Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Bài tiểu luận: Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.06 KB, 24 trang )

Mục lục

Lời mở đầu

Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình phát triển kinh tế
xã hội, hội nhập với nền kinh tế của thế giới. Vì vậy, các mối quan
hệ xã hội, kinh doanh trong thương trường quốc tế ngày càng
được gia tăng và phát triển. Khi các quan hệ kinh doanh càng
phát triển, những tranh chấp xảy ra là điều không tránh khỏi
những lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp nào vừa đảm bảo
có lợi cho thương nhân vừa duy trì được mối quan hệ làm ăn là
việc mà các thương nhân cần cân nhắc.
Pháp luật hiện hành công nhận các phương thức giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh sau: thương lượng, hòa giải, trọng tài
và tòa án. Theo đó, khi xảy ra tranh chấp kinh doanh các bên có
thể giải quyết tranh chấp thông qua việc trực tiếp thương lượng
với nhau. Trong trường hợp không thương lượng được, việc giải
quyết tranh chấp có thể được thực hiện với sự trợ giúp của bên
thứ ba thông qua phương thức hòa giải, trọng tài hoặc tòa án.
Việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh dựa trên
nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Cơ
quan nhà nước và trọng tài thương mại chỉ can thiệp theo yêu cầu
của các bên tranh chấp.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, hoạt động kinh
doanh, thương mại ngày càng đa dạng và không ngừng phát triển


trong tất cả mọi lĩnh vực sản xuất, thương mại, dịch vụ, đầu tư…
Vấn đề lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh, thương mại phải được các bên cân nhắc, lựa chọn phù hợp
dựa trên các yếu tố như mục tiêu đạt được, bản chất của tranh


chấp, mối quan hệ làm ăn giữa các bên, thời gian và chi phí dành
cho việc giải quyết tranh chấp. Chính vì vậy, khi lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp, các bên cần hiểu rõ bản chất và cân
nhắc các ưu điểm, nhược điểm của một phương thức để có quyết
định hợp lý. Đây chính là lý do em chọn đề tài “giải quyết tranh
chấp trong kinh doanh thương mại”.
Chương 1
Khái quát về giải quyết tranh chấp kinh tế

1. Khái quát về giải quyết tranh chấp kinh tế
1.1. Khái niệm:
- Tranh chấp trong kinh doanh là một dạng tranh chấp kinh
tế được hiểu là sự bất đồng chính kiến hay xung đột về quyền,
nghĩa vụ giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp với tư cách là
chủ thể kinh doanh; là những phát sinh trong các khâu từ đầu tư,
sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị
trường nhằm mục đích sinh lợi  Phát sinh trong cả quá trình
sản xuất và tái sản xuất xã hội.
- Đặc trưng: gắn liền với hoạt động kinh doanh và chủ thể
tham gia chủ yếu là các nhà doanh nghiệp.
2

2


- Bản chất: phản ánh những xung đột về lợi ích kinh tế giữa
các bên.

1.2. Các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp kinh tế
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh là cách thức, phương

pháp cũng như các hoạt động để khắc phục và loại trừ các tranh
chấp đã phát sinh nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
chủ thể kinh doanh, bảo vệ trật tự, kỷ cương xã hội.
Các yêu cầu trong giải quyết tranh chấp trong kinh doanh:
- Nhanh chóng, thuận lợi, không hạn chế, cản trở hoạt động
kinh doanh;
- Khôi phục và duy trì các quan hệ hợp tác, tín nhiệm giữa
các bên trong kinh doanh
- Giữ bí mật kinh doanh và uy tín của các bên trên thương
trường;
- Chi phí ít tốn kém nhất
- Phán quyết phải chính xác và có khả năng thi hành cao

1.3. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp trong kinh
doanh
- Giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các
bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt lợi ích mà các bên có thể chấp
nhận được.
3

3


- Đảm bảo về mặt lợi ích giữa các chủ thể trong kinh doanh,
giữa các công nhân trước pháp luật, góp phần thiết lập sự cân
bằng, giữ gìn trật tự kỉ cương, pháp luật.
- Giải quyết nhanh chóng, thuận tiện là điều kiện để tạo
dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, đảm bảo quyền tự do của
công dân.
- Ngoài ra thông qua việc giải quyết tranh chấp còn đánh giá

được việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn kinh doanh, chỉ ra
những bất cập, tạo định hướng cho việc hòan thiện pháp luật về
hoạt động kinh doanh, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kinh
tế phát triển.
Chương 2
Các hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại

Giải quyết tranh chấp được quy định trong Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2004 (còn hiệu lực đến ngày 30/6/2016, kể từ ngày
01/7/2016, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 sẽ có hiệu lực thi
hành); và hình thức giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
thương mại được quy định hình thức giải quyết tranh chấp tại
Điều 317 - Luật Thương mại năm 2005 với nội dung
như sau:
“1. Thương lượng giữa các bên.

4

4


2. Hòa giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá
nhân được các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
Thủ tục giải quyết tranh chấp trong thương mại tại Trọng tài,
Toà án được tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Toà
án do pháp luật quy định”.

1. Thương lượng

1.1. Khái niệm:
Thương lượng là hình thức giải quyết tranh chấp không cần
đến vai trò tác động của bên thứ ba.

1.2. Đặc điểm:
- Các bên cùng nhau bàn bạc, thoả thuận để tự giải quyết
các bất đồng mà không có sự can dự của bất cứ bên thứ 3 nào,
các bên tự bàn bạc, thoả hiệp và đi đến chấm dứt xung đột.
- Là hình thức mang tính tự phát không bị ràng buộc bởi các
thủ tục pháp lý.

1.3. Ưu điểm
- Tiết kiệm chi phí và thời gian, tiền bạc
- Giữ bí mật được trong hoạt động kinh doanh
5

5


- Giữ uy tín cho các bên
- Đáp ứng cơ hội của các hoạt động kinh doanh
- Không gây phiền hà và không bị ràng buộc bởi các thủ tục
pháp lý
1.4. Nhược điểm
- Kết quả của thương lượng còn phụ thuộc vào mức độ hiểu
biết, thái độ, thiện chí, và hợp tác của các bên tranh chấp;
- Kết thúc thương lượng không phải cuộc thương lượng nào
cũng giải quyết được xung đột;
- Kết quả của thương lượng không được đảm bảo bởi các cơ
chế pháp lý bắt buộc mà phụ thuộc vào sự tự nguyện thi hành của

các bên;
- Có 1 số chủ thể với sự không hợp tác và thiện chí đã trì
hoãn quá trình thương lượng để kéo dài thời gian vụ tranh chấp.

1.5. Kết luận
- Thực tế, thương lượng thường được tiến hành ngay sau khi
xảy ra tranh chấp, các bên cố gắng giải quyết tranh chấp một
cách nhanh chóng để duy trì mối quan hệ lâu dài trong kinh
doanh;
- Pháp luật Việt Nam quy định các bên cần tiến hành thương
lượng sau đó mời thực hiện các hình thức giải quyết khác;

6

6


- Chỉ áp dụng cho các tranh chấp nhỏ, đơn giản mức xung
đột không cao.

2. Hòa giải
2.1. Khái niệm
Hòa giải là hình thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia
của bên thứ 3 đóng vai trò làm trung gian để hỗ trợ hoặc thuyết
phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm chấm dứt
xung đột hoặc bất hòa.

2.2. Phân loại
Hòa giải gồm có 2 loại: hòa giải ngoài thủ tục tố tụng và hòa
giải trong thủ tục tố tụng.

2.2.1. Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng
- Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là việc các bên mời một tổ
chức hoặc cá nhân đứng ra làm trung gian để cùng đàm phán,
thương lượng.
- Cơ sở: các bên tranh chấp cung cấp thông tin cho nhau và
trình bày quan điểm. Người hòa giải hướng các bên tham gia vào
việc tìm kiếm những giải pháp thích hợp và phải được sự nhất trí
của 2 bên.

7

7


- Sự nhất trí của 2 bên được thế hiện bằng văn bản, có xác
nhận của bên đứng ra làm trung gian hòa giải và có giá trị ràng
buộc đối với các bên tham gia.
2.2.2. Hòa giải trong tố tụng
- Hòa giải trong tố tụng là việc hòa giải được tiến hành tại
toà án hoặc trọng tài khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp
theo yêu cầu của các bên.
- Đặc điểm:
+ Hòa giải trong tố tụng là thủ tục bắt buộc đối với cả toà án
với trọng tài;
+ Người đứng ra làm trung gian: thẩm phán hoặc trọng tài
viên;
+ Trong quá trình hòa giải, thẩm phán hoặc trọng tài viên
không được ép buộc mà phải tôn trọng tính tự nguyện, thiện chí
giữa các bên.
- Cơ sở:

+ Khi các bên đi đến thoả thuận để giải quyết các xung đột,
thẩm phán hoặc trọng tài lập biên bản hòa giải;
+ Biên bản hòa giải có hiệu lực pháp luật cao bởi không có
sự kháng cáo kháng nghị hay bị yêu cầu toà án huỷ quyết định.
- Kết quả hòa giải phụ thuộc vào:
+ Thiện chí giữa các bên tham gia tranh chấp

8

8


+ Uy tín, kinh nghiệm và kĩ năng của người đứng ra làm
trung gian hòa giải.

2.3. Ưu điểm:
- Thủ tục hòa giải được tiến hành nhanh gọn, chi phí thấp,
các bên có quyền tự định đoạt, lựa chọn bất kỳ người nào làm
trung gian hòa giải cũng như địa điểm tiến hành hòa giải.
- Tiếp tục giữ gìn và phát triển các mối quan hệ kinh doanh
vì lợi ích của cả hai bên.
- Hình thức giải quyết này đặc biệt hiệu quả khi giải quyết
những tranh chấp kinh doanh, thương mại mang tính chất kỹ
thuật (xây dựng, tài chính … ).
- Các bên trong vụ việc tranh chấp hòan toàn có quyền chủ
động trong việc tìm kiếm một hòa giải viên có đủ hiểu biết để
tham gia giải quyết tranh chấp.
- Các bên kiểm soát được các tài liệu chứng cứ có liên quan
(những bí mật kinh doanh) trong khi giải quyết tại tòa án thì các
yêu cầu này không được đảm bảo do tòa án thực hiện xét xử theo

nguyên tắc công khai.
2.4. Nhược điểm:
- Việc hòa giải có được tiến hành hay không phụ thuộc vào
sự nhất trí của các bên,
- Hòa giải viên không có quyền đưa ra một quyết định ràng
buộc hay áp đặt bất cứ vấn đề gì đối với các bên tranh chấp thỏa
9

9


thuận hòa giải không có tính bắt buộc thi hành như phán quyết
của trọng tài hay của tòa án.
- Ít được sử dụng nếu các bên không có sự tin tưởng với
nhau.

3. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng trọng tài là
hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài
viên, với tư cách là một bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt các
xung đột bằng cách đưa ra một phán quyết buộc các bên tham
gia tranh chấp phải thực hiện.
Đây là hình thức giải quyết tranh chấp rất phổ biến, được áp
dụng rộng rãi do những ưu điểm và lợi thế mà các hình thức giải
quyết tranh chấp khác không có được như:
- Các bên được bảo đảm tối đa quyền tự do định đoạt trên
nhiều phương diện (lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm, thủ
tục, phương thức giải quyết tranh chấp…)
- Thủ tục đơn giản, ngắn gọn và trong trường hợp cần thiết
thì bảo đảm bí mật hơn so với giải quyết bằng Tòa án.

- Bên cạnh đó, phán quyết của trọng tài là một ràng buộc có
hiệu lực thi hành không bắt buộc phải dựa trên sự thống nhất của
đôi bên.

10

10


4. Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng toà án
4.1. Khái niệm
Giải quyết tranh chấp trong kinh doanh bằng toà án là hình
thức giải quyết tranh chấp do cơ quan tài phán của Nhà nước
thực hiện, gắn liền với quyền lực nhà nước.
4.2. Đặc điểm
- Được tiến hành khi mà việc áp dụng cơ chế thương lượng,
hòa giải không có hiệu quả và các bên tranh chấp cũng không
thoả thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài
- Đặc trưng cơ bản của thủ tục giải quyết tranh chấp bằng
toà án là thông qua hoạt động của bộ máy tư pháp và nhân danh
quyền lực nhà nước để đưa ra phán quyết
- Phạm vi và thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết
tranh chấp trong kinh doanh được pháp luật các nước quy định
khác nhau.
- Thẩm quyền của các cơ quan tài phán nhà nước ở các quốc
gia là khác nhau nhưng tập trung vào các lĩnh vực tranh chấp:
+ Tranh chấp hợp đồng thương mại;
+ Tranh chấp liên quan đến tổ chức và hoạt động của công
ty;
+ Tranh chấp liên quan đế việc bảo hộ nhãn hiệu thương

mại;
+ Tranh chấp thương mại hàng hải;
11

11


+ Tranh chấp phát sinh trong quá trình bảo hộ cạnh tranh và
chống cạnh tranh bất hợp pháp;
+ Tranh chấp liên quan đến hoạt động phát hành cà kinh
doanh chứng khoán.
4.3. Ưu điểm:
- Trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ và độ tin cậy vào hiệu lực
của phán quyết
- Có sức mạnh cưỡng chế nên góp phần vào việc nâng cao ý
thức tôn trọng pháp luật cho các chủ thể kinh doanh
4.4. Nhược điểm
- Không giữ được bí mật kinh doanh
- Thủ tục tại toà thiếu linh hoạt

Tóm lại, mỗi hình thức giải quyết đều mang những đặc điểm
cơ bản riêng, với những ưu nhược điểm nhất định. Sự đa dạng
trong cơ chế giải quyết tranh chấp xét cho cùng cũng là biểu hiện
đặc trưng về tính đa dạng của các quan hệ kinh tế trong điều kiện
nền kinh tế thị trường.
Chương 3
Giải quyết các tranh chấp kinh tế bằng trọng tài thương
mại

12


12


1. Trọng tài thương mại:
Khoản 1, Điều 3 – Luật Trọng tài Thương mại 2010 quy định:
“Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do
các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật
này”.

2. Trung tâm trọng tài
2.1. Chức năng:
Theo Điều 23 – Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy
định: “Trung tâm trọng tài có chức năng tổ chức, điều phối hoạt
động giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài quy chế và hỗ trợ
Trọng tài viên về các mặt hành chính, văn phòng và các trợ giúp
khác trong quá trình tố tụng trọng tài”.

2.2. Điều kiện thành lập
Theo Khoản 1, Điều 24 - Luật Trọng tài thương mại năm 2010
quy định: “Trung tâm trọng tài được thành lập khi có ít nhất năm
sáng lập viên là công dân Việt Nam có đủ điều kiện là Trọng tài
viên quy định tại Điều 20 của Luật này đề nghị thành lập và được
Bộ trưởng Bộ Tư pháp cấp Giấy phép thành lập”.

13

13



2.3. Thẩm quyền:
- Giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ kinh tế
như các hợp đồng mua bán ngoại thương, các hợp đồng đầu tư,
du lịch, vận tải và bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín
dụng và thanh toán quốc tế, khi mà một hay các bên đương sự là
thể nhân hay pháp nhân trong nước hay nước ngoài.
- Giải quyết các tranh chấp phát sinh ở hợp đồng kinh tế
giữa: pháp nhân với pháp nhân, pháp nhân với doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp tư nhân với cá nhân kinh doanh; phát sinh giữa công ty với
các thành viên của công ty và giữa các thành viên của công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty;
các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
- Thẩm quyền của trọng tài không được xác lập theo vùng
lãnh thổ cho nên về nguyên tắc các bên có quyền lựa chọn bất kỳ
trung tâm nào để giải quyết tranh chấp không phụ thuộc vào nơi
đặt trụ sở hoặc nơi cư trú của các bên.

2.4. Nguyên tắc tố tụng
- Trọng tài chỉ " xét xử" 1 lần
- Tố tụng trọng tài kinh tế không quy định nguyên tắc xét xử
công khai như toà án mà xét xử bí mật chỉ những người được mời
mới được tham dự phiên họp.

14

14


- Tố tụng trọng tài không theo nguyên tắc xét xử tập thể mà

bằng 1 trọng tài viên do đương sự lựa chọn
- Việc giải quyết tranh chấp kinh tế theo tố tụng bao gồm
các giai đoạn sau:
+ Nguyên đơn gửi đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đến
một trung tâm trọng tài kinh tế kèm theo văn bản thoả thuận của
các bên về việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết ở trung tâm trọng
tài kinh tế đó. (Trung tâm trọng tài kinh tế chỉ nhận đơn yêu cầu
giải quyết tranh chấp nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp
các bên đã có thoả thuận bằng văn bản về việc đưa vụ tranh chấp
ra giải quyết tại chính trung tâm trọng tài kinh tế đó).
+ Trong một thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn yêu
cầu, thư ký trung tâm trọng tài kinh tế phải gửi bản sao đơn yêu
cầu của nguyên đơn và danh sách trọng tài viên cho bị đơn đồng
thời ấn định thời hạn bị đơn phải gửi văn bản trả lời cho trung tâm
trọng tài kinh tế.
+ Trọng tài viên tiến hành các công việc cần thiết cho việc
giải quyết tranh chấp như nghiên cứu hồ sơ, nghe các bên trình
bày, trưng cầu giám định, ...
+ Tổ chức phiên họp giải quyết tranh chấp.
+ Việc giải quyết vụ tranh chấp được kết thúc bằng quyết
định.
- Toàn bộ các hoạt động có liên quan, trong bất kì bước nào
và do ai thực hiện cũng phải tuân theo nguyên tắc tôn trọng
15

15


quyền tự do định đoạt của các bên tranh chấp và bảo đảm sự độc
lập của trọng tài viên trong hoạt động xét xử.

+ Nguyên tắc tự do định đoạt: Nguyên tắc này thể hiện các
bên đương sự có quyền tự do lựa chọn trọng tài viên.
+ Nguyên tắc đảm bảo sự độc lập của trọng tài viên trong
hoạt động xét xử: việc thực hiện nguyên tắc này nhằm đảm bảo
tính khách quan trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp. Nội
dung của nguyên tắc này thể hiện trên 2 khía cạnh: không có bất
cứ ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên; các
trọng tài viên hòan toàn bình đẳng với nhau trong hoạt động xét
xử.
2.5. Giải quyết tranh chấp:
- Điều kiện: phải có đơn yêu cầu và văn bản thỏa thuận của
các bên về việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại trung tâm
trọng tài kinh tế đó và những tài liệu cần thiết để chứng minh cho
yêu cầu của mình.
- Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu,
Thư ký Trung tâm trọng tài kinh tế phải gửi cho bị đơn bản sao
đơn yêu cầu của nguyên dơn và Danh sách trọng tài viên, đồng
thời ấn định thời hạn bị đơn phải gửi văn bản trả lời cho Trung tâm
trọng tài kinh tế.
- Trọng tài viên có thể nghe các bên trình bày ý kiến và cũng
có thể tìm hiểu sự việc từ những người khác với sự có mặt của các
bên sau khi đã thông báo cho các bên biết. Ngoài ra, trọng tài
16

16


viên có thể trưng cầu giám định và yêu cầu các bên cung cấp
thêm các bằng chứng và tài liệu có liên quan.
- Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận về thời gian, địa

điểm phiên họp giải quyết tranh chấp. Trường hợp không có sự
thỏa thuận thì Chủ tịch Hội đồng trọng tài hoặc Trọng tài viên (duy
nhất) ấn định, nhưng giấy triệu tập tham dự phải gửi cho các bên
tham gia chậm nhất 15 ngày trước khi mở phiên họp.
- Đáng lưu ý, việc giải quyết tranh chấp được tiến hành căn
cứ vào những điều khoản của hợp đồng và pháp luật hiện hành.
Điều này có nghĩa là khác với quy tắc tố tụng của nhiều trung tâm
trọng tài khác trên thế giới (nhất là các trung tâm trọng tài quốc
tế), việc giải quyết tranh chấp tại các Trung tâm trọng tài kinh tế
ở nước ta không áp dụng nguyên tắc tự thỏa thuận về luật áp
dụng.
- Các bên có thể tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp
pháp tham gia vào việc giải quyết tranh chấp cũng như có thể
mời luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
- Theo đề nghị của các bên hoặc được các bên chấp thuận,
vụ tranh chấp có thể được giải quyết mà không có lý do chính
đáng thì căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có, phiên họp giải
quyết tranh chấp vẫn được tiến hành.
- Khi các bên đạt được thỏa thuận bằng thương lượng thì
trọng tài chấm dứt việc giải quyết và các bên có thể yêu cầu
Trung tâm trọng tài xác nhận sự thỏa thuận đó bằng văn bản, văn
bản này có giá trị như Quyết định trọng tài.
17

17


- Mọi diễn biến của phiên họp giải quyết tranh chấp được
Thư ký trung tâm trọng tài ghi thành biên bản và được các Trọng
tài viên cùng ký.

- Các bên có quyền tìm hiểu nội dung biên bản. Những điểm
thay đổi hoặc bổ sung biên bản theo yêu cầu của một hay các
bên do Chủ tịch Hội đồng trọng tài hoặc Trọng tài viên (duy nhất)
quyết định.
2.6. Quyết định trọng tài:
- Việc giải quyết vụ tranh chấp được kết thúc bằng quyết
định. Nếu việc giải quyết thông qua một Hội đồng thì quyết định
được thông qua bằng biểu quyết theo nguyên tắc đa số.
- Hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên có thể ra quyết định
giải quyết từng phần của vụ tranh chấp, nếu thấy điều đó là hợp
lý. Điều này làm hạn chế những ách tắc trong hoạt động kinh
doanh, nhất là đối với những vụ tranh chấp có tình tiết phức tạp
mà nếu đổi giải quyết dứt điểm một lần thì rất mất thời gian,
thậm chí gây khó khăn trong việc duy trì các hoạt động kinh
doanh bình thường của các bên tham gia.
- Quyết định trọng tài được công bố cho các bên ngay sau
khi kết thúc phiên họp hoặc có thể công bố sau nhưng chậm nhất
là 5 ngày kể từ ngày kết thúc phiên họp và được gửi cho các bên
trong vòng 3 ngày kể từ ngày ra quyết định.
- Quyết định trọng tài phải có chữ ký của tất cả các trọng tài
viên và sau khi được công bố không có ai có quyền sửa chữa, bổ
18

18


sung, trừ trường hợp có sai sót rõ ràng về số liệu tính toán hoặc
về chính tả nhưng phải thông báo cho các bên biết.

2.7. Lệ phí trọng tài:

- Lệ phí trọng tài là khoản tiền mà các bên tranh chấp phải
trả cho trung tâm trọng tài kinh tế để trang trải cho các khoản chi
phí phát sinh từ việc giải quyết vụ tranh chấp.
- Biểu phí trọng tài do từng trung tâm trọng tài kinh tế ấn
định, trên cơ sở khung lệ phí trọng tài cho cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định.
- Lệ phí trọng tài do bên thua kiện trả, nếu các bên không có
thỏa thuận khác. Mức lệ phí trọng tài đối với từng vụ kiện được ghi
trong quyết định trọng tài.

2.8. Hiệu lực của phán quyết
Kết quả giải quyết tranh chấp có thể là một thoả thuận hòa
giải hoặc 1 phán quyết trọng tài. Phán quyết của trọng tài quốc tế
là chung thẩm không thể kháng cáo trước bất cứ Toà án hay tổ
chức nào khác. Các bên phải tự nguyện thi hành trong thời hạn
được quy định trong phán quyết. Nếu phán quyết không được tự
nguyện thi hành trong thời hạn được quy định thì sẽ áp dụng các
biện pháp cưỡng chế.

19

19


2.9. Ví dụ về giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng
tài:
Vụ việc tranh chấp về giao hàng thiếu trong hợp đồng
mua bán quần áo trẻ em
Các bên:
Nguyên đơn

Bị đơn

: Người mua Cuba

: Người bán Trung Quốc

Tóm tắt vụ việc:
Ngày 25 tháng 12 năm 1986, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết
một hợp đồng mua bán theo đó Bị đơn phải cung cấp 19.500 tá
quần áo trẻ em sợi hỗn hợp với số lượng và giá cả khác nhau.
Tổng trị giá hợp đồng là 404.415 USD, FOB cảng Trung Quốc,
đóng vào hộp giấy, gửi hàng đi vào quý 1 và quý 2 năm 1987.
Tháng 6 năm 1987 Bị đơn giao 900 hộp giấy chứa hàng hoá theo
hợp đồng. Số hàng này đã được bốc lên tàu của Cuba và đã rời đi
cảng Havana, Cuba.
Theo Nguyên đơn, khi hàng đến cảng Havana Nguyên đơn đã
xác nhận rằng bề ngoài của số thùng giấy là không có vấn đề gì
nhưng có một số thùng có trọng lượng không đủ. Nguyên đơn đã
vận chuyển số hàng nói trên vào kho. Cơ quan giám định sở tại đã
xác nhận thiếu 606 quần/áo trong 19 thùng hàng được giám định
(trong số 300 thùng) so với NQ 9114, B/L52, hoá đơn SUL 30047

20

20


được giao. Kết quả giám định 61 thùng hàng theo NQIOO58-4,
B/L53, hoá đơn SUL 30048 xác định thiếu 1.845 quần/áo.
Nguyên đơn hy vọng sẽ đạt được một thoả thuận thông qua

đàm phán với Bị đơn, nhưng Bị đơn đã không chấp nhận đàm
phán. Căn cứ vào Điều 42 Các điều kiện chung về giao hàng,
Nguyên đơn cho rằng Bị đơn phải chịu trách nhiệm cho số hàng
thiếu và yêu cầu Bị đơn bồi thường cho các thiệt hại về kinh tế
như sau:
1. Khoản tiền 4.245,01 USD thanh toán cho số hàng giao thiếu,
bao gồm: 606 quần/áo, tương đương với 50,5 tá theo
NQ9114 với giá 22,29 USD/tá, là 1.125,65 USD; 1.854
quần/áo, tương đương với 154,5 tá theo NQ10058-4 với giá
20,19 USD/tá, là 3.119,36 USD;
2. Phí giám định 180 USD;
3. Phí trọng tài.

Trong văn bản trả lời, Bị đơn giải trình như sau:
1. Theo các qui định tại Điều 14 Các điều kiện chung về giao
hàng, số lượng và khối lượng của hàng hoá được xác định
theo vận đơn đường biển. Sau khi hàng đã được bốc lên tàu,
Bị đơn nhận vận đơn sạch do thuyền trưởng phát hành xác
nhận hàng hoá hợp lệ và phù hợp với số lượng ghi trong hoá
đơn và bản chứng nhận số thùng hàng với các chi tiết ghi
trên vận đơn. Ngoài ra, từ các tài liệu do Nguyên đơn trình,
21

21


71 thùng (30-40% trong tổng số 120 thùng) thiếu về số
lượng, và hầu hết là thiếu loại quần áo cỡ 36 hoặc 48. Nếu
tình trạng này nghiêm trọng đến mức như Nguyên đơn biện
luận thì chắc chắn có nhiều thùng hàng rỗng hoặc đã bị mở

và nếu thế thì thuyền trưởng chắc chắn đã không ký vận đơn
sạch. Hơn nữa, Nguyên đơn cũng đã xác nhận rằng khi được
chuyển đến, các thùng hàng vẫn hợp lệ, Nguyên đơn đã
không trình được chứng nhận giám định hàng hoá để chứng
minh hàng bị thiếu về khối lượng và trong thùng có nhiều thứ
khác không phải là hàng hoá. Do đó cần phải bác yêu cầu
của Nguyên đơn liên quan đến việc giao thiếu hàng.
2. Điều 15 Các điều kiện chung về giao hàng qui định: “Đơn vị
khối lượng và đơn vị đo của bản giám định và xác nhận hàng
hoá cung cấp phụ thuộc vào các tài liệu của bên bán”. Xác
nhận về số thùng hàng do Bị đơn cung cấp chứng minh rằng
số hàng được giao phù hợp với các qui định của hợp đồng và
cần phải dựa vào bản xác nhận này để xác định số hàng đã
giao.
3. Hợp đồng được ký theo điều kiện FOB. Theo các qui định
trong INCOTERMS, một khi hàng hoá đã được chuyển qua lan
can tàu tại cảng bốc hàng, mọi rủi ro về mất mát hoặc tổn
thất đối với hàng hoá cũng được chuyển cho bên mua. Vì
vậy, yêu cầu của Nguyên đơn là không có cơ sở.

Phán quyết của trọng tài:
22

22


Theo Điều 14 Các điều kiện chung về giao hàng, số lượng
hàng do Bị đơn giao được xác định theo vận đơn đường biển.
Trong các thùng hàng thuộc vận đơn số 52 và 53, số hàng được
ghi lần lượt là 300 và 600 thùng. Mặc dù trên vận đơn đường biển

có ghi tổng trọng lượng của hàng hoá, nhưng không ghi số hàng
trong từng thùng hoặc khối lượng của mỗi thùng hàng. Theo
chứng nhận giám định của Cục giám định hàng hoá Cuba, tất cả
các thùng hàng đều hợp lệ. Có tổng số 2.460 quần/áo thiếu trong
71 thùng.
Bị đơn đã trình chứng nhận về hàng hoá được đóng vào
thùng khi số hàng này còn ở trong nhà máy, nhưng hàng đã
không được bốc trực tiếp lên tàu sau khi rời nhà máy mà được vận
chuyển bằng nhiều phương tiện, rồi cuối cùng mới được bốc lên
tàu. Do đó, không loại trừ khả năng việc thiếu hàng xảy ra trước
khi số hàng này được bốc lên tàu. Uỷ ban trọng tài cho rằng Điều
42 Các điều kiện chung về giao hàng đã qui định rõ quyền của các
bên được khiếu nại về việc thiếu hàng hoá và do đó Bị đơn phải
chịu trách nhiệm về việc thiếu hàng này.

 Phán quyết:
1. Bị đơn phải bồi thường cho Nguyên đơn 4.425,01 USD là
khoản tiền đã trả cho số hàng thiếu, và 180 USD phí giám
định.
2. Phí trọng tài sẽ do Bị đơn chịu.

23

23


Tài liệu tham khảo
1.
/>2.
/>3. />4. Giáo trình Luật kinh tế Việt Nam – NXB Đại học Quốc Gia

Hà Nội
5. Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 và các văn bản pháp
luật hướng dẫn có liên quan.

24

24



×