Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH TRÊN SÓNG CỦA ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH THANH HÓA ĐÁP ỨNG NHU CẦU CÔNG CHÚNG NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.5 KB, 126 trang )

BBỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ-HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN

MAI THỊ NHUNG

ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH
TRÊN SÓNG CỦA ĐÀI PHÁT THANH VÀ TRUYỀN HÌNH
THANH HÓA
ĐÁP ỨNG NHU CẦU CÔNG CHÚNG NÔNG THÔN
Ngành: Báo chí học

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ HỌC

Người hướng dẫn: GPS.TS NGUYỄN VĂN DỮNG

HÀ NỘI - 2015

1


Lời cảm ơn
Với lòng biết ơn sâu sắc của mình, em xin cảm ơn cô giáo
……….đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Em xin cảm ơn các thầy cô trong tổ bộ môn…….., các thầy cô
giảng dạy tại trường ………..đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu.


Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài tôi luôn nhận
được sự động viên của bạn bè, đồng nghiệp và người thân trong gia đình.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, tháng 7 - 2015
Tác giả luận văn

2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan: Luận văn với đề tài “…………” là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai.
Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng
mình !

Hà Nội, ngày ………….

Người cam đoan

Những từ viết tắt
3


BTV: Biên tập viên
PV: Phóng viên
PTTT: Phát thanh trực tiếp
PTTH: Phát thanh truyền hình
KTV: Kĩ thuật viên


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
4


Bảng 1.1 Mức độ tiếp nhận các loại hình báo chí của công chúng nông thôn
Thanh Hóa
Bảng 1.2 Mức độ xem truyền hình của công chúng nông thôn Thanh Hóa
Bảng 1.3 Mức độ nghe đài của công chúng nông thôn Thanh Hóa
Bảng 1.4 Mức độ đọc báo của công chúng nông thôn Thanh Hóa
Bảng 1.5 Mức độ đọc báo mạng của công chúng nông thôn Thanh Hóa
Bảng 1.6 Khảo sát nhu cầu về nội dung thông tin của công chúng nông
thôn Thanh Hóa
Bảng 2.1 Thống kê một số thể loại và một số chuyên mục ở Đài Phát thanh
và Truyền hình Thanh Hóa ( từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015)
Bảng 2.2 Thống kê một số thể lọai và một số chuyên mục trên sóng Đài
PTTH Thanh Hóa ( từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015 )
Bảng 2.3 Thống kê các các phẩm tuyên truyền chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đài PTTH
Thanh Hóa từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015.
Bảng 2.4 Thống kê các các phẩm tuyên truyền, phổ biến kiến thức về việc phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn của Đài PTTH Thanh Hóa từ tháng 5/2009
đến tháng 6/2010.
Bảng 2.5 Thống kê các các phẩm tuyên truyền về đời sống, văn hóa xã hội ở
nông thôn của Đài PTTH Thanh Hóa từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015.
Bảng 2.6 Thống kê các các phẩm tuyên truyền những điển hình tiên tiến
trong phát triển nông thôn của Đài PTTH Thanh Hóa từ tháng 5/2014 đến
tháng 5/2015.
Bảng 2.7 Thống kê các các phẩm tuyên truyền về xây dựng nông thôn mới
của Đài PTTH Thanh Hóa từ tháng 5/2014 đến tháng 5/2015.

Bảng 2.8 Thống kê những nội dung tuyên truyền về nông thôn trên Đài
PTTH Thanh Hóa từ tháng 5/2014- tháng 5/2015
5


Bảng 2.9 Thống kê tần suất tiếp nhận thông tin của công chúng nông thôn
Thanh Hóa đối với các chương trình phát thanh của đài PTTH Thanh Hóa
Bảng 2.10 Thống kê độ dài thời gian tiếp nhận thông tin của công chúng
nông thôn Thanh Hóa đối với các chương trình phát thanh của đài PTTH
Thanh Hóa
Bảng 2.11 Thống kê thời gian tiếp nhận thông tin của công chúng nông
thôn Thanh Hóa đối với các chương trình phát thanh của đài PTTH Thanh
Hóa
Bảng 2.12 Thống kê phương thức tiếp nhận của công chúng nông thôn
Thanh Hóa đối với các chương trình phát thanh của đài PTTH Thanh Hóa
Bảng 2.13 Thống kê về đánh giá chất lượng chương trình phát thanh đài
PTTH Thanh Hóa của công chúng nông thôn Thanh Hóa
Bảng 2.14 Thống kê các vấn đề công chúng nông thôn quan tâm nhất ở các
chương trình phát thanh của Đài PT_TH Thanh Hóa
Bảng 2.15 Thống kê các chương trình phát thanh của Đài PT_TH Thanh
Hóa được công chúng nông thôn quan tâm
Bảng 2.16 Thống kê đánh giá của công chúng nông thôn về lượng kiến
thức, thông tin về nông nghiệp, nông thôn trên sóng Phát Thanh của Đài
PT-TH Thanh Hóa

MỤC LỤC
MỤC LỤC

.................................6


MỞ ĐẦU....................................................................7
Chương 1.............................................................................19
Nhận diện nhu cầu công chúng nông thôn của .....................................................19
Thanh Hóa..............................................................................................................19
6


Chương 2..................................................................................42
Thực trạng đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng nông thôn và vấn đề đổi
mới chương trình phát thanh của Đài PTTH Thanh Hóa......................................42
Chương 3................................................................................................................73
Mấy vấn đề đặt ra và các giải pháp đổi mới chương trình phát thanh của Đài
PTTH Thanh Hóa...................................................................................................73
KẾT LUẬN..........................................................102
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................105
PHỤ LỤC.............................................................................................................108

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn
Việt Nam là một nước nông nghiệp, dân cư sinh sống ở nông thôn
hiện nay chiếm tỉ lệ tương đối lớn (theo Tổng Cục Thống Kê, Điều tra Lao
động và việc làm Việt Nam năm 2011 là 70,3%). Vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn ở Việt Nam luôn được Đảng và Nhà nước hết sức coi
trọng trong các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Đó là vì
nông dân là một lực lượng quan trọng của cách mạng và hiện còn đang
chiếm tỷ lệ lớn trong dân số. Đồng thời, nông nghiệp, nông dân Việt Nam
luôn khẳng định vai trò đóng góp hết sức to lớn trong sự nghiệp phát triển
kinh tế của đất nước. Nông nghiệp đã mở đường trong quá trình đổi mới,
tạo nền tảng, động lực cho tăng trưởng kinh tế và là nhân tố quan trọng bảo

đảm sự ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Đến nay, mặc dù sau
25 đổi mới, kinh tế nước ta đã phát triển khá toàn diện, song sản phẩm
nông nghiệp vẫn là những sản phẩm chủ yếu thể hiện sự hội nhập của nền
kinh tế Việt Nam với thế giới. Quả thực, vấn đề nông nghiệp, nông thôn và
nông dân có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược ổn định và phát triển lâu
7


dài của nền kinh tế - xã hội. Sự phát triển của nông nghiệp, sự biến đổi theo
hướng văn minh ở nông thôn và sự trưởng thành của người dân đã, đang và
sẽ tác động mạnh mẽ đến quá trình ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
của nông thôn nói riêng và của đất nước nói chung.
Nhờ sự quan tâm của Nhà nước thể hiện bằng các chủ trương, chính
sách đúng đắn, trong những năm đổi mới, nông nghiệp nước ta đã có bước
phát triển vượt bậc, đạt được nhiều thành tựu. Liên tục trong nhiều năm
nông nghiệp đạt mức tăng trưởng khá cả về giá trị, sản lượng. Đời sống
nông dân đã khấm khá hơn. Tuy vậy, so với mặt bằng chung, họ còn gặp
nhiều khó khăn. Phải nhìn vào thực tế: nông dân, nông nghiệp đã có những
đóng góp rất lớn cho sự phát triển của đất nước thế nhưng, dường như ngày
nay họ là những người ít được hưởng lợi nhất trong công cuộc đổi mới của
đất nước. Nếu như không quan tâm đến họ, coi phát triển là vì con người
thì chắc chắn sự phát triển ấy sẽ không thể bền vững. Để giải quyết được
những thách thức trên chúng ta còn phải đối mặt với nhiều sức ép khác,
như: diện tích đất sản xuất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp làm cho nông
nghiệp một khi muốn tiến lên sản xuất lớn, sử dụng máy móc kỹ thuật hiện
đại, ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm đem lại năng suất, chất lượng và
hiệu quả cho nông nghiệp; ở nhiều địa phương hiện nay tuy có số nông dân
đông, nhưng hầu hết những người có sức khỏe đều rời quê ra các đô thị tìm
việc kiếm sống, khu vực nông thôn còn thiếu hẳn lực lượng lao động có tay
nghề, làm nông nghiệp giỏi; về vấn đề vốn, do sản xuất nhỏ lẻ nên nông

dân rất thiếu vốn và dù được ngân hàng, hay các dự án cho vay để sản xuất
thì mức tiền cũng rất thấp, thời gian hoàn trả ngắn;…
Hiện nay, người nông dân đang trong quá trình chuyển đổi phương
thức lao đông, triển khai thực hiện chương trình nông thôn mới, đặc biệt là
triển khai công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Người
nông dân không còn lao động sản xuất đơn thuần theo kinh nghiệm mà đã
8


từng bước ứng dụng tiến bộ khoa học, kĩ thuật, công nghệ vào sản xuất
nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao. Họ đã từng bước làm quen với tác
phong làm việc có tư duy, phán đoán, phản biện, nhận diện vấn đề để thích
ứng với cái mới, làm việc chủ động hơn. Họ cũng rất cần tiếp nhận thông
tin về tình hình – chính trị - văn hóa – xã hội để nâng cao nhận thức trong
xu thế hội nhập.
1.2. Vấn đề phát triển nông nghiệp ở Thanh Hóa
Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở vị trí cực Bắc miền Trung, đất rộng,
người đông, có 27 đơn vị hành chính nhưng chỉ có 1 thành phố, 2 thị xã
còn lại chủ yếu là nông dân sống ở nông thôn và miền núi cao. Diện tích
trên 11 ngàn km2, dân số 3,4 triệu người, trong đó có 90,7 % dân số sống ở
nông thôn. Địa hình phong phú và đa dạng bao gồm cả miền núi, trung du,
đồng bằng và vùng ven biển. Khu vực đồng bằng sông Mã có diện tích
1.864km2, lớn thứ 3 trong cả nước, sau đồng bằng sông Cửu Long và đồng
bằng sông Hồng. Mặc dù là tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế nhưng Thanh
Hóa vẫn là một tỉnh nghèo, phát triển chậm, hiệu quả của nền kinh tế và thu
nhập tính trên đầu người đạt thấp. Chính vì vậy , NQ số 26-NQ/TW tại hội
nghị lần thứ bảy Ban chấp hành TW Đảng khóa X “Về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn” là thời cơ và vận hội để Thanh Hóa đẩy mạnh thực hiện sự
nghiệp CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Tỷ lệ nông nghiệp cao nhưng lại kém phát triển, đời sống đại bộ

phận nông dân chưa cao. Trồng trọt vẫn chiếm khoảng 70% cơ cấu nội
ngành nông nghiệp, trong đó lúa gạo vẫn chiếm tỷ trọng chính. Tuy chiếm
phần lớn diện tích cây trồng hàng năm nhưng hiệu quả kinh tế của cây lúa
đem lại không cao, vì vậy đã xuất hiện tình trạng nông dân không thiết tha
với đất lúa, không thâm canh tăng vụ. Ngành thủy sản và ngành chăn nuôi
phát triển nhanh, song thiếu bền vững. Cùng với quá trình biến đổi khí hậu,
tình trạng thiên tai trong tương lai sẽ diễn ra ngày càng tăng với nhiều diễn
9


biến phức tạp hơn. Tình trạng sạt lở, lũ lụt, ngập mặn, hạn hán tại một số
địa phương sẽ xảy ra với mức độ nghiêm trọng ảnh hưởng không nhỏ tới
đời sống sinh hoạt và sản xuất của người dân. Khả năng tái sản xuất mở
rộng của nông dân giảm sút. Cho đến nay, người nông dân vẫn lấy cây lúa
là nguồn thu nhập chính, vậy mà chi phí sản xuất tăng cao, đang đè nặng
lên vai người nông dân, nhất là nông dân nghèo. Thu nhập và lợi nhuận từ
trồng lúa của họ giảm, khiến cuộc sống của người làm ra hạt lúa thêm phần
khó khăn. Đời sống nông dân cần phải được nâng cao để tạo sự công bằng
trong xã hội nhưng thực tế chất lượng sống của đại bộ phận còn rất thấp.
Việc kêu gọi xây dựng nông thôn mới ở Thanh Hóa chưa diễn ra đồng đều
ở tất cả các nơi. Vì vậy vấn đề phát triển, cơ cấu lại nông nghiệp, nông thôn
là vấn đề bức thiết của tỉnh.
1.3. Báo phát thanh ở nông thôn Thanh Hóa
So với các loại hình báo chí khác thì đối với công chúng vùng nông
thôn, báo phát thanh có những ưu thế riêng nổi bật. Bởi chỉ cần một thiết bị
thu tín hiệu nhỏ là công chúng đã có thể hưởng thụ các chương trình phát
thanh ở bất cứ đâu, bất cứ khi nào. Nếu xét ở phương diện phủ sóng rộng
thì phát thanh luôn vững vàng ở vị trí số một so với tất cả các loại hình báo
chí khác như báo in, báo hình, báo mạng điện tử. Chính vì đặc điểm đơn
giản về kỹ thuật, rẻ tiền về phương tiện mà ở Việt Nam, từ miền núi đến

hải đảo xa xôi hay nông thôn đều có sự hiện hữu của chiếc radio. Và đối
với một tỉnh còn nghèo như Thanh Hóa thì việc phát huy tính tích cực, lợi
thế của báo phát thanh để đưa thông tin đến người dân là một việc làm cần
thiết.
Do đó, đổi mới chương trình phát thanh trên sóng đài PTTH Thanh
Hóa nhằm đáp ứng nhu cầu công chúng nông thôn trong tỉnh có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong việc góp phần thúc đẩy các chương trình phát
10


triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân, cũng như góp phần quan trọng
vào quá trình phát triển của Thanh Hóa.
2. Lịch sử nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát tài liệu để thực hiện luận văn
này, tôi nhận thấy từ trước tới nay đã có một số công trình nghiên cứu ít
nhiều có liên quan đến đề tài như sau:
Trong công trình “Báo Phát thanh” (2002) do tập thể tác giả của
Phân viện Báo chí và Tuyên truyền – Đài Tiếng nói Việt Nam thực hiện
(Nguyễn Văn Dững, Chủ biên), tác giả Nguyễn Văn Dững đã bàn về công
chúng phát thanh, có định nghĩa khái niệm công chúng, các loại công
chúng báo chí, vai trò của công chúng, các nội dung và phương pháp
nghiên cứu công chúng.
Cuộc điều tra xã hội học (2001) do Đài Tiếng nói Việt Nam và Ban
Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương)
được tiên hành trên 30 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ươnng với 2.615
người trả lời, cho thấy mức độ, cách thức nghe đài của thính giả thay đổi
theo giới tính, độ tuổi, mức sống, học vấn,…tại những tỉnh, thành phố tiến
hành điều tra; những lý do thính giả không nghe đài; những đánh giá, nhận
xét chất lượng; những nguyện vọng, đề xuất của thính giả;…
Đề tài khoa học “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều

tra thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam” (2005), đã đúc kết lí luận qua
những cuộc điều tra thính giả của đài từ năm 1989 đến năm 2005, trên cơ
sở điều tra 1.468 thính giả đã cung cấp những thông tin quan trọng, giúp
đài Tiếng nói Việt Nam đổi mới, cải tiến, nâng cao chất lượng các chương
trình phát thanh, thu hút ngày càng đông đảo công chúng phát thanh.
Đề tài khoa học “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều
tra thính giả của Đài Tiếng nói Việt Nam” (2005), đã đúc kết lí luận qua
11


những cuộc điều tra thính giả của đài từ năm 1989 đến năm 2005, trên cơ
sở điều tra 1.468 thính giả đã cung cấp những thông tin quan trọng, giúp
đài Tiếng nói Việt Nam đổi mới, cải tiến, nâng cao chất lượng các chương
trình phát thanh, thu hút ngày càng đông đảo công chúng phát thanh.
Công trình “Truyền thông – Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” (2006) do
PGS,TS. Nguyễn Văn Dững làm chủ biên, với phương pháp tiếp cận hệ
thống, các tác giả của công trình này đã đề cập vấn đề nghiên cứu công
chúng, nhóm đối tượng trong mối quan hệ chu trình truyền thông, phân tích
nội dung của nghiên cứu ban đầu vầ công chúng gồm ba bình diện, các
bước tiến hành và phương pháp nghiên cứu…
Công trình “Báo chí và dư luận xã hội” (2011) và “Cơ sở lý luận
báo chí” (2012) của PGS,TS. Nguyễn Văn Dững cũng đã đề cập đến công
chúng báo chí- nhóm đối tượng tác động của báo chí. Tác giả cũng đã
nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống về công chúng, nêu vai trò, vị trí
đặc biệt quan trọng của công chúng đối với báo chí và đưa ra những căn cứ
vào những tiêu chí khác nhau để phân loại các nhóm công chúng khác
nhau.
+“Con đường CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn” năm 2004; PGS-TS
Chu Hữu Quý và PGS-TS Nguyễn Kế Tuấn đồng chủ biên, Nxb Chính Trị
quốc gia. Trong đó hai tác giả quan tâm nhiều đến lý luận và quan điểm của

Đảng về CNH,HĐH nông nghiệp, nông thôn và con đường của quá trình
này.
+ “ Nông nghiệp, nông dân , nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai
sau ” năm 2008 ; TS Đặng Kim Sơn -Viện trưởng Viện chính sách và
chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, Nxb Chính Trị quốc gia. Nội
dung sách nêu bật thực trạng các vấn đề về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn hiện nay, những thành tựu cũng như khó khăn, vướng mắc còn tồn tại.
12


+ “ Nông nghiệp ,nông dân, nông thôn trong quá trình đẩy mạnh
CNH,HĐH ở nước ta” ; GS, TS Hoàng Ngọc Hòa, Nxb Chính Trị quốc
gia. Tác giả đã tiến hành nghiên cứu, tổng kết những quan điểm, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn để tìm ra nguyên nhân của những thành công và hạn chế cũng
như những kiến nghị,giải pháp.
Luận văn thạc sĩ “Công chúng phát thanh hiện nay” (2004) của tác
giả Phạm Thị Thanh Tịnh đã phân tích phương thức tác động, đặc trưng
của loại hình và công chúng thính giả của nó. Luận văn đưa ra những nét
cơ bản về đặc điểm của nhóm công chúng của Đài Tiếng nói Việt Nam.
Tác giả cũng chỉ một số căn cứ khoa học để những người làm báo phát
thanh nâng cao chất lượng chương trình, cải tiến nội dung cho phù hợp với
công chúng của cả nước nói chung và trên địa bàn Hà Nội nói riêng.
Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu cũng liên quan đến
đề tài như: Báo chí Thanh Hóa với vấn đề phát triển nông thôn trên địa
bàn tỉnh hiện nay của học viên Nguyễn Thanh Phương, Luận văn Thạc sỹ,
Học viện Báo chí và tuyên truyền (khảo sát Báo Thanh Hóa, Đài Phát
thanh và Truyền hình Thanh Hóa, Báo Văn hóa và đời sống từ tháng 5
năm 2009 đến tháng 6 năm 2010).
Công chúng nông thôn Hà Nam với vấn đề tiếp nhận sản phẩm báo

chí hiện nay của Bùi Thị Quyến, Luận văn Thạc sỹ, Học viện Báo chí và
tuyên truyền. (Khảo sát….)
Ngôn ngữ phóng sự phát thanh của Trần Thị Lan Hương, Luận văn
Thạc sỹ, Học viện Báo chí và tuyên truyền (Khảo sát trên Hệ Thời sự
Chính trị Tổng hợp VOV1, Đài Tiếng nói Việt Nam, thời gian từ 1/1/201330/6/2013).

13


Luận văn cao học báo chí: “Vấn đề nông nghiệp, nông thôn trên
sóng truyền hình Việt Nam” của Thạc sĩ Đinh Quang Hạnh, năm 2005. Tác
giả đã khảo sát các chuyên đề liên quan đến nông nghiệp, nông thôn trên
kênh VTV1, trong đó làm rõ các khái niệm, đặc điểm nông nghiệp, nông
thôn Việt Nam cũng như vai trò của đài Truyền hình Việt Nam trong việc
tuyên truyền nội dung này.
Nhìn chung, các công trình trên đã đề cập đến vai trò của báo chí nói
chung và báo phát thanh nói riêng, vai trò Đài PT-TH các địa phương trong
việc tuyên truyền một lĩnh vực cụ thể nào đó. Nghiên cứu đối tượng công
chúng, cũng như đi sâu vào phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng một thể loại, một chương trình phát thanh,
truyền hình tại địa phương.
Mỗi công trình có cách tiếp cận riêng, từ cơ bản và bao quát đến
từng lĩnh vực cụ thể của phát thanh; nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu và tiếp cận như đề tài mà tác giả đang bàn tới. Do đó, đề tài “Đổi mới
chương trình phát thanh trên sóng của Đài PT – TH Thanh Hóa đáp ứng
nhu cầu công chúng nông thôn” lần đầu tiên được thực hiện. Đề tài này
nghiên cứu đổi mới chương trình phát thanh trên sóng phát thanh đài PTTH
Thanh Hóa nhằm đáp ứng nhu cầu công chúng nông thôn của tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu là trên cơ sở hình thanh khung lý thuyết

về đổi mới chương trình phát thanh đáp ững nhu cầu công chúng, luận văn
khảo sát thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới chuwong
trình phát thanh hướng tới đáp ững nhu cầu công chúng nông thôn của tỉnh.
3.2. Nhiện vụ nghiên cứu của luận văn
- Hình thành khung lý thuyết về đổi mới chương trình phát thanh đài
PTTH Thanh Hóa đáp ứng nhu cầu công chúng nông thôn;
14


- Trên cơ sở đó, khảo sát thực trạng các chương trình phát thanh hiện
tại cũng như nhu cầu công chúng nông thôn trong tiếp nhận chương trình
phát thanh;
- Phát hiện vấn đề và tìm kiếm khuyến nghị khoa học nhằm tiếp tục
đổi mới chương trình phát thanh đáp ứng nhu cầu công chúng nông thôn
trong tỉnh.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề đổi mới chương trình
phát thanh trên sóng đài PTTH Thanh Hóa nhằm đáp ứng nhu cầu công
chúng nông thôn.
Đối tượng và phạm vi khảo sát: Dựa trên kết quả khảo sát nhu cầu
tiếp nhận thông tin của công chúng nông thôn Thanh Hóa, luận văn tìm
kiếm giải pháp, cách thức đổi mới chương trình phát thanh nhằm hướng tới
thỏa mãn nhu cầu công chúng. Thanh Hóa như trên đã nói, là tỉnh rộng và
chủ yếu địa bàn rộng lớn và dân số nông thôn, tác giả dùng phương pháp
chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống để khảo sát. Tác giả chọn 2 huyện miền núi
và 2 huyện vùng trung du, đồng bằng.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Chương trình thời sự, các tin, bài, chương trình phát thanh trên sóng
của Đài Phát thanh và truyền hình Thanh Hoá được thực hiện từ tháng 1

năm 2014 đến tháng 1 năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở vấn đề lý luận
5.1.1. Các quan điểm, chủ trương đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước Việt Nam về công tác báo chí, đặc biệt là những định hướng, chỉ
đạo của Đảng và Nhà nước về việc phát huy vai trò, sức mạnh của phát
15


thanh, truyền hình phục vụ các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của địa
phương.
5.1.2. Lý luận về báo chí cách mạng Việt Nam; lý luận báo chí
truyền thông chuyên ngành phát thanh.
Cơ sở trực tiếp cho vấn đề nghiên cứu là công chúng phát thanh và
chương trình phát thanh và sản xuất chương trình phát thanh 1 cũng như vấn
đề công chúng truyền thông2
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu được dùng để khảo cứu các vấn đề lý
luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu nhằm xây dựng khung lý thuyết cho đề
tài; trọng tâm chú ý của tác giả là nghiên cứu các công trình như Báo phát
thanh, Truyền thông-lý thuyết và kỹ năng cơ bản, các tài liêu văn kiện của
Đảng, Nhà nước và của tỉnh Thanh Hóa liên quan vấn đề này;
- Phương pháp phân tích chương trình phát thanh được sử dụng để
khảo sát các chương trình phát thanh trên sóng đài PTTH tahnh Hóa trong
thời gian nghiên cứu-khapr sát. Do tần suất và dung lượng các chương trình
phát thanh trong thời gian khảo sát khá lớn, cho nên tác giả chỉ chọn ngẫu
nhiên 3 chương trình mỗi tuần (thứ 3, thứ 5, thứ bảy; hoặc thứ 2, thứ 4, thứ 6).
- Phương pháp khảo sát tìm kiếm thông tin định lượng qua phương

pháp phỏng vấn anket. Tác giả lựa chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống như trên đã

trình bày. Với số lượng huyện miền núi và đồng bằng tương đương, cho
nên tác giả chọn 2 huyện miền núi là Thường Xuân và Như Xuân (150
phiếu hỏi cho 2 huyện), 02 huyện trung du và đồng bằng là Triệu Sơn và
Hậu Lộc (250 phiếu hỏi cho 2 huyện). Mỗi huyện, tương ứng với tỷ lệ dân
số, chọn 01 xã đại diện cho huyện. Theo đó, huyện Thường Xuân chọn xã
Xuân Thắng với 80 phiếu hỏi; huyện Như Xuân chọn xã Bãi Trành với 70
1
2

16


phiếu hỏi. Huyện Triệu Sơn chọn xã Dân Lực với 120 phiếu hỏi; huyện
Hậu Lộc chọn xã Lộc Sơn với 130 phiếu hỏi. Tổng cộng 400 phiếu cho 4
huyện.
- Cũng trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi còn sử dụng
phương pháp phỏng vấn sâu nhằm tìm kiếm thông tin định tính. Đối tượng
phỏng vấn sâu được chia ra các nhóm trên địa bàn như sau
+ Nhóm liên quan đến công chúng, bao gồm lãnh đạo sở nông
nghiệp và phát triển nông thôn (2 người), lãnh đạo các phòng nông
nghiệp....các huyện khảo sát (mỗi huyện 2 người, bao gồm phó chủ tịch
huyện phụ trách nông nghiệp, trưởng phóng nông nghiệp). Nhóm này sẽ
xin ý kiến tổng cộng 10 người.
+ Nhóm công chúng, phỏng vấn sâu mỗi huyện trong diện khảo sát 2
người nông dân (một già và một trẻ). Như vậy nhóm này sẽ hỏi 8 người.
+ Nhóm các nhà báo, bao gồm 3 phóng viên, biên tập viên và 2 lãnh
đạo phòng phát thanh và ban giám đốc đài PTTH tỉnh. Nhóm này phỏng
vấn 5 người.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài sẽ góp phần làm rõ hơn những vấn đề lý luận báo chí và lý

luận về báo phát thanh, về nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng trên
báo phát thanh.
- Luận văn là công trình nghiên cứu đề cập một cách cụ thể đến thực
trạng của báo phát thanh hiện nay và công tác tuyên truyền, đưa thông tin
đến với công chúng vùng nông thôn, đồng thời lý giải nguyên nhân của
những thành công và hạn chế, đề ra những giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của các chương trình phát thanh trên sóng của Đài Phát thanh và
truyền hình Thanh Hóa.

17


- Luận văn cũng sẽ đưa ra một số đề xuất về các giải pháp đổi mới
trong chương trình phát thanh gồm:
- Nội dung phát thanh (tin, bài)
- Cách thức phát thanh
- Phương tiện phát thanh
- Luận văn cũng sẽ góp một tiếng nói mạnh mẽ dựa trên những kết
quả nghiên cứu một cách khoa học về tầm quan trọng và những giá trị thiết
thực của hoạt động phát thanh trên sóng phát thanh của Đài PT – TH Thanh
Hóa; cũng như sự cần thiết phải phối hợp giữa hoạt động phát thanh trên
sóng phát thanh của Đài PT – TH Thanh Hóa với hệ thống các Đài Truyền
thanh cơ sở tại các huyện ở địa phương.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, đề xuất giải pháp, danh mục tài liệu
tham khảo và phụ lục, luận văn sẽ được kết cấu 3 chương.
Kết cấu cơ bản của luận văn như sau:
Chương 1: Nhận diện nhu cầu công chúng nông thôn của đài phát
thanh truyền hình Thanh Hóa
Chương 2: Thực trạng đáp ứng nhu cầu thông tin của công chúng

nông thôn và vấn đề đổi mới chương trình phát thanh của Đài PTTH Thanh
Hóa
Chương 3: Mấy vấn đề đặt ra và các giải pháp đổi mới chương trình
phát thanh của Đài PTTH Thanh Hóa

18


Chương 1
Nhận diện nhu cầu công chúng nông thôn của
Thanh Hóa
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Báo phát thanh
Báo phát thanh là loại hình báo chí sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và
hệ thống truyền thanh truyền đi âm thanh, trực tiếp tác động vào thính giác
của người tiếp nhận. Như vậy, có thể hiểu đây là loại hình báo chí hiện đại
mà đặc trưng cơ bản của nó là “dùng thế giới âm thanh phong phú, sinh
động để chuyển tải thông điệp nhờ sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ
thống truyền thanh, tác động vào thính giác của người nghe”[1,21].
Báo phát thanh hiện đại có sự phát triển đa dạng và phong phú như
phát thanh có hình, phát thanh trên mạng internet, phát thanh trên điện
thoại di động. Hiện nay, công chúng có thể nghe, xem phát thanh trên
truyền hình, mạng internet, nghe đọc tin tức trên điện thoại di động với
cách xây dựng nội dung phù hợp.
Sự bùng nổ về khoa học kỹ thuật thế kỷ XIX đã thúc đẩy ngành kỹ
thuật phát triển tạo cơ sở cho sự đổi mới kỹ thuật truyền thông đại chúng.
Những phát minh vật lý sau tên tuổi của tác giả bộ truyền tin Ambrose
Fleming – cố vấn khoa học của nhà bác học Halia Marconi mở ra những
khả năng mới về lý thuyết cho sóng điện từ. Báo phát thanh ra đời xuất
hiện manh mún khi có sự ra đời của ăng ten vô tuyến điện và sự ra đời của

19


radio. Ở Việt Nam, trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 chưa có đài phát
thanh với tính chất là cơ quan truyền thông đại chúng của một quốc gia có
chủ quyền mà chỉ có đài phát thanh tư nhân với công suất nhỏ để quảng cáo
thương mại hoặc của đài của thực dân Pháp thực hiện chính sách cai trị.
Vào tháng 9 năm 1945, chương trình phát thanh đầu tiên của Đài tiếng nói
Việt Nam được phát sóng và radio trở thành phương tiện truyền tin phổ
biến ngay sau đó.
Nhìn chung, phát thanh được hiểu như sau: “Phát thanh là một loại
hình truyền thông đại chúng trong đó nội dung thông tin được truyền tải
qua âm thanh”[1,20]. Âm thanh đó bao gồm ba yếu tố: lời nói, âm nhạc và
tiếng động. Có hai loại hình phát thanh chính là: phát thanh qua sóng điện
từ và phát thanh qua hệ thống dây dẫn. Báo phát thanh được hiểu là loại
hình báo chí mà các tin bài, thông tin được chuyển tải qua thiết bị đầu cuối
là Radio bằng ngôn ngữ. Báo phát thanh ra đời từ thế kỷ 19, có ưu điểm
thông tin nhanh nhưng cũng có nhược điểm là không trình bày được các
hình ảnh minh họa. Sự xuất hiện của vệ tinh vào thế kỷ XX đã tạo ra cuộc
cách mạng lớn trong thông tin đại chúng giúp cho tín hiệu phát thanh và
truyền hình được truyền đi khắp thế giới một cách mạnh mẽ và nhanh
chóng. Báo phát thanh được đánh giá dựa trên những ưu thế như tính tiện
lợi, kỹ thuật đơn giản, thiết bị gọn nhẹ và phương thức tiếp nhận thông tin
linh hoạt vì báo mạng và báo truyền hình cần những thiết bị phức tạp hơn.
Báo phát thanh thường được phân chia thành các loại: đài phát thanh
thương mại, đài phát thanh quảng cáo, đài phát thanh giáo dục, đài phát
thanh chính trị xã hội. Mỗi nước đều có hệ thống phát thanh của nhà nước
để thực hiện nhiệm vụ công cộng hoặc các mục đích chính trị, xã hội của
chính phủ và có quy mô và phạm vi ảnh hưởng tùy thuộc vào điều kiện
chính trị của từng quốc gia cụ thể. Báo phát thanh không dùng hình ảnh

nhưng thông qua những phương tiện âm thanh để diễn đạt, truyền tải ý
nghĩa của thông điệp một cách chính xác, hình tượng. Hơn nữa, báo phát
20


thanh vô cùng gần gũi vì những phát thanh viên và kỹ thuật viên sẽ dùng
những âm thanh hết sức trung thực, gần gũi và đời thường.
Là một loại hình truyền thông độc đáo, hấp dẫn, có khả năng tạo
được sức hút và thiện cảm đối với đông đảo công chúng, báo phát thanh có
tầm quan trọng rất lớn trong công tác tuyên truyền, cổ động, nhất là trong
các lĩnh vực giáo dục, y tế. Báo phát thanh có khả năng tác động đến công
chúng và mọi tầng lớp dân cư tuy vậy mỗi nhóm lại chịu tác động của báo
chí với phạm vi, tính chất, mức độ và hiệu quả khác nhau và thường bị tác
động bởi xu hướng báo chí. Báo phát thanh là cầu nối để công chúng cập
nhật và tiếp xúc thông tin với thế giới xung quanh. Không phủ nhận rằng
các sản phẩm báo phát thanh thường hướng vào nhóm công chúng báo chí
để tác động, nhằm lôi kéo, thu phục họ vào phạm vi ảnh hưởng của mình.
Đồng thời, công chúng còn tương tác trở lại, tham gia vào quá trình sáng
tạo tác phẩm – phát tán thông tin, giám sát, quyết định vai trò, vị thế xã hội
của sản phẩm báo chí. Vai trò của báo phát thanh trước hết là để thỏa mãn
nhu cầu thông tin của xã hội. Xã hội càng hiện đại, việc phổ biến thông tin
trên quy mô đại chúng càng trở nên quan trọng và vì vậy, sự phụ thuộc, ảnh
hưởng lẫn nhau giữa các phương tiện thông tin đại chúng và xã hội càng trở
nên chặt chẽ. Trong thời đại bùng nổ thông tin ngày nay, vai trò tích cực
của báo phát thanh càng thúc đẩy nhanh hơn quá trình xã hội hóa các hoạt
động giám sát và phản biện xã hội. Bằng tính chân thật, khách quan, báo
phát thanh thực hiện vai trò quản lý xã hội thông qua hoạt động phản biện
và giám sát xã hội. Tính công khai, công cộng là một xu thế tất yếu, là biểu
hiện quan trọng của nền dân chủ, trong đó có quyền được thông tin và tự do
ngôn luận. Hơn thế, báo phát thanh còn mang tính đại chúng, do vậy, nó tác

động tới xã hội rộng rãi, bao gồm các tầng lớp, các nhóm xã hội khác nhau.
Ưu điểm của báo chí nói chung và báo phát thanh nói riêng là diễn đàn của
nhân dân và phù hợp với nhu cầu tiếp nhận của công chúng. Bởi vậy, báo
21


phát thanh là nhân tố, phương tiện có sức mạnh đặc biệt to lớn trong việc
định hướng nhận thức, hình thành dư luận xã hội. Trong quá trình hội nhập
quốc tế sâu rộng hiện nay, mỗi thông tin trên báo phát thanh đều có thể ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến vị thế, diện mạo của quốc gia, dân tộc.
1.1.2. Khái niệm chương trình phát thanh
Chương trình phát thanh là sự tổ chức các tin tức, bài, tài liệu cùng
các chất liệu khác trong phát thanh theo thời lượng nhất định, mục đích
nhất quán và nhằm vào đối tượng công chúng cụ thể. Trong thực tế, tùy
theo mỗi loại, mỗi chương trình phát thanh có đối tượng tác động riêng và
nội dung phản ánh cũng như phương thức thực hiện riêng. Thính giả có thể
phân biệt được các chương trình phát thanh phụ nữ với chương trình thiếu
nhi, chương trình vì an ninh tổ quốc với chương trình thời sự... Mỗi chương
trình đều có sự phân công và chuyên môn hóa trong quá trình lao động tạo
ra cho các chương trình phát thanh và có sự phân định rõ ràng. Quá trình
tiếp nhận của công chúng gắn liền với các chương trình phát thanh.
Một chương trình phát thanh được xác định là “mở đầu bằng nhạc
hiệu và kết thúc bằng lời chào tạm biệt. Ngay sau nhạc hiệu là lời xướng
của phát thanh viên, chỉ ra tên hoặc đặc trưng của chương trình”. Nhạc hiệu
hoặc nhạc chương trình là một thông báo chính thức giúp người nghe phân
biệt được đài phát thanh quốc gia này, tỉnh này, huyện này so với các đơn
vị khác. Nhạc chương trình để phân biệt các chương trình khác nhau của
đài và người nghe có khả năng nhận diện đó là chương trình nào ngay từ
những phút đầu nghe nhạc hiệu hoặc nhạc chương trình. Lời xướng của
phát thanh viên được dùng như lời thông báo ngắn gọn cho tên chương

trình phát thanh bao gồm tên chương trình, địa chỉ, tần số sóng... và thường
đi kèm với nhạc hiệu của chương trình. Cấu trúc của chương trình phát
thanh đều được quy định cụ thể và thường có ba phần: tin – bài – tiết mục
và được chia thành những đoạn nhạc cắt. Các chương trình chuyên đề
thường có hai phần trở lên và được phân bằng nhạc cắt và có thể tăng lên
22


về số lượng nếu như chương trình có thời lượng lớn. Khi kết thúc một
chương trình, phát thanh viên sử dụng lời kết hoặc lời chào hẹn gặp lại tạo
sự thân thiện và duy trì sự chú ý của người nghe đối với vấn đề họ quan
tâm.
Dựa vào đặc điểm, nội dung, mục đích thông tin và đối tượng người
ta chia chương trình phát thanh thành 4 loại chính là chương trình tin tức,
thời sự tổng hợp, chương trình chuyên đề, chương trình giải trí và chương
trình giáo dục. Việc phân loại này cũng có thể dựa trên tiêu chí đặc điểm
nội dung, mục đích thông tin và đối tượng. Cách phân loại này không chính
xác hoàn toàn vì người ta có thể phân loại các chương trình phát thanh theo
phương pháp và kỹ thuật sản xuất (chương trình sản xuất tại studio, chương
trình sản xuất trực tiếp tại hiện trường; chương trình kết hợp giữa studio và
hiện trường) hoặc phân loại theo lĩnh vực phản ánh.
1.1.3. Công chúng và công chúng nông thôn
Theo từ điển tiếng Việt (2006), công chúng được hiểu là toàn bộ
những người đọc, người xem, người nghe trong quan hệ với tác giả, diễn
viên [20,48]. Nhưng để hiểu một cách sâu sắc hơn về “công chúng” cần đặt
vào bối cảnh lý thuyết về marketing. Theo nghĩa rộng thì công chúng là tất
cả mọi người trong xã hội. Tuy nhiên đối với một tổ chức cụ thể thì công
chúng lại không phải như vậy và công chúng trong mối quan hệ của bộ
môn Quan hệ cộng đồng cũng không hướng đến một “công chúng nói
chung chung”. Khái niệm công chúng của Quan hệ cộng đồng là: “Công

chúng của một cá nhân hay tổ chức là tất cả các cá nhân, các nhóm người
hay các tổ chức có những mối liên hệ nhất định với cá nhân hay tổ chức
đó”[17,66]. Công chúng không chỉ là nhóm người ảnh hưởng đến các chính
sách, quyết định của một tổ chức, công chúng còn nhìn nhận những vấn đề
của cơ quan tổ chức một cách khách quan. Xét trong mối liên quan với tổ
chức, có hai loại công chúng là công chúng ngoại vi và công chúng nội vi.
Công chúng ngoại vi là đối tượng công chúng bên ngoài tổ chức, bao gồm
23


khách hàng, cộng đồng, giới truyền thông… Đối tượng công chúng này
chiếm giữ số lượng lớn so với đối tượng công chúng nội vi. Tuy rằng đối
tượng này không hẳn quan tâm sâu sắc đối với tổ chức cho lắm, họ vẫn
quan tâm tới những vấn đề của tổ chức. Có thể nói, thông qua nhóm công
chúng ngoại vi, tiếng tăm hoặc sự tai tiếng của tổ chức được biết đến rộng
rãi hơn. Công chúng nội vi bao gồm những đối tượng liên quan trực tiếp
đến sự phát triển của tổ chức, ví dụ nhân viên, giám đốc quản lý… Họ rất
quan tâm đến sự phát triển của tổ chức bởi điều đó đi liền với lợi ích của
bản thân họ. Nhóm công chúng đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của tổ
chức.
Công chúng báo chí là những người đọc, người nghe, người xem các
sản phẩm của báo in, báo phát thanh, báo truyền hình và và báo internet.
Đây có thể là toàn thể xã hội hay một nhóm đối tượng và cũng có thể là
một người nhất định trong một thời điểm nào đó khi họ tiếp cận và tiếp
nhận thông tin từ các loại hình báo chí nói trên. Xã hội có nhiều người
thuộc nhiều thành phần khác nhau, họ là nguồn sáng, tạo vô bờ bến của các
nhà báo. Con người trong xã hội nói chung và cả các nhà báo nói riêng đều
là đối tượng tác dộng của báo chí. Khi tác động hoặc hướng tới để tác động
thì bao giờ cũng có mục đích cụ thể hoặc cung cấp thông tin làm thay đổi
nhận thức, quan niệm hoặc thay đổi khơi nguồn cảm hứng…

Công chúng báo chí chính là đối tượng mà báo chí trực tiếp hoặc
gián tiếp tác động, hướng tới nhằm gây ảnh hưởng trong quá trình thông
tin. Công chúng báo chí cũng chinnhs là mục tiêu, là đích hướng tới của
mọi loại hình báo chí: báo in, phát thanh, truyền hình và bso internet. Như
vậy, trong đó bao gồm cả công chúng trực tiếp, công chúng gián tiếp, công
chúng đích, công chúng tiềm năng,…
Theo cuốn Cơ sở lí luận báo chí (2012) của tác giả Nguyễn Văn
Dững, khái niệm công chúng báo chí được hiểu là quần thể dân cư hay
24


nhóm đối tượng mà báo chí gây ảnh hưởng. Như vậy, công chúng báo chí
được xem xét trong mối quan hệ với sản phẩm báo chí, với cơ quan báo chí
và với nhà báo [16,tr.139].
Tùy theo đặc điểm của mỗi loại hình báo chí mà có thể xác định
những khác biệt của từng loại công chúng. Chẳng hạn như : với báo in,
công chúng là bạn đọc; với báo phát thanh, công chúng là người nghe; với
truyền hình, công chúng là người xem; báo internet được coi là loại hình đa
phương tiện.
Báo chí là loại hình thông tin mang tính phổ biến, nhanh nhạy. Khi
được công chúng đón nhận hay tham gia vào hoạt động báo chí, cũng chính
là khi báo chí hoàn thành một công đoạn rất quan trọng của mình; đó là làm
cho hoạt động báo chí gây ảnh hưởng, hướng tới hiệu quả nhất định.
Công chúng báo chí đa dạng phản ánh sự khác biệt của các loại hình
báo chí, cũng như sự phong phú của các ấn phẩm báo chí. Có thể dựa vào
tính chất của mỗi tờ báo để xác định được các nhóm công chúng khác
nhau. Ví dụ như : công chhúng của báo chí chuyên ngành, công chúng của
báo chí chính trị- xã hội, văn hóa xã hội, công chúng của báo chí địa
phương…
Mỗi tờ báo thực hiện tôn chỉ, mục đích của mình bằng việc đáp ứng

nhu cầu của một nhóm công chúng nhất định. Ví dụ : báo Quân đội nhân
dân, Công an nhân dân có công chúng chủ yếu là cán bộ, chiến sĩ phục vụ
trong quân đội, công an; báo Hoa học trò có công chúng chunhs là lứa tuổi
học sinh, báo người cao tuổi có công chúng chủ yếu là người cao tuổi; báo
Hà Nội mới có công chúng chính là cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa
bàn thành phố Hà Nội, báo Sài Gòn giải phóng có công chúng chính là cán
bộ, chiến sĩ phục vụ trong quân đội, công an, học sinh phổ thông, người
cao tuổi,… mà đối tượng chính thường là những người hoạt động trong lĩnh
vực kinh tế, thương mại, có trình độ tương đối và tuổi đời cũng không phải
25


×