉ tiêu kỹ thuật đối với phân hữu cơ vi sinh được quy định trong
bảng sau:
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

Bảng 01: Chỉ tiêu kỹ thuật
TT

Tên chỉ tiêu

1
2
3
4

Phương pháp
thử/điều
Tốt
7.2
Đồng đều
7.3
35

TCVN5815:2000
6
10
7.6
Mức

Độ chín (hoai mục) cần thiết
Kích thước hạt
Độ ẩm, %, không lớn hơn
Mật độ vi sinh vật tuyển chọn,
CFU/ gam mẫu, không nhỏ hơn
5
Hàm lượng chất hữu cơ tổng số, %,
22
TCVN4050:85
không nhỏ hơn
6
Hàm lượng nitơ tổng số, %, không
2,5
TCVN5815:2001
nhỏ hơn
7
pH
6,0-8,0 TCVN5979:1995
8
Hàm lượng lân hữu hiệu, %, không
2,5
TCVN5815:2001
nhỏ hơn
9 Hàm lượng kali hữu hiệu, %, không

1,5
TCVN5815:2001
nhỏ hơn
10
Mật độ salmonella trong 25 gam
0
TCVN4829:2001
mẫu, CFU
11
Hàm lượng chì,mg/kg khối lượng
200
TCVN6496:1999
khô, không lớn hơn
12
Hàm lượng Cadimi, mg/kg khối
2,5
TCVN6496:1999
lượng khô, không lớn hơn
13
Hàm lượng Crom, mg/kg khối
200
TCVN6496:1999
lượng khô, không lớn hơn
14
Hàm lượng niken, mg/kg khối
100
TCVN6496:1999
lượng khô, không lớn hơn
15
Hàm lượng thuỷ ngân, mg/kg khối

2
TCVN5989:1995
lượng khô, không lớn hơn
Chú thích – CFU (colony forming unit): đơn vị hình thành khuẩn lạc
2.1.2. Quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh.
Phân vi sinh là chế phẩm chứa các vi sinh vật (VSV) sống có hoạt lực
cao đã được tuyển chọn, thông qua các hoạt động của nó tạo ra các chất
dinh dưỡng cho đất và cây trồng làm cho cây trồng phát triển tốt hơn.
Ở Việt Nam, phân VSV cố định đạm cây họ đậu và phân VSV phân
giải lân đã được nghiên cứu từ năm 1960 và đến năm 1987 phân Nitragin
trên nền chất mang than bùn mới được hoàn thiện và đến năm 1991 đã có
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

hơn 10 đơn vị trong cả nước tập trung nghiên cứu phân vi sinh vật. Các
nhà khoa học đã phân lập được nhiều chủng vi sinh vật cố định đạm và
một số VSV phân giải lân.
Hiện nay trên thị trường có nhiều loại phân VSV khác nhau, nhưng
theo mật độ VSV hữu ích có thể chia làm 2 loại như sau:
- Phân VSV có mật độ VSV hữu ích cao (trên 108 tế bào/gam) và do
chất mang được thanh trùng nên VSV tạp thấp. Liều lượng bón từ 0,33kg/ha.
- Phân VSV có mật độ VSV hữu ích thấp (106-107 tế bào/gam) và

VSV tạp cao do nền chất mang không được thanh trùng. Liều lượng bón
có thể từ 100-1.000kg/ha
Quá trình sản xuất phân vi sinh theo 2 giai đoạn chủ yếu
Giai đoạn 1: Tạo nguyên liệu cho sản xuất còn gọi là chất mang. Chất
mang được dùng là các hợp chất vô cơ (bột photphorit, bột apatit, bột
xương, bột vỏ sò,..) hay các chất hữu cơ (than bùn, bã nấm, phế thải nông
nghiệp, rác thải,..). Chất mang được ủ yếm khí hoặc hiếu khí nhằm tiêu
diệt một phần VSV tạp và trứng sâu bọ, bay hơi các hợp chất dễ bay hơi
và phân giải phần nhỏ các chất hữu cơ khó tan.
Giai đoạn 2: Cấy vào nguyên liệu trên các chủng vi sinh vật thuần
khiết trong điều kiện nhất định để đạt được hiệu suất cao. Mặc dù VSV
nhỏ bé nhưng trong điều kiện thuận lợi: đủ chất dinh dưỡng, có độ pH
thích hợp, CO2 và nhiệt độ môi trường tối ưu chúng sẽ phát triển cực kỳ
nhanh chóng (hệ số nhân đôi chỉ 2-3giờ); Ngược lại trong điều kiện bất lợi
chúng sẽ không phát triển hoặc bị tiêu diệt, dẫn đến hiệu quả của phân bị
giảm sút. Để cho phân vi sinh được sử dụng rộng rãi, người ta thường
chọn các chủng vi sinh có khả năng thích nghi rộng hoặc dùng nhiều
chủng trong cùng một loại phân.
Như vậy, qui trình sản xuất phân vi sinh trước tiên là tạo thành phân
mùn hữu cơ cao cấp. Tùy từng địa phương và cơ sở sản xuất cụ thể mà lựa
chọn nguyên liệu để sản xuất phân hữu cơ cao cấp khác nhau như than
bùn, mùn rác thành phố (phân rác lên men), phân bắc (hầm cầu), phân gà
công nghiệp, phân heo, trâu, bò, dê,..hoặc phân từ nguồn phế thải của quá
trình chế biến của các nhà máy như mía, mụn dừa, vỏ trái cây, .. Nói
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm




Khoa Công nghệ sinh học

chung là đi từ nguyên liệu nào có thể biến thành mùn. Sau đó là quá trình
phối trộn, cấy các chủng vi sinh vào mùn.
Phân phức hợp hữu cơ vi sinh được sản xuất từ phế thải của nhà máy
đường theo công nghệ của FITOHOOCMON được Bộ Khoa học và công
nghệ cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích về “Quy trình sản xuất phân
phức hợp hữu cơ vi sinh”, như sau:
- Giai đoạn lên men nguyên liệu: Nguyên liệu là bùn mía, tro lò, than
bùn được lên men tạo thành mùn hữu cơ cao cấp
- Giai đoạn phối trộn và cấy vi sinh vật hữu ích: Phối trộn theo công
thức định sẵn tùy theo yêu cầu chất lượng phân và cấy VSV thuần khiết
vào môi trường mùn hữu cơ.
Các nhà khoa học cũng đang nghiên cứu sản xuất phân bón hữu cơ vi
sinh từ nguồn nguyên liệu mụn dừa rất phong phú ở Bến Tre là phế thải
của các cơ sở sản xuất chỉ xơ dừa. Quy trình sản xuất phân hữu cơ vi sinh
từ mụn dừa được mô tả như sau:
- Giai đoạn sản xuất giá thể (đất sạch): Nguyên liệu mụn dừa được xử
lý để giảm hàm lượng muối (giảm EC) và giảm hàm lượng Tanin. Sấy
hoặc phơi khô, sau đó được phối trộn với chất dinh dưỡng chậm tan và
chất phụ gia. Ép đóng thành bánh hoặc đóng bao để dễ dàng vận chuyển.
- Sản xuất phân bón: Chế phẩm vi sinh gốc được nhân sinh khối, sau
đó được tưới đều vào nguyên liệu mụn dừa. Ủ hảo khí để có nguyên liệu
bán thành phẩm.
- Từ mụn dừa bán thành phẩm sẽ phối trộn các vi sinh vật hữu ích để
có được sản phẩm phân hữu cơ vi sinh.
2.2. Lợi ích của phân hữu cơ vi sinh.

Phân hữu cơ sinh học hay hữu cơ truyền thống là loại phân toàn diện
có đầy đủ đa, trung, vi lượng và các amino acid như: acid Aspartic, acid
Glutamic, Lysine, Serine, Leucine, Histidine, Tryptophan, Alanine,
Glycine.... các thành phần dinh dưỡng này rất cần thjiết cho cây trồng mà
phân vô cơ không thể thay thế được.
* Phân hữu cơ sinh học hoặc hữu cơ truyền thống còn làm các chức năng:
- Cải tạo hóa tính đất: trong quá trình phân giải phân hữu cơ có khả
năng hòa tan, làm giảm khả năng di động của một số nguyên tố khoáng,
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

hạn chế khả năng đồng hóa kim loại của cây, do đó sản phẩm nông nghiệp
trở nên sạch hơn. Việc hình thành các phức hữu cơ – vô cơ làm tăng tính
đệm của đất, điều này rất quan trọng đối với đất có thành phần cơ giới
nhẹ.
- Cải tạo lý tính đất: tác dụng ổn định cấu trúc đất phụ thuộc vào
bản chất của chất hữu cơ làm tăng khả năng kết dính của hạt đất để tạo
thành đoàn lạp và làm giảm khả năng thám ướt khiến cho kết cấu được
bền trong nước.
Bón phân hữu cơ sinh học hoặc hữu cơ truyền thống, tạo điều kiện
thuận lợi cho vi sinh vật có ích trong đất phát triển và hoạt động mạnh lên
nhiều, giải phóng nhiều đạm hòa tan, độ ổn định của kết cấu đất tăng.

Chất hữu cơ giúp cho nước ngấm vào đất thuận lợi hơn, khả năng
giữ nước của đất cao hơn, việc bốc hơi của mặt đất ít đi, do đó tiết kiệm
được nước tưới, đồng thời khi mưa nhiều, đất thoát nước nhanh hơn, ít bị
úng hơn.
- Phân hữu cơ sinh học tác động đến sinh tính của đất. Trong quá
trình phân giải, phân hữu cơ cung cấp thêm thức ăn cho vi sinh vật có ích
cả thức ăn khoáng và thức ăn hữu cơ, nên khi bón phân vào đất tập đoàn
vi sinh vật (VSV) có ích phát triển nhanh, kể cả giun đất cũng phát triển.
Một số chất có hoạt tính sinh học (phytohormone) được hình thành lại tác
động đến việc tăng trưởng và trao đổi chất của cây.
Bón phân hữu cơ có giảm được nấm bệnh gây hại không ?
Đây là vấn đề không đơn giản, cần phải có thêm nhiều nghiên cứu
của các nhà khoa học nông nghiệp.
Đối chứng thực tế ở những vường cây ăn quả lâu năm, hoặc các
vùng trồn rau màu, người nông dân bón lâu dài, phân hữu cơ truyền thống
hoặc hữu cơ sinh học cho kết quả cây cối phát triển tốt và bền vững hơn
những nơi chỉ bón đơn thuần phân vô cơ liên tục nhiều năm thì thấy cây
cối bị sâu bệnh nhiều hơn, năng suất không ổn định. Chất lượng nông sản
kém hơn so với bón phân hữu cơ sinh học hoặc hữu cơ truyền thống.
Các tài liệu khoa học nông nghiệp đã dẫn chứng: Bón phân hữu cơ
sinh học hoặc hữu cơ truyền thống, ngoài việc cung cấp dinh dưỡng cho
cây trồng còn giúp cho các chất hữu cơ khó tiêu trong đất được phân hủy
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm




Khoa Công nghệ sinh học

nhiều và nhanh chóng nhờ các tác động của vi sinh vật đất, đặc biệt là có
rất nhiều nấm đất hữu ích phát triển sẽ làm cho đất đai tơi xốp và hạn chế
mầm bệnh. Sự phân giải các chất hữu cơ sẽ giải phóng các chất gây độc
cho các loài tuyến trùng phá rễ. Đồng thời trong phân hữu cơ sinh học
hoặc hữu cơ ủ hoai còn có loài nấm chuyên ăn tuyến trùng như monochus
chẳng hạn, loài nấm này thường phát triển tỷ lệ thuận với chất hữu cơ
được phân giải trong đất, đặc biệt một số loài thuộc Actinomycetes là vật
gây hại đối với tuyến trùng thực vật trong đất.
Để tăng thêm tính hiệu quả trong việc bón phân hữu cơ sinh học
hoặc hữu cơ truyền thống, ta nên bón bổ sung thêm nấm đối kháng
Trichoderma sp là tác nhân phòng trừ một số nấm gây bệnh trong đất như:
Fusarium sp, Pythium sp, Rhizoctonia solani, sclerotium, rolfsii, những
nấm này làm cho cây trồng bị thối rể, lở cổ rể, thối trắng gốc.... làm cho
cây trồng như: cà chua, bầu bí, thuốc lá, tiêu ... bị chết hàng loạt, gây ra
thiệt hại lớn cho người nông dân.
Các nhà chuyên môn còn nghiên cứu và đã cho ra nhiều sản phẩm
hữu cơ sinh học có nguồn gốc từ động và thực vật để bổ sung dinh dưỡng
cho cây trồng qua lá (thay thế phân vô cơ) nhằm góp thêm phần tăng năng
suất và chất lượng nông sản
Với tầm quan trọng của phân hữu cơ sinh học, cộng thêm với thuốc
trừ sâu sinh học hoặc vi sinh ... Hy vọng những sản phẩm nông nghiệp có
được từ công nghệ sinh học này sẽ thu hút được sự tin tưởng sử dụng của
bà con nông dân cùng sự quan tâm của các nhà khoa học, chắc chắn sẽ có
nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, năng suất tăng, giá thành đầu
tư hạ, giúp tăng được khả năng cạnh tranh trên thị trường nông sản trong
nước cũng như xuất khẩu
2.3.Nghiên cứu, sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất, hướng tới sản

xuất nền nông nghiệp bền vững.
Trong thực tế sản xuất hiện nay, nhiều nông dân thường lạm dụng
phân hóa học và các loại nông dược nên tốn nhiều chi phí sản xuất và gây
ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Thời gian qua, Trường Đại học
Cần Thơ đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học về sử dụng các chế
phẩm sinh học, phân sinh học, phân hữu cơ... để giảm bớt lượng phân hóa
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

học mà năng suất và chất lượng nông sản vẫn ổn định. Trong đó, nghiên cứu,
sử dụng phân hữu cơ trong nông nghiệp là những đề tài tiêu biểu, đạt hiệu
quả cao.
Dự án “Kết hợp cải cách giáo dục và Phát triển cộng đồng” do
Trường Đại học Cần Thơ hợp tác với Trường Đại học Michigan State thực
hiện từ năm 2006 đến năm 2007.
Chương trình đang được thực hiện tại 3 điểm: thị trấn Kinh Cùng,
xã Hòa An và xã Tân Bình, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang. Mỗi xã
chọn 2 hộ nông dân để làm điểm trình diễn. Tiến sĩ Phùng Thị Nguyệt
Hồng, điều phối viên của dự án, cho biết: “Mỗi hộ dân trồng 1 loại rau:
dưa leo hoặc rau muống với 4 công thức phân: 100% phân hóa học, 100%
phân hữu cơ, 50% phân hóa học + 50% phân hữu cơ, 100% phân hữu cơ +
50% phân hóa học. Kết quả cho thấy, công thức 100% phân hữu cơ + 50%

phân hóa học cho năng suất và hiệu quả tốt nhất. Do đó, nông dân phát
triển sản xuất theo công thức này”.
Điều quan trọng của dự án là hướng dẫn nông dân cách ủ phân hữu
cơ với thời gian 8 tuần theo phương pháp mới, giúp giảm chi phí sản xuất,
tăng thu nhập cho nông dân. Cách ủ phân hữu cơ này khá đơn giản, dễ
thực hiện. Bà con có thể chọn nền đất bằng phẳng, trải bạt hoặc vật dụng
không thấm khác để lót nền, rải một lớp nguyên liệu để làm phân như các
loại rơm rạ, lá cây, lục bình... với chiều cao từ một tấc đến vài tấc. Sau đó,
tưới một lớp mỏng dung dịch chế phẩm sinh học TRICO-ĐHCT (đã được
hòa tan với lượng nước thích hợp), rồi trải lên trên một lớp nguyên liệu
làm phân. Cứ một lớp nguyên liệu lại tưới một lớp dung dịch, làm khoảng
1m3. Sau đó, đậy kín đống ủ bằng bạt và đảo đều trong thời gian 6 tuần.
Cuối cùng, tưới dung dịch có chứa các vi khuẩn cố định đạm, hòa tan lân
vào, đảo đều và tiếp tục ủ khoảng 2 tuần là sử dụng được. So với cách ủ
theo tập quán của nông dân, phương pháp này giúp phân trong thời gian ủ
không có mùi hôi khó chịu, không mất chất dinh dưỡng và có thời gian ủ
ngắn hơn.
Anh Phạm Văn Liêm, con trai ông Phạm Văn Mum, người trực tiếp
thực hiện theo sự hướng dẫn của các nhà khoa học, phấn khởi nói: “Nhờ
sử dụng phân hữu cơ ủ theo phương pháp mới nên rau màu ít bị sâu bệnh,
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học


chi phí sản xuất giảm một nửa so với dùng phân hóa học nên lợi nhuận
cũng cao hơn”. Từ thành công của mô hình trình diễn, nhiều hộ dân trong
và ngoài ấp đã áp dụng mô hình sử dụng phân hữu cơ trong sản xuất rau
màu. Đồng chí Nguyễn Quốc Khải, Bí thư Chi bộ ấp Hòa Bình, thị trấn
Kinh Cùng, cho biết: “Khoảng 30 hộ dân trong ấp đã áp dụng bón phân
hữu cơ trong sản xuất rau màu, trong đó, có khoảng 10 hộ sản xuất với qui
mô lớn để kinh doanh. Mô hình này đang được khuyến khích nhân rộng”.
Để tạo ra phân hữu cơ, nguồn nguyên liệu chính là các loại phế
phẩm, rác thải hữu cơ nên sử dụng phân hữu cơ sẽ tiết kiệm chi phí sản
xuất và giải quyết được vấn đề ô nhiễm môi trường. Các loại phế phẩm
của mía như bã bùn mía, xác mía... thường được các nhà máy mía đường
đổ ra các bãi rác thải, để chúng tự phân hủy, gây ô nhiễm môi trường và
chiếm nhiều diện tích đất trống. Từ thực tế đó, năm 2004, Công ty Mía
đường Cần Thơ hợp tác với Bộ môn Khoa học đất và Quản lý đất đai,
Khoa Nông nghiệp và Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Cần Thơ
nghiên cứu cách xử lý các loại phế phẩm của mía thành phân hữu cơ trong
thời gian ngắn.
Đến năm 2005, nghiên cứu được phát triển thêm một bước mới.
Với nguồn kinh phí hỗ trợ của Dự án Vườn ươm công nghệ (Bộ Giáo dục
và Đào tạo) và Công ty Phân bón Hóa chất Cần Thơ, Tiến sĩ Dương Minh
Viễn và Tiến sĩ Võ Thị Gương hợp tác với một số nhà khoa học ở Bộ môn
Bảo vệ Thực vật, Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ Sinh học thực
hiện đề tài “Nghiên cứu, sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ bã bùn mía”. Từ
bã bùn mía, xác mía... nhóm nghiên cứu xử lý thành phân hữu cơ và cấy
một số vi sinh vật có ích tạo thành phân hữu cơ vi sinh, có khả năng
phòng trừ bệnh sinh học và hỗ trợ dinh dưỡng cho cây trồng, cải tạo độ
phì nhiêu của đất.
Tiến sĩ Dương Minh Viễn cho biết: “Vi sinh vật có ích mà chúng
tôi cấy vào là nấm Trichoderma, có tác dụng phòng chống một số bệnh

trên cây ăn trái, rau màu do nấm và vi khuẩn có hại gây ra. Bên cạnh đó,
chúng tôi sử dụng một số vi khuẩn có khả năng cố định đạm, hòa tan lân,
giúp tăng cường độ dinh dưỡng cho đất. Phân hữu cơ vi sinh đã và đang
được thử nghiệm trong quá trình sản xuất rau màu, cây ăn trái ở tỉnh Lâm
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

Đồng và một số tỉnh ĐBSCL. Một số kết quả sơ bộ cho thấy: Phân hữu cơ
bã bùn mía có hiệu quả cao, giúp tăng năng suất và giảm phân hóa học.
Đặc biệt, phân hữu cơ vi sinh giúp cải thiện đất bị bạc màu, thoái hóa”.
Đến nay, nhóm nghiên cứu đã hoàn thành cơ bản qui trình sản xuất phân
hữu cơ vi sinh từ bã bùn mía với thời gian 45 ngày. Qui trình đã được
chuyển giao cho Công ty Phân bón Hóa chất Cần Thơ ứng dụng, sản xuất
thử nghiệm, chuẩn bị bán sản phẩm ra thị trường.
Thực tế cho thấy, những công trình nghiên cứu về phân hữu cơ, các
loại chế phẩm sinh học... không chỉ giúp nông dân phòng trị bệnh trên cây
trồng, giảm chi phí sản xuất mà còn góp phần hướng tới xây dựng, phát
triển một nền nông nghiệp an toàn và bền vững.
2.4.Tình hình triển khai mô hình sản xuất phân hữu cơ vi sinh tại một
số tỉnh.
2.4.1.Mô hình tại Nam Định.
Lâu nay rơm, rạ vẫn được coi là rác thải sau mỗi vụ thu hoạch, và

việc xử lý thường được người dân thu gom và đốt trên đồng ruộng, cách
làm này gây ảnh hưởng xấu đến đất canh tác, không những thế việc đốt
rơm, rạ còn tạo ra lượng khói bụi gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến
đời sống của người dân.
Chính từ nhứng bức xúc đó phòng nông nghiệp và phát triển nông
thôn tỉnh Nam Định đã triển khai mô hình sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ
nguồn rơm, rạ sau sản xuất trên đồng ruộng.
Công nghệ do viện Công Nghệ Sinh Học chuyển giao:
Theo tiến sĩ Trần Đình Mấn phân hữu cơ sinh học là sản phẩm tạo
ra thông qua quá trình lên men vi sinh vật, qua đó các hợp chất giàu
Xenluloza được phân huỷ trở thành mùn.
Cách làm: rơm, rạ sau thu hoạch được gom thành đống, dùng chế
phẩm Vixura và NPK hoà vào nước, tưới đều lên rơm, rạ rồi phủ nilon che
kín để giữ ẩm và nhiệt. Khoảng 21 ngày có thể sử dụng làm phân bón, có
thể kéo dài thời gian ủ để rơm, rạ mủn tốt hơn. Trong quá trình ủ nếu rơm,
rạ bị khô, cần bổ sung cho đủ ẩm. Để xử lý 1 tấn rơm, rạ dùng từ 5-10kg
chế phẩm Vixura và 2-3kg NPK.

Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

Theo tiến sĩ Trần Đình Mấn phó viện trưởng viện Công Nghệ Sinh

Học, với khoảng 4 triệu ha đất trồng lúa, hàng năm lượng rơm, rạ thải ra
lên tới 76 triệu tấn, tương đương 20 triệu tấn dầu. Nếu đốt bỏ sẽ gây lãng
phí nguồn chất hữu cơ có thể sử dụng làm phân bón. Nếu biết cách sử
dụng rơm, rạ đúng mục đích, không chỉ giúp cải tạo đất, nâng cao hiệu
quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp mà còn hạn chế ô nhiễm môi
trường. Phân hữu cơ từ rơm, rạ góp phần ra tăng độ mùn, bổ sung chất
dinh dưỡng, nâng cao chất lượng cây trồng.
Hướng tới nền nông nghiệp hữu cơ, sử dụng nguồn phân hữu cơ từ
rơm, rạ sau thu hoạch trên đồng ruộng, sử dụng rơm rạ đúng mục đích,
không chỉ giúp cải tạo đất ,nâng cao hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông
nghiệp mà còn góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường.
2.4.2.Mô hình tại Hải Dương.
Xử lý rơm, rạ thành phân hữu cơ, góp phần sản xuất nông nghiệp an
toàn. Đó là hiệu quả từ Đề tài “Dự án xây dựng mô hình xử lý rơm rạ làm
phân ủ hữu cơ vi sinh phục vụ sản xuất lúa gạo an toàn và góp phần giảm
ô nhiễm môi trường trên địa bàn”, đã được UBND huyện Bình Giang tỉnh
Hải Dương thực hiện thành công.
Với diện tích gieo cấy 12.600 ha lúa/năm của huyện Bình Giang,
nếu tính trung bình khoảng 6 tấn rơm rạ/ha lúa, thì lượng rơm rạ sau khi
thu hoạch là rất lớn. Do vậy, huyện Bình Giang đã tính đến việc dùng men
vi sinh tạo ra nguồn phân ủ, giảm được chi phí lớn đầu vào cho nông dân
và cải tạo đất, giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Điều quan trọng là sẽ tạo ra
sản phẩm nông nghiệp an toàn cho sức khỏe cộng đồng, hướng tới thương
hiệu gạo an toàn chất lượng của Bình Giang.
Để thực hiện, huyện Bình Giang đã tiến hành xây dựng mô hình
liên kết các hộ gia đình thực hiện mô hình xử lý rơm rạ làm bằng phân ủ
bằng men vi sinh Vixura của viện Công nghệ sinh học (Hà Nội), triển khai
tại 2 HTX nông nghiệp Nhân Quyền (xã Nhân Quyền) và HTX nông
nghiệp Nhữ Thị (xã Thái Hòa). Quy mô tổng số rơm rạ xử lý là 280 tấn,
mỗi HTX xử lý 140 tấn rạ.

Trước khi triển khai đề tài, huyện đã tập huấn hướng dẫn kỹ thuật
sử dụng men vi sinh (thành phần gồm vi sinh vật phân giải hữu cơ, vi sinh
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

vật tổng hợp kháng sinh, Enzym, các chất điều hòa sinh trưởng, nguyên tố
khoáng, vi lượng...), để ủ rơm rạ cho 410 hộ nông dân tham gia mô hình liên
gia và các hộ nông dân tự do tổ chức ủ tại gia đình. Theo đó, rơm rạ sau khi
thu hoạch được các hộ nông dân tập kết vào một địa điểm thuận lợi cho công
việc ủ, hoặc gom về tại các gia đình. Trước khi đưa rơm rạ vào ủ, phải tiến
hành dùng máy vò đập, có gia cố thêm phần băm chặt để tiến hành đập rơm
rạ cho nát và nhỏ. Sau đó, tiến hành các thao tác đánh đống và ủ.
Theo ông Nguyễn Phương Vụ, Trưởng Phòng nông nghiệp huyện
Bình Giang (Hải Dương), Chủ nhiệm Đề tài: Để dùng men vi sinh xử lý
rơm rạ, người nông dân phải tưới để rơm rạ đạt độ ẩm 80-90%, sau đó rải
rơm, rạ theo từng lớp, mỗi lớp dầy khoảng 30-40 cm và tưới men vi sinh
đều khắp mặt đống rơm rạ
Cứ như vậy cho đến khi đạt độ cao mỗi đống khoảng 1,5 - 1,6 m.
Tiếp đó, tiến hành cho phủ nilon để giữ độ ẩm và nhiệt. Sau 10 ngày sẽ
kiểm tra và tiến hành đảo trộn, để cho rơm rạ vụn thêm do tác động cơ học
và các vi sinh vật phân bố đều hơn. Ngoài ra, nếu phát hiện chỗ nào chưa
bảo đảm độ ẩm thì tưới nước bổ sung thêm. Đến khi, cầm nắm rơm rạ vắt

đều thấy nước rỉ ra theo kẽ tay là được... Sau khoảng 30 ngày rơm rạ phân
huỷ thành phân ủ hữu cơ, được đem bón cho cây trồng
Việc sử dụng chế phẩn sinh học Vixura xử lý rơm ra làm phân hữu
cơ phục vụ cho sản xuất lúa gạo an toàn ở huyện Bình Giang đã tận dụng
lượng rơm rạ sau mỗi vụ thu hoạch lúa, dùng với chế phẩm sinh học tạo ra
nguồn phân ủ bón cho cây trồng, cải tạo đất, đảm bảo năng suất cây trồng,
tạo ra sản phẩm lúa an toàn, góp phần bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe
cộng đồng.
2.4.3. Mô hình tại Quảng Nam.
Ứng dụng công nghệ vi sinh phân hủy rơm rạ để làm phân bón ở Hội An.
Phế thải trong sản xuất nông nghiệp thường được nông dân đốt gây
lãng phí và làm ô nhiễm môi trường. Nếu bình quân 1 sào ruộng thu được
300 kg rơm thì lượng rơm của toàn thành phố trong 1 năm sẽ vào khoảng
trên dưới 5.000 tấn. Ngoài một phần rất nhỏ để trồng nấm, làm thức ăn
cho trâu bò; phần lớn lượng rơm còn lại người nông dân đốt tại ruộng.
Việc đốt rơm không chỉ gây ô nhiễm môi trường mà còn tiêu diệt các vi
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

sinh vật có lợi trong đất, từ đó làm giảm độ phì của đất. Nếu tình trạng
này tiếp diễn, cùng với sự lạm dụng phân hóa học, đất sẽ ngày càng cằn
cỗi và chai cứng, hậu quả lâu dài sẽ không lường trước được

Với mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm môi trường, cải tiến công nghệ
trong sản xuất nông nghiệp bằng cách sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ phế
thải nông nghiệp, góp phần hạn chế địch hại đối với cây trồng; vừa qua
ngành nông nghiệp Hội An đã xây dựng mô hình ứng dụng công nghệ vi
sinh phân hủy rơm rạ để làm phân bón hữu cơ vi sinh tại thôn Trà Quế và
thôn Trảng Kèo, xã Cẩm Hà.
Để sản xuất 1 tấn phân cần 5-10kg chế phẩm Vixura, trộn đều chế
phẩm với 1tấn nguyên liệu ủ, cách làm như sau: Chia đều chế phẩm và
nguyên liệu thành 6 phần. Cho 1 phần chế phẩm vào bình phun nước
khuấy đều. Cứ 1 lớp (phần) nguyên liệu (rơm, rạ) thì tưới 1 phần chế
phẩm rồi cào đều. Cứ tiếp tục từng lớp như thế cho đến khi hoàn thành cả
6 phần. Nếu nguyên liệu khô có thể tưới thêm nước, lượng nước tuỳ thuộc
vào nguyên liệu ướt hay khô, bảo đảm độ ẩm cần thiết.
Sau khi ủ xong, che đậy đống ủ bằng bạt, bao tải hoặc nilon, tránh
ánh sáng chiếu trực tiếp vào đống ủ, bảo đảm nhiệt độ đống ủ được duy trì
ở mức 40-50 độ C. Khoảng 7-10 ngày tiến hành kiểm tra, đảo trộn và nếu
nguyên liệu khô thì bổ sung nước. Sau 20 - 25 ngày ủ, nguyên liệu đã
phân hủy thành phần có thể dùng để bón cho cây trồng.
Để đánh giá hiệu quả, chất lượng của phân bón được tạo ra bằng
công nghệ vi sinh, những người thực hiện mô hình đã thí nghiệm bón
phân cho hai loại cây trồng là xà lách và hành hương tại làng rau Trà Quế.
Kết quả thử nghiệm cho thấy cây phát triển tốt hơn so với mẫu đối chứng
về mật độ gieo trồng, bộ lá xanh, mượt, cây cao, chắc khoẻ và đặc biệt là
đã hạn chế được nấm bệnh cho cây trồng (Xem ảnh). Theo anh Lê Ngọc,
cán bộ Trạm Khuyến nông khuyến lâm Hội An, việc sử dụng phân hữu cơ
vi sinh trên cây trồng cũng sẽ góp phần hạn chế bệnh thối nhũn trên cây
con.
Ông Nguyễn Văn Giỏi, xã Cẩm Hà cho biết: "Từ trước đến nay
người nông dân chỉ quen sử dụng phân hóa học để bón cho lúa, vừa ít tốn
công lại vừa ít tốn thời gian. Tuy nhiên việc sử dụng phân hóa học cũng sẽ

Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

làm xấu đất. Hiện nay phân chuồng được người nông dân mua để bón cho
hoa cây cảnh với giá từ 500 - 600.000 đồng cho 1 xe công nông. Việc áp
dụng mô hình xử lý phế thải nông nghiệp làm phân hữu cơ vi sinh sẽ góp
phần làm giảm chi phí sản xuất, giảm ô nhiễm môi trường do việc đốt
rơm". Ông cũng đề nghị cần nghiên cứu xử lý rác thải là lá cây ở Cẩm Hà
nói riêng và các vùng nông thôn của thành phốnói chung làm phân bón
thay vì vận chuyển lên bãi rác của thành phố.
Để áp dụng có hiệu quả mô hình này, nhiều nông dân cũng đề nghị
ngành nông nghiệp nên tiến hành việc xử lý rơm rạ làm phân bón ngay tại
ruộng, ngay sau vụ Đông Xuân để tạo nguồn phân bón lót cho lúa trong
vụ Hè Thu; đồng thời cung ứng chế phẩm sinh học để nông dân chủ động
trong việc xử lý. Theo ông Lê Hữu Hùng, Phó phòng Kinh tế Hội An, việc
ứng dụng phân bón vi sinh từ việc xử lý sản phẩm phế thải nông nghiệp
không chỉ đối với cây lúa; ngành nông nghiệp sẽ tiếp tục nghiên cứu sử
dụng loại phân bón này đối với nghề trồng hoa cây cảnh của thành phố.
Việc ứng dụng công nghệ vi sinh để xử lý phế thải trong nông
nghiệp là vấn đề cần được quan tâm trong bối cảnh thành phố đang hướng
đến một nền nông nghiệp đô thị sinh thái. Trong thời gian đến, ngành
nông nghiệp thành phố cần quan tâm xây dựng nhiều mô hình phát triển

nông nghiệp bền vững, không gây ô nhiễm môi trường hơn nữa, nhằm
nâng cao hiệu quả sản xuât nông nghiệp, góp phần thực hiện thắng lợi đề
án xây dựng thành phố sinh thái trong tương lai.
2.4.4.Mô hình tại Thái Bình.
Các loại cây trồng nói chung, cây lúa nói riêng sau khi thu hoạch đã
lấy đi của đất nguồn dinh dưỡng rất lớn. Một phần dinh dưỡng đó nằm
trong sản phẩm thu hoạch phục vụ con người, phần không nhỏ còn lại ở
trong phế thải nông nghiệp. Hiện nay những phế thải nông nghiệp này
thường được nông dân đốt ngay trên đồng ruộng. Biện pháp này đã gây ô
nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến người , gia súc, gia cầm và các loại cây
trồng khác, làm mất đi vĩnh viễn nhiều nguyên tố quan trọng mà cây trồng
đã lấy đi từ đất, đặc biệt là Các bon. Nếu tình trạng này cứ tiếp tục tiếp
diễn thì cùng với sự lạm dụng phân hoá học, đất sẽ càng ngày càng cằn
cỗi và chai cứng, hậu quả lâu dài sẽ không lường trước được. Trả lại cho
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

đất những gì đã lấy đi của đất là việc làm cần thiết, cấp bách của con
người.
Làm được việc đó, chúng ta sẽ hạn chế được việc lạm dụng phân
hoá học và thuốc hoá học trên đồng ruộng mà vẫn đảm bảo được năng
suất và ngày nâng cao chất lượng nông sản; dần dần lấy lại được độ phì

nhiêu cho đất, làm tăng hàm lượng các chất khoáng, tăng độ tơi xốp của
đất, tăng hàm lượng vi sinh vật hữu hiệu trong đất (vi sinh vật là yếu tố vô
cùng quan trọng trong việc chuyển hoá phân bón thành thức ăn cho cây
trồng), giảm tối thiểu các loại vi khuẩn có hại, các loại mầm mốmg sâu và
nấm bệnh gây hại cho cây. Đây cũng là giải pháp quan trọng tạo nên một
nền nông nghiệp sạch, an toàn và bền vững.
Vì vậy phòng nông nghiệp tỉnh Thái Bình đã khuyến cáo nông dân
sản xuất phân hữu cơ vi sinh từ nguồn rơm, rạ sau thu hoạch trên đồng
ruộng.
Nguyên vật liệu dùng cho sử lý rơm, rạ:
- Chế phẩm sinh học Vixura 5-10kg/1 tấn rơm, rạ.
- Phân NPK 2-3kg/1 tấn rơm, rạ, hoặc phân chuồng.
- Nilon, bạt… dùng để che đậy.
- Cuốc, xẻng, ozoa dùng để tưới chế phẩm.
Các bước xử lý:
Sau khi thu hoạch, thu gom rơm rạ thành đống để xử lý.
Rải rơm, rạ theo từng lớp dày 30-40 cm và tưới đều dung dịch chế
phẩm lên khắp bề mặt ngưyên liệu. Cứ như vậy cho đến khi độ cao đống ủ
đạt 1,5-1,6 m thì dừng lại, tiếp đó tiến hành che phủ nilon để giữ ẩm và
nhiệt. Trong quá trình ủ thường xuyên kiểm tra độ ẩm của đống ủ, đảm
bảo đống ủ đạt độ ẩm cần thiết.
Sau 10 ngày tiến hành kiểm tra và đảo trộn, công việc này có ý
nghĩa quan trọng: đảo trộn giúp rơm, rạ thêm vụ do tác động cơ học, làm
cho các loại vi sinh vật phân bố đều hơn, phát hiện chỗ nào chưa đảm bảo
độ ẩm thì bổ sung thêm. Cách kiểm tra độ ẩm: cầm nắm rơm, rạ vắt nếu
thấy nước rỉ ra theo kẽ tay là được. Sau 20-25 ngày nguyên liệu đã phân
huỷ thành phân có thể dùng để bón cho cây trồng.

Thân Đức Nam – 8K


Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

2.4.5. Mô hình tại tỉnh Thừa Thiên Huế.
Dự án:“ ứng dụng chế phẩm sinh học để sản xuất phân bón hữu cơ
vi sinh từ rơm, rạ và phụ phẩm nông nghiệp khác góp phần phát triển kinh
tế- xã hội và bảo vệ môi trường tại huyện Hương Thuỷ tỉnh Thừa Thiên
Huế”, là rất cần thiết bởi nó tận dụng được nguồn rơm, rạ hàng năm để
sản xuất phân hữu cơ vi sinh, phục vụ sản xuất nông nghiệp, đồng thời
làm giảm ô nhiễm môi trường do chất thải nông nghiệp.
Th.s Trần Tuấn , giám đốc trung tâm chuyển giao công nghệ và
kiểm định, kiểm nghiệm Thừa Thiên Huế khẳng định.
Với 2 mục tiêu cụ thể là xây dựng được mô hình sản xuất phân hữu
cơ vi sinh từ rơm, rạ và phụ phẩm nông nghiệp khác làm phân bón hữu cơ
vi sinh phù hợp với điều kiện địa phương, dự án được triển khai tại 20 hộ
gia đình thuộc 4 xã: Thuỷ Thanh, Thuỷ Vân, Thuỷ Lương, Thuỷ Châu
( huyện Hương Thuỷ tỉnh Thừa Thiên Huế ).
Sau khi tập huấn và chuyển giao công nghệ, cấp chế phẩm sinh học
Vixura cho các hộ gia đình triển khai mô hình theo quy trình:
Cứ 2kg chế phẩm Vixura hoà với 1kg NPK để xử lý rơm, rạ thu
được từ 1 sào ( bắc bộ). Để xử lý 1 tấn rơm, rạ cần sử dụng 5-10kg chế
phẩm, tuỳ thộc vào thời gian nông dân muốn rơm mủn nhanh hay chậm.
Cách làm: Rải rơm, rạ thành từng lớp cao 20-30 cm rồi tưới dung
dịnh chế phẩm đều lên nguyên liệu, cứ làm như vậy cho đến khi chiều cao

đống ủ đạt 1,5- 2,0 m thì dừng lại, lượng nước tưới phải đảm bảo độ ẩm
nguyên liệu đạt 60- 70%, sau đó che phủ đống ủ bằng nilon để giữ ẩm và
nhiệt cho đống ủ.
Với chế phẩm này sau 20-25 ngày, rơm rạ sẽ mủn ra và trở thành
loại phân bón rất tốt cho cây trồng, hệ vi sinh vật tại ruộng sử dụng phân
hữu cơ được cải thiện theo hướng có lợi cho cây trồng, giảm các nhóm vi
sinh vật có hại cho cây trồng.
2.4.6. Mô hình tại tỉnh Bắc Ninh.
Áp dụng kỹ thuật xử lý rơm, rạ sản xuất phân bón hữu cơ bằng
phương pháp lên men vi sinh
Từ vụ xuân năm 2009, Phòng Nông nghiệp và PTNT Gia Bình phối
hợp với Viện Công nghệ sinh học và Viện KH và CN Việt Nam triển khai
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp


Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

thực hiện dự án “áp dụng kỹ thuật xử lý rơm, rạ sản xuất phân bón hữu cơ
bằng phương pháp lên men vi sinh từ chế phẩm Vixura” tại HTX Hương
Vinh (thị trấn Gia Bình tỉnh Bắc Ninh).
Kỹ thuật xử lý rơm, rạ sản xuất phân bón hữu cơ bằng phương pháp
lên men vi sinh đã được ứng dụng thành công ở nhiều tỉnh trong cả nước,
qua thực tiễn cho thấy đây là công nghệ dễ thực hiện, phù hợp với nhiều
vùng có trình độ sản xuất, thâm canh khác nhau. Rơm, rạ sau khi thu

hoạch được thu gom vào góc ruộng, hoà với chế phẩm cùng với nước và
phân NPK tưới lên rơm, rạ, rồi phủ nilon lên để giữ ẩm hoặc trát bùn. Cứ
1 kg chế phẩm Vixura cần hoà với 1 kg NPK và tưới vào rơm của 1 sào
ruộng Bắc Bộ. 1 tấn rơm cần khoảng 10 kg chế phẩm tuỳ thuộc thời gian
nông dân muốn rơm mùn nhanh hay chậm. Nhưng thông thường nên ủ
thành từng đống trong thời gian từ 17- 25 ngày sẽ tạo thành phân hữu cơ
để bón cho cây trồng. Qua 2 vụ thực hiện là vụ xuân và vụ mùa năm 2007
trên quy mô 30 ha lúa tại HTX Hương Vinh (thị trấn Gia Bình) cho thấy,
các chỉ tiêu phát triển và năng suất lúa ở các ruộng được bón bằng rơm, rạ
sau xử lý phát triển tốt hơn các ruộng bón bằng phân chuồng, năng suất
lúa tăng tương ứng từ 5- 7% và từ 10- 12% ở cả 2 vụ thí nghiệm. Chi phí
sản xuất cũng giảm đáng kể, có điểm giảm được lượng phân bón hoá học
từ 1,5 - 2 kg/sào, tăng thu nhập từ 50 - 80 nghìn đồng/sào. Ruộng được
bón bằng rơm, rạ xử lý chế phẩm Vixura được cải thiện về tính chất cơ lý
cũng như độ phì của đất. Khu hệ vi sinh vật tại ruộng thí nghiệm được cải
thiện theo hướng có lợi cho cây trồng. Mặt khác hệ sinh vật trong đất ở
các ruộng bón rơm, rạ đã xử lý có xu hướng tăng các nhóm có ích, giảm
các nhóm sinh vật có hại cho cây trồng.
Ngoài lợi ích về hiệu quả kinh tế, tăng độ phì cho đất và chống bạc
màu, việc sử dụng phân bón từ rơm, rạ bằng phương pháp lên men vi sinh
nhờ chế phẩm Vixura còn góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường do đốt
rơm, rạ gây ra, hạn chế tình trạng đổ rơm, rạ bừa bãi gây ách tắc kênh
mương. Đồng thời còn có tác dụng giảm sử dụng phân hoá học nâng cao
chất lượng gạo, giảm đáng kể lượng phân hoá học phải nhập khẩu hàng năm.
2.5. Tình hình triển khai mô hình sản xuất phân hữu cơ vi sinh trong tỉnh.
Mô hình triển khai thí điểm năm 2009:
Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp



Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

Bắc Giang là tỉnh nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao, nông dân thường sử
dụng phân bón vô cơ là chủ yếu, nhiều năm như vậy nguồn dinh dưỡng
của đất cạn kiệt và trở thành bạc màu về lâu dài chúng ta phải kết hợp bổ
sung nguồn phân hữu cơ để phục hồi và tăng độ phì nhiêu cho đất.
Khác với phân hoá học, phân hữu cơ có chứa rất nhiều nguyên tố
dinh dưỡng, từ các nguyên tố cơ bản N, P, K …đến các nguyên tố vi
lượng B, Mn, Cu, Mo, …phân hữu cơ không chỉ có tác dụng tăng năng
suất cây trồng mà còn có khả năng làm tăng hiệu lực cho các loại phân
hoá học và góp phần cải tạo đất.
Theo khảo sát trên địa bàn tỉnh cho thấy lượng rơm, rạ và phụ phẩm
nông nghiệp rất lớn không được xử lý và sử dụng an toàn cho môi trường,
gây ô nhiễm môi trường và bức xúc cho người dân xung quanh. Mặt khác
sau khi gạt lúa rơm, rạ được thu gom rồi đem đốt gây ô nhiễm môi trường,
lãng phí không tận dụng làm phân hữu cơ phục vụ cho sản xuất.
Trước thực trạng đó, trung tâm ứng dụng tiến bộ KH&CN Bắc
Giang đã đề xuất và xây dựng mô hình thử nghiệm “ sản xuất phân hữu
cơ vi sinh từ rơm, rạ và phụ phẩm nông nghiệp sử dụng chế phẩm Vixura
tại huyện Lạng Giang tỉnh Bắc Giang”

Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp



Trường Cao đẳng Nông - Lâm



Khoa Công nghệ sinh học

Bảng 02: sản xuất phân hữu cơ từ rơm, rạ quy mô một sào bắc
bộ sử dụng chế phẩm Vixura.
TT
Nguyên liệu
ĐVT
Số lượng
1
Nilon che phủ
m2
6
2
chế phẩn sinh họcV ixura
kg
2
3
phân NPK
kg
1
*Mô tả quy trình công nghệ.
Sau khi thu hoạch, rơm rạ được thu gom vào góc ruộng và đánh đống
rơm, rạ vào khoảng 1-2 m3 hoà chế phẩm Vixura và phân NPK vào nước
khuấy đều. Rải từng lớp rơm, rạ 20-30 cm rồi tưới dung dịch chế phẩm đã
pha lên rơm, rạ sao cho chiều cao của đống ủ đạt 1,5-1,6 m thì dừng lại, sau

đó phủ nilon che kín đống rơm để giữ ẩm và nhiệt. Cứ 2kg chế phẩm hoà với
1kg phân NPK và tưới vào rơm, rạ từ 1 sào ruộng, 1 tấn rơm, rạ cần 5-10kg
chế phẩm, tuỳ thuộc vào thời gian nông dân muốn rơm mủn nhanh hay
chậm.
Với chế phẩm này sau 17-25 ngày, rơm sẽ mủn thành một loại phân
bón rất tốt cho ruộng. Khu hệ vi sinh vật tại ruộng sử dụng phân hữu cơ
được cải thiện theo hướng có lợi cho cây trồng, giảm các nhóm vi sinh vật
có hại cho cây trồng. Loại phân bón trên giúp giảm 20-30% lượng phân
hoá học và tăng năng suất cây trồng 5-7%.
Công nghệ sản xuất phân hữu cơ có sử dụng chế phẩm Vixura với phụ
phẩm của ngành nông nghiệp sản xuất ra phân hữu cơ cung cấp phân bón
cho ngành trồng trọt thúc đẩy ngành trồng trọt phát triển tạo sản phẩm
nông sản sạch bệnh, chất lượng tốt.
Xử lý được nguồn phế thải của ngành trồng trọt gây ô nhiễm môi
trường và tăng thêm thu nhập cho người trồng trọt. Việc xử lý rơm, rạ sau
thu hoạch làm phân bón ngoài tác dụng giảm thiểu ô nhiễm môi trường do
khói bụi đốt rơm, rạ còn góp phần hạn chế việc lạm dụng phân hoá học và
thuốc hoá học trên đồng ruộng mà vẫn đảm bảo được năng suất và nâng
cao chất lượng nông sản, dần lấy lại độ phì nhiêu cho đất, làm tăng hàm
lượng các chất khoáng, tăng độ tơi xốp cho đất, tăng hàm lượng vi sinh
vật hữu hiệu trong đất, giảm tối thiểu vi khuẩn có hại, các loại mầm mống
sâu và bệnh hại. Đây là một giải pháp quan trọng trong việc tao nên một
nền nông nghiệp sạch và bền vững.

Thân Đức Nam – 8K

Khoá luận tốt nghiệp



×