Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

phân tích các rào cản trongthương mại dịch vụ của ASEAN đồng thời nêu lên những kết quả mà ASEAN đạt được về xóa bỏ các rào cản trong thương mại dịch vụ qua các vòng đàm phán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.44 KB, 10 trang )

MỞ ĐẦU
Trong cơ cấu kinh tế thế giới hiện nay, dịch vụ ngày càng chiếm vị trí trọng yếu
và là yếu tố đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế thế giới. Tại các quốc gia
ASEAN, ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong GDP mỗi năm và ASEAN
hiện nay là đối tác thương mại dịch vụ lớn nhất trong nhóm các khu vực đang phát triển.
Nhận thức được vai trò của thương mại dịch vụ đối với sự phát triển của ASEAN, các
nhà lãnh đạo ASEAN đã tiến hành những nỗ lực đầu tiên nhằm đảm bảo sự tự do của
thương mại trong khu vực, tuy nhiên việc tự do hóa thương mại dịch vụ còn nhiều rào
cản và hạn chế mà chủ yếu xuất phát từ tính vô hình của dịch vụ. Để hiểu rõ hơn về hoạt
động thương mại dịch vụ của ASEAN nhóm em xin “phân tích các rào cản trong
thương mại dịch vụ của ASEAN đồng thời nêu lên những kết quả mà ASEAN đạt được
về xóa bỏ các rào cản trong thương mại dịch vụ qua các vòng đàm phán”.
NỘI DUNG
I.
Xóa bỏ các rào cản trong thương mại dịch vụ của ASEAN
Trước tiên cần đi khái quát về dịch vụ và thương mại dịch vụ để có thể hiểu rõ
hơn về các đặc điểm của dịch vụ và thương mại dịch vụ.
Cho đến nay vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về dịch vụ. Ngay cả Hiệp định
GATS về thương mại dịch vụ của WTO cũng không đưa ra khái niệm cụ thể về dịch vụ
mà chỉ liệt kê 12 ngành lớn và 155 phân ngành dịch vụ khác nhau nằm trong phạm vi
điều chỉnh của Hiệp định. Tuy nhiên có thể hiểu dịch vụ là hoạt động lao động mang
tính xã hội tạo ra các sản phẩm không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn tới việc
chuyển quyền sở hữu, nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả hơn các nhu cầu
sản xuất và đời sống xã hội của con người. Dịch vụ có các đặc tính sau:
- Tính đồng thời: sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời;
- Tính không thể tách rời: sản xuất và tiêu dùng dịch vụ không thể tách rời. Thiếu
mặt này thì sẽ không có mặt kia;
- Tính chất không đồng nhất: không có chất lượng đồng nhất;
- Vô hình: không có hình hài rõ rệt. Không thể thấy trước khi tiêu dùng;
- Không lưu trữ được: không lập kho để lưu trữ như hàng hóa được.
Thương mại dịch vụ là khái niệm chỉ các hoạt động thương mại trong lĩnh vực


dịch vụ. à hoạt động sản xuất và cung ứng sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách
hàng nhằm mục tiêu lợi nhuận. Hoặc là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công
đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất, cung ứng đến tiêu thụ dịch vụ trên thị trường
nhằm mục đích sinh lời. Theo quy định tại khoản 2 Điều 1 Hiệp định GATS, các hoạt
động thương mại dịch vụ trong phạm vi quốc tế được thực hiện theo 4 phương thức:
- Phương thức 1 (Mode 1) - Cung cấp dịch vụ qua biên giới: Dịch vụ được cung
cấp từ lãnh thổ của quốc gia thành viên này sang lãnh thổ của quốc gia thành viên
khác. Trong phương thức này, chỉ có bản thân dịch vụ dịch chuyển qua biên giới
còn nhà cung cấp không có mặt tại quốc gia tiếp nhận dịch vụ.
1


-

Phương thức 2 (Mode 2)- Tiêu dùng dịch vụ ở nước ngoài: Người tiêu dùng dịch
vụ là công dân của quốc gia thành viên sử dụng dịch vụ tại lãnh thổ quốc gia thành
viên khác.
- Phương thức 3 (Mode 3)- Hiện diện thương mại: Người cung cấp dịch vụ thiết lập
sự hiện diện thương mại của mình ở nước ngoài dưới hình thức như văn phòng đại
diện, chi nhánh... nhằm cung cấp dịch vụ tại quốc gia đó. Phương thức này liên
quan trực tiếp đến việc đầu tư tại thị trường quốc gia khác để thiết lập công việc
kinh doanh.
- Phương thức 4 (Mode 4) - Hiện diện thể nhân:Công dân của một quốc gia thành
viên trực tiếp có mặt và cung cấp dịch vụ tại quốc gia thành viên khác.
Xuất phát từ đặc điểm dịch vụ có tính vô hình, không thể sử dụng các giác quan
để cảm nhận được dịch vụ, không cầm, nắm được, phải trực tiếp tiêu dùng mới cảm
nhận được dịch vụ nên các quy định để điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ cũng
khác biệt so với thương mại hàng hoá và việc xóa bỏ các rào cản dịch vụ cũng gặp nhiều
khó khăn hơn. Nếu như trong thương mại hàng hoá, thuế quan được coi như rào cản chủ
yếu mà các quốc gia thường dùng để bảo hộ hàng hoá và nền sản xuất trong nước thì đối

với thương mại dịch vụ, rào cản thuế quan gần như không có ý nghĩa. Để hạn chế hoạt
động của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài và bảo hộ các nhà cung cấp dịch vụ trong
nước, các quốc gia thường sử dụng biện pháp để hạn chế các nhà cung cấp dịch vụ nước
ngoài tại hai thời điểm: Thứ nhất, khi nhà cung cấp dịch vụ muốn được phép cung cấp
dịch vụ và/hoặc muốn có mặt tại nước chủ nhà để cung cấp dịch vụ. Thứ hai, sau khi
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đã được phép cung cấp dịch vụ và/hoặc đã có mặt tại
nước tiếp nhận dịch vụ.
Tương ứng với hai thời điểm nói trên, các quốc gia thường áp dụng hai loại biện
pháp để bảo hộ các nhà cung cấp dịch vụ trong nước: các biện pháp hạn chế tiếp cận thị
trường và các biện pháp phân biệt đối xử. Các rào cản về mở cửa thị trường, hạn chế khả
năng tiếp cận thị trường được WTO quy định rõ ràng trong Khoản 2 Điều XVI Hiệp
định GATS:
"Trong những lĩnh vực đã cam kết mở cửa thị trường, các Thành viên không được
duy trì hoặc ban hành những biện pháp sau đây, dù là ở quy mô vùng hoặc trên toàn
lãnh thổ, trừ trường hợp có quy định khác trong Danh mục cam kết:
(a) hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ dù dưới hình thức hạn ngạch theo số
lượng, độc quyền, toàn quyền cung cấp dịch vụ hoặc yêu cầu đáp ứng nhu cầu kinh tế;
(b) hạn chế tổng trị giá các giao dịch về dịch vụ hoặc tài sản dưới hình thức hạn
ngạch theo số lượng, hoặc yêu cầu phải đáp ứng nhu cầu kinh tế;
(c) hạn chế tổng số các hoạt động dịch vụ hoặc tổng số lượng dịch vụ đầu ra tính
theo số lượng đơn vị dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu về nhu cầu kinh tế;
(d) hạn chế về tổng số thể nhân có thể được tuyển dụng trong một lĩnh vực dịch vụ
cụ thể hoặc một nhà cung cấp dịch vụ được phép tuyển dụng cần thiết hoặc trực tiếp
2


liên quan tới việc cung cấp một dịch vụ cụ thể dưới hình thức hạn ngạch hoặc yêu cầu
về nhu cầu kinh tế;
(e) các biện pháp hạn chế hoặc yêu cầu các hình thức pháp nhân cụ thể hoặc liên
doanh thông qua đó người cung cấp dịch vụ có thể cung cấp dịch vụ;

(f) hạn chế về tỷ lệ vốn góp của bên nước ngoài bằng việc quy định tỷ lệ phần trăm
tối đa cổ phần của bên nước ngoài hoặc tổng trị giá đầu tư nước ngoài tính đơn hoặc
tính gộp."
Để thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ sẽ phải hạn chế hoặc tiến tới xóa bỏ
hai loại rào cản này. Năm 1995, Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) ra đời
nhằm bổ sung tự do hóa thương mại dịch vụ cho AFTA, đẩy nhanh sự gia tăng và hòa
nhập nội khối ASEAN đối với lĩnh vực dịch vụ. AFAS dựa trên những nguyên tắc của
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS) của tổ chức thương mại thế giới
(WTO), song so với GATS, AFAS loại bỏ nhiều hơn các hạn chế đối với thương mại
dịch vụ, qua đó tăng cường mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ trong khu
vực. Mục tiêu hướng tới của AFAS là:
- Đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực dịch vụ ngay tại các quốc gia thành viên ASEAN
để nâng cao tính hiệu quả và khả năng cạnh tranh ngành dịch vụ ASEAN, đa dạng
hóa năng lực sản xuất, nguồn cung và phân phối dịch vụ;
- Xóa bỏ rào cản thương mại trong lĩnh vực dịch vụ;
- Tự do hóa thương mại dịch vụ bằng việc tự do hóa sâu và rộng hơn, không chỉ dừng
lại ở những dịch vụ được đề cập tới trong hiệp định thương mại chung về dịch vụ của
tổ chức thương mại thế giới.
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ V năm 1995 tại Thái Lan đã quyết định chọn 6
lĩnh vực dịch vụ quan trọng là tài chính, vô tuyến viễn thông, vận tải hàng hài, vận tải
hàng không, du lịch, dịch vụ kinh doanh và xây dựng để thực hiện bước đầu tự do hóa
thương mại dịch vụ.
Năm 2003, Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ đã được
kí kết, tạo cơ sở cho việc áp dụng công thức –X trong việc thực hiện các cam kết về dịch
vụ của các quốc gia ASEAN. Theo đó, các quốc gia sẵn sàng tiến hành tự do hóa đối với
những ngành dịch vụ xác định và có thể thực hiện quá trình này mà không phải mở rộng
các nhượng bộ đối với các quốc gia chưa tiến hành.
II. Các rào cản trong thương mại dịch vụ của ASEAN
1. Các biện pháp hạn chế tiếp cận thị trường
Như đã nói trên đây, các biện pháp hạn chế tiếp cận thị trường được đưa ra và áp

dụng tại thời điểm thứ nhất, khi mà các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài muốn được
phép cung cấp hoặc vào nước chủ nhà để cung cấp dịch vụ. Đây chính là rào cản về mở
cửa thị trường đối với các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài. Bởi, theo đó, chỉ khi đáp
ứng được các điều kiện mà quốc gia chủ nhà quy định, các nhà cung cấp dịch vụ mới
được phép vào/cung cấp dịch vụ tại quốc gia này. Có thể kể đến một số biện pháp hạn
3


chế tiếp cận thị trường tiêu biểu như: hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ, hạn chế
về tổng giá trị giao dịch của các giao dịch dịch vụ, hạn chế hình thức hoạt động…
Như nhiều quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực, Việt Nam cũng thực
hiện nhiều biện pháp để hạn chế sự có mặt của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài,
bảo hộ các nhà cung cấp dịch vụ trong nước.
Ví dụ: Đối với dịch vụ logistics, doanh nghiệp nước ngoài (trong đó có các doanh
nghiệp mang quốc tịch các thành viên khác của ASEAN) muốn kinh doanh dịch vụ này
phải đáp ứng những điều kiện rất khắt khe.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 5 NĐ 140/2007/NĐ-CP thì thương nhân Việt
Nam muốn kinh doạnh dịch vụ này chỉ cần là doanh nghiệp có đăng kí kinh doanh hợp
pháp theo pháp luật Việt Nam, có đủ phương tiện, thiết bị, công cụ để đảm bảo tiêu
chuẩn an toàn, kĩ thuật và có đội ngũ nhân viên đáp ứng yêu cầu.
Trong khi đó, theo khoản 3 Điều 5 Nghị định này, thương nhân nước ngoài muốn
được kinh doanh dịch vụ này bên cạnh việc phải đáp ứng các điều kiện giống như
thương nhân Việt Nam sẽ phải đáp ứng nhiều điều kiện khác như: Trường hợp kinh
doanh dịch vụ bốc dỡ hàng hoá thì chỉ được thành lập công ty liên doanh, trong đó tỷ lệ
vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài không quá 50%; không quá 51% nếu kinh doanh
dịch vụ kho bãi và dịch vụ đại lí vận tải; trường hợp kinh doanh dịch vụ bổ trợ khác thì
tỷ lệ này không quá 49%.
Những quy định trên đây trong pháp luật Việt Nam đã hạn chế hoạt động của các
thương nhân nước ngoài trong đó có các nước thành viên ASEAN trong lĩnh vực kinh
doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam.

Đối với Việt Nam, dịch vụ logistics hiện chiếm 15%-20% GDP (khoảng 12 tỷ
USD) mỗi năm với trên 800 doanh nghiệp logistics đang hoạt động. Đa số doanh nghiệp
này có quy mô vừa và nhỏ, tổ chức kinh doanh còn thể hiện sự manh mún, thiếu chuyên
nghiệp, nguồn nhân lực hạn chế, năng lực cạnh tranh thấp. Sự khác biệt về tiêu chuẩn,
công nghệ, năng lực chuyên môn và cả sự chênh lệch về trình độ phát triển của các nước
ASEAN là thách thức không nhỏ mà ASEAN phải xử lý trong thời gian tới. Vì vậy,
chiến lược hội nhập logistics của ASEAN cần phải thể hiện trong chiến lược phát triển
dịch vụ logistics của mỗi quốc gia. Việc tạo điều kiện cho hoạt động logistics có ý nghĩa
quan trọng để giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Qua hơn 2 năm thực hiện lộ trình hội nhập ngành logistics, về tự do hóa thương
mại và đầu tư, theo lộ trình cam kết, phần lớn các nước ASEAN đã cho phép các doanh
nghiệp ASEAN được tự do đầu tư trong các phân ngành dịch vụ vận tải hàng hóa.
2. Các biện pháp phân biệt đối xử
Theo cách hiểu thông thường thì phân biệt đối xử là cách xử sự đối với một cá
nhân hay một nhóm nhất định dựa vào sự phân loại tầng lớp hay đẳng cấp. Nó bao gồm
việc loại bỏ hoặc hạn chế các thành viên trong một nhóm khỏi những cơ hội mà những
nhóm khác được tiếp cận. Liên Hiệp Quốc giải thích như sau: "Những hành vi phân biệt
4


đối xử có nhiều hình thức, nhưng tất cả chúng đều có liên quan đến một số hình thức
loại trừ và từ chối"
Trong thương mại dịch vụ, biện pháp phân biệt đối xử được áp dụng tại thời điểm
sau khi nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đã được phép cung cấp dịch vụ và/hoặc đã có
mặt tại nước tiếp nhận dịch vụ, tức là sau khi nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài đã vượt
qua rào cản hạn chế khả năng tiếp cận thị trường của nước tiếp nhận dịch vụ. Nếu như
tại thời điểm thứ nhất, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải đáp ứng các điều kiện về
số lượng các nhà cung cấp dịch vụ, giới hạn về tổng giá trị của các giao dịch dịch vụ …
thì tại thời điểm này, các điều kiện được nêu ra thường là những biện pháp phân biệt đối
xử giữa các nhà cung cấp hoặc các sản phẩm dịch vụ của quốc gia sở tại với các nhà

cung cấp hoặc sản phẩm dịch vụ nước ngoài. Sự phân biệt đối xử này thường là dành
cho các nhà cung cấp hoặc sản phẩm dịch vụ nội tại những ưu tiên nhất định giới hạn
một số phạm vi mà nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài không được quyền cung ứng.
Ví dụ: Trong lĩnh vực dịch vụ pháp lý ở Việt Nam biện pháp phân biệt đối xử đặt
ra trong lĩnh vực tranh tụng tại tòa án. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tổ chức,
cá nhân nước ngoài cung ứng dịch vụ pháp lý không được tham gia tranh tụng tại tòa án
Việt Nam. Liên quan tới cam kết quốc tế để mở cửa dịch vụ pháp lý, Việt Nam đã cam
kết các dịch vụ pháp lý, tư vấn và đại diện trong các lĩnh vực luật khác nhau (CPC 861)
nhưng loại trừ việc tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa hay đại diện cho
khách hàng của mình trước Tòa án Việt Nam và dịch vụ giấy tờ pháp lý và công chứng
liên quan tới pháp luật Việt Nam. (Điều 76 Luật luật sư 2006 sửa đổi, bổ sung năm
2012).
Tổ chức luật sư nước ngoài được phép thành lập hiện diện thương mại tại Việt
Nam dưới hình thức chi nhánh của tổ chức luật sư nước ngoài, công ty con của tổ chức
luật sư nước ngoài, công ty luật nước ngoài, công ty hợp danh giữa tổ chức luật sư nước
ngoài và công ty luật hợp danh Việt Nam. Hiện diện thương mại của tổ chức luật sư
nước ngoài được phép tư vấn luật Việt Nam nếu luật sư tư vấn đã tốt nghiệp đại học luật
của Việt Nam và đáp ứng được các yêu cầu áp dụng cho luật sư hành nghề tương tự của
Việt Nam. Việt Nam đã dành đối xử quốc gia cho hiện diện của tổ chức luật sư nước
ngoài tại Việt Nam. Liên quan tới di chuyển tạm thời của luật sư nước ngoài vào Việt
Nam để cung cấp dịch vụ, chỉ các đối tượng cung cấp dịch vụ như định nghĩa tại phần
cam kết nền trong Biểu cam kết dịch vụ của Việt Nam mới được di chuyển tới Việt Nam
để cung cấp dịch vụ.
Hay ở dịch vụ logistics, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành
viên có quy định khác, thương nhân nước ngoài không được thực hiện dịch vụ kiểm
định, cấp giấy chứng nhận cho các phương tiện vận tải, không được thực hiện dịch vụ
vận tải đường ống (điểm e khoản 3 Điều 6 và khoản 2 Điều 7 NĐ 140/2005/ NĐ-CP).
3. Tác động của rào cản thương mại dịch vụ
a. Tác động tích cực
5



Việc áp dụng các biện pháp phân biệt đối xử với các nhà cung cấp hoặc sản phẩm
dịch vụ nước ngoài đã đem lại nhiều tác động tích cực, trong đó tác động cơ bản nhất là
bảo vệ các nhà cung cấp và sản phẩm dịch vụ trong nước tránh được sự cạnh tranh từ
bên ngoài. Khi Nhà nước sở tại áp dụng các biện pháp bảo hộ thì chi phí cho ngành dịch
vụ nước ngoài đó sẽ phải tăng lên, thậm chí là không được phép cung ứng trong một
phạm vi ngành nghề nhất định. Do đó, giá bán của những hàng hóa dịch vụ này sẽ tăng
lên cao so với giá bán của hàng hóa dịch vụ ở trong nước. Khi đo, thay vì sử dụng các
dịch vụ giá thành cao, người tiêu dùng sẽ sử dụng những sản phẩm dịch vụ cùng loại
nhưng giá thành rẻ hơn được cung ứng bởi các nhà cung ứng trong nước. Khi nhu cầu
tiêu dùng giảm thì các nhà cung ứng dịch vụ nước ngoài sẽ hạn chế dần sản phẩm dịch
vụ cung ứng, và ngược lại, các nhà cung ứng trong nước sẽ có cơ hội mở rộng, phát triển
thị trường. Điều này có ý nghĩa đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển trong khu
vực Đông Nam Á với ngành dịch vụ còn non trẻ, cần thời gian trưởng thành lớn mạnh
và chuẩn bị nội lực để cạnh tranh trên đấu trường quốc tế.
b. Tác động tiêu cực
Thứ nhất, các rào cản thương mại dịch vụ sẽ làm cho nguồn lực trong nước phân
bổ một cách kém hiệu quả, thay vì tập trung vào các lĩnh vực có lợi thế so sánh thì do
tác động của chính sách bảo hộ, các nguồn lực này lại chạy vào các lĩnh vực có chế độ
bảo hộ cao.
Thứ hai, chính sách bảo hộ làm méo mó môi trường cạnh tranh, tạo nên sự bất
bình đẳng giữa các nhà cung ứng hoặc sản phẩm dịch vụ trong và ngoài nước. Mục tiêu
hàng đầu của các chính sách bảo hộ nói chung là bảo vệ hàng hóa dịch vụ trong nước và
tạo một giai đoạn chuẩn bị cho doanh nghiệp trong nước nâng cao sức cạnh tranh. Tuy
nhiên, nếu các chính sách này không được thực hiện với mức độ và lộ trình phù hợp thì
nó có thể gây ra những hậu quả trái với mong muốn, các nhà cung ứng trong nước
không phải đối mặt với áp lực cạnh tranh nên không muốn nâng cao chất lượng hàng
hóa dịch vụ và hạ giá thành; làm cho người tiêu dùng có ít hơn sự lựa chọn hàng hóa
dịch vụ mà phải chấp nhận mặt hàng ở một mức giá cả kém cạnh tranh.

Thứ ba, chi phí cho việc bảo hộ lớn. Phần lớn thành viên ASEAN là các quốc gia
đang phát triển, điều kiện kinh tế chưa cao. Bởi vậy, những chi phí bỏ ra cho việc cản
trở hoạt động của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ ít nhiều tác động đến sự phát
triển kinh tế của các quốc gia này.
III. Cơ chế hạn chế và xóa bỏ các rào cản thương mại dịch vụ và thỏa ước
công nhận lẫn nhau
1. Cơ chế hạn chế và xóa bỏ các rào cản thương mại dịch vụ
- AFAS đưa ra khung pháp lý chung cho tiến trình hạn chế và xóa bỏ các rào cản
thương mại.

6


-

Các văn bản pháp lý về hội nhập các ngành ưu tiên đưa ra phạm vi và lộ trình cụ thể
cho các lĩnh vực dịch vụ được ưu tiên hội nhập ( 5 lĩnh vực ưu tiên hội nhập bao
gồm: Y tế, du lịch, hàng không, e- ASEAN và dịch vụ hậu cần logistics).
- Trên cơ sở và để triển khai cụ thể AFAS, các quốc gia thành viên sẽ liên tục tiến
hành các vòng đàm phán để đưa ra các gói cam kết theo hướng ngày càng mở rộng
phạm vi các lĩnh vực dịch vụ được tự do hóa, đồng thời mức độ tự do hóa của từng
lĩnh vực dịch vụ cũng sẽ ngày càng được nâng cao.
Theo quy định tại Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ, các quốc gia thành viên
sẽ thực hiện tự do hóa thương mại dịch vụ một số đáng kể các lĩnh vực trong khoảng
thời gian hợp lí bằng cách:
- Xóa bỏ đáng kể các biện pháp phân biệt đối xử và các hạn chế tiếp cận thị trường
hiện tại giữa các quốc gia thành viên.
- Cấm các biện pháp phân biệt đối xử và các hạn chế tiếp cận thị trường mới hoặc có
tính chất hạn chế và phân biệt đối xử hơn.
- Đồng thời các quốc gia sẽ tiến hành đàm phán về các biện pháp gây ảnh hưởng đến

thương mại dịch vụ trong các lĩnh vực cụ thể.
Đối với các ngành dịch vụ thuộc lĩnh vực ưu tiên, việc xóa bỏ các rào cản sẽ được
tiến hành nhanh hơn với mức độ tự do hóa cao hơn những ngành dịch vụ còn lại.
2. Thỏa ước công nhận lẫn nhau
Thỏa ước công nhận lẫn nhau (MRA) trong ngành dịch vụ, một ngành khá phát
triển gần đây trong ASEAN, cho phép chứng chỉ của các nhà cung cấp dịch vụ được cấp
bởi các cơ quan chức năng tương ứng tại quốc gia của mình sẽ được thừa nhận bởi các
nước thành viên khác trong khu vực. Việc này sẽ tạo động lực cho các nhà cung cấp
dịch vụ chuyên nghiệp trong ASEAN hoạt động theo đúng những nguyên tắc và quy
định tương ứng trong nước.
Hiệp định khung ASEAN trong ngành dịch vụ (AFAS) được ký kết bởi các bộ
trưởng kinh tế ASEAN vào năm 1995 tại Bangkok, Thailand đã ghi nhận tầm quan trọng
của MRA trong việc hội nhập toàn bộ ngành dịch vụ trong ASEAN. Điều khoản số V
của AFAS thể hiện: “Mỗi nước thành viên có thể thừa nhận trình độ giáo dục, kinh
nghiệm, tiêu chuẩn, hoặc bằng cấp, chứng chỉ được cấp tại một nước thành viên
ASEAN khác miễn là chúng phản ánh đúng mục đích cấp bằng hoặc chứng chỉ. Sự thừa
nhận này có thể căn cứ vào hiệp định hoặc thỏa ước giữa các nước thành viên liên quan
hoặc được chấp nhận một cách tự động”.
Các nguyên thủ ASEAN tại hội nghị thượng đỉnh lần thứ 7 diễn ra vào năm 2001
tại Bandar SeriBegawan, Brunei Darussalam đã đồng ý bắt đầu đàm phán MRA để tăng
cường dòng chu chuyển dịch vụ chuyên nghiệp theo AFAS. Ủy ban điều phối dịch vụ
ASEAN (CCS) đã lập một nhóm chuyên gia MRA trong ngành dịch vụ vào tháng 7 năm
2003 để đàm phán MRAs dịch vụ. Kết quả là, CCS đã thành lập được một nhóm chuyên

7


trách trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe vào tháng 3 năm 2004, nhóm này sẽ thực hiện
công tác đàm phán về MRAs trong ngành dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
IV. Kết quả ASEAN đạt được về xóa bỏ các rào cản trong thương mại dịch

vụ qua các vòng đàm phán
Kể từ thời điểm ký kết AFAS năm 1995 đến nay, ASEAN đã trải qua 5 vòng đàm
phán và đạt được 7 gói cam kết dịch vụ. Các gói dịch vụ này bao hàm tất cả các mặt của
dịch vụ theo nội dung trong cuộc họp của các bộ trưởng kinh tế (AEM) như kinh doanh,
dịch vụ chuyên nghiệp, xây dựng, phân phối, giáo dục, môi trường, y tế, vận tải biển,
viễn thông và du lịch. Các gói cam kết này được thực hiện thông qua các nghị định thư
do AEM ký kết và cập nhật đầy đủ chi tiết của tiến trình tự do hóa trong các ngành phụ
trợ dịch vụ.
Bắt đầu từ gói cam kết thứ 5 trở đi, mỗi gói cam kết tiếp theo của AFAS đều bao
gồm tất cả cam kết mà các nước thành viên ASEAN đã cam kết trong tổ chức thương
mại thế giới WTO, các gói cam kết trước đó, và cả các cam kết mới hay nói cách khác là
các cam kết được điều chỉnh. Do đó, những người hoạt động trong lĩnh vực này sẽ biết
được đầy đủ thông tin liên quan tới các cam kết dịch vụ của các nước thành viên
ASEAN trong WTO và cả AFAS thông qua các nội dung được đề cập đến trong gói
AFAS gần đây nhất.
Cùng với các gói AFAS, còn có 4 gói cam kết dịch vụ tài chính bổ sung được ký
kết bởi các bộ trưởng tài chính ASEAN và 3 gói cam kết dịch vụ vận tải đường hàng
không khác được ký kết bởi các bộ trưởng giao thông vận tải ASEAN. Những thỏa
thuận ASEAN đạt được gồm:
- Bổ sung thêm 10 phân ngành dịch vụ được mở cửa tại Vòng đàm phán thứ năm
(2007-2009), phạm vi các ngành dịch vụ được tự do hóa trong ASEAN đã lên 65
phân ngành như dịch vụ kiến trúc, xây dựng, dịch vụ tin học và các dịch vụ khác có
liên quan, nghiên cứu thị trường, quảng cáo, sản xuất phim, dịch vụ bán lẻ, dịch vụ
nhượng quyền thương mại...
- Đối với hai phương thức cung cấp dịch vụ đầu tiên (Mode 1 và Mode 2), ASEAN đã
đạt được thỏa thuận xóa bỏ các hạn chế về tiếp cận thị trường cũng như các biện
pháp phân biệt đối xử, trừ những ngoại lệ được áp dụng hợp pháp theo những nội
dung đã cam kết. Nói cách khách, ngoại trừ những ngoại lệ được chấp nhận, các
quốc gia ASEAN không được áp dụng các biện pháp hạn chế thị trường và phân biệt
đối xử trong hai phương thức cung cấp dịch vụ qua biên giới và tiêu thụ dịch vụ ở

nước ngoài.
- Đối với phương thức cung cấp dịch vụ thứ ba (Mode 3), hiện nay các nhà cung cấp
dịch vụ của các quốc gia ASEAN được góp vốn với tỉ lệ tối thiểu 51% trong các
ngành dịch vụ ưu tiên và phân phân ngành xây dựng; 49% trong dịch vụ logistics và
các ngành dịch vụ khác tại quốc gia thành viên khác trong ASEAN.

8


Các nước ASEAN được trông đợi sẽ tiếp tục cam kết sâu rộng hơn để đạt được
mục tiêu dòng chu chuyển dịch vụ tự do vào năm 2015.
Phù hợp với Kế hoạch tổng thể AEC, ASEAN sẽ tiếp tục xóa bỏ những rào cản
đối với tự do hóa thương mại dịch vụ trên cơ sở những vòng đàm phán tiếp theo với lộ
trình như sau:
- Từ 2010-2011: Xóa bỏ về cơ bản tất cả các hạn chế trong thương mại dịch vụ đối với
4 ngành dịch vụ ưu tiên hội nhập, 51% vốn trong dịch vụ logistics và các ngành dịch
vụ khác;
- Từ 2012-2013: Xóa bỏ về căn bản tất cả các hạn chế trong thương mại dịch vụ đối
với dịch vụ logistics trước 2013; mở cửa thêm ít nhất 20 phân ngành mới; cho phép
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài góp ít nhất 70% vốn trong dịch vụ logistics;
- Từ 2014-2015: Xóa bỏ về căn bản tất cả hạn chế trong thương mại dịch vụ đối với tất
cả ngành dịch vụ khác trước 2015; mở cửa thêm ít nhất 20 và 7 phân ngành mới lần
lượt vào 2014 và 2015, đồng thời cho phép nhà cung cấp nước ngoài góp ít nhất 70%
vốn trong tất cả ngành dịch vụ
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 45 và các Hội nghị liên quan được tổ
chức từ ngày 18 – 21/8/2013 tại Brunei, Bộ trưởng các ASEAN cho rằng, đến tháng
7/2013, các nước ASEAN đã thực hiện được gần 80% tổng số biện pháp thực hiện lộ
trình đã đề ra, về thương mại dịch vụ được cụ thể như sau:
Đối với Gói cam kết dịch vụ thứ 8 trong khuôn khổ Hiệp định khung về Dịch vụ
ASEAN (AFAS), Brunei, Singapore, Thái Lan và Việt Nam đã hoàn tất các thủ tục

trong nước và thông báo để Gói thứ 8 có hiệu lực. ASEAN đang nỗ lực hoàn thành Gói
cam kết dịch vụ thứ 9 và thứ 10 trong khuôn khổ Hiệp định AFAS, đặt mục tiêu hoàn
thành Gói thứ 9 trong năm 2013 và Gói thứ 10 trước tháng 8/2015. Tuy nhiên, hiện tại,
chỉ có Singapore đưa ra bản chào Gói thứ 9 đạt yêu cầu. Brunei, Indonesia, Malaysia và
Việt Nam đã nộp bản chào Gói thứ 9 để Ban Thư ký ASEAN và các nước rà soát.
ASEAN đang hoàn tất Gói cam kết thứ 8 về dịch vụ vận tải hàng không để ký kết
vào tháng 12/2013 và đang nỗ lực hoàn thành Gói cam kết thứ 6 về dịch vụ tài chính để
ký kết vào tháng 4/2014. ASEAN cũng đang chuẩn bị đàm phán một Hiệp định AFAS
mới vào cuối năm nay nhằm nâng cao tính toàn diện và cập nhật của Hiệp định cho phù
hợp với bối cảnh hiện nay. Hiệp định Di chuyển thể nhân ASEAN (MNP) đã được các
Bộ trưởng Kinh tế ASEAN ký kết ngày 19/11/2012 tại Campuchia và Biểu cam kết cụ
thể kèm theo Hiệp định đã được thông qua ngày 10/4/2013 tại Brunei.
- Ký kết hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện ASEAN- Trung Quốc
Ngày 14/11/2002, Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ và đồng nhiệm 10 nước
ASEAN đã ký hiệp định khung, tạo tiền đề cho các cuộc đàm phán tiến tới thiết lập khu
vực mậu dịch tự do lớn nhất thế giới. Đây là một thành công của ngày làm việc đầu tiên
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN tại Phnom Penh, Campuchia.

9


Những nước tham gia ký kết hiệp định tuyên bố sẽ loại bỏ hầu hết các hàng rào
thuế quan và tiến tới tự do hoá thương mại trong các ngành dịch vụ, đồng thời mở cửa
cho những hoạt động đầu tư xuyên quốc gia.
- Ký kết Hiệp định thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN- ÚC- NewZealand
(AANZFTA)
Ngày 27/2/2009, Hiệp định thành lập khu vực thương mại tự do ASEAN- ÚcNewZealand được ký kết tại Thái Lan và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 1/1/2010. Hiệp
định này thực hiện mục tiêu hội nhập 12 thị trường nhỏ thành một thị trường lớn với
khoảng 620 triệu dân và tổng GDP lên tới 2,75 nghìn tỉ USD. Hiện nay, Úc là nhà đầu tư
lớn thứ 6 còn NewZealand là nhà đầu tư lớn thứ 10 vào ASEAN. Theo Hiệp định

AANZFTA, đối với thương mại dịch vụ, các bên thống nhất sẽ từng bước tự do hóa các
rào cản thương mại dịch vụ và cho phép nhà cung cấp dịch vụ tiếp cận thị trường thuận
lợi hơn. Đặc biệt, đây là hiệp định đầu tiên ASEAN cam kết tạo thuận lợi cho việc di
chuyển của các thể nhân tham gia các hoạt động thương mại và đầu tư trong khu vực.
Hiệp định này cũng đưa ra các quy định tiến bộ như đối xử trong đầu tư, đền bù cho
người thiệt hại, chuyển giao lợi nhuận và vốn, chuyển giao quyền hoặc yêu cầu đầu tư.
- Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau đã được chấp nhận và ký kết bởi các bộ trưởng
bao gồm:
MRA trong lĩnh vực dịch vụ kỹ thuật (2005)
MRA trong lĩnh vực dịch vụ điều dưỡng (2006)
MRA trong lĩnh vực dịch vụ kiến trúc và thỏa thuận khung thừa nhận lẫn nhau
đối với
- chứng chỉ giám sát (2007).
MRA trong lĩnh vực kế toán, MRA đối với nghề bác sỹ và nha sỹ.
MRA đối với các chuyên viên du lịch cũng được thông qua tại phiên họp lần thứ
12 của các bộ trưởng du lịch ASEAN (MAMT) trong năm 2009 tại Hà Nội, Việt Nam.
Các cơ quan chức năng cũng được thiết lập để quản lý thực hiện MRA strong lĩnh
vực dịch vụ, đảm bảo các chuyên gia trong ASEAN đều được hưởng lợi ích cụ thể từ
các thỏa ước này. Trong khi MRAs đối với nghề bác sỹ và nha sỹ tập trung chủ yếu vào
sự hợp tác thì MRAs đối với nghề kỹ sư và kiến trúc sư chỉ là tạo ra sự hợp tác, song
đều cùng hướng tới mục đích thừa nhận lẫn nhau các chuyên viên có trình độ trong
ASEAN. MRA trong lĩnh vực kế toán và dịch vụ giám sát lại cung cấp một nguyên tắc
khung để đàm phán song phương và đa phương trong khu vực ASEAN.
KẾT THÚC
Nhận thức được tầm quan trọng của dịch vụ đối với nền kinh tế ASEAN luôn tích
cực trong việc định hướng phát triển, đưa nền kinh tế khu vực lên tầm cao mới, hòa
nhập với xu hướng phát triển của thế giới. Với mục tiêu hướng tới xây dựng cộng đồng
kinh tế ASEAN trong đó có nội dung về khu vực thương mại dịch vụ tự do, ASEAN đã
và đang có những động thái tích cực trong việc xóa bỏ các rào cản thương mại trong đó
có các rào cản thương mại dịch vụ và đã đạt được những thành tựu đáng kể.

10



×