Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Phân tích nghệ thuật lãnh đạo của Đảng ta trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.03 KB, 29 trang )

Đề bài: Phân tích nghệ thuật lãnh đạo của Đảng ta trong cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân ở Miền Nam
Bài làm:
KINH NGHIỆM LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ
CỨU NƯỚC (1954 - 1975)

I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN
1. Bối cảnh đất nước
a) Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ở miền Nam (19541975) là sự tiếp tục cuộc cách mang dân tộc dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Từ khi ra đời (3-2-1930), Đảng ta đã chỉ rõ: đất nước ta vốn là một Tổ quốc
thống nhất và nhân dân ta có truyền thống đoàn kết chống ngoại xâm bảo vệ bờ cõi
và cùng nhau xây dựng đất nước. Nhưng từ khi thực dân Pháp xâm lược, chúng đã
cùng bọn vua quan phong kiến đầu hàng, thống trị nhân dân ta, xã hội Việt Nam
thành một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, với hai mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn
giữa toàn thể dân tộc ta với đế quốc xâm lược và mâu thuẫn giữa nhân dân ta, mà
chủ yếu là nông dân, với giai cấp địa chủ phong kiến. Đảng ta gánh vác sứ mệnh
lãnh đạo dân tộc giải quyết hai mâu thuẫn trên là thực hiện hai nhiệm vụ của cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân: chống đế quốc xâm lược, giành độc lập thống
nhất Tổ quốc và chống phong kiến, giành lại ruộng đất cho nông dân.
Tháng 7-1954, miền Bắc được giải phóng, nhưng miền Nam còn dưới ách thống trị
của đế quốc và bọn tay sai. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, cùng bọn tay sai
Ngô Đình Diệm tiếp tục thống trị nhân dân ta ở miền Nam, hai mâu thuẫn cơ bản
trên vẫn tồn tại và đất nước tạm thời bị chia cắt. Nhân dân ta tiến hành kháng chiến
chống đế quốc Mỹ và bọn tay sai là tiếp tục cuộc cách mạng đã được tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng từ đâu nǎm 1930, nhằm hoàn thành sự nghiệp giành độc


lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đây là sự
tiếp nối lịch sử tất yếu. Đúng như Đảng ta đã khẳng định tại Đại hội tân thứ III
(tháng 9-1960): "Cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam là sự tiếp tục


các cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Ba tơ, tổng khởi nghĩa tháng Tám và cuộc
kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta trong điều kiện mới của lịch sử". Từ bối
cảnh lịch sử chiến đấu và chiến thắng ấy, nhân dân ta ở miền Nam bước vào cuộc
kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược với tư thế của người chiến thắng và đã kế
thừa được nhiều kinh nghiệm quý báu của Cách mạng tháng Tám và kháng chiến
chống thực dân Pháp. Đó cũng là nhân tố bảo đảm thắng lợi của cách mạng miền
Nam. Đồng chí Lê Duẩn nói: Chúng ta thắng Mỹ là nhờ có những kinh nghiệm quý
báu của Cách mạng tháng Tám và 9 nǎm kháng chiến chống Pháp. Không có Cách
mạng tháng Tám, không có 9 nǎm kháng chiến chống Pháp thì không thể có thắng
lợi của kháng chiến chống Mỹ.
b) Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước diễn ra trong điều kiện đất nước bị
chia làm hai miền, phải tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau
dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng.
Đây là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ
tháng 7 nǎm 1954 đến tháng 5 nǎm 1975.
Trong suốt thời gian đó việc hoạch định đường lối chiến lược và sách lược
cách mạng của Đảng phải phản ánh rõ đặc điểm lớn này. Từ mục tiêu chung của
cách mạng cả nước và mục tiêu cụ thể của từng miền đến những vấn đề chủ trương,
sách lược và phương pháp tiến hành phải phù hợp với đặc điểm trên và sát đúng
với điều kiện lịch sử cụ thể của từng miền. Đồng thời, phải xác định rõ vị trí cách
mạng từng miền và mối quan hệ khǎng khít giữa cách mạng hai miền trong thế
chiến lược chung của cả nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960), xác định đường lối
cách mạng của nước ta:
- Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.


- Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay
sai, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng

thúc đẩy lẫn nhau.
Về vị trí chiến lược cách mạng của từng miền, Đảng ta xác định: miền Bắc là
cǎn cứ địa chung của cách mạng cả nước và sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở miền Bắc có vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển cách mạng cả nước.
Cách mạng miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải
phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai. Thông qua thực
hiện nhiệm vụ cách mạng ở mỗi miền mà góp phần thực hiện nhiệm vụ chung của
cả nước là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước.
Việc xác định đường lối cách mạng tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng khác nhau ở hai miền là nét độc đáo, chưa có tiền lệ trong lịch sử, là thành
công lớn của Đảng ta.
Đó là đường lối duy nhất đúng, biểu hiện tinh thần độc lập tự chủ, sáng tạo
của Đảng ta.
Miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và là
hậu phương lớn của cả nước, đã tạo cho cách mạng miền Nam có điều kiện thuận
lợi mới khác hẳn các thời kỳ lịch sử trước đây. Đó là một nguyên nhân chủ yếu để
cách mạng miền Nam đánh thắng đế quốc Mỹ và tay sai.
Trên thực tế, việc tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng khác nhau
trên hai miền Nam - Bắc chẳng những không mâu thuẫn, mà lại từng bước đưa
cách mạng hai miền cùng phát triển, cùng đi lên trong thế tương hỗ, thúc đẩy nhau
phát triển, tạo ra sức mạnh tổng hợp đánh thắng hoàn toàn đế quốc Mỹ xâm lược và
chế độ tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
2. Bối cảnh quốc tế


Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này đang ở thời kỳ phát triển mạnh
mẽ, có tác động to lớn tới quá trình phát triển của thế giới. Hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới nối liền từ châu á sang châu Âu, không ngừng phát triển và củng cố
về mọi mặt. Nếu miền Bắc là hậu phương trực tiếp cho cách mạng miền Nam, thì
hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới lúc này nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa

của Việt Nam là hậu phương rộng lớn đáng tin cậy, một thuận lợi chưa bao giờ có
đối với cách mạng nước ta.
Cùng với sự lớn mạnh của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phong tràon
giải phóng dân tộc cuồn cuộn dâng cao ở châu á châu Phi và châu Mỹ latinh, hệ
thống thuộc đia của chủ nghĩa đế quốc bị thu hẹp và đi vào quá trình tan rã. Cuộc
đấu tranh cho dân sinh, dân chủ và hoà bình ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển
rộng khắp và liên tục. So sánh lực lượng trên thế giới lúc đó ngày càng thay đổi có
lợi cho chủ nghĩa xã hội, cho lực lượng cách mạng. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục suy
yếu và khó khǎn. Cách mạng thế giới lúc này đang ở thế tiến công. Cách mạng Việt
Nam đã hoà được vào trào lưu chung của cách mạng thế giới.
Thời kỳ này cũng cần lưu ý rằng, tuy chủ nghĩa đế quốc đã suy yếu nhưng
chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì vẫn còn miếng đất để xảy ra chiến tranh. Lực
lượng xâm lược gây chiến chủ yếu trên thế giới là đế quốc Mỹ. Chúng đang dẫn
đầu các thế lực đế quốc hiếu chiến chạy đua vũ trang, củng cố các khối liên minh
quân sự xâm lược, xây dựng các cǎn cứ quân sự, phục hồi chủ nghĩa phátxít ở Tây
Đức và quân phiệt ở Nhật Bản, nhóm lên những lò lửa chiến tranh ở châu Âu và
châu á, ra sức chuẩn bị chiến tranh mới. Nguy cơ chiến tranh thế giới vẫn tồn tại.
Nhân dân các nước đang đứng trước sự đe doạ hết sức nghiêm trọng của một cuộc
chiến tranh hạt nhân. Mặt khác, sự tàn sát và huỷ diệt ghê gớm trong cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ hai và hậu quả của nó còn làm cho nhiều người lo ngại và lẫn
lộn giữa chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh phi nghĩa. Trong điều kiện đó đã
nảy sinh nhiều tư tưởng và khuynh hướng của chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội,
chủ nghĩa dân tộc làm cho tình hình thế giới phức tạp.


Họ tuyệt đối hoá đường lối chung sống hoà bình, đi vào phòng ngự bị động,
gây không ít khó khǎn cho phong trào cách mạng thế giới, đặc biệt với phong trào
giải phóng dân tộc. Trong tình hình đó, nhân dân ta tiến hành cách mạng giải phóng
miền Nam, Đảng và nhân dân ta phải giải quyết thành công mối quan hệ giữa hoà
bình và cách mạng. Giải quyết mối quan hệ này, đòi hỏi Đảng ta hết sức sáng suốt

và có sách lược đúng đắn. Thực tế Đảng ta đã giải quyết tốt mối quan hệ đó, góp
phần bảo vệ hoà bình, đồng thời thúc đẩy sự nghiệp cách mạng tiến lên hoàn thành
độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc.
Khi nhân dân ta tiến hành kháng chiến chống Mỹ cứu nước, trên thế giới tồn
tại bốn mâu thuẫn chủ yếu: mâu thuẫn giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với
các lực lượng tư bản chủ nghĩa thế giới; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với
nhau; mâu thuẫn giữa các dân tộc đòi độc lập với các lực lượng đế quốc thực dân;
mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản
Đế quốc Mỹ xâm chiếmvà thiết lập sự thống trị của chúng ở miền Nam nước
ta đã làm nảy sinh và sâu sắc thêm cả bốn mâu thuẫn trên ở miền Nam. Đế quốc
Mỹ thực hiện âm mưu xâm lược lâu dài miền Nam, biến nơi đây thành cǎn cứ quân
sự của chúng nhằm ngǎn chặn "làn sóng" cộng sản tràn xuống Đông - Nam á, và
chuẩn bị tiến công các nước xã hội chủ nghĩa. Mỹ tuyên bố chiến tranh ở Việt Nam
là chiến tranh hệ tư tưởng, giữa hệ tư tưởng cộng sản với hệ tư tưởng "tự do" kiểu
Mỹ. Đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam, đẩy dần các đế
quốc châu Âu ra khỏi Đông Nam á, chèn ép quyền lợi của tư bản thực dân nhiều
nước ở vùng này, càng làm cho mâu thuẫn giữa Mỹ với các đế quốc khác thêm sâu
sắc. Đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền nam, chia cắt đất nước ta
làm cho cả dân tộc ta mâu thuẫn gay gắt với chúng, nhân dân ta đã đồng tâm đứng
dậy chống Mỹ xâm lược, kiên quyết giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Đế
quốc Mỹ cố xây dựng ở miền Nam một giai cấp tư sản mại bản làm tay sai cho
chúng, làm mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và tư bản ở miền Nam càng trở nên
sâu sắc. Để phục vụ chiến tranh của chúng ở miền Nam, đế quốc Mỹ bóc lột giai


cấp công nhân và nhân dân lao động Mỹ, bắt họ sang miền Nam làm bia đỡ đạn để
bọn tư bản Mỹ thu những món lợi kếch xù tử cuộc chiến tranh này.
Mỹ còn lôi kéo các nước tay sai đổ của đổ người vào cuộc chiến tranh của
chúng ở miền Nam. Do vậy, giai cấp công nhân, nhân dân lao động Mỹ và các
nước chư hầu của Mỹ bị lôi cuốn vào cuộc chiến tranh, ngày càng mâu thuẫn quyết

liệt với tư bản Mỹ, với các nhà cầm quyền Mỹ và giai cấp tư bản các nước chư hầu
Mỹ, làm rung chuyển hậu phương của chúng.
Điều đó nói lên rằng, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta
là cuộc đụng đầu lịch sử mang tính thời đại sâu sắc
3. Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam là đế quốc Mỹ với chính sách thực dân
mới
Chống đế quốc Mỹ với chính sách thực dân mới của chúng là điểm mới,
mang tính đặc trưng của cách mạng miền Nam lúc này, khác các thời kỳ trước đây
của cách mạng nước ta là chống chủ nghĩa thực dân cũ của đế quốc Pháp.
Đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơ-ne-vơ, hất cẳng thực dân Pháp, độc
chiếm miền Nam nước ta, biến nơi đây thành thuộc đia kiểu mới và cǎn cứ quân sự
của chúng. Từ đây, đế quốc Mỹ đã thành kẻ thù chủ yếu và nguy hiểm nhất của
nhân dân ta. Từ tháng 7 nǎm 1954, Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ 6 đã xác định: "Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà
bình thế giới và hiện đang trở thành kẻ thù chính, trực tiếp của nhân dân Đông
Dương". Do vậy, trong giai đoạn mới phải chĩa mui nhọn vào đế quốc Mỹ.
Chính sách thực dân mới của Mỹ là con đẻ của chủ nghĩa tư bản lũng đoạn,
của chính sách đế quốc thực dân. Nó ra đời trong cơn tổng khủng hoảng và trước
nguy cơ sụp đổ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Đảng ta nhận biết sớm bản chất chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Nghị quyết
9 của Trung ương đã chỉ ra: "Đặc điểm chủ yếu của chính sách thực dân là đế quốc
Mỹ không trực tiếp cai trị mà thông qua chính quyền tay sai, dùng viện trợ kinh tế
và quân sự để áp bức, bóc lột nhân dân miền Nam".


Chính sách thực dân mới là hiện tượng mới, do vậy ta chưa thể hình dung và
thấy rõ, đây đủ ngay trong thời gian đầu của cuộc cách mạng miền Nam. Qua thực
tiễn đấu tranh với Mỹ, chúng ta ngày càng hiểu đầy đủ bản chất và thủ đoạn của
chính sách thực dân mới của chúng. Về chính trị, Mỹ không thiết lập bộ máy thực
dân thông qua chính quyền tay sai với chiêu bài quốc gia, dân chủ giả hiệu. Về

quân sự, Mỹ tin dùng và ra sức xây dựng đội quân nguy đủ mạnh làm lực lượng
chiến đấu chiến lược cho chúng. Với cả hai mặt chính trị và quân sự như vậy, đế
quốc Mỹ nhầm một ý đồ nham hiểm là khơi sâu và làm đậm nét tính chất nội chiến
của cuộc đấu tranh, che đậy bản chất thực dân xâm lược của chúng. Về kinh tế, Mỹ
dùng viện trợ làm công cụ chủ yếu để cột giữ chế độ tay sai ở miền Nam đi vào con
đường phát triển tư bản chủ nghĩa, đối lập với miền Bắc, chia cắt lâu dài nước ta.
Về vǎn hoá - xã hội, chúng ra sức du nhập lối sống Mỹ, vǎn hoá Mỹ, hòng làm mất
đi tất cả những gì là tinh hoa, truyền thống dân tộc ta.
Ngày càng hiểu sâu sắc bản chất và thủ đoạn xảo quyệt của chính sách thực
dân mới của Mỹ, Đảng và nhân dân ta đã có những chủ trương, phương pháp đấu
tranh sát đúng, thích hợp, từng bước đánh bại chúng. Phương pháp cách mạng đúng
đắn nhất để đánh bại chủ nghĩa thực dân mới là phải kết hợp chặt chẽ lực lượng
chính trị với quân sự và hình thức đấu tranh chính trị với quân sự. Đó là quy luật cơ
bản của phương pháp cách mạng bạo lực ở miền Nam.
Quá trình xâm lược và thống trị của đế quốc Mỹ ở miền Nam là quá trình
nhất quán thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Âm mưu xâm lược nước ta của đế
quốc Mỹ đã có từ lâu.
Song, đến giữa nǎm 1954 mới có thời cơ để Mỹ trực tiếp thực hiện âm mưu
đồ của chúng. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơnevơ về lập lại hoà bình ở Đông
Dương được ký kết. Đế quốc Mỹ phá hoại Hội nghị Giơnevơ. Chúng đã không chịu
ký vào bản tuyên bố chung của Hội nghị Giơnevơ. Ngày 20-7-1954, tổng thống Mỹ
Aixenhao đã trắng trợn tuyên bố: "Mỹ không ký Hiệp định Giơnevơ nên không bị
ràng buộc bởi Hiệp định".


Đế quốc Mỹ ráo riết thực hiện âm mưu của chúng sau Hiệp định Giơnevơ là:
nhanh chóng hất cẳng Pháp, độc chiếm quyền thống trị ở miền Nam và Đông
Dương; đàn áp phong trào cách mạng và áp đặt chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở
miền Nam nước ta, chia cắt lâu dài Việt Nam, biến miền Nam thành thuộc địa và
cǎn cứ quân sự của chúng ở Đông Nam á.

Sự thật thì Mỹ đã chuẩn bị triển khai chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam từ
trước. Mỹ đã nuôi dưỡng và đào tạo bọn tay sai ngay từ đầu những nǎm 50. Trước
khi Hiệp định Giơnevơ được ký, đế quốc Mỹ đã tìm cách ép Pháp đưa Ngô Đình
Diệm (tay sai của Mỹ) về giành ghế thủ tướng nguy của Bửu Lộc (tay sai của Pháp)
vào ngày 7-7-1954, mở đầu quá trình Mỹ hất cẳng Pháp và cũng là mở đầu quá
trình Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam nước ta.
Ngày 8-9-1954, Mỹ lôi kéo một số nước đế quốc và chư hầu lập ra khối
SEATO, đặt miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia vào khu vực bảo hộ của khối
này. Cùng lúc, Mỹ xúc tiến việc mua chuộc và tiêu diệt các lực lượng thân Pháp ở
miền Nam không chịu hàng phục Mỹ, tǎng cường viện trợ trực tiếp cho chính
quyền Diệm và điều khiển chúng chống phá cách mạng. Ngày 2-12-1954, Mỹ ép
Pháp ký kết việc rút quân Pháp khỏi miền Nam Việt Nam và ngày 10-12-1954,
thỏa thuận một kế hoạch tổ chức, huấn luyện quân nguy theo phương hướng của
Mỹ. Ngày 23-10-1955, Ngô Đình Diệm tổ chức cái gọi là: "tưng cầu dân ý" phế
truất Bảo Đại. Sau đó ba ngày, Diệm lên làm tổng thống, tuyên bố thành lập nhà
nước "Việt Nam cộng hoà" và đổi "quân đội quốc gia", tay sai của Pháp, thành ",
quân lực Việt Nam cộng hoà", tay sai của Mỹ. Như vậy, bằng tất cả các thủ đoạn
ngoại giao, quân sự, chính trị, kinh tế, đế quốc Mỹ đã thực hiện được âm mưu hất
cẳng thực dân Pháp, độc chiếm miền Nam, triển khai chính sách thực dân mới của
chúng ở miền Nam nước ta trên các mặt.
Từ đây, dân tộc ta phải trực tiếp đương đâu với chủ nghĩa thực dân mới của
đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam nước ta. Qua 21 nǎm kháng chiến cực kỳ gian
khổ và oanh liệt, dân tộc ta đã toàn thắng đế quốc Mỹ, chặt đứt một mắt xích trong


hệ thống chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ và đẩy chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ thêm một bước suy yếu và khủng hoảng; thực hiện được
nguyện vọng thiêng liêng là hoàn thành độc lập, thống nhất đất nước. Cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước đã để lại cho chúng ta nhiều kinh nghiệm quý góp phần
tích cực vào phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và bảo vệ hoà bình thế

giới.

II. NHỮNG KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TIỄN KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
1. Kiềm chế đế quốc Mỹ để thắng chúng một cách có lợi nhất
Luôn tìm cách kiềm chế đế quốc Mỹ để tránh thế khó khǎn bất lợi và thắng
chúng một cách có lợi nhất là một chủ trương nhất quán của Đảng ta. Chủ trương
đó dựa trên cơ sở phân tích chính xác âm mưu, thủ đoạn và khả nǎng hành động
của đế quốc Mỹ trong các mối quan hệ quốc tế đương thời; mặt khác thấy rõ thế và
lực cùng khả nǎng phát triển của ta.
Đế quốc Mỹ mang dã tâm xâm lược nước ta, vì vậy, tìm cách kiềm chế
những âm mưu và hành động của chúng là cần thiết và có thể thực hiện được.
Trước hết, tránh những khó khǎn, bất lợi sớm phải đụng đối với một kẻ thù
lớn mạnh hơn ta nhiều lần, mà lực lượng của ta còn hạn chế. Chúng ta có chính
nghĩa và đang ở thế phát triển, nên có khả nǎng tập hợp đông đảo lực lượng cách
mạng trong nước và tranh thủ được các lực lượng dân chủ và hoà bình trên thế giới,
có khả nǎng ngǎn chặn, phá tan những âm mưu và hành động chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ.
Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược nước ta là phi nghĩa, không thể lừa bịp
được mãi nhân dân và Quốc hội Mỹ. Nước Mỹ tuy giàu có bậc nhất thế giới, song
không phải bọn xâm lược Mỹ muốn huy động bao nhiêu lực lượng vào cuộc chiến
tranh xâm lược nước ta cũng được. Mỹ có chiến lược toàn cầu phản cách mạng,
nhưng không phải lực lượng của Mỹ ở đâu cũng mạnh, chúng cũng phải tự kiềm
chế.


Kiềm chế Mỹ chậm đưa quân vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm
lược nước ta
Đầu những nǎm 40, đế quốc Mỹ đã có âm mưu xâm chiếm Việt Nam, nhất là
từ đầu những nǎm 50 thì Mỹ triển khai ráo riết. Phân tích đúng âm mưu của Mỹ,

Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân kiên quyết đứng lên làm Cách mạng tháng Tám nǎm
1945, giành chính quyền về tay nhân dân trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông
Dương, cũng như đánh bại thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ trong kháng
chiến 9 nǎm, nên đã kiềm chế và chặn đứng Mỹ đưa quân, kéo dài và mở rộng
chiến tranh xâm lược nước ta.
Sau Hiệp định Giơnevơ (7-1954), đế quốc Mỹ lấn dần thực dân Pháp, độc
chiếm miền Nam nước ta, chúng thiết lập chế độ thực dân mới và dựng nên chính
quyền tay sai Ngô Đình Diệm. Chế độ Mỹ - Diệm đàn áp dã man phong trào đấu
tranh của nhân dân ta ở miền Nam. Nhân dân ta không chịu khuất phục đã vùng lên
chống lại chúng, Đảng ta đã ra Nghị quyết 15 (1-1959) về cách mạng miền Nam.
Nghị quyết ra đời tuy có phần muộn, nhưng cũng đã kịp phát động quần chúng đấu
tranh, đi tới cao trào đồng khởi khắp miền Nam. Phong trào đồng khởi đã đưa cách
mạng miền Nam "từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công", là sự sáng tạo cách
mạng của nhân dân ta ở miền Nam, mở đâu cuộc chiến tranh cách mạng từ thấp lên
cao, vừa tầm, vừa sức của lực lượng cách mạng miền Nam mới nổi dậy và đã kiềm
chế được đế quốc Mỹ sớm đưa quân vào miền Nam, tránh được những khó khǎn,
bất lợi của cách mạng miền Nam trong buổi ban đầu.
Kiềm chế đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh từng bước
Bước vào những nǎm 60, lực lượng so sánh trên thế giới nghiêng hẳn về phía
cách mạng và hòa bình. Khả nǎng ngǎn chặn chiến tranh thế giới ngày càng nhiều.
Chính sách "bên miệng hố chiến tranh" của Mỹ cùng chiến lược quân sự mang tính
chất phản công của chúng như "trấn áp ồ ạt", "trả miếng hàng loạt" đã bị phá sản.
Để thích ứng với tình hình, đế quốc Mỹ cho ra đời chiến lược quân sự mới vừa có
tính chất tiến công, vừa có tính chất phòng ngự. Đó là chiến lược "phản ứng linh


hoạt" với ba loại chiến tranh: "chiến tranh thế giới", "chiến tranh cục bộ", và "chiến
tranh đặc biệt".
ở miền Nam nước ta từ khi có Phong trào Đồng khởi, đế quốc Mỹ đã thực
hiện "chiến tranh đặc biệt" nhằm ba mục đích:

- Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, thực hiện chính sách thực dân mới;
- Xây dựng cǎn cứ quân sự, chuẩn bị tiến công phe xã hội chủ nghĩa;
- Ngǎn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam á.
Thực hiện ba mục đích trên, đế quốc Mỹ muốn khắc phục những mâu thuẫn
đang tồn tại ở miền Nam Việt Nam: mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc
Mỹ và bè lũ tay sai, mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến, mâu thuẫn
giữa hệ thống xã hội chủ nghĩa với lực lượng đế quốc chủ nghĩa, và mâu thuẫn giữa
đế quốc Mỹ với các đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp.
Nhưng trên thực tế, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc biệt" chống lại nhân dân
ta lại càng làm sâu sắc những mâu thuẫn đó.
Đảng ta chỉ ra rằng, cách mạng miền Nam đề ra nhiệm vụ chống đế quốc
xâm lược giành độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trung lập là để chủ động kiếm
chế địch trong loại "chiến tranh đặc biệt" và tìm cách hoà hoãn mâu thuẫn giữa lực
lượng đế quốc chủ nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa trên vấn đề miền Nam Việt
Nam, tranh thủ giai cấp tư sản dân tộc ở miền Nam để chống đế quốc Mỹ và tay
sai, đồng thời tranh thủ sự đồng tình của các nước dân tộc chủ nghĩa và khơi sâu
mâu thuẫn giữa đế quốc Mỹ và đế quốc Pháp.
Đảng ta khẳng định: Chúng ta cần phải và có khả nǎng kiềm chế và thắng
địch trong loại "chiến tranh đặc biệt". Bởi vì, khả nǎng này sẽ tǎng lên nhiều, nếu
chúng ta kiên quyết chống đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời có sách lược khôn
khéo biết lợi dụng hơn nữa mâu thuẫn trong nội bộ địch, giữa đế quốc Mỹ và các
đế quốc khác, nhất là đế quốc Pháp, giữa Mỹ và bọn tay sai ở miền Nam với bọn tư
bản cầm quyền ở Đông Nam á, do đó mà làm cho đế quốc Mỹ khó sử dụng được
lực lượng của khối xâm lược Đông Nam á để mở rộng chiến tranh ở miền Nam.


Mặt khác, chúng ta phải tranh thủ mở rộng phong trào chống đế quốc Mỹ gây chiến
và xâm lược, làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa, các dân tộc á, Phi và Mỹ latinh, ủng hộ cách mạng miền Nam ngày càng sâu
rộng và thiết thực hơn nữa.

Kiềm chế và thắng Mỹ trong "chiến tranh đặc biệt" là chúng ta đã đẩy Mỹ
vào thế bị động leo thang chiến tranh từng bước.
Nhân dân ta đã thực hiện xuất sắc tư tưởng chỉ đạo trên của Đảng Đó là quá
trình nhân dân ta tiến hành ba mặt trận đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự chống
địch ở miền Nam và đấu tranh ngoại giao để cô lập địch, tranh thủ sự đồng tình và
ủng hộ đối với ta trên trường quốc tế, mà đấu tranh chính trị và quân sự ở miền
Nam là cơ bản và đấu tranh ngoại giao là rất quan trọng. Thực hiện quá trình đó,
nhân dân ta đã phá tan các hành động chiến tranh của Mỹ - ngụy và làm phá sản
các chiến thuật tân kỳ của chúng làm cho "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị
thất bại.
Mặt khác, đế quốc Mỹ xâm lược miền Nam Việt Nam là nhằm thực hiện một
khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, nhằm thiết
lập ở miền Nam chế độ thực dân mới. Tất cả các âm mưu, thủ đoạn chính trị và
quân sự của Mỹ đêu nhằm mục đích đó. Do vậy, Mỹ thực hiện "chiến tranh đặc
biệt", hay trước thất bại nặng nề mà liều lĩnh tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền
Nam và chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân và hải quân cũng đều
nhằm mục đích đó. Mỹ không thể liều lĩnh đến mức có thể gây phương hại đến
chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng. Điều đó đòi hỏi Mỹ phải có thời
gian để xây dựng ngụy quân, ngụy quyền làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân
mới của chúng, đánh phá lực lượng cách mạng miền Nam bằng những thủ đoạn
thâm độc, xảo quyệt hơn. Do vậy, Mỹ buộc phải thực hiện chính sách leo thang
chiến tranh từng bước.
Kiềm chế chiến lược "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ trên phạm vi
chiến trường miền Nam


Giữa nǎm 1965, chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ hoàn toàn phá sản,
tổng thống Mỹ Giônxơn đã tuyên bố đưa quân viễn chinh Mỹ và quân các nước
chư hầu vào trực tiếp tham chiến ở miền Nam, thực hiện "chiến tranh cục bộ" và
tǎng cường đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân.

Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận định: trong khi chiến lược quân sự của
địch đã có sự thay đổi và đã vượt khỏi khuôn khổ của "chiến tranh đặc biệt" thì
mục đích chính trị của đế quốc Mỹ. ở miền Nam vẫn là tiếp tục thực hiện chính
sách thực dân kiểu mới, tính chất cơ bản của cuộc chiến tranh của Mỹ ở miền Nam
vẫn là chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới. Đế quốc Mỹ đưa quân đội viễn
chinh vào, miền Nam không những để tǎng cường hoạt động quân sự và còn để tạo
điều kiện ổn định ngụy quyền, ra sức xây dựng lực lượng tay sai của chúng về mọi
mặt, tức là chúng cố dựng cho được chế độ thực dân kiểu mới của chúng ở miền
Nam.
Đảng ta phân tích các mối quan hệ giữa Mỹ và các nước, các khu vực trên
thế giới: Rõ ràng là tình hình chung trên thế giới hiện nay cũng như tình hình riêng
của nước Mỹ không cho phép sử dụng hết sức mạnh về kinh tế và quân sự của
chúng trong cuộc chiến tranh xâm lược ở Việt Nam.
Mỹ thua trong "chiến tranh đặc biệt", buộc phải đưa quân viễn chinh và chư
hầu vào miền Nam mở rộng chiến tranh, chúng đã mắc sai lầm đánh giá quá thấp
lực lượng của ta.
Chúng tính, với "chiến tranh cục bộ" sẽ thay đổi thế bị động của chúng thành
thế chủ động và đẩy lực lượng cách mạng từ thế chủ động, thế thắng thành thế bị
động và bị tiêu diệt.
Phân tích toàn diện thế và lực cách mạng cả nước ta lúc này, Đảng ta kết
luận: mặc dù đế quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, lực
lượng so sánh giữa ta và địch vẫn không thay đổi lớn. Tuy cuộc chiến tranh ngày
càng trở nên gay go, ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững


và tiếp tục giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện đánh bại
âm mưu trước mất và lâu dài của địch.
Đế quốc Mỹ ra sức lợi dụng sự bất đông giữa Liên Xô và Trung Quốc để leo
thang chiến tranh chống Việt Nam, nhưng cũng chỉ có giới hạn. Vì với cách mạng
Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác lúc này vẫn hết

lòng ủng hộ và chi viện có hiệu quả. Đồng thời, phong trào độc lập dân tộc, hoà
bình, cùng những nhà hoạt động chính trị - xã hội nổi tiếng trên thế giới, đã hình
thành trong thực tế mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống
Mỹ cứu nước.
Như vậy, Đảng ta đánh giá đúng việc Mỹ đưa hàng chục vạn quân vào miền
Nam, mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, đánh giá đúng lực lượng và khả
nǎng của địch, đồng thời đánh giá đúng lực lượng và khả nǎng to lớn của nhân dân
ta ở cả hai miền và các điều kiện quốc tế. Trên cơ sở đó, Đảng đã xác định quyết
tâm chiến lược đúng đắn là: tập trung lực lượng cả nước, kiên quyết đánh địch và
thắng địch trong cuộc chiến tranh hạn chế đó. Chúng ta động viên lực lượng cả
nước đẩy mạnh cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam, gây cho địch nhiều tổn thất
nặng nề, đẩy chúng ngày càng sa lầy và thất bại lớn, đi tới giành thắng lợi quyết
định ở miền Nam.
Tuy vậy, Đảng ta cũng chỉ ra là cần phải đề phòng đế quốc Mỹ liều lĩnh mở
rộng "chiến tranh cục bộ" ra cả miền Bắc, phải xây dựng và bố trí lực lượng sẵn
sàng đánh bại chúng ngay từ trận đầu nếu xảy ra.
Có đường lối đúng đắn lại được chỉ đạo thường xuyên và kịp thời của Trung
ương và các cấp đảng bộ, nhân dân ta ở cả hai miền Nam - Bắc đã phối hợp nhịp
nhàng trong chiến đấu và xây dựng lực lượng, đã làm thất bại tất cả các kế hoạch
quân sự của Mỹ - nguỵ, bẻ gẫy tất cả các cuộc phản công của địch, dồn địch vào
thế tiến thoái lưỡng nan, trên cơ sở đó ta mở cuộc tiến công chiến lược Xuân 1968,
làm phá sản kế hoạch "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ. Với thắng lợi này,


nhân dân ta đã giữ vững được thế thắng, kiềm chế và thắng địch trong "chiến tranh
cục bộ" của chúng trên chiến trường miền Nam.
2. Biết giành thắng lợi từng bước
Chuyển cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến
công, đánh thắng "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy
Tháng 11-1959, xứ uỷ Nam Bộ quán triệt Nghị quyết 15 của Trung ương.

Nghị quyết 15 đi vào cơ sở giữa lúc quần chúng đang sôi sục cǎm thù Mỹ - Diệm,
đã bùng lên thành phong trào đông khởi khắp miền Nam. Phong trào đông khởi đã
giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống
trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ. Đây là một mốc rất quan
trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, làm thất bại kế hoạch
"chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Sau Đồng khởi, một vấn đề đặt ra là làm thế nào để giữ được thế làm chủ của
nhân dân. Tháng 1-1961, Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết chỉ rõ hướng phát triển
của cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là chuyển từ khởi nghĩa từng phần sang
chiến tranh cách mạng, kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng
để đưa cách mạng tiến lên. Bộ Chính trị cũng chỉ rõ phương châm chiến lược của
cách mạng miền Nam sau Đồng khởi là: Đẩy mạnh hơn nữa đấu tranh chính trị,
đồng thời đẩy mạnh đấu tranh vũ trang lên song song với đấu tranh chính trị, tấn
công địch bằng cả hai mặt quân sự và chính trị. Bộ Chính trị khẳng định: Cần phải
ra sức xây dựng lực lượng vũ trang đủ mạnh để tiêu diệt nhiều sinh lực địch.
Dưới ánh sáng chỉ đạo của Nghị quyết Bộ Chính trị, cách mạng miền Nam
đã phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Một lực lượng lớn được đưa từ miền
Bắc vào cùng lực lượng tại chỗ tạo cho cách mạng miền Nam vững vàng cả về thế
và lực. Với thế và lực đó, với phương hướng tiến lên bằng cả lực lượng chính trị và
quân sự, bằng sự kết hợp cả hai hình thức đấu tranh chính trị và quân sự, nhân dân
ta ở miền Nam đã liên tục tiến công địch, làm phá sản kế hoạch Xtalây Taylơ nhằm
bình định miền Nam trong vòng 18 tháng (1961-1962) và kế hoạch Giônxơn -


Mắcnamara cùng mục đích trên thực hiện trong hai nǎm (1964-1965). Đây là quá
trình nhân dân miền Nam đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - nguy.
Những chiến thắng vang dội và có ý nghĩa bước ngoặt như chiến thắng ấp
Bắc (2-1-1963), chiến thắng Bình Giã (12-1964), chứng tỏ sự trưởng thành toàn
diện của lực lượng cách mạng, khẳng định thế tất thắng của nhân dân ta, mở ra
phong trào thi đua diệt nguy, diệt Mỹ khắp miền Nam. Đến giữa nǎm 1965, quân

nguỵ bị đánh tan vỡ từng mảng, ngụy quyền khủng hoảng triển miên, quốc sách "ấp
chiến lược" bị phá sản, "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ - ngụy bị thất bại.
Giữ vững thế thắng, thế tiến còng, quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ leo
thang chiến tranh.
"Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ bị đánh bại. Với bản chất hiếu chiến
và ngoan cố theo đuổi chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ đã leo
thang chiến tranh, tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và đánh phá miền
Bắc bằng không quân và hải quân ác lệt hơn. Đây là một thử thách quyết liệt có
tính chất quyết định thắng bại với cả hai bên tham chiến.
Trước chiều hướng đó, tháng 3-1965, Trung ương Đảng đã họp Hội nghị lần
thứ 11. Trên cơ sở phân tích hết sức khách quan các yếu tố của cuộc chiến tranh,
Hội nghị đã nhận định: Mỹ sẽ mở rộng chiến tranh, đưa quân vào miền Nam thực
hiện "chiến tranh cục bộ" và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc thường xuyên
và ác liệt hơn. Trung ương Đảng hạ quyết tâm: quyết thắng địch ở mức cao nhất
trong "chiến tranh đặc biệt" ở miền Nam và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc.
Chuẩn bị sẵn sàng đánh thắng địch nếu chúng biến chiến tranh ở miền Nam
thành "chiến tranh cục bộ" và kể cả khi chúng mở rộng "chiến tranh cục bộ" ra hai
miền Nam - Bắc nước ta.
Đây là một dự đoán rất đúng đắn và kịp thời.
Tháng 5-1965, Giônxơn tuyên bố đưa quân Mỹ vào trực tiếp tham chiến ở
miền Nam. Tháng 9-1965, Bộ Chính trị họp và tháng 12-1965, Trung ương Đảng
họp Hội nghị lần thứ 12 bàn về cách mạng miền Nam đã nhận định: Cuộc chiến


tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở miền Nam đã từ "chiến tranh đặc biệt" chuyển
thành "chiến tranh cục bộ", song về tính chất và mục đích vẫn là nhằm thực hiện
chủ nghĩa thực dân mới. Hội nghị đã phân tích rõ chỗ mạnh, chỗ yếu của địch, đề
ra phương châm chiến lược của chiến tranh giải phóng miền Nam và những hình
thức, biện pháp cụ thể để đánh thắng cả lực lượng Mỹ và nguỵ. Một lần nữa, Đảng
ta hạ quyết tâm: quyết chiến và quyết thắng đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh. Phải

đánh phủ đầu quân Mỹ ngay khi chúng vừa vào miền Nam. Tháng 5-1965, khi
quân Mỹ gồm đủ các quân binh chủng hùng hổ kéo vào miền Nam thì tại cǎn cứ
Núi Thành, một đại đội thuộc bộ đội tỉnh Quảng Nam đã tập kích tiêu diệt gọn một
đại đội lính thủy đánh bộ Mỹ, 180 tên chết và bị thương. Đây là trận đầu tiên lực
lượng vũ trang cách mạng giáp chiến tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ ở miền
Nam. Qua trận Núi Thành, ta hiểu rõ mặt mạnh, mặt yếu của quân Mỹ trên thực tế,
và khẳng định ta đánh được Mỹ. Tiếp trận Núi Thành là chiến thắng Vạn Tường,
Plâyme... là những trận phủ đầu nặng nề đối với quân Mỹ. Phong trào thi đua diệt
Mỹ nở rộ khắp miền Nam. Ngay nǎm 1965, nǎm đầu quân Mỹ tham chiến ở miền
Nam, ta đã tiêu diệt 20 vạn quân Mỹ - ngụy. Khí thế chiến thắng này đã tạo đà cho
quân dân ta ở miền Nam đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ vào hai
mùa khô 1965-1966 và 1966-1967. Với cuộc phản công chiến lược mùa khô 19661967 thì sự cố gắng cùng sự thất bại của Mỹ đã đến độ cao, bộ mặt xâm lược tàn
bạo của chúng đã lộ rõ trước dư luận thế giới, xã hội Mỹ khủng hoảng sâu sắc,
chính giới Mỹ phân hoá và mâu thuẫn gay gắt. ở miền Nam, đế quốc Mỹ lâm vào
thế thua, thế bị động và khó khǎn; ngược lại, ta đang ở thế thắng, thế chủ động và
thuận lợi. Tình hình đó cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một
thời kỳ mới. Quân và dân ta ở miền Nam đã thực hiện bước chuyển đó bằng cuộc
tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt khắp nông thôn và thành thị miền Nam vào đầu
Xuân 1968. Đây là đòn quyết định đánh bại "chiến tranh cục bộ" của đế quốc Mỹ,
buộc chúng phải từng bước xuống thang chiến tranh và đi vào chiều hướng kết thúc
cuộc chiến. Tuy vậy, trong bản anh hùng ca Xuân 1968, Đảng ta mắc sai lầm chủ


quan, nóng vội, muốn kết thúc chiến tranh khi điều kiện chưa đủ. Bởi vậy, đợt tổng
tiến công nổi dậy đầu tiên ta giành thắng lợi vang dội, nhưng các đợt sau ta bị tổn
thất nặng nề, làm chậm lại sự phát triển theo chiều hướng trên của cuộc chiến mà
thắng lợi thuộc về ta đã rõ.
Kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và ngoại giao giành thắng lợi quyết định
Phải xuống thang chiến tranh, nhưng đế quốc Mỹ lại thực hiện cái gọi là học
thuyết Níchxơn bằng chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh" hòng kéo dài chiến

tranh, duy trì chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Chúng đổ tiền của vào cố xây
dựng cho được ngụy quyền và ngụy quân làm xương sống cho "Việt Nam hoá
chiến tranh". Mỹ thực hiện ở miền Nam một lúc ba loại chiến tranh: giành dân, bóp
nghẹt và huỷ diệt tàn khốc hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó, đồng thời thực hiện
ngoại giao xảo quyệt để cản phá ta giành thắng lợi hoàn toàn.
Tháng 1- 1970, Trung ương Đảng ta họp Hội nghị lần thứ 18, Hội nghị đã
phân tích sâu sắc tính chất thâm độc của chiến lược "Việt Nam hoá" và những mâu
thuẫn không thể khắc phục được của nó. Trên cơ sở đó, Hội nghị đề ra nhiệm vụ
trước mắt cho cách mạng miền Nam là ra sức xây dựng lực lượng quân sự và chính
trị, đẩy mạnh tiến công quân sự, chính trị và ngoại giao làm thất bại âm mưu "Việt
Nam hoá chiến tranh" của đế quốc Mỹ.
Quân và dân ta đã thực hiện xuất sắc những nhiệm vụ trên và đã giành thắng
lợi quyết định. Tận dụng sai lầm của Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia,
tháng 4-1970, Hội nghị cấp cao Đông Dương đã họp, hình thành mặt trận thống
nhất nhân dân Đông Dương đoàn kết chống Mỹ, củng cố vững chắc thế liên hoàn
Đông Dương là một chiến trường, phối hợp chặt chẽ với Mặt trận nhân dân thế giới
ủng hộ ba nước Đông Dương chống Mỹ xâm lược. Mặt trận ngoại giao đã chủ động
và phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị, liên tục tiến công đế quốc
Mỹ tại Hội nghị Pari và trước dư luận toàn thế giới. Mũi tiến công quân sự đã giành
thắng lợi rực rỡ, thực sự làm đòn xeo cho mũi tiến công chính trị và ngoại giao.
Nǎm 1969-1971, ta phối hợp với quân dân Lào và Campuchia giành thắng lợi lớn ở


XǎmThông - Loong Chẹng, Cánh Đồng Chum trên chiến trường Lào và giải phóng
phần lớn đất đai cùng 4,5 triệu dân ở Campuchia, chiến thắng đường số 9 -Nam
Lào đã mở ra khả nǎng thực tế làm thất bại chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh"
của Níchxơn.
Ngày 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược ở miền Nam với quy mô
lớn, cường độ mạnh, với đủ các binh chủng tác chiến hợp đồng và kéo dài suốt nǎm
1972. Bị thất bại nặng, Mỹ đã "Mỹ hoá" trở lại cuộc chiến tranh, thả mìn các cửa

sông, cửa biển và ném bom trở lại miền Bắc, đồng thời thực hiện chính sách ngoại
giao xảo quyệt hòng ngǎn cản thắng lợi của ta. Mỹ lật lọng tại Hội nghị Pari và
tháng 12-1972, chúng mở cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội,
Hải Phòng suốt 12 ngày đêm. Nhưng cũng như ở miền Nam, cuộc tập kích này của
Mỹ đã thất bại nặng nề. Đúng như Đại hội IV của Đảng ta (12-1976) đã nhận định:
"Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược nǎm 1972 và chiến công xuất sắc
của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B. 52 vào Hà
Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pari về Việt
Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta". Ta đã giành thắng lợi
quyết định với đế quốc Mỹ.
Từ thắng lợi quyết định tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố
tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới
của chúng ở miền Nam, biến miền Nam thành một "quốc gia" thân Mỹ, xoá bỏ
chính quyền cách mạng.
Sau Hiệp định Pari, ở miền Nam chưa có ngừng bắn hoàn toàn, chưa có hoà
bình thật sự, Mỹ - ngụy vẫn tiến hành bình định và lấn chiếm khắp miền Nam.
Tháng 7-1973, Trung ương Đảng đã kịp thời họp Hội nghị lần thứ 21, phân
tích rõ tình hình trên, âm mưu và hành động phá hoại Hiệp định Pari của Mỹ nguỵ. Hội nghị cũng chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của địch.


Hội nghị nhận định thế và lực của cách mạng miền Nam hiện mạnh hơn bất
cứ thời kỳ nào kể từ nǎm 1954 đến đó. Nhưng ta cũng còn nhiều mặt cần nhanh
chóng khắc phục, nhất là đấu tranh quân sự, chính trị, binh vận và xây dựng lực
lượng phát triển chưa đều từ sau Hiệp định Pari. Hội nghị khẳng định nhiệm vụ cơ
bản của cách mạng miền Nam lúc này là: tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, đánh đổ ngụy quyền, làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa
thực dân mới của Mỹ. Phương pháp cách mạng bạo lực là nhất quán cả quá trình
cách mạng miền Nam đi tới giành thắng lợi hoàn toàn.
Nghị quyết 21 của Trung ương giúp các đảng bộ miền Nam kịp thời nhận

thức và khắc phục những thiếu sót, lệch lạc từ sau Hiệp định Pari. Nhờ vậy, tình
hình chiến trường miền Nam có những chuyển biến tích cực và nhanh chóng. Đầu
nǎm 1974, về cơ bản ta đã thu hồi được các vùng giải phóng và vùng tranh chấp bị
địch lấn chiếm từ sau Hiệp định Pari và giải phóng thêm được gần nửa triệu dân.
Từ giữa nǎm 1974, những điều kiện cho việc giải phóng hoàn toàn miền Nam đang
chín muồi.
Tháng 10 - 1974, Bộ Chính trị họp đề ra kế hoạch giải phóng miền Nam
trong 2 nǎm (1975-1976). Sau đó Bộ Chính trị làm việc với các đồng chí lãnh đạo
và chỉ huy các chiến trường miền Nam. Tháng 1-1975, Bộ Chính trị nhận định:
"Chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự, chính trị như hiện nay, có thời cơ
chiến lược to lớn, thuận lợi như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc".
Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương quyết định lấy chiến trường Tây
Nguyên và Buôn Ma Thuột làm chiến trường và điểm mở đầu cho kế hoạch giải
phóng hoàn toàn miền Nam. Bộ Chính trị theo dõi chặt chẽ và chỉ đạo kịp thời các
bước tiến quân giành thắng lợi ở các chiến trường miền Nam.
Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên (từ ngày 10 đến 20-3-1975) đã điểm
trúng huyệt vào Buôn Ma Thuột, làm rung chuyển hệ thống bố trí chiến lược của


quân ngụy Sài Gòn, ngụy quyền hốt hoảng cho rút quân chiến lược khỏi Tây
Nguyên, làm rối loạn quân ngujy. Ta giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên.
Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng (từ ngày 21 đến 29-3-1975) đã phá tan
âm mưu co cụm về giữ đồng bằng ven biển miền Trung của địch, đẩy địch lún sâu
hơn nữa vào thế suy sụp, tan vỡ không sao cứu vãn nổi, làm xuất hiện thời cơ tổng
tiến công và nổi dậy vào sào huyệt cuối cùng của địch: Chiến dịch giải phóng Sài
Gòn và Nam Bộ - Chiến dịch Hồ Chí Minh (từ ngày 26 đến 30-4-1975). 17 giờ
ngày 26-4-1975, nǎm quân đoàn của ta mở cuộc tổng tiến công vào Sài Gòn - Gia
Định, 11 giờ ngày 30-4-1975, quân ta chiếm dinh tổng thống ngy, buộc ngụy quyền
Sài Gòn đầu hàng vô điều kiện. Sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam của

nhân dân ta toàn thắng.
3. Sáng tạo nhiều cách đánh, cách thắng đế quốc Mỹ
Đánh thắng đế quốc Mỹ bằng phương pháp cách mạng bạo lực của quần
chúng.
Đây là phương pháp nhất quán của Đảng ta suốt quá trình cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Nó không ngừng được bổ sung và hoàn thiện trong quá trình
cách mạng.
Nghị quyết 15 của Trung ương đã chỉ rõ: "Ngoài con đường cách mạng,
nhân dân miền Nam không có con đường nào khác để tự giải phóng khỏi xiềng
xích nô lệ", "con đường đó là lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng
chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ
quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng nên chính quyền cách mạng của
nhân dân".
Vào bước cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hội nghị
trung ương lần thứ 21 lại khẳng định: tư tưởng cách mạng bạo lực là thống nhất của
cả quá trình cách mạng miền Nam. Chiến thắng 30-4-1975 chứng minh tính đúng
đắn, sáng tạo của phương pháp cách mạng bạo lực của Đảng ta.


Bạo lực cách mạng trong cách mạng Việt Nam có lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh chính trị và đấu tranh quân sự và sự kết
hợp đấu tranh chính trị với quân sự. Quá trình thực hiện bạo lực cách mạng, nhân
dân ta thể hiện sinh động sự kết hợp chặt chẽ giữa ý chí giành độc lập dân tộc với
phương pháp cách mạng đúng đắn.
ý chí giành cho được độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc là truyền thống
thiêng liêng của cả dân tộc ta, là mục tiêu hàng đầu của sự nghiệp cách mạng do
Đảng ta lãnh đạo. ý chí đó đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu khẳng định khi
cả dân tộc đứng lên làm Cách mạng tháng Tám 1945: Dù phải đốt cháy dãy Trường
Sơn cũng phải giành cho được độc lập, tự do. 21 nǎm sau, khi cuộc kháng chiến
chống Mỹ ở thời điểm quyết liệt nhất, Người lại nói: Không có gì quý hơn độc lập

tự do.
Để giữ vững và thực hiện được ý chí dó, suốt 21 nǎm lãnh đạo kháng chiến
chống Mỹ, Đảng ta đã vận dụng những giải pháp hết sức mềm dẻo và khôn khéo về
chính trị, quân sự, ngoại giao. Do đó, trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đảng
ta đã giữ vững được tính độc lập sáng tạo về đường lối cách mạng, đã lãnh đạo tiến
hành chiến tranh cách mạng thắng lợi, đồng thời góp phần cùng nhân dân các nước
bảo vệ hoà bình thế giới. Một nước nhỏ, dân số không đông, kinh tế còn kém phát
triển đã liên tục đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, làm thất bại
hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở Việt Nam.
Từ khởi nghĩa quần chúng chuyển sang tiến hành chiến tranh cách mạng và
kết hợp khởi nghĩa quần chúng với chiến tranh cách mạng.
Mỹ của nhân dân ta ở miền Nam được Đảng ta tổng kết và chỉ ra là hướng đi
lên của cách mạng miền Nam sau Phong trào Đồng khởi (1960). Bằng cách thức
đó, lực lượng cách mạng miền Nam đã đánh bại "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ ngụy, và đã phát triển cao ở các thời kỳ tiếp theo, thể hiện hết sức phong phú, sinh
động trong đấu tranh chính trị, quân sự và kết hợp giữa hai hình thức đấu tranh
chính trị và quân sự. Về sau lại được kết hợp với hình thức đấu tranh ngoại giao.


Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước sáng ngời chính nghĩa, đó là ưu thế chính trị
rất lớn của ta, cũng là điểm yếu cǎn bản của Mỹ - ngụy. Đảng và nhân dân ta đã
biết phát huy ưu thế này mà liên tục tiến công địch trên mặt trận chính trị, những
"đội quân tóc dài", học sinh, sinh viên, giáo phái... đã tiến công chủ nghĩa thực dân
mới bằng chính những luận điệu mị dân của chúng. Đấu tranh chính trị kết hợp chặt
chẽ với đấu tranh ngoại giao đã tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ trước nhân dân toàn
thế giới, hình thành ba tầng mặt trận: trong nước, Đông Dương và thế giới, cùng
tiến công đế quốc Mỹ và bọn tay sai.
Từ thực hiện chiến tranh cách mạng chống lại chiến tranh thực dân mới,
đồng thời cũng là làm chiến tranh giải phóng, tất yếu phải xây dựng được lực lượng
quân sự và đấu tranh quân sự mạnh. Thực tiễn kháng chiến chống Mỹ cho ta thấy
không có lực lượng quân sự và đấu tranh quân sự mạnh thì khó lòng đẩy mạnh các

mặt đấu tranh chính trị và ngoại giao và không thể có thắng lợi triệt để như mùa
Xuân 1975.
Mặt trận ngoại giao của ta đã phát huy tính chủ động liên tục tiến công địch,
đồng thời phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với mặt trận chính trị và quân sự tạo thành
sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù. Đây là một nét đặc sắc trong lãnh đạo kháng
chiến chống Mỹ cứu nước của Đảng ta.
Tranh nhân dân rộng khắp.
Phát động chiến tranh nhân dân chống lại các thế lực xâm lược là truyền
thống của dân tộc ta và cũng là đường lối nhất quán suốt 30 nǎm lãnh đạo chiến
tranh của Đảng ta chống lại hai đế quốc to là Pháp và Mỹ. Trong kháng chiến
chống Mỹ cứu nước, chiến tranh nhân dân của ta phát triển tới đỉnh cao. Tiến hành
cuộc chiến tranh nhân dân, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân
dân gồm ba thứ quân. Nhờ vậy, tuy quân số ta không đông, nhưng lực lượng vũ
trang của ta được huy động và bố trí chiến lược đồng đều và rộng khắp, địch ở đâu
cũng có thể bị tiến công.


Nét đặc trưng của chiến tranh nhân dân Việt Nam là cách đánh địch không
chỉ ở ba thứ quân trong lực lượng vũ trang, mà bất cứ ai từ già đến trẻ đều có thể
góp sức mình tiến công giặc, góp phần giải phóng quê hương. Cách đánh sở
trường, rộng khắp là đánh du kích. Bằng cách đánh này, mà vũ khí thô sơ của ta đã
nhiều lần làm cho kẻ thù có vũ khí hiện đại phải chấp nhận thất bại. Kết hợp đánh
du kích và đánh chính quy, đã phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng
vũ trang và sức mạnh của toàn dân đánh giặc.
Hình thức tác chiến trong chiến tranh nhân dân của ta vô cùng phong phú,
đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn và sự kết hợp các quy mô tác chiến đó trong từng
chiến dịch một cách linh hoạt và sáng tạo, làm cho kẻ địch không thể lường hết
được các mũi tiến công của ta.
Chiến tranh nhân dân của ta tiến công địch cả bằng quân sự, chính trị và binh
vận, và sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hình thức này, nâng cao hiệu quả chiến

đấu của ta lên rất cao.
Cả ba vùng miền núi, đồng bằng và đô thị đều có những hình thức tiến công
địch phù hợp là nét đặc sắc trong chiến tranh nhân dân của ta. Miền núi lấy tiến
công quân sự là chủ yếu; vùng nông thôn đồng bằng tiến công cả quân sự và chính
trị, và kết hợp hai hình thức đó; ở các đô thị ta tiến công địch bằng chính trị là chủ
yếu, đồng thời kết hợp tiến công quân sự với những lực lượng nhỏ, tinh nhuệ vào
các sào huyệt của địch đạt hiệu quả chiến đấu cao.
4. Tổ chức và chỉ đạo phối hợp chặt chẽ cách mạng hai miền
Đất nước Việt Nam vốn thống nhất, từ kinh tế - xã hội, tiếng nói, tình cảm và
truyền thống, cố kết nhau trong một cộng đồng bền vững từ lâu đời mà tồn tại và
phát triển. Từ khi Đảng ta lãnh đạo cách mạng, khối đoàn kết thống nhất của dân
tộc được kế thừa và phát triển , trở thành truyền thống cách mạng.
Vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuy mỗi miền có nhiệm vụ cụ
thể khác nhau, nhưng đều có chung một mục tiêu là hoàn thành độc lập và thống
nhất Tổ quốc. Nhiệm vụ cách mạng hai miền có mối quan hệ chặt chẽ và thúc đẩy


lẫn nhau. Trên cơ sở đó, Đảng ta đã tổ chức, chỉ đạo sự kết hợp chặt chẽ cách mạng
hai miền Nam - Bắc trên nhiều mặt từ chiến lược, sách lược và những nội dung cụ
thể.
Kết hợp về chiến lược, Đại hội III của Đảng ta đã xác định: "Nhiệm vụ cách
mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc rõ ràng là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự
phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà
của nhân dân ta". "Cách mạng miền Nam có một vị trí rất quan trọng. Nó có tác
dụng quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống
trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn
thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước". Và cách
mạng hai miền "cùng có một mục tiêu chung là thực hiện thống nhất nước nhà, cho
nên quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát
triển".

Miền Bắc là hậu phương của tiền tuyến miền Nam, là nhân tố thường xuyên
quyết định thắng lợi. Vì vậy, bất kể trong tình huống nào, hoà bình hay không có
hoà bình, hoặc vừa có hoà bình vừa có chiến tranh, thì nhân dân ta vẫn quyết tâm
xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt. Cách mạng miền Nam còn có vai trò
tích cực bảo vệ miền Bắc. Đồng bào miền Nam nói: Mỹ đánh miền Bắc một, chúng
ta đánh Mỹ gấp mười ở miền Nam. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong sự kết hợp
giữa hậu phương và tiền tuyến, mỗi đòn tấn công mạnh của quân dân ta ở miền
Nam có tác dụng trực tiếp đánh bại cuộc chiến tranh thực dân mới của Mỹ.
Xây dựng lực lượng và tổ chức chiến đấu là lĩnh vực kết hợp phong phú nhất
của cách mạng hai miền. Miền Bắc bảo đảm cung cấp đầy đủ, kịp thời với chất
lượng tốt nhất về lực lượng vũ trang, vũ khí, trang bị và mọi nhu cầu thiết yếu cho
tiền tuyến miền Nam. Cách mạng miền Nam bên cạnh nhiệm vụ xây dựng lực
lượng tại chỗ, đồng thời phải tổ chức, chuẩn bị địa bàn tiếp nhận lực lượng từ miền
Bắc chi viện và bảo đảm sự chi viện đó phát huy hiệu quả cao nhất. Trong chiến
đấu, cách mạng miền Nam có nhiệm vụ kiềm chế và thắng Mỹ ngay tại chiến


×