Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Đề cương môn kinh tế phát triển có đáp án ( Dành cho sinh viên học viên cao học )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.14 KB, 23 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC KINH TẾ PHÁT TRIỂN
( Dành cho sinh viên và học viên cao học )
Câu 1: Những điều kiện cần thiết thực hiện mô hình phát triển rút ngắn:
a. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả: mô hình phát triển rút ngắn đòi hỏi có
nhiều vốn trong nước và ngoài nước nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật ngày
1 hiện đại.
Nguồn vốn bên trong: vốn tích lũy từ ngân sách, các doanh nghiệp và từ các cá nhân. Con
đường cơ bản để giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước là tăng năng suất lao động xã
hội trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, khai thác và
sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, thực hiện tiết kiệm.
Nguồn vốn bên: vốn viện trợ của các nước, các tổ chức kinh tế - xã hội; vốn vay ngắn
hạn, dài hạn với các mức lãi suất khác nhau của các nước và các tổ chức kinh tế; vốn đầu
tư của nước ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh, liên doanh liên kết... Biện pháp cơ
bản để tận dụng, thu hút vốn bên ngoài là đẩy mạnh, mở rộng các hình thức hợp tác quốc
tế, tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các nhà sản xuất kinh doanh nước ngoài, tranh thủ
mọi sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế, vay vốn ở các nước.
Với việc huy động nguồn lực lớn cho đầu tư sẽ tạo ra sự phát triển kinh tế với tốc độ khá
cao, tạo cơ sở cho việc cải thiện điều kiện sống và giải quyết nhiều vấn đề xã hội.
Để thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn: vì nghèo nên tích luỹ thấp; tích luỹ thấp thì tăng
trưởng kinh tế chậm và khó thoát khỏi đói nghèo; cần phải tận dụng mọi khả năng để thu
hút các nguồn vốn từ bên ngoài. Đây là nguồn vốn có vai trò rất quan trọng, không những
giúp các nước nghèo khắc phục một phần khó khăn về vốn trong thời kỳ đầu mà còn góp
phần nâng cao trình độ quản lý và công nghệ, tạo việc làm cho người lao động... Vì thế,
tranh thủ nguồn vốn bên ngoài là một nhân tố đẩy nhanh thành công của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Tuy nhiên, mặt trái của nguồn vốn nước ngoài cũng không nhỏ. Sử dụng nguồn vốn nước
ngoài phải chấp nhận bị bóc lột, tài nguyên bị khai thác, nợ nước ngoài tăng lên... Do vậy,
không thể kỳ vọng quá lớn vào nguồn vốn bên ngoài. Sử dụng nguồn vốn nước ngoài là rất
cần thiết nhưng rất cần cân nhắc, lựa chọn.
Để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, xây dựng và phát triển thị trường vốn
là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có thị trường vốn, người sở hữu vốn nếu


nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác sẽ có thu nhập. Đồng thời, khi có thị trường
vốn, đồng vốn sẽ dễ dàng chuyển dịch từ nơi hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao. Do đó,
để đáp ứng nhu cầu vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và phát triển thị
trường vốn ở nước ta là rất cần thiết.
Quy mô huy động và hiệu quả sử dụng vốn còn tuỳ thuộc vào môi trường vĩ mô. Môi
trường vĩ mô càng thuận lợi thì quy mô huy động và hiệu quả sử dụng vốn càng cao. Do
đó, tạo môi trường vĩ mô thuận lợi cho các hoạt động đầu tư cũng là giải pháp kinh tế quan
trọng. Xây dựng môi trường vĩ mô thuận lợi tức là giữ ổn định về chính trị, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế, xây dựng
chính sách kinh tế phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế, xây dựng môi
trường pháp lý thông thoáng, bảo vệ được lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh tế...


2

Vấn đề đặt ra cho đất nước ta hiện nay là phải nỗ lực vượt bậc, phấn đấu làm ăn có hiệu
quả, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, ý chí tự lực tự cường, ra sức cần kiệm trong sản
xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, khắc phục những yếu kém và tiêu cực gây thất thoát, lãng
phí tiền của của Nhà nước và nhân dân, dồn vốn cho đầu tư phát triển.
b. Phát triển khoa học và công nghệ: Công nghệ giữ vai trò quan trọng trong phát
triển rút ngắn. Kinh nghiệm của một số quốc gia thực hiện phát triển rút ngắn cho
thấy, việc xác định một chiến lược phát triển công nghệ hợp lý sẽ cho phép tận
dụng được hình thức công nghệ tiên tiến của thế giới kết hợp với công nghệ truyền
thống sẵn có để khai thác phát huy các nguồn lực phát triển.
c. Đào tạo nguồn nhân lực: Trong mọi thời đại con người luôn là nhân tố cơ bản của
sự tăng trưởng. Con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm
việc quên mình, có sức khỏe, có trình độ sẽ đưa lại năng suất lao động cao. Năng
suất chính là cái quyết định sự thắng lợi của loại hình tổ chức kinh tế - xã hội mới.
Trong nền kinh tế thị trường cùng với đội ngũ lao động có sức khỏe nhiệt tình, cần
có đội ngũ những chuyên gia kinh doanh giỏi. Để có nền kỹ thuật công nghệ tiên

tiến cần có đầu tư nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật giỏi. Chính họ là
người tiếp thu, ứng dụng thành tựu của thế giới vào quốc gia mình, và cũng chính
họ sẽ đề xuất, xây dựng những quy trình công nghệ mới cho phép tăng nhanh năng
suất, rút ngắn các bước đi trong tiến trình phát triển.
Trong nguồn nhân lực mới ấy, việc xây dựng giai cấp công nhân là một nhiệm vụ trọng
tâm, bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ
chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có trình độ làm chủ khoa học - kỹ thuật và
công nghệ mới, trí thức hoá mới có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân và đội
ngũ trí thức, tập hợp và đoàn kết với các thành phần khác, phấn đấu đưa sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến thành công.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải coi việc
đầu tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển,
giáo dục và đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải đào tạo ra một cơ
cấu nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ
nghiên cứu và triển khai công nghệ, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các
ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật... Việc xây dựng nguồn nhân lực phải tiến hành
với tốc độ, quy mô thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng, phải bố trí và sử dụng tốt
nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao
động sáng tạo của họ để sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng
góp xứng đáng vào sự nghiệp phát triển của đất nước.
d. Thị trường: Chúng ta biết rằng, không thể phát triển nền kinh tế hàng hóa khi
thiếu thị trường bởi thị trường là một yếu tố quan trọng quyết định đến sự sống còn
của quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa. Đối với các nước đang phát triển, thị
trường không chỉ là nơi tiêu thụ hàng hóa mà còn là nơi tiếp cận nguồn vốn, lao
động và công nghệ… Vì vậy muốn phát triển nhanh không thể không mở rộng thị
trường, tham gia hội nhập quốc tế. Ngày nay xu thế toàn cầu hóa đã và đang lôi
cuốn các nước vào thị trường chung toàn cầu. Nói cách khác việc hội nhập quốc tế
là đòi hỏi khách quan, song hội nhập ra sao để tận dụng được các điều kiện do thị
trường mang lại là tùy thuộc nội lực và chiến lược hội nhập của mỗi quốc gia.


2


3

e. Cơ chế, chính sách và năng lực quản lý của bộ máy nhà nước: có được cơ chế,
chính sách và bộ máy nhà nước có năng lực là “nguồn lực” quan trọng thúc đẩy
phát triển, hay nói chính xác là cơ sở để nâng cao hiệu quả khai thác sử dụng các
nguồn lực. Một bộ máy nhà nước có năng lực và trình độ cao sẽ xác lập được mô
hình phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, nhờ đó huy dodogj tối đa nguồn lực
quốc tế (Tài nguyên con người và vật chất, tài chính), đồng thời tận dụng các cơ hội
phát triển thời đại tạo ra trong quá trình phát triển, nhằm đẩy mạnh tốc độ phát triển
kinh tế xã hội. Ngược lại, một nhà nước yếu kém cùng các cơ chế chính sách không
phù hợp sẽ khó tìm được mô hình phát triển ưu việt cho quốc gia, do đó, việc khai
thác các nguồn lực sẽ kém hiệu quả.
f. Xu thế mở cửa và sự phát triển của nền kinh tế thế giới trong bối cảnh toàn
cầu hóa: mô hình phát triển rút ngắn của 1 nước không thể biệt lập với thế giới bên
ngoài, mà ngược lại phải có mối liên hệ với nhau do sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh
tế (thương mại, tài chính, đầu tư, nhân lực...). Kinh tế thị trường phát triển, sự mở
cửa của nền kinh tế của mỗi quốc gia là điều kiện quan trọng để các nước đang phát
triển thu hút dòng vốn đầu tư của nước nước. Đây là một yếu tố quan trọng đối với
việc hình thành mô hình phát triển rút ngắn của 1 nước, nó không chỉ cung cấp vốn,
mà còn là nguồn chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và kinh doanh.
g. Vai trò của Nhà nước: Nhà nước có chức năng quản lý kinh tế - xã hội, Nhà nước
có sứ mệnh tổ chức thực hiện đường lối thực hiện mô hình phát triển thông qua
việc thực thi cơ chế, chính sách và điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội nhằm
thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đã đề ra. Có thể nói, thành công
của mô hình phát triển rút ngắn trực tiếp phụ thuộc vào vai trò quản lý kinh tế - xã
hội của Nhà nước.

Câu 3: Vai trò của Nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội:
1. Vai trò của nhà nước trong xây dựng cơ sở hạ tầng và ổn định nền kinh tế vĩ
mô.
Nền kinh tế của một quốc gia sẽ không thể "cất cánh" trừ phi nó có được nền tảng là
một cơ sở hạ tầng vững chắc. Vì thế, nhà nước phải đầu tư cơ sở hạ tầng, ổn định nền kinh
tế vĩ mô của đất nước. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường là sự bất ổn định do các cuộc
khủng hoảng chu kỳ. Sự ổn định kinh tế là điều mà mọi nhà nước đều mong muốn vì nó có
lợi cho tất cả mọi người. Do vậy, nhà nước phải duy trì sự ổn định đó. Nhà nước sử dụng
các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để điều tiết nền kinh tế, sử dụng ngân sách để tiến
hành đầu tư công cho các công trình; xây dựng các dự án cơ sở hạ tầng dựa trên căn cứ và
tiêu chí kinh tế thích hợp nhằm giảm thiểu những gánh nặng chi phí của ngân sách nhà
nước và của nền kinh tế; tiến hành việc kiểm soát chi tiêu công và tiền vay của các tập
đoàn kinh tế nhà nước để duy trì sự ổn định nền kinh tế. Một thực tế hiện nay là các cơ
quan hoạch định chính sách của nhà nước ta phân quyền quá tản mạn nên khó thực hiện
được giải pháp đồng bộ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô. Vì vậy, để bảo
đảm việc điều tiết nền kinh tế được hiệu quả, đòi hỏi nhà nước phải thực hiện những cải
cách cơ bản để đơn giản hoá bộ máy hành chính và phải tiến hành quản lý, kiểm soát chặt
chẽ đầu tư công. Với tư cách chủ đầu tư, nhà nước hướng các chương trình đầu tư của
mình vào mục tiêu tối đa hoá lợi ích của quốc gia.
2. Vai trò của nhà nước đối với việc điều tiết các yếu tố ngoại vi
Yếu tố ngoại vi là ảnh hưởng do các yếu tố bên ngoài gây nên cho hoạt động của
các doanh nghiệp hay cho xã hội. Yếu tố ngoại vi xảy ra khi có sự khác biệt về phí tổn
hoặc lợi ích giữa cá nhân và xã hội. Các chi phí hoặc lợi ích này không được tính đến trong
hệ thống giá cả và thị trường. Những chi phí ngoại vi cho sản xuất phải tính đến cả sự tắc
nghẽn giao thông và ô nhiễm môi trường mà nhà máy hoặc xí nghiệp sản xuất tạo ra...
3


4


Những yếu tố này gây nên sự giảm sút về phúc lợi của những người dân sống xung quanh
hoặc có thể buộc những nhà máy khác gần đó phải tốn kém thêm chi phí để làm sạch
nguồn nước bị ô nhiễm mà mình sử dụng trong sản xuất. Ví dụ, trường hợp một doanh
nghiệp có thể làm ra một loại sản phẩm rất rẻ nhưng lại làm ô nhiễm môi trường, gây ra sự
giảm sút về phúc lợi cho những người khác, thì nhà nước với vai trò của mình cần tiến
hành điều chỉnh lại sự bất hợp lý này. Bằng sự can thiệp, nhà nước buộc tất cả những ai
hưởng lợi từ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đều phải trả toàn bộ chi phí sản xuất và tiêu thụ
sản phẩm ấy.
Nhà nước sử dụng hệ thống thuế, luật pháp, điều lệ, mức hình phạt, thậm chí truy tố
trước pháp luật nhằm giảm thiểu ô nhiễm hoặc tạo điều kiện để các tổ chức xã hội thành
lập các quỹ bảo vệ môi trường, môi sinh nhằm giám sát các hoạt động của các doanh
nghiệp trong việc bảo vệ môi trường và khuyến nghị các biện pháp sản xuất bảo đảm yếu
tố bền vững. Ngoài ra, nhà nước sử dụng chính sách quyền sở hữu công khai nguồn tài
nguyên, bắt buộc các cá nhân, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên gây ô nhiễm phải chịu chi
phí theo giá thị trường. Các khoản thuế hay biện pháp trợ cấp đều được coi là phương thức
để nhà nước xử lý những yếu tố ngoại vi. Do toàn bộ chi phí xã hội có ý nghĩa quan trọng
quyết định sự phân bố tài nguyên một cách hiệu quả, còn những chi phí tư nhân chỉ quyết
định giá hàng hóa, nên vai trò của nhà nước là tạo ra sự cân bằng giữa cá nhân và xã hội
thông qua việc điều chỉnh sản xuất thừa hoặc tiêu dùng thừa vào chi phí ngoại vi.
Đối với các lợi ích ngoại vi, cần chú ý tới văn hóa, giáo dục bởi đây là lĩnh vực cần
có sự quan tâm và hỗ trợ của nhà nước. Nếu một sản phẩm hoặc một hoạt động của các
doanh nghiệp có thể tạo ra được lợi ích ngoại vi, thì nhà nước cần có chính sách hỗ trợ
nhằm khuyến khích sản xuất, tiêu dùng loại sản phẩm này sao cho giá trị đích thực các lợi
ích ngoại vi được tính đến trong hệ thống giá thị trường. Ở đây, sự can thiệp của nhà nước
là cần thiết, vì chi phí ngoại vi có thể dẫn đến sản xuất thừa thì ngược lại, lợi ích ngoại vi
lại có thể dẫn đến sản xuất thiếu.
3. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm công bằng, trật tự xã hội
Để thực hiện chức năng phân phối, nền kinh tế thị trường đòi hỏi một loạt thể chế
phát triển cao, trong đó có hệ thống luật pháp để chống gian lận bao gồm: hệ thống có liên
quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ thống

tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung cấp
tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt…
Trong nền kinh tế thị trường cả người mua lẫn người bán đều muốn khi đã đồng ý trao đổi
thì sự thoả thuận phải được thực hiện. Trong các quan hệ lao động, mối quan hệ giữa người
chủ và người làm công, thì người lao động dù với tư cách cá nhân hay tập thể trong các tổ
chức hiệp hội cũng đều có sự thoả thuận nhất định về điều kiện làm việc, tiền lương với
chủ sử dụng lao động. Nếu không có luật pháp thì các giao dịch trên thị trường trở nên khó
có thể thực hiện được.
Nhà nước phải thiết lập và bảo vệ quyền sở hữu tư nhân và quyền được hưởng các
lợi ích kinh tế xuất phát từ việc sử dụng quyền sở hữu đó. Nếu không có sự bảo đảm ấy,
một số người sẽ gặp những rủi ro nếu đầu tư thời gian và tiền vốn của mình vào lĩnh vực
kinh doanh mà rốt cuộc lợi nhuận lại là của người khác. Nhà nước trong vai trò bảo đảm
tính công bằng trong các hoạt động xã hội thông qua sự bảo hộ của mình đối với sở hữu tư
nhân như nhà máy, công xưởng, kho chứa và các sản phẩm hữu hình khác... đồng thời áp
dụng đối với cả các sở hữu liên quan tới trí tuệ, chẳng hạn như sách, bài viết, phim ảnh, hội
họa, phát minh, sáng chế, nhãn hiệu, thương hiệu, thiết kế, bào chế thuốc hay chương trình
phần mềm... Đây là những can thiệp quan trọng của nhà nước trong việc bảo vệ bản quyền
tác giả và qua đó, khuyến khích những hoạt động sáng tạo, khả năng trí tuệ của các nhà
khoa học, các nghệ sĩ.
4. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm cạnh tranh và chống độc quyền

4


5

Vai trò này của nhà nước thể hiện ở những biện pháp kiểm soát thông qua điều tiết
đối với những hãng có khả năng chi phối, kiểm soát các vụ việc sáp nhập công ty nhằm
ngăn ngừa khả năng độc quyền hoá các ngành công nghiệp, kiểm soát các hành vi chống
cạnh tranh, khuyến khích cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà cung ứng, đồng thời bảo vệ

người tiêu dùng chống lại tình trạng độc quyền.
Độc quyền gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị trường, gây ra những thiệt hại to lớn cho
nền kinh tế. Thông thường, trong nền kinh tế thị trường, tình hình sẽ trở nên nan giải khi
một ngành công nghiệp bị chi phối bởi một số rất ít các công ty lớn. Các công ty này có thể
cấu kết với nhau thành một tập đoàn hùng mạnh, áp đảo thị trường với mức giá cao, nhằm
thu nhiều lợi nhuận, đồng thời khống chế việc thâm nhập vào thị trường của các công ty
nhỏ hơn đang cạnh tranh với họ. Để ngăn chặn tình trạng cấu kết, độc quyền và để duy trì
cạnh tranh lành mạnh một cách có hiệu quả, hầu hết các nền kinh tế thị trường đều thông
qua đạo luật chống độc quyền.
Nhưng, nếu như không xem xét cẩn thận các chính sách của mình, thì nhiều khi sự kiểm
soát của chính phủ và chính sách chống độc quyền trên thực tế lại dẫn đến giảm cạnh tranh
chứ không phải là khuyến khích cạnh tranh. Các chính sách này bao gồm: giấy phép độc
quyền sản xuất một loại hàng hoá và dịch vụ nào đó, thuế, hạn ngạch... hay việc bảo hộ sản
xuất trong nước đã dẫn đến hạn chế việc nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài. Do
vậy, chính sách của nhà nước về vấn đề cạnh tranh không phải không có những bất cập.
Tuy nhiên, thực tế cái giá tiềm tàng cho phép các tập đoàn (hoặc một nhóm các doanh
nghiệp cấu kết với nhau) giành được vị trí độc quyền trong các ngành công nghiệp chủ
chốt là rất cao. Cái giá này đủ lớn để thừa nhận vai trò nhất định của nhà nước trong việc
điều tiết, duy trì cạnh tranh thông qua các đạo luật.
Để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế cũng như để duy trì được tốc độ
tăng trưởng, nhà nước phải tính tới tốc độ tăng trưởng nhanh của các ngành công nghiệp có
tính cạnh tranh. Các tập đoàn kinh tế của nhà nước sẽ không thể tăng trưởng nhanh nếu
không cạnh tranh được với các đối thủ trên thị trường nội địa và quan trọng hơn, trên thị
trường quốc tế. Nếu các tập đoàn này chỉ dựa vào vị thế độc quyền trên thị trường nội địa
nhờ sự hỗ trợ của nhà nước và không phải chịu áp lực cạnh tranh sẽ không nỗ lực hoặc
không chấp nhận rủi ro để tìm kiếm thị trường mới hay cải tiến sản phẩm và quá trình sản
xuất; dẫn đến việc lãng phí những nguồn lực khổng lồ và quý báu, trong khi đó lại tạo ra
những doanh nghiệp ỷ lại, thụ động và kém cạnh tranh, đặc biệt là trong khu vực nhà nước.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, thương mại quốc tế không chỉ tạo
ra sức ép cạnh tranh mà còn là thước đo năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa.

Để bảo đảm năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp, nhà nước phải tạo lập "sân chơi"
bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế, không thiên vị với bất cứ
một loại hình doanh nghiệp nào, tránh tình trạng bảo hộ cho các doanh nghiệp nhà nước.
5. Vai trò của nhà nước trong việc bảo đảm phúc lợi lợi xã hội
Trong nền kinh tế thị trường, có một số người thu nhập còn hạn chế, trong khi đó, số
khác lại có nguồn thu nhập cao. Do vậy, vai trò của nhà nước trong việc phân phối lại thu
nhập là rất quan trọng để thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo trong xã hội. Trên thực tế, chính
phủ của nhiều quốc gia thực hiện điều này thông qua chính sách thuế, đặc biệt là thuế thu
nhập nhằm tạo sự công bằng hơn trong phân phối.
Hiện nay đang tồn tại hai khuynh hướng đối lập nhau. Một là, ủng hộ vai trò của
nhà nước trong việc hạn chế tập trung tài sản và duy trì sự lan toả các năng lực kinh tế giữa
các chủ sở hữu (ý kiến này dành được nhiều sự ủng hộ của xã hội). Hai là, chương trình
phân phối lại của nhà nước thông qua thuế thu nhập sẽ làm cho một số người có thu nhập
cao giảm động cơ làm việc để tăng thu nhập, giảm tiết kiệm, giảm đầu tư và do đó sẽ gây
tổn hại tới tăng trưởng kinh tế.

5


6

Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
phúc lợi công cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y
tế, lương hưu, trợ cấp khó khăn… luôn là những vấn đề cần đến sự quan tâm của nhà nước,
để khích lệ được mọi thành phần lao động trong việc tạo ra của cải và tiết kiệm chi dùng
những của cải ấy.
Ở nước ta, dù đạt mức thu nhập trung bình thấp (theo tiêu chuẩn quốc tế) nhưng
một bộ phận lớn dân cư vẫn đang ở cận ngưỡng nghèo. Những người này có thể rơi xuống
dưới ngưỡng nghèo bất kỳ lúc nào khi mà giá lương thực, thực phẩm tăng cao hoặc khi gia
đình của họ có người ốm, khi tiền học phí, tiền thuê nhà… đột nhiên tăng cao. Vì vậy, nhà

nước cần nỗ lực để bảo đảm rằng những dân cư nghèo cũng được chia sẻ những thành quả
của sự phát triển, bằng cách quan tâm tới ba lĩnh vực trọng yếu: giáo dục, y tế và an sinh
xã hội. Thực tế, người dân vẫn đang phải gánh chịu một tỷ lệ chi phí y tế cao. Trong khi
đó, hệ thống y tế ở tuyến cơ sở nhìn chung còn nhiều yếu kém. Cung cấp lưới an sinh xã
hội cho người nghèo là điều kiện cần thiết để bảo đảm mọi người dân được chia sẻ thành
quả của phát triển, đồng thời cũng giúp cho sự phát triển trở nên hài hòa và bền vững. Sự
kết hợp giữa lưới an sinh xã hội tốt được tài trợ bằng thuế đánh vào các nguồn tài sản mới
và các chính sách giúp người dân bảo đảm được sự ổn định và công bằng trong xã hội. Sự
công bằng này trở thành điều kiện tiên quyết để có thể duy trì tăng trưởng.
6. Vai trò của nhà nước đối với chính sách tài chính và tiền tệ
Nhà nước trong nền kinh tế thị trường đóng vai trò rất lớn trong việc ổn định nền
kinh tế vĩ mô. Một trong những chính sách quan trọng trong việc bình ổn giá cả, giảm lạm
phát chính là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Các chính sách này đúng sẽ tạo ra
một thị trường tiền tệ ổn định, được chấp nhận rộng rãi, có khả năng loại bỏ hệ thống giao
dịch cồng kềnh, kém hiệu quả và hạn chế được lạm phát. Trong nền kinh tế thị trường, tiền
tệ là một loại hàng hóa đặc biệt. Do vậy, mỗi động thái của chính phủ đều tác động trực
tiếp đến hệ thống tài chính của thị trường. Chức năng cơ bản của hệ thống tài chính là làm
cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Trong đó, thị trường là công cụ để khuyến khích tiết kiệm,
sau đó dẫn truyền các khoản tiết kiệm này tới các hoạt động đầu tư mang lại suất sinh lời
cao. Thị trường tài chính (bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ), phụ thuộc rất
nhiều vào niềm tin của các tác nhân tham gia thị trường, vào sự minh bạch và đầy đủ về
thông tin và vào khả năng thực thi các quy định pháp luật về điều tiết và quản lý thị trường
của nhà nước. Hơn thế, đầu tư là một hoạt động rủi ro và phụ thuộc rất nhiều vào các điều
kiện thực tế. Chính vì những lý do này mà nhà nước đóng vai trò then chốt trong việc điều
tiết thị trường để giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
Nếu hoạt động quản lý, điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước thông qua các chính sách tài
chính và tiền tệ mà yếu kém, tất yếu sẽ dẫn tới lạm phát. Lạm phát không chỉ là một thách
thức về kinh tế, mà còn là một thách thức về chính trị bởi nó tác động trực tiếp tới đời sống
của người dân và các doanh nghiệp. Sự ổn định về kinh tế vĩ mô giúp cải thiện hình ảnh và
tính chính trực của nhà nước trong con mắt của doanh nghiệp và người dân. Nếu tình trạng

lạm phát vẫn tiếp diễn hoặc trở nên xấu đi thì chắc chắn sẽ gây bất lợi cho hoạt động điều
hành và uy tín của chính phủ. Vì vậy, trong hoạt động của mình, chính phủ cần phải tái lập
sự kiểm soát các chính sách kinh tế vĩ mô.
Nhà nước là công cụ có thể làm dịu đi phần lớn những tác động tiêu cực của hệ
thống thị trường. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa nhà nước có thể bao biện, đứng ra
làm thay tất cả các hoạt động thị trường, mà chỉ nên chú trọng tới những lĩnh vực thị
trường không thể làm được, hoặc mức độ làm được không thể hoàn hảo bằng sự can thiệp
của nhà nước. Làm được như vậy thì mới duy trì được sự tăng trưởng và phát triển ổn định,
bảo đảm được tính bền vững của thị trường./.
B. Giải pháp nhà nước đóng góp nhiều hơn:

6


7

- Thường xuyên chú trọng đến việc củng cố cơ cấu tổ chức của từng bộ máy từ
Trung ương đến cấp huyện để thống nhất nhất quán về quan điểm, thông suốt và nâng cao
về chuyên môn.
- Tăng cường công tác chỉ đạo điều hành. Điều này đòi hỏi quyết tâm chính trị cao
của các cấp uỷ Đảng. Trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính phải tổ
chức điều hành quyết liệt, bám sát thực tế, bám sát các Nghị định đã ban hành để triển khai
nhanh, thống nhất và triệt để.
- Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính phải gắn với đổi mới hệ thống
chính trị. Điều này thể hiện sự nhất quán, Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động của bộ
máy hành chính, bộ máy hành chính là công cụ quan trọng thực hiện đường lối, chính sách
của Đảng từ Trung ương đến địa phương.
- Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính không được dừng lại mà phải
thường xuyên kiện toàn, củng cố và hoàn thiện theo hướng nâng cao chất lượng, khắc phục
sự thụ động trong công việc, phải chủ động, sáng tạo, vận dụng linh hoạt đúng những quy

định của các Nghị định đã ban hành sao cho phù hợp với từng đặc điểm, hoàn cảnh. Xác
định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cơ quan hành chính nhà nước.
- Tăng cường tính công khai, minh bạch những việc mà tiến trình cải cách tổ chức
bộ máy hành chính đang tiến hành thực hiện để nhận được ủng hộ của đội ngũ cán bộ,
công chức và các tầng lớp nhân dân trên phạm vi cả nước và cả bạn bè quốc tế.
- Bố trí đủ nguồn tài chính và nhân lực để thực hiện tốt những phần việc còn lại của
quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy hành chính hiện nay phấn đấu đến năm 2009 là xong
nội dung này.
- Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng về những
kết quả đã đạt được của công cuộc cải cách hành chính. Phải coi cải cách hành chính không chỉ
là công việc riêng của hệ thống hành chính, mà là yêu cầu chung của toàn xã hội. Đặc biệt là
bước cải cách tổ chức bộ máy hành chính mới đang được hoàn thiện từ Trung ương đến địa
phương. Vì vậy, cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin để mọi cán bộ, công
chức, người dân nhận thức đúng đắn về cải cách bộ máy nhà nước và cải cách hành chính đang
được tiến hành hiện nay đang mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội đích thực. Theo đó, nêu bật
những nơi làm tốt, những vướng mắc chưa thể tháo gỡ được ngay đối với tính đặc thù của từng
bộ, ngành, địa phương, báo cáo lên cấp trên để có hướng giải quyết kịp thời. Tích cực nhân điển
hình tiên tiến, những nơi làm tốt, thực hiện nghiêm, phê phán kịp thời tình trạng làm không triệt
để. Cần có những biện pháp thiết thực để thực hiện quyền giám sát của cán bộ công chức và
nhân dân đối với hoạt động của bộ máy hành chính ngay chính tại các bộ ngành và địa phương.
Câu 4: Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến phát triển kinh tế- xã hội của của một
quốc gia.
Lãnh thổ


Vị trí địa lý: là yếu tố trọng yếu của địa chính trị gồm các khía cạnh chính là vị trí
địa lý tự nhiên, vị trí địa lý giao thông, vị trí địa lý quốc phòng. Vị trí địa lý, đặc biệt là
vị trí giao thông và vị trí quốc phòng có ý nghĩa xác định tầm quan trọng của một quốc
gia trong quan hệ với các nước khác và giữa các nước khác với nhau, đặc biệt là giữa
các cường quốc.


7


8





Diện tích lãnh thổ là yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế, quốc phòng, diện tích
càng lớn thì nhìn chung càng có điều kiện để phát triển kinh tế, thực hiện các giải pháp
đa dạng trong quốc phòng. Đương nhiên diện tích lãnh thổ phải tính đến các điều kiện
về khí hậu, tài nguyên thiên nhiên.
Địa hình, địa mạo cũng tạo thuận lợi hay gây khó khăn cho phát triển kinh tế hoặc
tổ chức quốc phòng (địa hình đồi núi hay bình nguyên, sa mạc, có biển hay không có
biển...).Nước nào kiểm soát được biển thì nước đó sẽ kiểm soát được tất cả

Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên có ảnh hưởng trọng yếu và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của một quốc gia, nó bao gồm đất đai, khoáng sản, rừng, biển, nguồn nước, nguồn
năng lượng tự nhiên. Tài nguyên thiên nhiên đã và đang là trung tâm của những cuộc tranh
giành, thậm chí xung đột giữa các quốc gia đặc biệt là dầu mỏ, khí đốt; khoáng sản kim
loại; nước và những nguyên tố hiếm phục vụ kỹ thuật, quốc phòng. Do tầm quan trọng của
tài nguyên thiên nhiên vốn đang bị cạn kiệt mà nhiều lãnh thổ trước đây vốn ít được quan
tâm như Bắc Cực, Nam Cực gần đây đã trở thành trung tâm chú ý của các quốc gia.
Dân số





Số lượng nhân khẩu: là nhân tố sản xuất cũng như cấu thành tầm quan trọng của
một quốc gia, các quốc gia đông dân đều gây được sự chú ý trong quan hệ quốc tế như
Trung Quốc, Ấn Độ. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng dân số phải đạt đến một mức nhất
định mới có thể đảm bảo cho sự phát triển an toàn, bền vững của quốc gia.
Chất lượng và cấu trúc dân số: chất lượng dân số là nhân tố đảm bảo cho số lượng
nhân khẩu phát huy tác dụng. Chất lượng dân số là tố chất công dân, trình độ giáo dục,
tình trạng sức khỏe, nền tảng đạo đức, phong tục tập quán, truyền thống văn hóa, quân
sự... và tinh thần dân tộc. Cấu trúc dân số là các khía cạnh về giới tính, độ tuổi, thành
phần dân tộc, tôn giáo. Cấu trúc dân số hợp lý, thuần nhất sẽ tạo thuận lợi cho quốc gia
phát huy sức mạnh tổng hợp.

Kinh tế
Thực lực kinh tế được coi là yếu tố cơ bản ảnh hướng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của
một quốc gia. Ảnh hưởng của kinh tế được xem xét trên hai yếu tố chính là quy mô kinh tế
(GDP) và cơ cấu kinh tế.




Kinh tế hậu thuẫn cho xây dựng nền quốc phòng: quyết định quy mô và trang bị kỹ
thuật, khí tài chiến tranh của quân đội. Chi tiêu cho quốc phòng của các quốc gia hầu
hết đều rất tốn kém cả về quy mô lẫn tỷ trọng so với GDP. Chiến tranh hiện đại có sức
phá hoại cũng như mức tiêu hao ngày càng lớn do vậy chỉ có thực lực kinh tế hùng
mạnh mới đảm bảo cho tiến hành chiến tranh đạt kết quả.
Bản thân thực lực kinh tế là nhân tố đảm bảo vị trí quốc tế của một quốc gia. Trong
lịch sử, đặc biệt là lịch sử cận đại và hiện đại, các cường quốc có vai trò chi phối chính

8



9

trị quốc tế đều là những nước có tiềm lực kinh tế hùng mạnh. Thực lực kinh tế cũng là
biểu hiện đồng thời cũng là một nhân tố của năng lực cạnh tranh quốc tế trong bối cảnh
toàn cầu hóa hiện nay.
Giao thông, thông tin liên lạc
Giao thông vận tải và thông tin liên lạc vừa là hạ tầng của nền kinh tế trong hòa bình vừa là
hạ tầng để tiến hành chiến tranh trong thời chiến. Nó đảm bảo cho con người, hàng hóa và
tin tức lưu thông thông suốt trong nền kinh tế, quân đội, khí tài chiến tranh, đảm bảo hậu
cần trong chiến tranh cũng như thu thập các thông tin một cách đầy đủ, kịp thời để ra quyết
định. Trong điều kiện hiện nay, vai trò của thông tin ngày càng trở nên quan trọng và nhiều
khi quyết định thành bại trong cả kinh tế lẫn tiến hành chiến tranh.
Chất lượng của chính phủ






Bản chất chính trị của chính phủ: chính phủ đại diện cho giai cấp, tầng lớp nào
trong xã hội, có đại diện cho đông đảo người dân của quốc gia hay không. Bản chất
chính trị của chính phủ cũng được xem xét trên hai mặt đối nội và đối ngoại, một chính
phủ có hợp lòng dân, hợp với các giá trị, xu thế của thế giới hay không ảnh hưởng đến
vị thế quốc gia và thành bại trong chiến tranh vì chiến tranh là một sự tiếp nối của
chính trị.
Trình độ luật hóa, dân chủ hóa của chính phủ: yếu tố này thể hiện ở mức độ hoàn
thiện của hệ thống luật pháp trên các mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp, mức độ công
khai, dân chủ và quyền lợi chính trị của người dân trong các cuộc bầu cử.
Cơ cấu và hiệu quả điều hành của chính phủ: thể hiện ở việc sắp xếp tổ chức bộ

máy chính phủ, cơ chế vận hành, hoạt động của chỉnh phủ. Bộ máy chính phủ quan
liêu, cồng kềnh hay gọn nhẹ, nhạy bén, có hiệu quả quyết định hiệu lực quản lý của
chính phủ.

Sức mạnh quân sự
Sức mạnh quân sự luôn là yếu tố cơ bản được tính đến trong chính sách quan hệ quốc tế và
chính trị quốc tế. Sức mạnh quân sự là yếu tố then chốt trong chiến tranh và là yếu tố có
tính chất răn đe khi không có chiến tranh. Sức mạnh quân sự thể hiện ở các mặt: số lượng
và chất lượng quân đội; năng lực chi huy; trình độ lý luận quân sự và trang thiết bị, khí tài
quân sự đặc biệt là những vũ khí có sức hủy diệt lớn.
Quan hệ đối ngoại
Quan hệ đối ngoại bao gồm nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, ngoại giao, quốc phòng, văn
hóa...Những nguyên tắc và kết quả của chính sách đối ngoại ảnh hưởng đến tương quan, vị
thế của quốc gia đặc biệt là ngoại giao quốc phòng, nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự
phát triển kt-xh của 1 quốc gia.
Khoa học công nghệ

9


10

Khoa học công nghệ thể hiện ở các khám phá, phát minh, sáng chế; trình độ ứng dụng. Nó
là nhân tố có tác dụng thúc đẩy kinh tế phát triển nhờ tăng năng suất lao động đồng thời
ảnh hưởng đến việc chế tạo, sử dụng các vũ khí, khí tài chiến tranh công nghệ cao, hiệu
suất lớn.
5/ Anh (chị) hãy đánh giá những thành tựu và hạn chế chủ yếu của mô hình phát
triển ở Việt Nam những năm qua. Theo anh (chị) Việt Nam cần thực hiện những giải
pháp chủ yếu nào trong thời gian tới?
Thành tựu: 1.


Về phát triển kinh tế

Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Giai đoạn 1986 - 1990: Đây là giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới. Chủ trương phát triển
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nền kinh tế dần dần khắc phục được những yếu kém và có những bước phát triển.
Kết thúc kế hoạch 5 năm (1986 - 1990), công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu
bước đầu rất quan trọng: GDP tăng 4,4%/năm; tổng giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình
quân 3,8 - 4%/năm; công nghiệp tăng bình quân 7,4%/năm, trong đó sản xuất hàng tiêu
dùng tăng 13 -14%/năm; giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 28%/năm (1). Việc thực hiện tốt
ba chương trình mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng
xuất khẩu đã phục hồi được sản xuất, tăng trưởng kinh tế, kiềm chế lạm phát,… Đây được
đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của công nghiệp hóa XHCN trong
chặng đường đầu tiên. Điều quan trọng nhất, đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế
quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống kinh tế
- xã hội và bước đầu giải phóng được lực lượng sản xuất, tạo ra động lực phát triển mới.
Giai đoạn 1991 - 1995: Đất nước dần dần ra khỏi tình trạng trì trệ, suy thoái. Nền kinh tế
tiếp tục đạt được những thành tựu quan trọng: đã khắc phục được tình trạng trì trệ, suy
thoái, tốc độ tăng trưởng đạt tương đối cao, liên tục và toàn diện, hầu hết các chỉ tiêu chủ
yếu đều vượt mức: GDP bình quân tăng 8,2%/năm; giá trị sản xuất công nghiệp tăng
13,3%/năm; nông nghiệp tăng 4,5%/năm; lĩnh vực dịch vụ tăng 12%/năm; tổng sản lượng
lương thực 5 năm (1991 - 1995) đạt 125,4 triệu tấn, tăng 27% so với giai đoạn 1986 - 1990
(2). Hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều đạt nhịp độ tăng trưởng tương đối khá. “Nước ta đã ra
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một
số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang một thời kỳ phát
triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (3).
Giai đoạn 1996 - 2000: Đây là giai đoạn đánh dấu bước phát triển quan trọng của kinh tế
thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Mặc dù cùng chịu tác động
của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực (giai đoạn 1997 - 1999) và thiên tai nghiêm

trọng xảy ra liên tiếp, đặt nền kinh tế nước ta trước những thử thách khốc liệt, tuy nhiên,
Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. GDP bình quân của cả giai đoạn 1996 2000 đạt 7%; trong đó, nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,1%; công nghiệp và xây dựng tăng
10,5%; các ngành dịch vụ tăng 5,2% (4). “Nếu tính cả giai đoạn 1991 - 2000 thì nhịp độ
tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%. So với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần”
(5).

10


11

Giai đoạn 2001 - 2005: Sự nghiệp đổi mới ở giai đoạn này đi vào chiều sâu, việc triển khai
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 và Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 mà Đại
hội IX của Đảng thông qua đã đạt được những kết quả nhất định. Nền kinh tế đạt tốc độ
tăng trưởng khá cao, theo hướng tích cực, năm sau cao hơn năm trước. GDP tăng bình
quân 7,5%/năm, riêng năm 2005 đạt 8,4%; trong đó, nông nghiệp tăng 3,8%; công nghiệp
và xây dựng tăng 10,2%; các ngành dịch vụ tăng 7%. Riêng quy mô tổng sản phẩm trong
nước của nền kinh tế năm 2005 đạt 837,8 nghìn tỷ đồng, tăng gấp đôi so với năm 1995.
GDP bình quân đầu người khoảng 10 triệu đồng (tương đương 640 USD), vượt mức bình
quân của các nước đang phát triển có thu nhập thấp (500 USD) (6). Từ một nước thiếu ăn,
mỗi năm phải nhập khẩu từ 50 vạn đến 1 triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước
xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, Việt Nam đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu
hạt tiêu; đứng thứ hai về các mặt hàng gạo, cà phê, hạt điều; thứ 4 về cao su;…
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì, bảo đảm sự ổn định
chính trị, xã hội, quốc phòng và an ninh, bước đầu phát huy được nhiều lợi thế của đất
nước, của từng vùng và từng ngành; cải cách thể chế kinh tế, từng bước hoàn thiện các cơ
chế chính sách quản lý và hệ thống điều hành; cải cách và nâng cao hiệu quả hoạt động của
hệ thống tài chính, tiền tệ; phát triển nguồn và chất lượng lao động, khoa học và công
nghệ;…
Giai đoạn 2006 - 2010: Nền kinh tế vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá, tiềm lực và quy mô

nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, từ nhóm nước thu thập
thấp đã trở thành nước có thu nhập trung bình (thấp). GDP bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc
dù bị tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu (từ cuối năm 2008),
nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn đạt cao. Tổng vốn FDI thực hiện
đạt gần 45 tỷ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng
thêm ước đạt 150 tỷ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn
2001 - 2005. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỷ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu
đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỷ USD, vượt 16%. GDP năm 2010 tính theo giá thực
tế đạt 101,6 tỷ USD, gấp 3,26 lần so với năm 2000.
Trong năm 2011, mặc dù sự phục hồi kinh tế sau khủng hoảng tài chính toàn cầu còn rất
chậm, song mức tăng trưởng kinh tế bình quân vẫn đạt 7%/năm, tuy thấp hơn kế hoạch
(7,5% - 8%), nhưng vẫn được đánh giá cao hơn bình quân các nước trong khu vực.
Như vậy, trong vòng 20 năm (1991 - 2011), tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt
7,34%/năm, thuộc loại cao ở khu vực Đông Nam Á nói riêng, ở châu Á và trên thế giới nói
chung; quy mô kinh tế năm 2011 gấp trên 4,4 lần năm 1990, gấp trên 2,1 lần năm 2000
(thời kỳ 2001 - 2011 bình quân đạt 7,14%/năm).
Năm 2012, GDP tăng 5,03% so với năm 2011. Mức tăng trưởng tuy thấp hơn mức tăng
5,89% của năm 2011, nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn thì đây là mức
tăng trưởng hợp lý. Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 3,4% so với
năm 2011; công nghiệp tăng 4,8% so với năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng năm 2012 tăng
6,81%. Đầu tư phát triển tăng 7% so với năm trước và bằng 33,5% GDP. Xuất, nhập khẩu
hàng hóa tăng 18,3% (10). Kim ngạch xuất khẩu có thể vượt qua mốc 100 tỷ USD, tỷ lệ
kim ngạch xuất, nhập khẩu so với GDP năm 2011 đã đạt xấp xỉ 170%, đứng thứ 5 thế giới.
Vốn FDI tính từ 1988 đến tháng 7-2012 đăng ký đạt trên 236 tỷ USD, thực hiện đạt trên
96,6 tỷ USD. Vốn ODA từ 1993 đến nay cam kết đạt gần 80 tỷ USD, giải ngân đạt trên 35
tỷ USD.

11



12

Nhìn chung, các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá, trong đó sự
phát triển ổn định trong ngành nông nghiệp, nhất là sản xuất lương thực đã bảo đảm an
ninh lương thực quốc gia; sản phẩm công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng và phong
phú về chủng loại, chất lượng được cải thiện, từng bước nâng cao khả năng cạnh tranh, bảo
đảm cung cầu của nền kinh tế, giữ vững thị trường trong nước và mở rộng thị trường xuất
khẩu; chú trọng đầu tư phát triển một số ngành công nghiệp mới, công nghệ cao; khu vực
dịch vụ có tốc độ tăng trưởng ổn định. Sự phục hồi và đạt mức tăng trưởng khá này đã tạo
cơ sở vững chắc để quá trình thực hiện kế hoạch 5 năm (2011 - 2015) trong những năm sau
đạt kết quả vững chắc hơn.
Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn
sản xuất với thị trường
Về cơ cấu kinh tế tiếp tục được chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ
trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1986 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%, năm
2010 còn 20,6%; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ
trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục với thiết bị, công nghệ ngày càng
hiện đại: năm 1988 là 21,6%, năm 2005 lên 41%. Tỷ trọng khu vực dịch vụ đã tăng từ
33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005.
Nông nghiệp có sự biến đổi quan trọng, đã chuyển từ độc canh lúa, năng suất thấp và thiếu
hụt lớn, sang không những đủ dùng trong nước, còn xuất khẩu gạo với khối lượng lớn,
đứng thứ hai thế giới, góp phần vào an ninh lương thực quốc tế; xuất khẩu cà phê, cao su,
hạt điều, hạt tiêu, thủy sản với khối lượng lớn đứng thứ hạng cao trên thế giới.
Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản
xuất và đời sống: ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh; các
ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý;... có bước phát triển theo hướng tiến
bộ, hiệu quả.
Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy
ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế

Kinh tế nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn
vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế. Cơ chế quản lý
doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo hướng xóa bao cấp, thực
hiện mô hình công ty, phát huy quyền tự chủ và trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh
doanh. Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm
năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 38% GDP của cả nước. Kinh
tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, trở thành một bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về
chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách nhà nước và tạo việc
làm cho nhiều người dân.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành,
kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định

12


13

Trải qua hơn 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt
động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý
của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Với chủ trương tích cực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày
càng được mở rộng. Việt Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
thực hiện các cam kết về Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định Thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ, gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),... Đến nay, Việt
Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh thổ, ký hơn 90 hiệp định
thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước phát triển mới rất quan trọng về
kinh tế đối ngoại.

Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn
thiện; chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành luật pháp,
cơ chế, chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải
thiện; các yếu tố thị trường và các loại thị trường tiếp tục hình thành, phát triển; nền kinh tế
nhiều thành phần có bước phát triển mạnh.
Việc kiện toàn các tổng công ty, thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt một
số kết quả. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần, số vốn tăng 7,3 lần so
với giai đoạn 2001 - 2005. Doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh
doanh phổ biến.
2.

Về phát triển các mặt xã hội

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được cải
thiện rõ rệt
Thành công nổi bật, đầy ấn tượng qua hơn 25 năm thực hiện đổi mới, đầu tiên phải kể đến
việc chúng ta đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; các cơ hội phát triển được mở rộng cho
mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, khuyến khích, phát huy được tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của nhân dân. GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối
đoái của Việt Nam năm 1988 chỉ đạt 86 USD/người/năm - là một trong những nước thấp
nhất thế giới, nhưng đã tăng gần như liên tục ở những năm sau đó, giai đoạn 2005 - 2010
đạt 1.168 USD/người/năm (12), nước ta đã ra khỏi nhóm nước thu thập thấp để trở thành
nước có thu nhập trung bình (thấp).
Trong lĩnh vực lao động và việc làm: Từ năm 1991 đến năm 2000, trung bình mỗi năm cả
nước đã giải quyết cho khoảng 1 - 1,2 triệu người lao động có công ăn việc làm; những
năm 2001 - 2005, mức giải quyết việc làm trung bình hằng năm đạt khoảng 1,4 - 1,5 triệu
người; những năm 2006 - 2010, con số đó lại tăng lên đến 1,6 triệu người. Công tác dạy
nghề từng bước phát triển, góp phần đưa tỷ lệ lao động qua đào tạo từ dưới 10% năm 1990
lên khoảng 40% năm 2010 (13).

Công tác xóa đói giảm nghèo đạt được kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ
đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống khoảng 9,5% năm 2010. Còn theo chuẩn do
Ngân hàng thế giới (WB) phối hợp với Tổng cục Thống kê tính toán, thì tỷ lệ nghèo chung
(bao gồm cả nghèo lương thực, thực phẩm và nghèo phi lương thực, thực phẩm) đã giảm từ
58% năm 1993 xuống 29% năm 2002 và còn khoảng 17% năm 2008. Như vậy, Việt Nam

13


14

đã “hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm
2015”, mà Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc đã đề ra (14). Tại cuộc Hội
thảo quốc tế với tiêu đề Xóa đói, giảm nghèo: Kinh nghiệm Việt Nam và một số nước châu
Á do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức tại Hà Nội vào giữa tháng 6-2004, Việt Nam được
đánh giá là nước có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất khu vực Đông Nam Á (15).
Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp
từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về
xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; dự tính đến cuối năm 2010, hầu hết các tỉnh,
thành sẽ đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15 tuổi trở lên)
biết chữ đã tăng từ 84% cuối những năm 1980 lên 90,3% năm 2007. Từ năm 2006 đến nay,
trung bình hằng năm quy mô đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng 10%; cao đẳng và đại
học tăng 7,4%. Năm 2009, trên 1,3 triệu sinh viên nghèo được Ngân hàng chính sách xã
hội cho vay với lãi suất ưu đãi để theo học.
Hoạt động khoa học và công nghệ có bước tiến đáng ghi nhận. Đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật) đã góp phần
cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới
của Đảng và Nhà nước; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ
nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây
trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, xây dựng cầu, đóng tàu

biển có trọng tải lớn, sản xuất vắc-xin phòng dịch,... và bước đầu có một số sáng tạo về
công nghệ tin học.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ. Bảo hiểm y tế được mở rộng đến khoảng
gần 60% dân số. Các chỉ số sức khỏe cộng đồng được nâng lên. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em
dưới 5 tuổi đã giảm từ 81% năm 1990 xuống còn khoảng 28% năm 2010; tỷ lệ trẻ em dưới
5 tuổi suy dinh dưỡng đã giảm tương ứng từ 50% xuống còn khoảng 20%. Công tác tiêm
chủng mở rộng được thực hiện, nhiều dịch bệnh hiểm nghèo trước đây đã được thanh toán
hoặc khống chế. Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 72 tuổi
hiện nay.
Chỉ số phát triển con người (HDI) tăng đều đặn và liên tục suốt mấy thập kỷ qua: từ 0,561
năm 1985 lần lượt tăng lên 0,599 năm 1990; 0,647 năm 1995; 0,690 năm 2000; 0,715 năm
2005 và 0,725 năm 2007 (16). Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì
xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2007 vượt lên 13 bậc: GDP bình quân đầu người xếp thứ
129 trên tổng số 182 nước được thống kê, còn HDI thì xếp thứ 116/182. Điều đó chứng tỏ
sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta có xu hướng phục vụ sự phát triển con người,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn một số nước đang phát triển có GDP bình
quân đầu người cao hơn Việt Nam. Như vậy, tổng quát nhất là chỉ số phát triển con người
(HDI) của nước ta đã đạt được ba sự vượt trội: chỉ số đã tăng lên qua các năm; thứ bậc về
HDI tăng lên qua các năm; chỉ số và thứ bậc về tuổi thọ và học vấn cao hơn chỉ số về kinh
tế.
b. Hạn chế:
Một là, tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác nguồn tài nguyên và các yếu tố tác
động đầu vào (vốn, lao động) của nền kinh tế, còn tác động của các nhân tố tổng hợp
(TFP), chủ yếu là nhân tố khoa học, công nghệ... thì rất thấp. Mặt khác, chất lượng các
nhân tố tác động vào mô hình tăng trưởng trong thời kỳ 5 năm 2006 – 2010 vẫn chưa có

14


15


những đột biến tích cực, biểu hiện rõ nét nhất là nguồn vốn sử dụng kém hiệu quả, lãng
phí, thất thoát nhiều, chất lượng nhân lực còn hạn chế, chưa tạo được động lực cho sự phát
triển kinh tế và năng suất lao động.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm hơn dự kiến. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp và
thủy sản trong GDP 5 năm qua chỉ giảm được 0,67 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục
tiêu đặt ra là phải giảm khoảng 5 – 6 điểm phần trăm). Tương tự, tỷ trọng công nghiệp và
xây dựng trong GDP chỉ tăng khoảng 0,08 điểm phần trăm so với năm 2005 (mục tiêu đặt
ra là khoảng 2 – 3 điểm phần trăm); tỷ trọng các ngành dịch vụ trong GDP 5 năm qua cũng
chỉ tăng khoảng 0,59 điểm phần trăm. Mặt khác, trình độ công nghệ ở nhiều doanh nghiệp,
nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thấp, chi phí năng lượng, nguyên nhiên liệu cho một
đơn vị sản phẩm trong quy trình sản xuất khá lớn, nhưng sản phẩm làm ra lại đơn điệu,
chất lượng thấp, giá thành cao... Trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế cũng còn khoảng
cách quá xa. Các vùng kinh tế trọng điểm chưa tạo được sức lan tỏa thúc đẩy những vùng
khác cùng phát triển. Các thành phần kinh tế chưa được khuyến khích phát triển trên cùng
một mặt bằng về cơ chế chính sách...
Ba là, nguồn nhân lực kỹ năng lao động, có tay nghề cao thiếu trầm trọng, đang là
vật cản kìm hãm chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.
Chỉ số xếp hạng cạnh tranh của Việt Nam theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã giảm
trong giai đoạn 2006 – 2009, từ thứ 64 xuống 75 năm 2009. Năm 2010, tuy đã tăng 16 bậc
trong bảng xếp hạng (lên vị trí số 59), nhưng 4 yếu tố cơ bản được coi là ảnh hưởng tới chỉ
số cạnh tranh của Việt Nam (gồm lạm phát, kết cấu hạ tầng, lao động có trình độ và tham
nhũng) vẫn chưa được cải thiện nhiều. Bên cạnh đó, các ngành dịch vụ hỗ trợ sản xuất,
kinh doanh chậm phát triển và chưa theo kịp yêu cầu của nền kinh tế, dẫn đến hậu quả tăng
chi phí trung gian và các yếu tố đầu vào, năng lực cạnh tranh thấp.
Bốn là, tài chính quốc gia còn hạn hẹp; thu ngân sách nhà nước chủ yếu mới đáp
ứng nhu cầu chi thường xuyên và trả nợ, phần lớn vốn đầu tư phát triển phải dựa vào các
khoản vay trong nước và ngoài nước thông qua hình thức phát hành trái phiếu, và huy
động vốn để xây dựng một số công trình giao thông, thuỷ lợi, giáo dục. Gánh nặng kinh
phí để chi trả khi các trái phiếu chính phủ đến hạn thanh toán sẽ dễ tạo khả năng bấp bênh

trong cân đối ngân sách, trong khi những cân đối này và các cân đối tiền tệ, tín dụng, xuất
nhập khẩu, cán cân thanh toán quốc tế chưa thật ổn định và còn nhiều yếu tố có thể gây ra
tái lạm phát.
Năm là, kết cấu hạ tầng kinh tế kém phát triển, thiếu đồng bộ gây nhiều hạn chế
cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước và khả năng hợp tác kinh tế với nước
ngoài .Cụ thể, chất lượng đường bộ còn rất thấp và lạc hậu. Các cảng biển chưa có khả
năng tiếp nhận tàu có tải trọng lớn. Nhiều cảng hàng không thể tiếp nhận máy bay vào ban
đêm hoặc khi thời tiết xấu. Nguồn và lưới điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sản xuất và
đời sống nhân dân. Sản lượng điện thương phẩm bình quân đầu người đến năm 2010 chỉ
ước đạt 980KWh, thấp hơn so với nhiều nước trên thế giới. Nhiều công trình thủy lợi quá
cũ, hạ tầng thuỷ lợi chưa đáp ứng yêu cầu khai thác sử dụng tổng hợp đa mục tiêu. Việc
đầu tư xây dựng mạng lưới hạ tầng thông tin, truyền thông tới khu vực nông thôn, đặc biệt
là vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn chậm. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là giao thông, cấp
thoát nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn vừa thiếu, vừa kém chất lượng đang
gây ách tắc cho sự phát triển.
c. Giải pháp:

15


16

1. Tập trung khắc phục nhanh, hiệu quả những hạn chế, yếu kém do các
nguyên nhân chủ quan trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cấp, các
ngành đã được đề cập trong Báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao và Báo cáo thẩm tra của các cơ quan Quốc hội.
2. Cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh, thực hiện đồng bộ trong tất cả các
ngành, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước và từng địa phương, đơn vị cơ sở, sản phẩm chủ
yếu, với tầm nhìn dài hạn và có lộ trình cụ thể. Cần tập trung thực hiện cơ cấu lại nền kinh

tế trong 3 lĩnh vực quan trọng là cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công; cơ cấu lại thị
trường tài chính, trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại, các tổ chức tài
chính; cơ cấu lại doanh nghiệp, trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước,
ngay từ năm 2012 chuẩn bị các điều kiện để từ năm 2013 đến năm 2015 tạo được chuyển
biến mạnh mẽ, cơ bản, có hiệu quả rõ rệt.
Cơ cấu lại đầu tư công theo hướng sửa đổi quy chế phân cấp quản lý, trước hết là đầu tư từ
nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, phải bảo đảm nguyên tắc chỉ quyết
định đầu tư đối với dự án đã đủ thủ tục theo quy định và khi đã xác định rõ nguồn, mức
vốn và khả năng cân đối nguồn vốn. Khẩn trương xác định các tiêu chí và thứ tự ưu tiên
làm căn cứ để phê duyệt hoặc cắt giảm dự án đầu tư. Việc quyết định phê duyệt dự án có
nguồn vốn hỗ trợ từ Ngân sách Trung ương thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia,
các Chương trình mục tiêu, các khoản hỗ trợ có mục tiêu phải được kiểm soát chặt chẽ, có
sự thẩm định về nguồn vốn và cân đối vốn của cấp có thẩm quyền ở Trung ương. Bảo đảm
các yêu cầu về tiến độ, trình độ công nghệ, chất lượng và an toàn các dự án, công trình
quan trọng quốc gia.
Cơ cấu lại thị trường tài chính với trọng tâm là cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại,
các tổ chức tài chính, đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị
trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường vàng
và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô la hóa; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh
nghiệp nhà nước, vay trả nợ nước ngoài, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư
vào lĩnh vực bất động sản, thị trường chứng khoán và các nguồn vốn nóng khác.
Cơ cấu lại các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước, nâng cao năng lực quản trị doanh
nghiệp, tính công khai, minh bạch, đồng thời có chính sách tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế phát huy nội lực, tái cấu trúc, giảm giá thành sản
phẩm, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh, sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tập trung phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực quan trọng có ý
nghĩa then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh tế, kỹ
thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công, ổn định kinh tế vĩ mô.
Nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra
nước ngoài. Phân định rõ nhiệm vụ bảo đảm an sinh xã hội với hoạt động kinh doanh của

các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.
Cơ cấu lại các ngành, lĩnh vực, rà soát, điều chỉnh hợp lý các khu kinh tế, khu công nghiệp
gắn với chuyển dịch cơ cấu và liên kết kinh tế vùng. Phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ
và các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng. Tăng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh
tế nông thôn; tạo chuyển biến mạnh mẽ trong xây dựng nông thôn mới. Chú trọng củng cố
hệ thống đê biển, đê sông, các trạm bơm, công trình ngăn mặn và xả lũ, công trình phòng
tránh thiên tai, khu neo đậu tránh bão cho tàu thuyền để giảm nhẹ thiệt hại. Tiếp tục hoàn
thiện cơ chế, chính sách, đổi mới hoạt động kinh tế tập thể, kinh tế trang trại, làng nghề
theo hướng phát triển bền vững. Phát triển mạnh kinh tế rừng để vừa bảo vệ, vừa phát triển
được rừng gắn với đổi mới quản lý các nông, lâm trường. Bảo đảm diện tích trồng lúa
3,812 triệu ha, đồng thời có cơ chế, chính sách đặc thù hỗ trợ cho các địa phương và nông
16


17

dân trồng lúa bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, nhất là trước tác động biến đổi khí hậu
và nước biển dâng đối với các tỉnh vùng đồng bằng, đặc biệt là đồng bằng Sông Cửu Long.
Thực hiện các định hướng, chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo
vệ môi trường sinh thái và bảo đảm an ninh năng lượng, đồng thời kiểm soát có hiệu quả
nhu cầu sử dụng năng lượng. Khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý.
3. Tiếp tục kiên trì kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định giá trị
sức mua đồng tiền. Thực hiện chính sách tiền tệ với mục tiêu hàng đầu là ổn định giá trị
đồng tiền, kiểm soát để bảo đảm tương thích giữa tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng
dư nợ tín dụng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và kiềm chế tăng chỉ số giá tiêu dùng. Giảm
dần tỷ lệ huy động vốn đầu tư từ tín dụng ngân hàng, đẩy mạnh kênh huy động vốn qua thị
trường chứng khoán và các định chế tài chính khác.
Đối với chính sách tài khóa, thực hiện cơ cấu lại thu, chi ngân sách một cách có hiệu quả,
đổi mới và nâng cao chất lượng công tác lập dự toán ngân sách nhà nước. Rà soát, điều
chỉnh phân cấp quản lý đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ.

Nghiên cứu các phương án để điều chỉnh giảm dần mức thuế thu nhập doanh nghiệp; đổi
mới chính sách thu từ đất đai, thu kinh doanh bất động sản, tăng mức thu thuế tài nguyên.
Đối với chính sách xuất, nhập khẩu, kiềm chế nhập siêu: Trong các năm 2012-2013 tiếp
tục khuyến khích xuất khẩu, có biện pháp phù hợp với các quy định của Tổ chức thương
mại thế giới (WTO) để kiểm soát nhập khẩu, giảm mạnh nhập siêu. Tiếp tục đầu tư vào các
sản phẩm nông nghiệp và các sản phẩm có lợi thế quốc gia, sản phẩm thay thế hàng nhập
khẩu và phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp điện
tử. Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với giá điện, than và giá dịch vụ công chậm nhất
vào năm 2013. Quy định việc chi tiêu mua sắm, đầu tư công phải sử dụng những hàng hóa,
thiết bị, máy móc đã sản xuất được trong nước và thực hiện có hiệu quả cuộc vận
động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”.
4. Tập trung thực hiện 3 đột phá, 12 định hướng chiến lược phát triển kinh tếxã hội giai đoạn 2011-2020. Cơ bản xây dựng xong hệ thống pháp luật gắn với cải cách,
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, sửa đổi,
bổ sung hoặc ban hành mới các luật theo Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XIII.
Tiếp tục kiện toàn bộ máy của Chính phủ và chính quyền các cấp, sớm thực hiện thí điểm
mô hình chính quyền đô thị. Rà soát sửa đổi lại các quy định về phân cấp giữa trung ương
và địa phương; đơn giản hóa thủ tục hành chính, nhất là trong việc cấp giấy phép hoạt
động, đăng ký kinh doanh, nộp thuế. Chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động, sử dụng có hiệu
quả nhất thời kỳ cơ cấu dân số vàng, đẩy mạnh đào tạo mới và đào tạo lại nguồn nhân lực
để nâng cao năng suất lao động trong toàn bộ nền kinh tế. Phát động và duy trì phong trào
tiết kiệm toàn xã hội cả trong sản xuất và tiêu dùng, tạo ý thức xã hội chung và tính gương
mẫu trong toàn thể cán bộ, công chức. Siết chặt trật tự kỷ cương, đẩy mạnh đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát, nhất là trong đầu tư xây dựng cơ bản có sử
dụng vốn nhà nước. Tiếp tục đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội, chế độ tiền lương đối với
cán bộ, công chức, viên chức, người lao động, hưu trí và người có công.
Rà soát, đánh giá các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, nhất là ở các vùng kinh tế
trọng điểm, ưu tiên bố trí vốn đầu tư dứt điểm để sớm đưa vào sử dụng phát huy hiệu quả.
Phát triển nhanh hệ thống giao thông đô thị, nhất là giao thông công cộng. Từng bước phát

triển đồng bộ và hiện đại hóa hệ thống hạ tầng các đô thị lớn gắn với bố trí, cơ cấu lại sản
xuất và phân bố dân cư; nâng cao năng lực các dịch vụ tổng hợp của ba cảng biển lớn ở ba
khu vực.

17


18

5. Áp dụng đồng bộ các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế gắn với thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội; chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe nhân
dân, tạo việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo, giảm chênh lệch giàu nghèo; tập
trung giải quyết những bức xúc trong nhân dân, nhất là trong việc giải tỏa đền bù thu hồi
đất; những tiêu cực trong y tế, giáo dục, đào tạo. Huy động các nguồn lực xã hội cho công
tác giảm nghèo; có giải pháp nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nhất là
ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch ổn định dân cư vùng dân tộc và miền núi, vùng biên giới
và hải đảo, cân đối quỹ đất ở, đất sản xuất cho đồng bào tại các địa phương thường xuyên
bị ảnh hưởng thiên tai.
Rà soát tổng thể các chính sách an sinh xã hội, trọng tâm là củng cố và hoàn thiện mạng
lưới an sinh xã hội với 3 nội dung: an sinh về việc làm, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế và chính sách bảo trợ xã hội. Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội đa dạng, mở
rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế.
Cải thiện điều kiện làm việc, giảm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và giảm tranh chấp
lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định và tiến bộ. Tăng chi y tế và tập trung
hỗ trợ để mua bảo hiểm y tế, nâng mức hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế cho hộ nghèo, cận nghèo
và nhóm nông, lâm, ngư, diêm nghiệp. Coi trọng công tác y tế dự phòng để giảm thiểu
nguy cơ mắc bệnh truyền nhiễm, suy dinh dưỡng cũng như các bệnh mãn tính của cộng
đồng. Củng cố, phát triển mạng lưới y tế cơ sở, y tế dự phòng. Chấn chỉnh và nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế. Đổi mới chính sách viện phí đồng bộ với đổi mới về cơ chế đối với

các dịch vụ công cho y tế.
6. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, quan tâm đến nhân lực lãnh đạo, quản lý, quản trị doanh nghiệp, khoa học và công
nghệ, văn hóa nghệ thuật; nâng cao chất lượng giáo dục, nhất là bậc đại học; tập trung
chuyển từ đào tạo chiều rộng sang chiều sâu, coi trọng đào tạo nghề, thực hiện đào tạo một
triệu lao động nông thôn hàng năm; điều chỉnh chính sách về giáo dục mầm non, giáo dục
ở miền núi; làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục để bảo đảm nhu cầu học tập của các đối
tượng, nhất là giáo dục mầm non.
Củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng, tăng cường hiệu
quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa ở các cấp, đồng thời cải tạo, nâng cấp và đầu
tư xây dựng mới một số công trình văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao hiện đại.
Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, huy động các nguồn lực, đẩy mạnh đầu tư phát triển
mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động khoa học công nghệ, đổi mới căn bản cơ chế quản lý khoa
học – công nghệ, phát triển kinh tế tri thức. Quan tâm phát triển mạnh mẽ công tác nghiên
cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ, gắn khoa học – công nghệ với sản xuất trong tất
cả các ngành và lĩnh vực, phát triển mạnh thị trường khoa học – công nghệ.
7. Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực, hiệu quả các chính sách, pháp luật về tài
nguyên và bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm phát triển bền vững. Thực hiện nghiêm túc
quy trình xây dựng, thẩm định, phê duyệt, kiểm tra, giám sát việc đánh giá tác động môi
trường đối với chiến lược, các quy hoạch, chính sách, chương trình, dự án phát triển kinh
tế-xã hội. Kiên quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là tại các khu kinh
tế, khu công nghiệp, làng nghề. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường.
8. Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao tập trung
xây dựng, thực hiện các đề án cải cách tư pháp bảo đảm chất lượng, tiến độ; làm tốt công
tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán,
Hội thẩm, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Chấp hành viên, cán bộ thi hành án. Từ nay đến
2013 phải khắc phục cơ bản tình trạng thiếu cán bộ đảm nhiệm các chức danh tư pháp. Cán

18



19

bộ tư pháp phải công minh, chính trực, phải thực sự gương mẫu. Mọi vi phạm của cán bộ
tư pháp phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh. Nhà nước quan tâm và có chế
độ chính sách đặc thù đối với cán bộ và các chức danh tư pháp.
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện, kinh phí hoạt động cho các
cơ quan Công an, Kiểm sát, Tòa án, Thi hành án.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư
pháp, pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng, bổ trợ tư pháp, phòng, chống tham nhũng, xử
lý vi phạm hành chính, phòng, chống khủng bố, dẫn độ tội phạm.
Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, hoàn thiện các quy định pháp luật để thực hiện tốt hơn
các yêu cầu tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hình sự và phòng, chống tội phạm.
Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chương trình quốc gia phòng, chống tội phạm, xử lý
nghiêm các hành vi chống người thi hành công vụ. Kiên quyết phòng, chống và xử lý
nghiêm, hiệu quả nạn tham nhũng, đẩy nhanh tiến độ giải quyết các vụ án tham nhũng
trọng điểm. Kết hợp tuyên truyền, vận động, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật với việc
xử lý nghiêm vi phạm, tạo chuyển biến tích cực và đến năm 2015 ngăn chặn, đẩy lùi tội
phạm, tệ nạn xã hội.
9. Củng cố quốc phòng, an ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, đặc biệt là trên các vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh cả về tiềm lực và thế trận, bảo đảm
từng bước trang bị hiện đại cơ sở vật chất - kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang. Xây dựng
khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố vững mạnh. Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an
nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có số lượng hợp lý, với
chất lượng tổng hợp và sức chiến đấu cao, xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu,
dân quân tự vệ rộng khắp. Chủ động phát hiện, ngăn chặn mọi âm mưu, hoạt động chống
phá, gây bạo loạn của các thế lực thù địch, sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh
phi truyền thống, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an
toàn xã hội. Tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng khu vực biên giới gắn với bố trí dân

cư theo quy hoạch; tạo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội gắn với củng cố quốc phòng, an
ninh trên các địa bàn trọng điểm, xung yếu. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục quốc phòng,
an ninh trong nhân dân.
Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh quan hệ hữu nghị, truyền thống, hợp tác
chiến lược với các nước láng giềng có chung biên giới. Thúc đẩy giải quyết các vấn đề tồn
tại về biên giới lãnh thổ, chú trọng vấn đề biển Đông một cách thỏa đáng, cân bằng trên
nguyên tắc hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử quốc tế và khu vực.
Phát huy vai trò và huy động các nguồn lực của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài
về phát triển đất nước.
Câu 6: Nêu được những cơ hội và thách thức trong phát triển kinh tế- xã hội đất
nước ta hiện nay. Đồng thời đưa ra được một số giải pháp để nước ta tận dụng các cơ
hội, vượt qua các thách thức đó.
a. Cơ hội:
Từ đầu những năm 1990, Việt Nam đã chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế. Bình
thường hóa quan hệ với Mỹ; gia nhập ASEAN; ký kết Hiệp định khung Việt Nam - EU
(tháng 7/1995); ký Hiệp định Thương mại Song phương Việt Nam-Hoa Kỳ năm 2000 và
chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2007 là những mốc quan trọng cho
phép Việt Nam bắt kịp vào đợt sóng toàn cầu hóa thập niên 1990. Đường lối chủ động, tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế và làm bạn với tất cả các quốc gia khác cũng cho phép Việt
Nam giữ vững ổn định chính trị và năng động kinh tế, tránh được ảnh hưởng tiêu cực từ

19


20

cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu trong suốt mười năm qua. Về mức độ ổn định, theo
đánh giá toàn cầu của Trung tâm Phát triển Quốc tế và Xử lý Xung đột (CIDCM), Việt
Nam chỉ đứng sau Singapore trong số các nước Đông Nam Á và sau Trung Quốc,
Uzbekistan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand trong toàn châu Á. Trong điều

kiện bất ổn chính trị trên diện rộng và mức thanh khoản của đồng USD cao chưa từng có,
điều này tạo ra lợi thế rất lớn cho phép Việt Nam đi sâu hội nhập và cạnh tranh, thu hút đầu
tư nước ngoài. Theo đánh giá về mức độ hội nhập toàn cầu do tạp chí Foreign Policy thực
hiện tháng 12/2007, Việt Nam xếp hạng 48/72 quốc gia, trong khi Thái Lan xếp hạng 53,
Trung Quốc hạng 66, Indonexia hạng 69, còn xếp hàng đầu là Singapore, Hồng Kông, Hà
Lan, Thụy Sĩ, Ailen, Đan Mạch, Mỹ, Canada, Jodani, Estonia. Ngày 28/1/2008, Ngân hàng
Credit Suisse cũng công bố danh sách 10 nước mới nổi sau nhóm BRICS (gồm Brazil,
Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) là Việt Nam, Panama, Nigeria, Kazakhstan,
Jordanie, Perou, Marroco, Colombia, Botswana, Ukraina theo các tiêu chí: mức độ mở cửa,
tăng trưởng GDP, thu ngân sách, FDI, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ người được đào tạo đại học
và cao đẳng, ổn định xã hội.
Hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới cho phép nước ta thu hút FDI có chất lượng,
tiếp thu khoa học công nghệ mới, phương pháp quản trị mới, mở rộng thị trường đầu ra cho
các sản phẩm và dịch vụ.
b. Thách thức:
Tuy nhiên, rủi ro từ quá trình hội nhập có chiều hướng gia tăng.
Độ mở của nền kinh tế ở mức cao kỷ lục trong toàn khu vực, trên 150%, khiến tăng trưởng
kinh tế dễ bị tổn thương do phụ thuộc lớn vào thị trường bên ngoài.
An ninh năng lượng không đảm bảo do phụ thuộc lớn vào nguồn cung xăng dầu bên ngoài.
Nền kinh tế đang phải “nhập khẩu” lạm phát do năng lượng, lương thực và các nguyên liệu
đầu vào tăng giá.
Dòng vốn vào tăng, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp, gây sức ép lên hoạt động
điều tiết tiền tệ, làm tăng rủi ro tài chính trong bối cảnh trong nước còn thiếu hụt các cơ
chế bảo hiểm.
Công cuộc xóa đói, giảm nghèo và nhiều chính sách xã hội cũng đứng trước thách thức lớn
do Nhà nước phải cắt giảm chi tiêu công và vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) giảm
sút do khủng hoảng nợ công thế giới.
Toàn cầu hóa vừa mang lại sự phát triển nhưng cũng tạo nên sự phụ thuộc chặt chẽ giữa
các quốc gia do tác động lan truyền của biến động kinh tế.
Trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới thì bản thân cấu trúc

nền kinh tế Việt Nam cũng ngày càng trở nên phức tạp, và trong thời gian vừa qua cũng đã
đứng trước thách thức chịu tác động mạnh mẽ bởi bất kỳ sự biến động và bất ổn nào dù
nhỏ của kinh tế thế giới. Đặc biệt, các nước thuộc khu vực châu Á-Thái Bình Dương, trong
đó có ASEAN, đều đang tăng trưởng với tốc độ cao, nên càng tiềm ẩn nhiều rủi ro và biến
động gây ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế nước ta.
Một khi độ mở của thương mại càng cao thì nguy cơ dễ bị tổn thương càng lớn trước
những cú sốc giá, những rào cản thương mại và sự thay đổi chính sách của các nước nhập
khẩu hàng hóa Việt Nam.
c. Giải pháp:
3.1. Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành
Các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ đều có mức tăng trưởng từ 3% đến 10%
bình quân hàng năm, trong đó, ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao nhất vượt trên mức

20


21

tăng trưởng chung của nền kinh tế, hai ngành nông nghiệp và công nghiệp đều có tỷ lệ tăng
trưởng thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng chung. Nhờ đó, cơ cấu kinh tế ngành sẽ dịch chuyển theo
hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, giảm tỷ trọng ngành công nghiệp và ngành nông
nghiệp. Tăng trưởng kinh tế hàng năm sẽ theo phương thức 3-6-9 (nông nghiệp 3%, công
nghiệp 6% và dịch vụ 9% trong khoảng 30 năm).
Như vậy, trọng tâm phát triển trong mô hình tăng trưởng mới là ngành dịch vụ. Đây là ý
tưởng cơ bản về mô hình tăng trưởng kinh tế mới trong nghiên cứu của tác giả, cũng là giải
pháp chủ yếu, cơ bản và lâu dài để thực hiện thành công chuyển đổi mô hình tăng trưởng
kinh tế. Quy luật phát triển chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới là chuyển từ kinh
tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp và tiếp theo là kinh tế dịch vụ. Có thể coi đây là
nền kinh tế hậu công nghiệp hoặc nền kinh tế dựa vào tri thức. Việt Nam đang từ nền kinh
tế nông nghiệp chuyển sang nền kinh tế công nghiệp, tuy nhiên, chúng ta phải “đi tắt đón

đầu”, chuyển mạnh sang kinh tế hậu công nghiệp mà trọng tâm là phát triển các ngành dịch
vụ.
Nền kinh tế dịch vụ của các nước phát triển được hình thành ở đỉnh cao của nền công
nghiệp phát triển. “Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, ở các nước phát triển đã diễn ra
quá trình “giải công nghiệp hóa”, tức là chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực chế tạo và
nông nghiệp sang khu vực dịch vụ. Cho đến những năm cuối thế kỷ XX, Mỹ đã trở thành
một nền kinh tế dịch vụ phát triển. Năm 2006, khu vực dịch vụ của Mỹ chiếm 67,8% GDP,
thương mại dịch vụ chiếm 21% tổng kim ngạch thương mại quốc tế, đạt khoảng 756 tỷ
USD còn thặng dư thương mại dịch vụ của khu vực tư nhân đạt 96,9 tỷ USD. Trong thời
gian gần đây, khu vực dịch vụ đóng góp tới 80% tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế Mỹ,
trong đó có sự đóng góp lớn của nhiều ngành dịch vụ hiện đại và mang tính sáng tạo cao
như các ngành dịch vụ chuyên môn, khoa học-công nghệ, máy tính, chăm sóc y tế hoặc các
dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh như ngành kinh doanh bất động sản và dịch vụ tài
chính (ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư), đặc biệt vào thời kỳ trước khi xảy ra cuộc khủng
hoảng thị trường nhà đất và tài chính năm 2008”.
Ở Trung Quốc, trong điều kiện toàn bộ khu vực dịch vụ chưa hoàn toàn phát triển, chiến
lược “công nghiệp hóa do dịch vụ thúc đẩy” của quốc gia này dựa trên việc phát triển một
số ngành dịch vụ “ưu tiên” có vai trò vừa tạo nền móng vừa lôi kéo nền công nghiệp phát
triển. Các ngành dịch vụ ưu tiên này gồm ba nhóm: (i) các ngành làm nền tảng cơ bản cho
sự phát triển bền vững là giáo dục có nhiệm vụ cung cấp đội ngũ lao động có chất lượng
cao cho nền kinh tế; (ii) các ngành mũi nhọn có năng suất và lợi nhuận cao là dịch vụ tài
chính (đặc biệt là ngân hàng và chứng khoán) và bảo hiểm; (iii) các ngành dịch vụ mang
tính chất đột phá vào nền kinh tế mới (kinh tế dịch vụ tri thức) là công nghệ thông tin,
nghiên cứu và triển khai (R&D) và các ngành sáng tạo khác.
Để chuyển sang nền kinh tế dịch vụ, tiền đề là phải giải quyết ba nút thắt lớn (cơ sở hạ
tầng, chất lượng nguồn nhân lực và cải cách thể chế), Nhà nước cần có định hướng tập
trung nguồn lực, chính sách khuyến khích và tập trung đầu tư cho phát triển các ngành dịch
vụ. Đặc biệt, Nhà nước cần có chính sách thu hút mạnh FDI vào các ngành dịch vụ.
3.2. Phát triển cơ sở hạ tầng
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống kết cấu hạ tầng đã có bước phát triển khá, thể hiện ở mạng

lưới cầu, đường, cảng biển, cảng hàng không, kho tàng… liên tục được nâng cấp và xây
dựng mới, đáp ứng tốt hơn nhu cầu xã hội.
Tuy nhiên, các lĩnh vực kết cấu hạ tầng cụ thể không đều. Viễn thông và hàng không phát
triển tương đối nhanh và đáp ứng ngày càng tốt các yêu cầu đặt ra, trong khi một số lĩnh
vực khác như hệ thống giao thông đường sắt, đường thủy và đường bộ, điện, nước… chưa
đáp ứng yêu cầu phát triển, trở thành điểm ách tắc, “thắt cổ chai” nghiêm trọng.

21


22

Cho đến nay, đây là lĩnh vực được ưu tiên đầu tư cao nhất. Song thực trạng chung của hệ
thống hiện nay là chất lượng thấp, còn xa mới đáp ứng yêu cầu vận tải và lưu thông hàng
hóa.
Mạng lưới hạ tầng giao thông, cả đường bộ, đường sắt lẫn đường biển chưa liên kết trong
một quy hoạch tổng thể có tầm nhìn xa, chưa bảo đảm tính liên kết - bổ sung nhau hợp lý.
Đất nước hẹp trải dài nhưng thiếu các tuyến đường cao tốc (sắt và bộ) theo trục Bắc Nam.
Tuy có hai tuyến trục đường bộ (đường 1A và đường Hồ Chí Minh) nhưng mặt đường nhỏ
hẹp, phần lớn chỉ có hai làn xe, hệ thống cầu yếu nên dễ bị ách tắc và hạn chế tốc độ xe
chạy. Mặt khác, thiếu hệ thống đường “xương cá” theo hướng Đông-Tây, đặc biệt là các
đường ngang nối với các cảng biển nên hiệu quả sử dụng thấp.
Hệ thống giao thông hiện tại chưa gắn kết thông suốt trong và ngoài nước, khiến vận tải đa
phương thức gặp nhiều khó khăn, trở thành yếu tố cản trở mạnh mẽ quá trình hội nhập và
cạnh tranh quốc tế. Hệ thống đường bộ tuy được đầu tư nâng cấp nhiều trong những năm
gần đây, song vẫn chưa đáp ứng yêu cầu vận chuyển hàng hóa và hành khách. Các tuyến
đường nhánh nối các trục giao thông huyết mạch với các trung tâm kinh tế khu vực sản
xuất tập trung, kho bãi, cảng biển, cảng hàng không… ít về số lượng, nhỏ bé về quy mô,
lại phân bổ thiếu hợp lý. Các cảng biển, cảng hàng không chính chậm được mở rộng và
nâng cao năng lực tiếp nhận, chưa kết nối tốt với hệ thống đường bộ. Đường sắt chậm

được đổi mới, vẫn giữ đường đơn và đường ray khổ hẹp, không đồng bộ với đường sắt các
nước trong khu vực, đầu máy và toa xe cũng như công nghệ điều vận nhìn chung lạc hậu.
Tập trung nguồn lực đầu tư công và khuyến khích tư nhân đầu tư cho phát triển kết
cấu hạ tầng.
Trong giai đoạn 2001-2005, đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế chiếm khoảng 70% tổng đầu tư
xã hội và trên 55% tổng đầu tư ngân sách. Ngân hàng Thế giới (2006) ghi nhận tổng mức
đầu tư cho cơ sở hạ tầng của Việt Nam trong những năm qua luôn giữ ở mức 10% GDP.
Đây là một con số khá cao so với tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, GDP của Việt Nam hiện
nay quá nhỏ (khoảng 120 tỷ USD) và ngân sách nhà nước chỉ khoảng 1/3 GDP nên vốn
đầu tư công vào kết cấu hạ tầng không đáp ứng nhu cầu. Ngoài vốn ODA, huy động vốn tư
nhân trong nước và FDI là hướng quan trọng huy động vốn cho đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng.
Có đến 163 dự án lớn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, tập trung vào kết cấu hạ tầng đã
được ghi trong danh mục quốc gia để kêu gọi đầu tư nước ngoài ban hành theo Quyết định
số 1290/QĐ-TTg ngày 26/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ. Các dự án này đang được kêu
gọi đầu tư nước ngoài theo nhiều hình thức BOT, BT, liên doanh hoặc 100% vốn nước
ngoài. Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích các nhà đầu nước ngoài tham gia xây
dựng kết cấu hạ tầng bằng các hình thức BOT, BT để xây dựng các nhà máy điện, phát
triển cảng biển, cảng hàng không, đường ô tô cao tốc, đường sắt… Nhu cầu vốn đầu tư này
là rất lớn, đòi hỏi phải có chính sách đầu tư phù hợp, nhằm khuyến khích đầu tư của khu
vực tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vào các công trình kết cấu hạ
tầng.
3.3. Đổi mới thể chế kinh tế
Những thành tựu to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong suốt thời kỳ đổi mới đến nay đều
bắt nguồn từ đổi mới thể chế. Đến nay thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế của Việt Nam đã được hình thành về đại thể nhưng còn quá
nhiều bất cập, nội dung của nhiều luật còn quá chung, không cụ thể. Do vậy, dù có Luật
Môi trường nhưng hoạt động phá hoại môi trường vẫn còn khá phổ biến; có Luật Cạnh
tranh nhưng không hạn chế được tình trạng độc quyền tràn lan; có Luật Phá sản nhưng quá
ít công ty phá sản theo luật, …


22


23

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế là một định
hướng chung nhất cho sự đổi mới hệ thống luật pháp Việt Nam. Định hướng trên phải theo
hướng hiện đại và quốc tế nghĩa là hội tụ những gì tiến bộ và hiện đại nhất mà nhân loại đã
đạt tới, và đương nhiên phải phù hợp với những xu hướng phát triển của thế giới, phù hợp
với những điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Bộ máy điều hành của Nhà nước từ khi đổi mới đến nay đã có nhiều thay đổi theo hướng
tiến bộ, như: sáp nhập các bộ, giảm các đầu mối quản lý ở cấp Trung ương, gia tăng quyền
cho các địa phương, gia tăng các cơ quan giám sát… Tuy nhiên, bộ máy điều hành của
Nhà nước vẫn còn dấu ấn của cơ chế “xin - cho”. Do vậy, cần cơ cấu lại chức năng điều
hành của Nhà nước theo hướng: gia tăng chức năng hoạch định chiến lược, chính sách, luật
pháp, gia tăng vai trò kiểm tra giám sát, thưởng phạt, xử lý các vụ việc sai trái, gia tăng các
chức năng ổn định kinh tế vĩ mô, xây dựng kết cấu hạ tầng, kiểm soát độc quyền bảo vệ
môi trường, đảm bảo an sinh xã hội, thực thi các dịch vụ công, giảm bớt các cơ chế “xin cho”, giảm bớt các hoạt động kinh doanh, giảm bớt các biện pháp hành chính… Một chức
năng rất quan trọng, có thể là quyết định, đó là tuyển chọn nhân tài vào bộ máy Nhà nước.
Tiếp tục hoàn thiện và phát triển đồng bộ các loại thị trường
Các loại thị trường ở Việt Nam đang trong quá trình hình thành cả về mặt thể chế cũng như
các chủ thể tham gia, do vậy bàn tay của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng và có tầm
quyết định. Trong các loại thị trường có hai thị trường rất cơ bản và quan trọng, đó là thị
trường tài chính và thị trường bất động sản. Hai thị trường này phát triển lành mạnh thì nền
kinh tế phát triển lành mạnh. Hai thị trường này ở các nước phát triển đã hoạt động rất tự
do trong một khuôn khổ thể chế từng được xem là hiện đại nhất. Tuy nhiên, những thể chế
hiện có ở các nước này đã không kiểm soát được các dòng vốn ào ạt đổ vào hai thị trường,
tạo ra các “bong bóng kinh tế”, gây nên rủi ro “đổ vỡ”. Vấn đề là cần có một thể chế giám
sát, cảnh báo và ngăn chặn hữu hiệu các dòng vốn đầu cơ gây ra những rủi ro bất trắc cho

thị trường. Ở nước ta, hiện nay đã có khá đủ các loại cơ quan giám sát, tuy nhiên cơ chế
vận hành, quyền lực và hiệu lực của các cơ quan giám sát lại không đủ, do vậy cần phải
sớm kiện toàn cơ chế hoạt động của các cơ quan giám sát theo hướng gia tăng quyền lực
giám sát, ép buộc tất cả các chủ thể kinh doanh trong hai thị trường trên phải công khai,
minh bạch mọi hoạt động, hướng giám sát không chỉ hoạt động của thị trường mà phải
giám sát cả hệ thống thể chế của các thị trường này, gia tăng tính độc lập của các cơ quan
giám sát.

23



×