Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Quan điểm chính trị - pháp lý cơ bản của đạo nho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (91.14 KB, 5 trang )

A/ MỞ BÀI
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập từ thời Xuân Thu và sau đó được tiếp tục bổ sung phát
triển trong các thời kì sau. Không chỉ trong thời kì Bắc thuộc mà cho đến nay Việt Nam còn
chịu nhiều ảnh hưởng của Nho giáo Trung Quốc. Để tìm hiểu sâu hơn về một khía cạnh của
đạo nho,em xin chọn đề bài : “Nêu các quan điểm chính-trị pháp lý cơ bản của đạo nho”.
B/ NỘI DUNG
I.Nhận định chung về quan điểm chính trị - pháp lý
Nhìn một cách tổng thể thì quan điểm chính trị - pháp lý được cấu trúc từ hai thành phần
là quan điểm về chính trị và quan điểm về pháp lý. Như vậy ta cần hiểu rõ hai khái niệm cơ
bản: chính trị và pháp lý.
- Chính trị được hiểu là việc tổ chức và vận dụng quyền lực để giải quyết các quan hệ lợi ích.
Bản thân thuật ngữ chính trị là tiếng Hy Lạp – Po litike, có nghĩa là công việc nhà nước.
Lênin cũng đã từng định nghĩa: “Chính trị là sự tham gia công việc nhà nước, phương hướng
của nhà nước, xác định hình thức và nội dung hoạt động của nhà nước”.
- Pháp lý theo phương diện trong nội dung bài thì được hiểu là khái niệm biểu đạt “tính pháp
luật” của những quy định, hiện tượng, các phạm vi, hoạt động, cơ chế,…trong cả trạng thái
tĩnh và cả trạng thái động của pháp luật.
Từ các khái niệm nhỏ lẻ này ta có thể đi đến định nghĩa chung như sau: Quan điểm chính
trị - pháp lý là những quan niệm của con người về quyền lực, quyền lực nhà nước và pháp
luật, thể hiện cách thức giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa các bộ phận giai cấp, các nhóm xã
hội, các quốc gia, dân tộc hình thành do kết quả nhận thức bằng tri giác trong sự tương tác
giữa con người với môi trường xã hội tồn tại dưới dạng các học thuyết.
II. Quan điểm chính trị - pháp lý cơ bản của đạo nho
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức xã hội. Để
tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu
mẫu - người lý tưởng này gọi là quân tử. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết
phải "tự đào tạo", phải "tu thân". Sau khi tu thân xong, người quân tử phải có bổn phận phải
"hành đạo". Nho gia hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đạo ở
đây bao chứa cả nguyên lí vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lí đó là những nguyên
lí đạo đức do Nho gia đề xướng (hoặc như họ tự nhận là phát hiện ra) và cần phải tuân theo.
Trời giáng mệnh làm vua cho kẻ nào có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo


vận hành trong vũ trụ khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh. Tổng quát lại thì quan
điểm chính trị - pháp lý cơ bản của Nho giáo thể hiện ở ba mảng vấn đề, hay ba quan điểm.
Đó là Thiên mệnh, Chính danh, Tôn quân quyền. Đây có thể coi là ba thành tố cơ bản cấu
thành nên hệ tư tưởng của đạo nho và là cái gốc của đạo nho.
1. Thiên mệnh
1


Nho giáo đã tin có trời là chúa tể cả vũ trụ thì tất là nhận có cái ý chí rất mạnh để khiến sự
biến hóa ở trong thế gian cho hợp lẽ điều hòa. Cái ý chí ấy gọi là thiên mệnh hay đế mệnh.
Người xưa dùng chữ “thiên” để chỉ cái ý to lớn cao xa, bao bọc, che chở và dùng chữ “đế” chỉ
cái ý làm chúa tể của muôn vật. Nói thiên mệnh hay đế mệnh tức là muốn nói đến cái ý chí
của trời. Nhưng ta phải biết rằng quan niệm của Khổng Tử về trời hay thượng đế không giống
như quan niệm của phần nhiều người thường tưởng tượng. Trời hay Thượng đế là một đấng
có hình dáng, có tình cảm, có tư dục như người ta. Trời hay Đế chỉ là một cái lý vô hình, rất
linh diệu, thần bí, mà khi đã định sự biến động ra thế nào thì dẫu làm sao cũng không cưỡng
lại được.Khổng Tử tin có trời như thế, và có thiên mệnh cho nên Ngài nói rằng: “Bất tri mệnh
vô dĩ vi quân tử dã”, có nghĩa là không biết mệnh trời thì không lấy gì làm quân tử. Những
công việc ở đời người ta thành hay bại, thế cục thịnh hay suy đều do ở thiên mệnh cả. Cái đạo
của Khổng Tử mà thi hành ra được cũng là mệnh trời, mà không thi hành ra được cũng là
mệnh trời: “Đạo chi tương hành dã dư, mệnh dã; đạo chi tương phế dã dư, mệnh dã”. Người
quân tử cứ an mà làm điều lành điều phải, dẫu có thế nào thì cũng đã có cái mệnh của trời,
không oán trời và giận người, cho nên Khổng Tử nói rằng: “Thượng bất oán thiên, hạ bất vưu
nhân, cư dị dĩ sĩ ”, nghĩa là mệnh trên không oán trời, dưới không trách người, cứ bình dị mà
đợi mệnh.
Người ta ở đời lưu hành trong cái biến hóa của trời đất, giống như đàn cá bơi lội ở giữa
dòng nước chảy, tuy lúc nào cũng có cái năng lực vẫy vùng chạy nhảy nhưng vẫn phải trôi
theo dòng nước. Dòng nước chảy càng to, càng mạnh bao nhiêu thì sự trôi đi lại càng khó
cưỡng lại bấy nhiêu. Sự trôi đi như thế như là thiên mệnh - mệnh trời, không thể cưỡng lại,
mặc dù ta có cảm giác như mình tự do, nhưng đó là tự do trong sự phụ thuộc, sự phụ thuộc

vào một ý chí lớn lao, mệnh trời. Ta phải hiểu rằng, trong khi ta theo thiên lý mà lưu hành thì
bao giờ con người cũng có cái năng lực tự do để tự cường tự kiện, khiến cho cái tâm tính của
con người được sáng suốt, mẫn nhuệ để khi nào hành động cũng không làm mất đi cái trung.
Vậy trong sự thiên mệnh ấy, có cái sức cố gắng rất cường kiện để hoạt động luôn, chứ không
phải như những người tầm thường nhu nhược, cứ đành chịu ép một bề mà đợi số mệnh. Bởi
thế nên trong kinh dịch nói rằng: “Thiên hành kiện, quân tử dĩ tự cường bất tức”, có nghĩa là
việc hành động của trời rất mạnh, người quân tử phải theo mà tự cường không nghỉ. Nếu
người ta hiểu không rõ cái ý nghĩa ấy, rồi cứ vì cái lẽ theo thiên mệnh mà thành ra lười biếng,
như thế thì đến ông trời cũng tuyệt diệt đi, không tài bồi cho cái yếu đuối, hèn hạ bao giờ.
Sách Trung dung nói: “Thiên chi sinh vật, tất nhân kì tài nhi đốc yên, cố tài giả bồi chi,
khuynh giả phúc chi”, nghĩa là trời sinh ra muôn vật, nhân cái tài lực của từng vật mà đôn đốc
thêm vào, cho nên vật nào có thể vun đắp được thì vun đắp vào cho tốt lên, vật nào nghiêng
lệch thì làm cho đổ nát đi. Theo thiên mệnh thì phải có cái khí cường kiện thì mới theo nổi,
không thì thành ra thất bại ngay. Khí cường kiện ở đây là muốn chỉ đến cái ý chí lớn lao,

2


mạnh mẽ, sắt đá của người quân tử. Người nào không có nó thì không thể làm nên việc lớn
được.
Về sau tư tưởng thiên mệnh của Khổng tử được các học trò của ông kế thừa, phát triển,
xây dựng thành một học thuyết hoàn chỉnh và trở thành một trong các học thuyết làm nền
tảng cho hệ tư tưởng đạo nho, thuyết thiên mệnh. Trong đó người có công lớn nhất phải kể
đến là Đổng Trọng Thư. Ông viết: “Tôi nghe: Trời là tổ của muôn vật, cho nên che chở bao
bọc khắp mọi nơi,…Mùa xuân là mùa sinh muôn vật của trời, mùa hạ là mùa trưởng thành
muôn vật của trời…Lệnh trời gọi là mệnh, mệnh không phải là thánh nhân thì không thi hành
được; chất phác gọi là tính, tính không phải có giáo hóa thì không nên; nhân dục gọi là tình,
tình không phải có chế độ, không tiết chế được. Cho nên đấng vương giả nên cẩn trọng noi ý
trời để thuận mệnh…Người chịu mệnh của trời vốn siêu nhiên hơn các loài sinh vật ở đời”.
Có thể thấy tư tưởng của Đổng Trọng Thư đã phát triển khá hoàn chỉnh tư tưởng thiên mệnh

của Khổng Tử. Sách “Trúc lâm” có đoạn viết: “Thiên chi vi nhân tính mệnh. Sử hành nhân
nghĩa nhi tu khả sỉ, phi nhược điểu thú thiên, cẩu vi sinh, cẩu vi lợi nhi dĩ”, nghĩa câu nói đó
là trời làm ra cái tính mệnh của người, khiến làm điều nhân nghĩa, mà biết thẹn điều đáng
thẹn, không phải như giống chim muông, cẩu thả cầu lấy sống, cẩu thả cầu lợi mà thôi.
2. Chính danh
Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người phải làm đúng chức
phận của mình. "Danh không chính thì lời không thuận, lời không thuận tất việc không thành"
(sách Luận ngữ). Theo Khổng Tử giải thích chính danh tức là làm mọi việc phải cho ngay
thẳng, “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử - Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con"
(sách Luận ngữ). Khổng Tử cho việc chính trị hay hay dở do ở người cầm quyền. Người cầm
quyền biết theo đường ngay chính để sửa đạo nhân thì việc gì cũng thành ra ngay chính cả.
Hễ người trên đã ngay chính thì ắt người dưới phải theo mà bắt trước. Vậy nên mới nói: “Kỳ
thân chính, bất lệnh nhi hành, kỳ thân bất chính, tuy lệnh bất tòng”, có nghĩa là mình ngay
chính thì không sai khiến người ta cũng làm, mình không ngay chính tuy có sai khiến cũng
không ai theo.Người trên phải giữ mình cho ngay chính và làm việc gì cũng phải giữ cái danh
cho chính. Danh phận đã định rõ thì người nào có địa vị chính đáng người ấy, trên ra trên,
dưới ra dưới, trật tự phân minh. Vua có phận vua, tôi có phận tôi: “Quân sử thần dĩ lễ, thần sự
quân dĩ trung”, nghĩa là vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, còn bề tôi thì lấy trung mà thờ vua.
Là một nhà chính trị, Khổng Tử phản đối việc nhà cầm quyền dùng pháp luật và hình phạt
để cai trị dân. Ông cho rằng nguyên nhân làm cho xã hội loạn lạc, dân tình khổ sở là do
không “chính danh”, muốn xã hội ổn định và phát triển thì phải giáo hóa đạo đức và thực hiện
“chính danh, định phận”. Nhà cầm quyền muốn trị nước, trước hết phải thực hiện “chính
danh” , bởi vì “nếu không chính danh thì lời nói sẽ không đúng đắn, lời nói không đúng đắn
sẽ dẫn đến việc thi hành sai…Cho nên nhà cầm quyền xưng danh thì đúng với phận, với
nghĩa, đã xưng danh đúng với danh, với phận thì phải tùy theo đó mà làm” (Luận ngữ, Tử lộ).
3


Về sau thuyết chính danh của Khổng Tử tiếp tục được các môn đồ của ông phát triển thêm
nhưng phải đến Tuân Tử thì những tư tưởng chính danh của Khổng Tử mới được lập thành

một học thuyết. Cái danh theo Tuân Tử là cái danh đã thông hành trong xã hội, dùng làm
pháp lệnh của quốc gia, không ai được thay đổi.Tuân Tử xét theo cái lẽ tại sao mà có danh, và
chia ra làm ba điều: Sở vị hữu danh (bởi sao có danh), Sở duyên hữu đồng dị (bởi duyên cớ gì
mà có đồng dị), chế danh chi khu yếu (cái khu yếu để chế danh).Có thể thấy rất rõ, cái chính
danh trong tư tưởng của Tuân Tử đã phát triển lên một tầm cao mới, nó thể hiện ở bản chất
thật của vấn đề. Tuân Tử dùng lý trí để suy luận, không như cái danh trong tư tưởng của
Khổng Tử chủ yếu dựa vào trực giác mà thành. Tuy nhiên, mỗi cách lại có một ưu thế riêng:
lối dùng trực giác, tuy người thường khó hiểu, nhưng khi đã hiểu thì ý nghĩa lại rất sâu xa;
còn lối dùng lý chí mà suy luận, tuy kém phần sâu xa, nhưng dễ hiểu và cái phương pháp luận
lý lại sang rất rõ. Chính sự đa dạng này đã làm cho nho giáo trở thành hệ tư tưởng chính
thống của nhiều triều đại phong kiến.
3.Tôn quân quyền
Khi con người đã quần tụ với nhau sống thành xã hội thì ắt trong lòng xã hội phải nảy sinh
các quyền tối cao để có thể quản lý xã hội, điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với nhau
trong cái xã hội đó. Xuất phát từ thuyết thiên mệnh, nho giáo đề cao nguyên tắc tôn quân
quyền, tức quyền chủ thể cả một nước, nhằm xây dựng củng cố nhà nước tập quyền, với
quyền lực vô hạn thuộc về nhà vua. Theo tư tưởng của Nho giáo thì Quân quyền phải để một
người giữ cho rõ cái mối thống nhất. Người giữ quân quyền gọi là đế hay vương, ta thường
gọi là vua. Vua phải lo việc trị nước, tức là lo sự sinh hoạt, sự dạy dỗ và mở mang cho dân.
Tư tưởng tôn quân quyền của nho giáo hoàn toàn có thể đáp ứng được hệ tư tưởng của các
triều đại phong kiến. Trong quan điểm của Nho giáo, nói đến nước là nói đến vua, nước là
của vua. Ngôi vua bao giờ cũng được đề cao, và trong việc giáo dục thần dân thì đức tính
trung với vua bao giờ cũng được coi trọng nhất. Tư tưởng tôn quân có những hạn chế nhất
định vì nó dẫn con người tới chỗ mù quáng, phụng sự vô điều kiện đối với giai cấp thống trị.
Nhưng xét ở khía cạnh khác, nó cũng có những yếu tố tích cực. Nếu một ông vua có tư tưởng
tiến bộ theo xu thế phát triển của lịch sử thì cũng có tác động thúc đẩy xã hội phát triển và khi
ấy lợi ích vương tộc phù hợp với lợi ích dân tộc. Từ tư tưởng tôn quân, nho giáo đã đưa ra
một đường lối chính trị nhân nghĩa trong đó đề cập tới đạo làm vua, quan hệ giữa vua và dân,
quan điểm về dùng người.
Phân tích mối quan hệ giữa vua và dân, đó là hai mặt đối lập trong một thể thống nhất:

vua không có dân thì không thể tồn tại được. Hầu hết các vị vua quan tâm tới dân không phải
vì lợi ích của dân mà trước hết đều là vì quyền lợi của chính mình. Muốn cho dân không nổi
dậy, để giữ ngôi vua được lâu dài trước hết vua phải lấy đạo đức dẫn đạo cho dân, tức là vua
phải noi theo lễ để làm gương cho kẻ dưới. Nho giáo xây dựng xã hội theo mô hình gia đình,
nên xem xét con người từ cách cư xử trrong gia đình để suy ra cách cư xử với xã hội. Đạo
4


làm vua là làm nên mực thước để dân bắt chước. Vua là đại diện cho thế lực của trời, được ví
là con trời, được trời cử xuống để thay trời cai trị muôn dân. Vì thế những lời huấn thị của
vua giống như lời huấn thị của trời. Về phương thức cai trị nho giáo chủ trương dùng đức trị,
lấy việc tu nhân, giáo hóa nhân bằng lễ, nhạc là chủ yếu, hình phạt chỉ là bổ trợ. Trong thời
đại của Khổng Tử, mà theo ông lễ nhạc hư hỏng, thiên hạ vô đạo, xã hội loạn li, nên phải khôi
phục lễ để thiên hạ hữu đạo, xã hội thái bình. Đó là một trật tự chặt chẽ, một quan hệ giữa
người với người ổn định mới được xem là cái phúc tuyệt đối của xã hội. Bất cứ sự phá vỡ nào
đối với chúng đều được quan niệm là đối lập với bản thân cái cơ sở của tồn tại vũ trụ, là trái
với mệnh trời. Quan niệm như vậy rất có lợi cho giai cấp thống trị vì nó xây dựng trật tự xã
hội hiện tồn là khả năng duy nhất, bất cứ sự đi lệch nào khỏi khả năng đó đều là phi tự nhiên,
tất nhiên sẽ bị đào thải. Ở trong nhà, con phải hiếu đễ với cha mẹ, ở trong nước thì thần dân
phải trung với vua. Hai chữ trung quân không nên hiểu một cách đơn giản như người ta vẫn
thường hiểu là chỉ trung với một người làm đế, làm vương, mà phải hiểu theo nghĩa rộng là
trung với cái quân quyền trong nước. Theo nghĩa đó thì cứ ở vào thời đại nào, hai chữ trung
quân vẫn có nghĩa chính đáng. Có lòng trung ấy thì dân mới yên, nước mới trị, miễn là quân
quyền không trái với lòng dân là được.Quân quyền là cái cao quý, linh thiêng, có quan hệ tới
vận mệnh của một xã hội, một dân tộc, nếu không phải là bởi cái mệnh trời giao cho, thì tất là
bởi cái bọn xấu xa của xã hội cướp lấy. Vậy muốn cho chính cái danh hiệu của người giữ
quân quyền, thì Nho giáo mới cho là quân quyền là do mệnh trời quyết định, và ai giữ được
quân quyền thì tức là người đó giữ được thiên hạ.Mệnh trời không phải là cứ cho ai thì cho
mãi, mà người giữ quân quyền, ai làm điều lành, hợp lòng trời thì được còn ai làm điều ác,
trái với lẽ trời thì mất. Ông trời không thân riêng ai, chỉ có đức là trời giúp. Vậy người làm

đế, làm vương tuy rằng có uy quyền rất to lớn, thế lực rất mạnh, nhưng cũng không được lợi
dụng uy quyền ấy và thế lực ấy mà làm điều tàn bạo.
B/ KẾT LUẬN.
Trong học thuyết Nho giáo của Khổng tử, các khái niệm “chính danh, định phận”, “tôn
quân”, “thiên mệnh” có nội dung rất phong phú và luôn thâm nhập, tác động, chi phối mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội. Một số học giả Trung Quốc cho rằng, trong đạo Khổng có cái gì
cố chấp, nghiêm khắc trái với những xung đột tự nhiên của con người. Tuy nhiên, Hồ Chí
Minh đã nhận xét: “Trong học thuyết của Khổng tử có nhiều điều không đúng, song những
điều hay trong đó thì chúng ta nên học. Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu
hái được những hiểu biết quý báu của đời trước để lại”. Nghị quyết Trung ương II (Khoá
VIII) của Đảng đã nhấn mạnh: “Bước vào thời kỳ đổi mới, chúng ta cần phải nêu cao tinh
thần độc lập tự chủ… chăm lo phát triển giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ chính là
nhằm giữ gìn và phát huy truyền thống Nhân, Trí, Dũng, nhân lên gấp bội sức mạnh của cả
dân tộc trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá…”.
5



×