Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

NỀN VĂN MINH ĐÔNG NAM Á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 29 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA LUẬT
  

BÀI THẢO LUẬN NHÓM
LỊCH SỬ VĂN MINH THẾ GIỚI
Đề tài : NỀN VĂN MINH ĐÔNG NAM Á

GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
LÊ THỊ ANH ĐÀO

SINH VIÊN THỰC HIỆN
TỔ 3 – LỚP K35D

Huế, Ngày 5 tháng 12 năm 2011



LỜI MỞ ĐẦU
1.

Giới thiệu chung về nền văn minh Đông Nam Á.
Đông Nam Á là một khu vực lịch sử văn hoá, có nền tảng chung từ thời

tiền sử, được sản sinh và phát triển trong một môi trường sinh thái tự nhiên xã
hội của khu vực. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước được phân bố từ bờ
Nam sông Dương Tử đến Đông Bắc Ấn Độ sang cả châu Đại Dương.Trên cơ sở
tầng văn hoá chung đó qua tiếp biến với những nền văn hoá khác, đặc biệt là tiếp
xúc với văn hoá Ấn Độ và Trung Quốc đã tạo thành những nền văn hoá quốc gia
khác nhau. Tất cả đã tạo nên tính thống nhất trong tính đa dạng của văn hoá khu
vực.


Khu vực Đông Nam Á trước kia được người Trung Quốc gọi là Nam
Phương, người Nhật gọi là Nan Yo, người Ả Rập gọi là Qumr,…Như vậy ngay
từ xa xưa thế giới đã biết đến Đông Nam Á và người ta hiểu rõ giá trị của khu
vực này xét về mặt tài nguyên và giá trị vị trí của nó trên ngoại thương quốc tế
khi coi Đông Nam Á là “ ngã tư đường” “ hành lang” hay “cầu nối’’ thế giới
Đông Á với Tây Á và địa Trung Hải.
Tuy nhiên, đúng như nhiều tác giả đã nhận xét cho đến tận cuối thế kỉ
XIX Đông Nam Á vẫn chưa được nhìn nhận rõ rệt và đầy đủ như một khu vực
địa lí, lịch sử, văn hoá, chính trị riêng biệt. Cách nhận thức mới về tính cách khu
vực quân sự . Đúng như Sanech Chamarik nói “ Cái gọi là nghiên cứu Đông
Nam Á chỉ đơn giản là một bộ phận của chiến lược chính trị và quân sự toàn
bộ”…
Trong quá trình phát triển, văn hoá Đông Nam Á đã tiếp thu nhiều yếu tố từ bên
ngoài mà tiêu biểu nhất là từ Ấn Độ, Trung Quốc, Ả Rập và Phương tây.


Trong vấn đề thuộc về nhận thức cũng như cách tiếp cận văn hoá Đông Nam Á,
nhiều học giả Phương Tây một thời đã coi Đông Nam Á không phải là một thực
thể văn hoá mà là vùng ngoại vi tiếp giáp của hai nền văn minh lớn ở châu Á đó
là Trung Hoa và Ấn Độ. Nhận thức này thống trị gần hai thế kỉ và họ coi đây là
vùng tiếp giáp, là vùng Ấn Độ hoá và Trung Hoa hoá.
Ngày nay, Đông Nam Á đang thực hiện bước vào một giai đoạn mới là thời kì
phát triển mạnh mẽ của ý thức khu vực từ bên trong, từ chính bản thân các nước
Đông Nam Á. Và từ xa xưa Đông Nam Á đã là một khu vực văn hoá thống nhất
với một nền văn hoá bản địa khá phát triển. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa
nước phát triển rực rỡ.

2.

Mục đích nghiên cứu.


3.

Phương pháp nghiên cứu.

4.

Phạm vi nghiên cứu.

5.

Cấu trúc bài thảo luận.

NỘI DUNG
Chương 1 : Cơ sở hình thành nền văn minh Đông Nam Á
1.1.

Vị trí địa lý.
Đông Nam Á là một khu vực của châu Á, bao gồm các nước nằm ở phía

Nam Trung Quốc, phía Đông Ấn Độ và phía Bắc của Úc với diện tích khoảng
4,523,000 km². Khu vực này bao gồm 11 quốc gia: Brunei, Campuchia, Đông
Timor, Indonesia, Lào, Malaysia, Myanma, Philippines, Singapore, Thái Lan và


Việt Nam với số dân cư tính đến năm 2009 ước chừng khoảng gần 570,000,000
người.

1. Bản đồ địa lý khu vực Đông Nam Á


Philippines

Đông Timor

Thái Lan


Việt Nam

Malaysia

Brunei

Campuchia

Indonesia

Myanma

Lào

Singapore

2. Quốc kỳ 11 quốc gia khu vực Đông Nam Á
Đông Nam Á là khu vực có địa hình hết sức đặc biệt. Nơi đây là chỗ giao nhau
của nhiều mảng địa chất có núi lửa và động đất hoạt động mạnh. Các quốc gia
của khu vực được chia ra làm hai nhóm chính: Myanma, Thái Lan, Campuchia,
Lào và Việt Nam nằm ở Đông Nam Á lục địa, còn gọi bán đảo Trung Ấn, trong
khi đó các nước còn lại tạo nên nhóm Đông Nam Á hải đảo. Nhóm Đông Nam
Á hải đảo này được hình thành bởi nhiều cung đảo thuộc về Vành đai núi lửa

Thái Bình Dương và là một trong những khu vực có hoạt động núi lửa mạnh
nhất thế giới.


3. Địa hình Đông Nam Á nhìn từ vệ tinh
Do điều kiện địa lí của mình, Đông Nam Á chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió
mùa, tạo nên hai mùa tương đối rõ rệt: Mùa khô lạnh, mát và mùa mưa tương
đối nóng và ẩm. Vì thế, Đông Nam Á còn được gọi là khu vực “Châu Á gió
mùa”. Chính gió mùa và khí hậu biển làm cho khí hậu vùng Đông Nam Á đáng
lẽ có thể trở nên khô cằn như một số khi vực lục địa khác có cùng vĩ độ đã trở
nên xanh tốt và trù phú với những đô thị đông đức và thịnh vượng như
Singapore, Jakarta, Kuala Lumpur,... Gió mùa kèm theo những cơn mưa nhiệt
đới đã cung cấp đủ nước cho con người dùng trong đời sống và sản xuất hằng
năm, tạo nên những cánh rừng nhiệt đới phong phú về thảo mộc và chim muông.
Đông Nam Á từ lâu đã trở thành quê hương của những cây gia vị, cây hương
liệu đặc trưng như hồ tiêu, sa nhân, đậu khấu, hồi, quế, trầm hương,... và cây
lương thực đặc trưng là lúa nước.
1.2. Lịch sử hình thành
Ý niệm về Đông Nam Á như một khu vực riêng biệt đã có từ lâu. Song
cùng với thời gian, khái niệm này ngày càng được hiểu một cách đầy đủ và


chính xác hơn. Từ xa xưa để chỉ khu vực này, người ta đã dùng nhiều tên gọi
khác nhau cho những mục đích riêng biệt: Người Trung Quốc xưa kia thường
dùng từ “Nam Dương” để chỉ những nước nằm trong vùng biển phía Nam;
Người Nhật gọi vùng này là “NanYo”; Người Ả Rập xưa gọi vùng này là
“Qumr”, rồi lại gọi là “Waq - Waq” và sau này chỉ gọi là “Zabag”. Còn người
Ấn Độ từ xưa vẫn gọi vùng này là “Suvarnabhumi” (đất vàng) hay
“Suvarnadvipa” (đảo vàng). Tuy nhiên đối với các lái buôn thời bấy giờ, Đông
Nam Á được nhìn nhận là một vùng thần bí, nơi sản xuất hương liệu gia vị và

những sản phẩm kì lạ khác, còn sinh sống ở đây là những con người thành thạo
và can đảm. Tên gọi “Đông Nam Á” được các nhà nghiên cứu chính trị và quân
sự của Hà Lan, Anh, Mỹ đưa ra từ những năm đầu khi nổ ra Thế chiến thứ hai,
nhưng chính thức đi vào lịch sử với ý nghĩa là một khu vực địa - chính trị, và
quân sự được bắt đầu từ khi Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và Thủ
tướng Anh Winston Churchill tại Hội nghị Québec lần thứ nhất vào tháng 8 năm
1943 nhất trí thành lập Bộ chỉ huy tối cao quân Đồng Minh ở Đông Nam Á.
Đến khoảng nửa đầu thế kỷ 15, hầu hết các quốc gia tiền thân ở Đông
Nam Á đã ra đời, và bắt đầu bước vào giai đoạn phát triển rực rỡ mà điển hình là
nhà nước Đại Việt dưới triều nhà Lê. Đây là nhà nước hoàn thiện và hùng mạnh
nhất ở Đông Nam Á thời bấy giờ. Nhưng đến nửa đầu thế kỷ 18, các nhà nước
trên bắt đầu suy yếu và rơi vào sự xâm lược hoặc lệ thuộc vào phương Tây, bắt
đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa châu Âu. Sự quản lý thuộc địa có một ảnh
hưởng sâu sắc với Đông Nam Á. Trong khi các cường quốc thuộc địa chiếm hầu
hết các nguồn tài nguyên và thị trường rộng lớn của vùng này, thì chế độ thuộc
địa cũng làm cho vùng phát triển với quy mô khác nhau. Nền kinh tế nông
nghiệp thương mại, mỏ và xuất khẩu đã phát triển nhanh chóng trong giai đoạn
này. Nhu cầu tăng cao về nhân công dẫn tới nhập cư hàng loạt, đặc biệt từ thị
trường Ấn Độ của Anh Quốc và Trung Quốc, dẫn tới sự thay đổi lớn về nhân
khẩu học. Những định chế cho một quốc gia dân tộc kiểu một nhà nước quan
liêu, các toà án, phương tiện truyền thông in ấn và ở tầm hẹp hơn là giáo dục


hiện đại đã gieo những hạt giống đầu tiên cho các phong trào quốc gia ở những
lãnh thổ thuộc địa.
Đến đầu thế kỷ 20, các phong trào dân tộc tại các quốc gia trên khu vực
đã bùng dậy mạnh mẽ để giành lại độc lập tự chủ cho dân tộc; đồng thời
cũng từ đó ra sức xây dựng để đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Và cũng
kể từ đó khu vực này đã bước vào giai đoạn phát triển nhanh chóng cả về mặt
quân sự cũng như kinh tế.

Nhìn chung, trong suốt quá trình phát triển, khu vực Đông Nam Á đã gặp
nhiều khó khăn và thử thách. Tuy nhiên với sự chung tay đồng lòng của 11 đất
nước anh em đã hình thành nên một diện mạo Đông Nam Á mới. Hôm nay, thế
giới biết đến khu vực Đông Nam Á hiện đại với đặc trưng ở hoạt động kinh tế
diễn ra hết sức năng động, mức độ tăng trưởng kinh tế cao của hầu hết các nước
thành viên và sự kết hợp bên trong chặt chẽ thông qua khu vực thương mại tự
do ASEAN. Đây cũng là một khối có triển vọng thành công trong việc hội nhập
ở mức cao hơn nữa vào vùng Châu Á Thái Bình Dương thông qua Hội nghị
thượng đỉnh Đông Á.
1.3.

Các nhân tố ảnh hưởng tới nền văn minh Đông Nam Á.


Tự nhiên ảnh hưởng đến khu vực, phải nói rằng gió mùa không chỉ đem
lãi thuận lợi cho con người mà còn là những yếu tố tự nhiên tác động và tạo nên
sự thất thường cho khí hậu trong vùng, với biên độ không lớn lắm. Mưa nhiệt
đới trên địa bàn tự nhiên của khu vực tạo ra những vùng nhỏ, xen kẽ giữa rừng
nhiệt đới, đồi núi, bờ biển, và đồng bằng, tạo nên những cảnh quan đa dạng.
Thực tế đó khiến cho Đông Nam Á thiếu những không gian rộng cho sự phát
triển kinh tế - xã hội trên quy mô lớn, thiếu những điều kiện tự nhiên cho sự
phát triển những kĩ thuật tinh tế, phức tạp. Ở đây không có những đồng bằng
rộng lớn như vùng châu thổ sông Ấn, sông Hằng hay Hoàng Hà; cũng không
có những đồng cỏ mênh mông như vùng thảo nguyên. Không gian sinh tồn ở
đây tuy nhỏ hẹp nhưng lại rất phong phú, đa dạng. Con người có thể khai thác ở
thiên nhiên đủ loại thức ăn để sinh tồn. Vì thế có người gọi Đông Nam Á là khu
vực khai thác thức ăn theo nghĩa rộng. Những điều kiện đó rất thuận lợi cho
cuộc sống con người trong buổi đầu, nhưng không khỏi ảnh hưởng nhất định
đến sự phát triển của một nền sản xuất lớn, tạo nên một khối lượng sản phẩm lớn
trong những giai đoạn phát triển sau này của khu vực. Đồng thời, sự đa dạng,

đan xen của những địa bàn sinh tụ nhỏ trong văn hóa tộc người của cả khu vục
và trong mỗi quốc gia.
Chương 2 : Những thành tựu của nền văn minh Đông Nam Á
2.1. Thời sơ sử (thế kỷ I – thế kỷ X).
Vào thời kỳ sơ sử, cùng với sự phát triển chung của thế giới, Đông Nam Á
cũng bước qua giai đoạn tiền sử để bắt đầu xác lập cho mình những bước đi
trong

n ền

vă n

hó a

bả n

đ ị a.

Sở hữu một địa vực rộng lớn bao gồm toàn bộ khu vực nhiệt đới gió mùa ở
Đông Nam Châu Á, miền đất này lưu giữ trong bản thân quá trình phát triển của
mình những giá trị vô cùng quý giá về thời kỳ sơ sử, thời kỳ được đánh giá là
giai đoạn các nhà nước tối cổ được thành lập liên tục. Những gì được tìm thấy ở


khu vực Đông Nam Á này đã giúp các nhà nghiên cứu phần nào định hình lại
các nhà nước tối cổ mà sự tồn tại của nó không ai có thể phủ nhận được.
Nền văn hóa tiêu biểu nhất của thời kỳ này là văn hóa Đông Sơn với hàng loạt
trống đồng, thạp đồng đủ các loại kích cỡ và với một nghệ thuật trang trí tuyệt
vời. Có thể nói, với sự xuất hiện của trống đồng Đông Sơn, kỹ thuật đúc đồng
thau của cư dân Đông Nam Á đã vươn tới đỉnh cao nhất. Từ những kết quả được

tìm thấy qua công việc khảo cổ, người ta tìm thấy rất nhiều cổ vật ở những địa
tầng khác nhau. Trong những cổ vật tìm thấy, những thứ được coi là có vai trò
đánh dấu bước tiến trong lao động và sinh hoạt của thời kỳ sơ sử tương đối
nhiều, nó cũng mang dấu ấn của đô thị cổ. ở thời đại đồ đồng, cư dân Đông Nam
Á sơ sử thường sinh sống thành làng ở những nơi đất cao và gần sông ngòi.
Điều này chứng tỏ họ đã biết thích ứng với môi trường tự nhiên.
Sống trong vùng khí hậu nhiệt đới, cư dân Đông Nam á đã chuyển sang trồng
lúa cạn ở nương rẫy và lúa nước ở vùng châu thổ. Với sự phát triển công cụ lao
động, năng suất lao động ngày càng nâng cao, công việc chăn nuôi cũng được
đẩy mạnh. Do yêu cầu lao động, kỹ thuật sản xuất công cụ lao động được nâng
lên một bậc cao hơn. Bên ngoài các công cụ bằng đá, các công cụ bằng sắt cũng
được phát triển mà tiêu biểu là ở Sa Huỳnh. Từ những phát triển về kỹ thuật sản
xuất, cư dân Đông Nam Á dần dần có những cuộc giao lưu với bên ngoài nhờ vị
trí địa lý thuân lợi. Vào thời kỳ sơ sử này, ở Đông Nam Á việc đi lại được tiến
hành chủ yếu bằng thuyền. Sông và biển là những con đường giao thông huyết
mạch

cho

sự

giao

lưu

văn

hóa

lú cđó.


Nếu như người Trung Hoa luôn tự hào với con đường tơ lụa, con đường giúp đất
nước này đến với các vùng đất khác cũng như tiếp nhận luồng văn hóa từ bên
ngoài vào, thì toàn bộ đường biển thuộc hải phận Đông Nam Á được các cư dân
nơi đây coi như con đường tơ lụa trên biển của mình. ở Đông Nam Á người ta
bắt gặp cả những nét đặc trưng không chỉ của văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa mà
còn có cả của Ba Tư và nhiều vùng khác nữa. Tất cả đều do sự thuận lợi của vị
trí địa lý đem lại cho người dân nơi đây. Có thể nói thời kỳ này là giai đoạn mà


các nhà nước tối cổ ở Đông Nam Á xuất hiện liên tục, trước hết ta cần đề cập tới
Phù Nam, nhà nước mà tên gọi đó đã xuất hiện trong thư tịch cổ của Trung
Quốc. Theo những thư tịch này thì chủ nhân của nó thuộc dòng Malayu
Ponilezie nhưng cũng có những dấu vết cho thấy là tiền thân của giai đoạn tiền
Ăng Co, tức là chủ nhân của các nhà nước này đã bắt đầu làm lúa nước và đặc
biệt họ sống quần tụ ở những vùng nước lớn. Sau nhà nước Phù Nam là sự xuất
hiện của một nhà nước với tên gọi buổi đầu là Lâm Ấp. Tên gọi này tồn tại đến
tận thế kỷ thứ 7 mới chuyển thành Chăm pa, Chăm pa giữ một vùng đất rộng lớn
ở miền Trung Việt Nam. Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển dịch của các tộc
người từ miền núi cao xuống dưới thung lũng, đồng bằng và cũng hình thành
nhà nước như tộc người Nam Việt. Sự chuyển dịch của tộc người Nam Việt
cũng phần nào làm thay đổi bản đồ Đông Nam Á cổ. Khác với khu vực Đông
Nam Á lục địa, các đế chế ở hải đảo không có nhiều biến động. Các đế chế này
về sau còn tồn tại rất nhiều như đế chế Java và Pahazavit. Trong những tôn giáo
ở Đông Nam Á Phật giáo được coi là tôn giáo phổ biến nhất. Sự hiện diện của
Phật giáo ở đây là một trong những tác động về mặt văn hóa của Ấn Độ tới
Đông Nam Á, tiếp theo sau tôn giáo là những hoạt động khác như văn học, kiến
trúc




thậm

chí



ngôn

ngữ.

Quay trở lại với thời kỳ hoang sơ, những chủ nhân đầu tiên của nền văn hóa Óc
Eo trong quá trình phát triển đã có chữ viết để ghi lại những gì muốn để lại cho
mai sau. Theo những nghiên cứu của các chuyên gia thì ngôn ngữ của chủ nhân
văn hóa Óc Eo có những dấu ấn của hệ ngữ thuộc Ấn Độ, điều đó nói lên rằng
quá trình giao thoa văn hóa trong thời kỳ sơ sử này đã diễn ra tương đối đều đặn
và rộng rãi. Giờ đây, sau khi đã trải qua một thời gian dài phát triển, Đông Nam
Á đã đi một chặng đường dài của riêng mình. Song ngay từ những buổi bình
minh thì sự giao thoa về văn hóa đã xuất hiện. Bên cạnh một vị trí địa lý thuận
lợi, điều kiện tự nhiên của Đông Nam Á cũng có lợi cho các công việc đồng áng
của nhà nông, chính từ đó mà điều kiện để có sự giao thoa văn hóa với các vùng


ngoại vi đối với Đông Nam Á cũng không phải là khó khăn. Ngay từ đầu Công
nguyên, các cư dân Đông Nam Á đã có dịp tiếp xúc, giao lưu với văn hóa Ấn Độ
qua các thương gia và các nhà truyền giáo Ấn Độ. Văn hóa Ấn Độ xâm nhập
vào Đông Nam Á bằng con đường hòa bình nên việc tiếp nhận văn hóa Ấn Độ,
hay nói một cách chính xác hơn sự giao lưu văn hóa Đông Nam Á - Ấn Độ diễn
ra gần như là tự nhiên. Ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ sang khu vực Đông Nam
Á được thể hiện ở rất nhiều mặt, nhiều khía cạnh, ảnh hưởng đó khá toàn diện

và sâu sắc. Cùng với tôn giáo, văn học và kiến trúc của Ấn Độ hiện diện rất
nhiều ở Đông Nam Á, nhưng ảnh hưởng rõ rệt và đậm nét nhất của văn hóa Ấn
Độ vào Đông Nam Á là việc phổ biến đạo Phật và đạo Bà La Môn. Các tôn giáo
này, đặc biệt là đạo Phật, có một ảnh hưởng sâu rộng tới đời sống văn hóa tinh
thần của người dân bản địa Đông Nam Á. ở một số quốc gia sau này, Phật giáo
đã trở thành Quốc giáo. Có thể nói, Đông Nam Á tiếp nhận được rất nhiều từ các
nền văn hóa ngoại vi song lại có sự dung hòa cho phù hợp. Phật giáo cũng như
vậy, diện mạo của tôn giáo này tuy vẫn giữ được gốc gác song cũng có những
nét đặc trưng của Đông Nam Á. Nếu tính từ thủa sơ khai thì bản đồ khu vực
Đông Nam Á còn trải rộng lên một phần ở phía Nam sông Dương Tử, do vậy
mà sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa cũng không hề thua kém Ấn Độ. ở đời
Tần, các vương quốc Đông Nam Á thời tiền sử ở bờ Nam sông Dương Tử bị
đồng hóa vào văn hóa Trung Hoa. Người Nam Man, tộc người có cơ tầng văn
hóa Đông Nam Á tiền sử, bị đồng hóa với Hoa tộc để cùng trở thành Hán tộc.
Tuy nhiên sự đồng hóa này có tính chất 2 chiều, nghĩa là cả hai bên đều có sự
tác động qua lại. Như vậy, ngay từ đầu Công nguyên, ảnh hưởng của văn hóa
Trung Quốc đã lan ra toàn bộ phía Bắc của vùng Đông Nam Á tiền sử. Ảnh
hưởng ấy diễn ra cùng với sự thôn tính các quốc gia đã hình thành từ trước.
Đồng thời với việc xâm chiếm lãnh thổ, đế quốc Tần Hán đã tiến hành đồng loạt
chính sách đồng hóa văn hóa Đông Nam Á trên mọi lĩnh vực. Điều đó có nghĩa
là đế quốc Tần Hán muốn thiết lập ở Đông Nam Á một thể chế chính trị, một cơ
cấu xã hội thậm chí một phong tục tập quán theo kiểu Trung Hoa. Song song với


sự cưỡng bức nói trên là việc truyền bá các hệ tư tưởng như Nho giáo, Đạo
giáo...
Những dấu ấn đậm nét nhất của văn hóa Trung Hoa ở Việt Nam được coi như
tiêu biểu, cho tới tận ngày nay, vai trò của Nho giáo vẫn có tác động nhất định
tới một số lĩnh vực trong xã hội của Việt Nam. Đó cũng là tình hình chung của
văn hóa Đông Nam Á thời kỳ sơ sử. Trải qua một thời gian dài theo dọc tiến

trình lịch sử, Đông Nam Á đã làm dày truyền thống của mình bằng những hoạt
động tích lũy bởi thời gian, bởi sự giao lưu chà xát với những khu vực văn hóa
ngoại vi mà thời kỳ sơ sử đóng một vai trò quan trọng. Thời kỳ này vừa đánh
dấu bước tiến lớn của cư dân Đông Nam Á trong quá trình phát triển, vừa giới
thiệu với thế giới một vùng văn hóa đầy màu sắc lung linh rất đặc trưng
2.2. Những thành tựu văn minh của Đông Nam Á đạt được sau thế kỷ X

2.2.1. Ngôn ngữ - Chữ viết.
Ngôn ngữ Đông Nam Á hiện đại là tổng hòa của rất nhiều những ngôn
ngữ đa dạng, phong phú. Tính đa dạng của ngôn ngữ Đông Nam Á được thể
hiện ở nhiều mặt, nhiều phương diện. Có thể có một ngôn ngữ tồn tại ở rất
nhiều quốc gia như tiếng Thái không chỉ có ở Thái Lan mà còn ở Lào, Việt
Nam, Myanma, hay ở bất kì quốc gia Đông Nam Á nào cũng có hàng chục,
hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Điển hình như tại Inđônêxia có tới hơn 200
ngôn ngữ đang được sử dụng.
Tuy nhiên không phải bởi thế mà ngôn ngữ không có tính thống nhất. Đó
chính là “ bức tranh đa dạng trong sự thống nhất cao độ từ trong cội nguồn
chúng” ( PGS. Mai Ngọc Chừ - văn hóa Đông Nam Á.NXB ĐHQG Hà Nội)
Ngày nay, dựa vào phương pháp so sánh - lịch sử, các nhà khoa học đã
quy ước ngôn ngữ Đông Nam Á về một số họ ngôn ngữ:
*) Ngữ hệ Nam – Đảo (Austranesia )


Ngữ hệ này gồm 4 nhóm : Melanesia, Polynesia, Micronesia và Indonesia.
Ngữ hệ Nam đảo phân bố khá rộng, đến tận Australia, các đảo Nam Thái Bình
Dương và còn được gọi là Mã lai – đa đảo.
*) Ngữ hệ Nam Á:
Phân bố chủ yếu ở Thái Lan, Lào, Việt Nam và Myanmar, gồm các ngôn ngữ :
Thái (Xiêm ), Lào, Tày – Nùng, Sán Chay, Giáy, Bố y, Lụ, La Ha.
*) Ngữ hệ Hán – Tạng chia thành hai nhóm: ngôn ngữ Hán và ngôn ngữ

Tạng – Miến, phân bố ở nhiều nước trong khu vực.
Tất cả những ngôn ngữ hệ trên tạo thành hệ thống ngôn ngữ “ thống nhất trong
đa dạng” với các đặc điểm riêng biệt về cách sử dụng phụ tố, âm vị học… và
sự phong phú của các đại từ nhân xưng góp phần tạo nên một đặc trưng văn
hóa riêng biệt cho Đông Nam Á
Cùng với ngôn ngữ, chữ viết cũng là thành tố văn hóa tạo nên sự khác biệt cho
ĐNA với kho tàng chữ phạn, chữ Khmer cổ, chữ Thái cổ và chữ Miến điện đã
ra đời và tiếp thu sự ảnh hưởng từ rất lâu.
Sự đa dạng của ngôn ngữ được thể hiện ở chổ các quốc gia Đông Nam Á
hiện có tới hàng chục, thậm chí hàng trăm ngôn ngữ khác nhau. Như ở
Indonesia có đến 200 ngôn ngữ dân tộc khác nhau cùng tồn tại; ở Philippin
củng có tới 80 ngôn ngữ dân tộc khác nhau (1998). Tương tự, các quốc gia
Đông Nam Á khác củng là các quốc gia đa ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ngôn ngữ
Đông Nam Á đều chỉ thuộc về một trong số 4 ngữ hệ sau đây: Nam Á, Nam
Đảo, Thái, Hán – Tạng. Và xa hơn nữa, chúng đều bắt nguồn từ một nguồn
gốc chung là ngôn ngữ Đông Nam Á tiền sử. Đó là một sự thống nhất cao độ.
Về chữ viết, từ đầu công nguyên, khi cần ghi chép các dân tộc Đông Nam Á đã
vay mượn chữ Hán (như ở Việt Nam) và chữ Pali – Sanskrit (ở các nước khác)
của Trung Hoa, Ấn Độ để xây dựng chử viết riêng cho dân tộc mình. Tuy
nhiên, từ thế kỷ XIII , chử viết Ả Rập đã ảnh hưởng mạnh mẻ đến các quốc gia
hải đảo như Malaysia, Indonesia. Từ thế kỷ XVI, với sự can thiệp của các quốc
gia phương tây, chử viết của các quốc gia Đông Nam Á được chuyển đổi theo


hướng Latinh hóa (chữ viết Brunay, Malaysia, Indonesia, Philippin và Việt
Nam) được sử dụng ngày nay.
2.2.2. Nghệ thuật.
2.2.2.1. Về kiến trúc nhà cửa
Khu vực Đông Nam Á có một kiến trúc mang tính chất đặc trưng đó là kiến
trúc nhà sàn. Không chỉ có mặt ở những vùng miền núi xa xôi mà ngay ở

những thủ đô sầm uất ta cũng có thể bắt gặp những ngôi nhà mang kiểu dáng
của nhà sàn.
Ngoài kiến trúc nhà sàn đặc trưng của vùng núi còn có cả nhà hình thuyền đặc
trưng cho miền biển hay nhà đất của dân vùng đồng bằng.
Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế, khoa học kĩ thuật, những ngôi nhàsàn
dần được thay thế bởi những ngôi biệt thự, nhà hộp theo lối kiến trúc phương
Tây. Tuy nhiên người Đông Nam Á lại có xu hướng thiết kế những ngôi nhà ở
bằng những chất liệu hiện đại mà vẫn giữ được kiểu kiến trúc truyền thống.

Hình 5: nhà sàn
2.2.2.2. Về nghệ thuât tạo hình (hội họa và điêu khắc )


Như chúng ta đều biết nghệ thuật tạo hình của các nước Đông Nam Á
được ra đời từ rất sớm. Các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều hình khắc chạm sơ
khai trên đá, trong các hang động vào thời kì nguyên thủy. Hay những công
trình cự thạch, tượng người và tượng động vật bằng đá,… Bên cạnh đó còn có
những hình chạm khắc trên mặt trống đồng mà tiêu biểu là trống đồng Đông
Sơn. Những thành tựu của nghệ thuật tạo hình nguyên thủy này đã tạo nên nghệ
thuật tạo hình Đông Nam Á bản địa, đây
cũng chính là một nhân tố quan trọng để
khi tiếp thu nghệ thuật tạo hình của các
nền văn hóa lớn thì các nước trong khu
vực Đông Nam Á vẫn bảo tồn được các
giá trị truyền thống và tạo được một bản
sắc văn hóa riêng, một phong cách tinh
túy đặc biệt của mình.
Nghệ thuật tạo hình hay cụ thể là điêu khắc của các nước Đông Nam Á
chịu ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác nhau. Đó đều là trung tâm văn hóa
của khu vực như Ấn Độ, Trung Hoa, hay sau này là các nước phát triển ở

phương Tây. Bước vào thiên niên kỉ thứ nhất, đồng thời với việc phát triển và
bảo vệ nền nghệ thuật tạo hình bản địa, các quốc gia Đông Nam Á cổ đại tiếp
thu trước hết là nghệ thuật tạo hình của quốc gia Ấn Độ. Nghệ thuật này du nhập


đến các quốc gia Đông Nam Á cùng với hai tôn giáo chính là Ấn Độ giáo và
Phật giáo, do đó nghệ thuật nghệ thuật tạo hình của Đông Nam Á chủ yếu thể
hiện trên các công trình có liên quan đến hai tôn giáo lớn này. Để tìm hiểu sự
ảnh hưởng của nghệ thuật tạo hình Ấn Độ đến kiến trúc và điêu khắc chúng ta sẽ
tìm hiểu sâu về các công trình kiến trúc và điêu khắc của hai Ấn Độ giáo và Phật
giáo ở khu vực Đông Nam Á.

Hình 6:Đền thờ phật Borobudur
Nghệ thuật tạo hình Đông Nam Á luôn phát triển mạnh mẽ qua các thời kì với
những đặc trưng riêng biệt.
Ban đầu là những hình khắc trạm đơn sơ trên đá đến giai đoạn hậu kì đá mới
đã xuất hiện nhiều công trình cự thạch tiếp theo là sự xuất hiên tượng người và
tượng động vật bằng đá. Thời kì kim khí được coi là thời kì nghệ thuật tạo hình
có bước nhảy vọt đáng kể. Mà một đặc trưng tiêu biểu là trống đồng Đông
Sơn.
Đặc biệt nghệ thuật tạo hình Đông Nam Á có một đặc điểm chung với khác
với nghệ thuật tạo hình phương Tây đó là tính “biếu trưng”, “ ước lệ”, “cách
điệu” thể hiện những khát vọng lớn lao của người nghệ sĩ.
2.2.2.3. Nghệ thuật biểu diễn
Nghệ thuật biểu diễn Đông Nam Á luông mang một nét đặc sắc của cư
dân nông nghiệp lúa nước.
Trước hết là nhạc cụ, trong hệ thống nhạc cụ cổ truyền Đông Nam Á ta thường
bắt gặp ba loại nhạc cụ điển hình là bộ gõ với trống, chiêng, đàn đá, khánh…,
bộ thổi như: sáo, kèn….
Những hình thức sinh hoạt văn hóa của các dân tộc Đông Nam Á cũng hết sức

phong phú, đa dạng như: múa tập thể, rối nước, vũ kịch… Mỗi hình thức biểu
diễn lại mang lại một phong cách riêng như: tính tập thể, tính dân gian, tính
tôn giáo, tính nhân văn. Tuy vậy, chúng thống nhất với nhau giúp cho nghệ


thuật biểu diễn của cư dân mang đậm màu sắc Đông Nam Á

2.2.3. Tôn giáo – tín ngưỡng – phong tục tập quán.
Đông Nam Á là bức tranh đa sắc màu về tôn giáo bởi trong quá trình phát
triển lịch sử, ở đây đã hội tụ đủ các hệ ý thức tư tưởng của cả phương Đông lẫn
phương Tây.
Những tôn giáo chính ở Đông Nam Á là: Phật giáo, Bàlamôn, Nho giáo, Đạo
giáo, Hồi giáo và Kitôgiáo.Nét đáng chú ý ở Đông Nam Á là mỗi quốc gia
thường có không phải một mà nhiều tôn giáo khác nhau. Một số nước, có một
tôn giáo chính được coi là quốc giáo như: Phật giáo ở Campuchia, Thái Lan, Hồi
giáo ở Malaysia, Brunei. Mặt khác ở Đông Nam Á, các hệ ý thức khác nhau đã
hòa đồng vào nhau bắt nguồn từ tính dễ thích nghi, tính cởi mở và uyển chuyển
ở bản thân con người Đông Nam Á.


2.2.3.1. Tô tem giáo.
Hình thức tôn giáo này xuất hiện ở thời kỳ cuối Công xã thị tộc. Thuật
ngữ này có nghĩa đen là: họ hàng hay có họ hàng.
Tô tem giáo thể hiện niềm tin vào mối liên hệ gần gũi, huyết thống giữa một
nhóm người với một loài động vật, cây cỏ, đồ vật, hiện tượng nào đó. Thông
thường một cộng đồng thị tộc, bộ lạc nhận một giống, vật hoặc loại cây làm thủy
tổ của mình và các thành viên cộng đồng đó bảo vệ, thờ phụng vị thủy tổ của
mình.
Tô tem giáo là hình thức tín ngưỡng phản ảnh tư tưởng của xã hội thị tộc khi
con người còn gắn bó chặt chẽ với môi trường sống, họ còn phải nhờ cậy, phụ

thuộc nhiều vào thiên nhiên. Tô tem giáo phản ánh quan hệ cộng động của thị
tộc, bộ lạc với thiên nhiên.
Dấu ấn của Tô tem giáo trong tôn giáo hiện đại thể hiện trong đạo Công giáo là
ở phép bí tích Thánh thể, tức một trong 7 bí tích của đạo Công giáo. Bí tích
Thánh thể xem bánh là mình Chúa, rượu là máu chúa thể hiện dấu tích xem thực
vật là tổ tiên của cộng đồng thị tộc nào đó ngày xưa. Trong Đạo giáo, tín đồ theo
Đạo giáo tôn thờ con rồng đỏ, dấu tích của cộng đồng người nguyên thủy ngày
xưa quan niệm con rồng đỏ là tổ tiên của mình. Đạo Sito lại thờ rất nhiều con
vật như khỉ, rắn, rùa. Còn đối với tín đồ Bàlamôn giáo, họ lại thờ con bò, người
theo đạo Bàlamôn tôn thờ con bò như đấng thiêng liêng của mình, họ không ăn
thịt bò, thậm chí còn ví vẻ đẹp đôi mắt của thiếu nữ như mắt bò cái. Điều đó
chứng tỏ ở đây xa xưa cộng đồng người ở đây đã lấy con bò làm tổ tiên của
mình.
Ở Việt Nam chúng ta, trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt, dấu ấn
Tô tem giáo rất rõ qua truyền thuyết “con Rồng, cháu Tiên” đã tự xem mình là
con Lạc, cháu Rồng. Như vậy, từ xa xưa người Việt đã xem con chim Lạc và
con Rồng là tổ tiên của mình. Không đâu xa giai thoại về vua Đinh Bộ Lĩnh ở
thế kỷ thứ X cũng nói về con Rồng xanh ngụ ý là cha của vị vua họ Đinh.
2.2.3.2. Tín ngưỡng (thuyết vạn vât hưu linh).


Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, cùng sinh ra và lớn lên trong một khu
vực địa lí, văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước. Tín ngưỡng bản địa Đông Nam
Á dù hết sức đa dạng, nhiều vẽ nhưng vẫn thuộc về ba loại chính: Tín ngưỡng
sùng bái tự nhiên (Các cư dân Đông Nam Á như ở Việt Nam, Lào, Campuchia,
Myanma, Indonesia,… thờ cả hạc, rùa, rắn, voi, cá sấu,…), tín ngưỡng phồn
thực (thờ sinh thực khí tượng trưng cho cơ quan sinh dục nam, nữ; các tục tóe
nước, tục cầu mưa, tục đánh đu,…), tín ngưỡng thờ cúng người đã mất (tục thờ
cúng tổ tiên, ông bà). Cái chung đó xuất phát từ thuyết vạn vật hữu linh, tức
thuyết mọi vật đều có hồn.

Người Đông Nam Á quan niệm rằng mọi thứ đều có linh hồn (vạn vật hữu linh),
mà người Melanesia và Polynesia gọi là mana. Nó có thể nằm trong con người,
con vật, cây cối và những vật vô cơ như đất, đá, nước, lửa… cả những vật do
con

người

tạo

ra

như

xe,

chum

vại…

Ở một số dân tộc Đông Nam Á, linh hồn con người được gọi là :
Thailand,

Laos,

Shan:

Mi ến :

Khuẩn


L eip

Bya

Cambodia:

Pralung

Việt:

hồn,

vía

Malaysia:

Semangat

Từ thuyết vạn vật hữu linh, có thể nói một cách đơn giản quan niệm về linh hồn
của

người

Người

sống

Ngườ i

Đông



chết:

đủ
linh

Nam
hai
hồn

Á

phần:

như

linh

đã

lìa

hồn

sau

:

thể


xác.



khỏi

thể

xá c

Linh hồn quyết định sự sống của con người, nếu người chết, các hồn đều biến
thành

ma

(Việt)

hay

Phỉ

(Thailand,

Laos)...

Số lượng linh hồn ở con người tùy thuộc vào quan niệm của các dân tộc:
Ngườ i

Thailand


cho

rằng



120

hồ n.


Người

Mường

NgườiKhmer

thì

cho

cho

con

rằng




người



90

h ồ n.

9h ồ n

c h í n h.

Các dân tộc miền núi Mindanao (Philippines) cho rằng con người có hai hồn
chính: hồn trái và hồn phải. Con người qua đời: hồn trái thành ma ác, hồn phải
thành

ma

lành.

ác linh hồn đến thế giới người chết là một bản - làng bị chia cắt với thế giới
người sống bởi sông sâu, biển rộng hoặc lên các tầng trời, nói cách khác là thế
giới bên kia – có thể giống hoặc khác thế giới người sống, nhưng cơ bản là một
thế

giới

được

tưởng


tượng

cao

hơn

dựa

trên

thế

giới

thực.

Linh hồn tổ tiên đã mất có quyền năng trừng phạt và phù hộ con cháu, vì thế mà
xuất hiện tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Có hai ý niệm trong việc thờ cúng :
Chết không phải là hết. Người đã chết vẫn có mối quan hệ gần gũi mật thiết với
người thân còn sống. Phải thờ cúng để tổ tiên phù hộ và không quấy phá con
cháu.
Uống nước nhớ nguồn, thờ cúng những người đã khuất để tỏ lòng tưởng nhớ
công ơn sinh thành.
2.2.3.3. Phong tục tập quán

Ở Đông Nam Á có đến hằng trăm dân tộc khác nhau, vì thế phong tục, tập
quán rất đa dạng, tạo nên một bức tranh đa sắc. Mặc dù rất đa dạng, song những
tập tục ấy vẫn có nét gần gủi, tương đồng nhau, là mẩu số chung quy tụ, giao
thoa trên nền tảng của cơ sở văn hóa bản địa Đông Nam Á _ Một nền tảng văn

minh nông nghiệp trồng lúa nước. Đó là cách ăn mặc với một bộ trang phục
chung là Sàrông (váy), khố, vòng đeo tai, vòng đeo cổ,… Đó là tục ăn uống với
các thức ăn chính là cơm, rau, cá và hoa quả (hiện nay, thịt ngày càng quan
trọng trong cuộc sống hiện đại). Đó là tục ăn hỏi trước khi tổ chức đám cưới linh
đình. Tục chôn theo người chết những thứ cần thiết cho cuộc sống mà khi còn
sống họ thường ưa thích. Đó là tục nhai trầu, cưa và nhuộm răng đen, xăm mình;
rồi đến cả các trò vui chơi giải trí như thả diều, thi chọi gà, bơi thuyền,… Trong


cách ăn ở, ngôi nhà chung của các dân tộc Đông Nam Á là nhà sàn “cao cẳng”
thích hợp với mọi địa hình của khu vực và phù hợp với khí hậu nóng ẩm của khu
vực Đông Nam Á.
Về lể hội: Củng giống như sự đa dạng của phong tục, tập quán. Có thể nói, ở
mổi dân tộc mùa nào, tháng nào trong năm củng có lể hội. Nếu thống kê con số
lể hội thì chắc chắn sẽ có đến con số hàng trăm. Tất nhiên, trong sự đa dạng ấy,
các lể hội ở Đông Nam Á chủ yếu tập trung vào ba hình thức chính: Lễ hội nông
nghiệp (Như lễ xuống đồng của người Việt, lễ mở đường cày đầu tiên của người
Thái, lễ dựng chòi cày của người Chăm,…), lễ hội tôn giáo (như lễ hội chùa
Keo, chùa Hương ở Việt Nam,…), lễ tết (như tết nguyên đán, tết phật,…).
2.2.4. Văn học.
Nói đến văn học Đông Nam Á là phải nói đến sức mạnh dân gian hoá. Nền tảng
của sức mạnh dân gian hoá đó là nền văn hoá dân gian còn đang bao trùm hầu
như toàn bộ đời sống tinh thần của họ. Văn học dân gian là một trong những cội
nguồn của văn học dân tộc.

Trước khi tiếp xúc với những nền văn hoá lớn của Phương Đông như Ấn Độ,
Trung Quốc, thì văn học Đông Nam Á đã được hình thành trên cơ tầng văn hoá
nói chung của Đông Nam Á thời tiền sử, đó là nền văn minh nông nghiệp lúa
nước.
Đây là nền tảng, là cơ sở quy định sự phát triển văn hoá tinh thần, văn hoá vật

chất, cơ cấu xã hội và đời sống tâm linh, tư duy triết lý của con người Đông
Nam á trong suốt quá trình vận động của xã hội Đông Nam Á từ xưa cho tới
nay. Nền văn minh nông nghiệp lúa nước này là cội nguồn và bản sắc riêng,
phát triển liên tục trong lịch sử. Lớp văn hoá nguyên sơ này được nhiều nhà


nghiên cứu gọi là cơ tầng văn hoá Đông Nam Á. Trên cơ tầng văn hoá này, văn
học dân gian nảy nở, phát triển. Văn học dân gian được xem là ngọn nguồn của
văn học dân tộc khu vực Đông Nam Á và đây cũng là lớp văn hoá bản địa trước
khi Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn từ bên ngoài.
Văn học dân gian chiếm phần lớn, nổi bật, bao trùm lên toàn bộ quá trình văn
học Đông Nam Á vì nó xuất phát từ một nền văn hoá nông nghiệp với cơ cấu tổ
chức làng, xã ở các nước Đông Nam Á.
Khi có văn học viết, văn học dân gian vẫn phát triển mạnh mẽ, phong phú và
vẫn đóng vai trò chủ đạo. Vì vậy, khi nghiên cứu bức tranh văn học Đông Nam
Á, đặc biệt là văn học dân gian, phải nghiên cứu nó trong mối quan hệ liên
ngành và đa ngành như : tôn giáo, tín ngưỡng, nghệ thuật...
Trước khi tiếp nhận chịu ảnh hưởng văn hoá từ bên ngoài, các cộng đồng tộc
người ở Đông Nam Á đều có tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng đa thần giáo, vạn
vật hữu linh và tục thờ cúng tổ tiên. Tín ngưỡng này gắn chặt chẽ với sự phát
sinh phát triển của văn học dân gian trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp
lúa nước.
Sự ra đời các nghi lễ nông nghiệp ban đầu còn gắn với tôn giáo , mang ý nghĩa
tôn giáo và dần dần trở thành các sinh hoạt văn nghệ, văn học dân gian. ( từ các
hình thức diễn xướng đám rước, múa thiêng, lễ ca, lễ nhạc đến các nghi thức tế
tự đều có mối tương tác đan xen với các hình thức hát giao duyên, múa vui, diễn
trò tạo nên một sự đồng nhất giữa đạo và đời, giữa cái thánh thiện và cái trần
tục. Vì vậy, nghệ thuật diễn xướng bao giờ cũng gắn với tôn giáo và giải trí).
Văn học dân gian thời kỳ này mang màu sắc nguyên sơ của các cộng đồng làm
nông nghiệp, trồng trọt, săn bắn, đánh cá. Thần thoại, truyền thuyết phản ánh rõ

nét các sinh hoạt nghi lễ tín ngưỡng của các cư dân Đông Nam á trước sức mạnh
của thiên nhiên và những quan niệm cổ sơ của họ về vũ trụ, về thế giới bao
quanh mình. Thần thoại về lụt, về nguồn gốc dân tộc, về các nhân vật văn hoá
phổ biến ở các nước Đông Nam Á. Nhân vật văn hoá là những anh hùng của thị
tộc, bộ lạc. Họ là những nhân vật có công lao, có tài hơn người khác. Những


người anh hùng ấy được quần chúng bộ lạc tôn thờ, tô vẽ, phóng đại, thêu dệt
thành những thần thoại vì họ là những ông tổ giúp loài người, dạy loài người
làm ăn sinh sống. ở Đông Nam á ta bắt gặp nhân vật văn hoá lên trời lấy thóc
giống đem về mặt đất gieo trồng. Điều đó phản ánh một hiện thực là văn hoá
nông nghiệp hình thành, con người đã biết lấy lúa về để canh tác. Những thần
thoại còn lại đến ngày nay như Sự tích cây lúa, tục lệ thờ cúng cây lúa, các sản
phẩm làm ra từ lúa...(Sự tích Bánh chưng bánh dày của Việt Nam).
Thần thoại về Nhân vật văn hoá phản ánh bước chuyển mình của cư dân Đông
Nam Á từ cuộc sống săn bắn , hái lượm tự nhiên chuyển sang trồng trọt, chế tác
ra công cụ lao động. Trong kho tàng truyện cổ Đông Nam Á có các truyện về
cách đan lưới bắt cá, và cơ sở của một loạt truyện khác sau này có liên quan đến
tục ăn trầu, sử dụng trầu, cau, rễ, vôi của cư dân Đông Nam Á. Gắn với tín
ngưỡng vạn vật hữu linh, trong văn học dân gian Đông Nam Á có nhiều bài mo
cầu nguyện thần linh mà đến nay còn lưu lại ít nhiều. Từ quan niệm tín ngưỡng
này mới nảy sinh ra các tập quán như kiêng cữ, tránh né các thần, các hồn ở
trong các sự vật làm phương hại đến cuộc sống của con người. Tất cả các hiện
tượng nêu trên là nền tảng của một cơ tầng văn hoá Đông Nam Á, một thứ văn
học nguyên bản hỗn hợp trước khi có tiếp xúc với văn hoá Ấn Độ và Trung
Quốc.
Trước khi chuyển từ thời tiền sử sang thời kỳ lịch sử (với sự hình thành của các
nhà nước cổ đại) tức là vào khoảng các thế kỷ VI,V, IV trước Công nguyên thì
các cư dân ở Đông Nam Á đã có một trình độ tương đối phát triển. Những quan
niệm về tính chất lưỡng phân- lưỡng hợp của thế giới như đối lập mặt trăng với

mặt trời, trời với đất, núi với biển, loài có cánh với loài thuỷ tộc, cư dân miền
Thượng lưu và cư dân miền Hạ lưu..... được thực hiện dưới nhiều dạng khác
nhau trong thần thoại và truyền thuyết của vùng Đông Nam Á tiền sử.
Từ đầu Công nguyên (thậm chí còn sớm hơn) cho đến nay, Đông Nam Á
là nơi tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của các nền văn hoá lớn như Ấn Độ, Trung
Quốc, Ả Rập, Ba Tư, Tây Âu. 10 thế kỷ đầu sau Công nguyên, Đông Nam Á


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×