Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Địa vị pháp lý - hành chính của các tổ chức xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.97 KB, 9 trang )

Địa vị pháp lý - hành chính của các tổ chức xã hội
I - Khái niệm, phân loại các tổ chức xã hội
Các tổ chức xã hội là những bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị ở nước ta
được hình thành trên cơ sở tự nguyện và tự quản của những thành viên tham gia nhằm
đáp ứng những lợi ích đa dạng của nhân dân lao động, thu hút đông đảo quần chúng vào
quản lý các công việc của Nhà nước và xã hội, nâng cao tính tích cực chính trị của mỗi cá
nhân.
Cùng với quá trình hoàn thiện hệ thống chính trị, vai trò của các tổ chức ngày càng
được nâng cao, phát triển về mặt số lượng các hiệp hội, đoàn thể trên cơ sở nghề nghiệp
hoặc sở thích, phát triển về chất lượng trong đời sống xã hội, đời sống nhà nước.
Trong đời sống xã hội, các tổ chức xã hội là chỗ dựa của Nhà nước nhằm tuyên
truyền, giáo dục quần chúng thực hiện các nhiệm vụ quản lý. Các tổ chức xã hội có
những đặc điểm làm cho nó khác với các cơ quan nhà nước. Các tổ chức xã hội có những
đặc điểm sau:
- Hình thành trên cơ sở tự nguyện, tự quản của các thành viên nhằm thoả mãn lợi
ích của các thành viên, của xã hội.
- Hoạt động trên cơ sở thuyết phục, giáo dục và các biện pháp tác động xã hội,
không mang tính cưỡng chế nhà nước.
- Các quyết định của các tổ chức xã hội chỉ có hiệu lực đối với các thành viên của
mình, không có hiệu lực với những người ngoài tổ chức đó, trừ một số trường hợp do quy
định của pháp luật.
- Quan hệ giữa các thành viên dựa trên nguyên tắc bình đẳng. Còn trong quản lý
hành chính nhà nước đặc trưng chủ yếu là quan hệ mệnh lệnh, phục tùng.
- Tài sản của chúng do sự đóng góp của các thành viên, do hoạt động sản xuất, kinh
doanh của các tổ chức đó, các nguồn tài trợ khác nhau của Nhà nước, tổ chức phi chính
phủ ở trong và ngoài nước.
Từ những đặc điểm nêu trên, có thể hiểu tổ chức xã hội là một tổ chức nhân dân
1


hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện, tự quản của các thành viên nhằm thoả mãn


những lợi ích và nguyện vọng của nhân dân lao động, thu hút họ vào quản lý các công
việc của Nhà nước và xã hội.
Các tổ chức xã hội có thể được phân loại theo nhiều tiêu chuẩn khác nhau: sở thích;
lứa tuổi; giới tính; nghề nghiệp; tính chất chính trị trong hoạt động; phạm vi hoạt động;
địa vị pháp lý; vị trí trong hệ thống chính trị.
Căn cứ vào vị trí trong hệ thống chính trị và phạm vi hoạt động có thể phân loại như
sau:
a) Đảng là tổ chức chính trị, có cương lĩnh, đường lối và đóng vai trò quan trọng
trong hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã
hội. Điều đó thể hiện ở chỗ các đường lối, chính sách của Đảng là kim chỉ nam cho hoạt
động của Nhà nước và xã hội. Nhiều chính sách của Đảng được thể chế hoá thành pháp
luật. Tuy lãnh đạo hệ thống chính trị nhưng Đảng không can thiệp trực tiếp vào công việc
nhà nước mà định ra phương hướng hoạt động và kiểm tra việc thực hiện đường lối của
mình trong bộ máy nhà nước. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật.
b) Các tổ chức chính trị - xã hội bao gồm: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Công
đoàn; Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam; Hội
Nông dân Việt Nam; Hội Cựu chiến binh. Những tổ chức này có cơ cấu tổ chức hoàn
thiện và đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị, ảnh hưởng của chúng trong việc
ra quyết định quản lý, ban hành đường lối, chủ trương của Nhà nước cũng lớn hơn so với
những hội quần chúng ở phạm vi địa phương.
Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao
động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền
lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh
tế; giáo dục cán bộ, công chức, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc. Ngoài ra, công đoàn có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản
xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động; thực
2



hiện chức năng giáo dục, động viên người lao động thực hiện nghĩa vụ công dân, kiểm
tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức trong việc tuân thủ pháp luật lao
động, bảo hiểm xã hội. Công đoàn là chỗ dựa quan trọng của Nhà nước. Các tổ chức công
đoàn được thành lập ở mọi cơ quan, tổ chức nhà nước, đơn vị kinh tế, kể cả tổ chức kinh
tế của tư nhân, nhằm bảo vệ lợi ích người lao động trên cơ sở của pháp luật, đường lối
chính sách của Đảng.
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội của thanh niên
có nhiệm vụ thu hút thế hệ trẻ vào những hoạt động xã hội bổ ích, giáo dục lối sống con
người mới, những người nắm giữ vận mệnh của đất nước. Đoàn thanh niên là trường học,
nơi đào tạo ra các cán bộ, công chức có phẩm chất trong bộ máy nhà nước, hoặc giữ
những chức vụ trọng trách trong tổ chức Đảng, công đoàn.
Các tổ chức của Đoàn thanh niên được hình thành trên phạm vi cả nước, các tổ chức
đoàn đều có mặt ở địa phương, các cơ quan nhà nước, từ Trung ương đến địa phương.
Hội Liên hiệp Phụ nữ là tổ chức chính trị - xã hội rộng lớn nhằm thu hút các tầng
lớp phụ nữ tham gia vào đời sống nhà nước, đời sống xã hội. Ngoài ra, Hội Liên hiệp Phụ
nữ có vai trò bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, đấu tranh với những biểu hiện phân biệt đối xử
với phụ nữ.
Hội Nông dân Việt Nam là một tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân Việt
Nam, nhằm động viên, tổ chức nông dân cả nước hăng hái thi đua sản xuất, giáo dục tinh
thần yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội. Thông qua tổ chức này, ý nguyện của nông dân
được phản ánh với Nhà nước. Hội Nông dân Việt Nam tham gia thảo luận ban hành các
chủ trương, chính sách phù hợp với lợi ích của nông dân, một bộ phận dân cư lớn nhất ở
nước ta.
c) Các hội quần chúng trong các ngành kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, thể
thao và quốc phòng (theo tiêu chuẩn nghề nghiệp). ở nước ta, số lượng các hội quần
chúng đang có xu hướng phát triển, hiện nay có khoảng 170 hội quần chúng hoạt động
trên phạm vi cả nước, khoảng 1.000 hội hoạt động ở các tỉnh, thành phố, địa phương.
d) Các cơ quan xã hội được hình thành theo sáng kiến của Nhà nước và không có
3



cơ cấu tổ chức chặt chẽ, hoạt động dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nhà nước.
đ) Các tổ chức kinh tế tự nguyện (theo tính chất sản xuất) là những tổ chức hình
thành nhằm tổ chức thu hút người lao động vào một tổ chức nhất định nhằm tương trợ,
giúp đỡ lẫn nhau việc thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu sản xuất. Đó là các hợp tác xã
nông, lâm, ngư nghiệp.
II- Sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động của các tổ chức xã hội
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống
chính trị, Nhà nước quan tâm đến việc nâng cao tính tích cực chính trị của các tổ chức xã
hội, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức xã hội tham gia vào quản lý công việc Nhà
nước.
Địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội được quy định trong Hiến pháp, các luật,
những văn bản dưới luật. Những vấn đề cơ bản được pháp luật điều chỉnh gồm lập hội,
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, giữa các tổ chức xã hội và Nhà nước, trình tự giải
thể hoạt động của các tổ chức xã hội, các hình thức khen thưởng... nhưng pháp luật không
điều chỉnh mọi hoạt động của các tổ chức xã hội.
Việc lập hội được tiến hành theo trình tự:
- Bộ Nội vụ quyết định việc thành lập, giải thể, phê duyệt điều lệ của hội, tổ chức
phi chính phủ;
- Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho phép lập hội, quản lý, hướng dẫn và kiểm tra việc
thành lập và hoạt động của các hội theo quy định của pháp luật.
Các tổ chức xã hội tự thảo và quyết định điều lệ hoạt động của mình. Song khi đăng
ký lập hội phải báo cáo điều lệ với cơ quan quản lý hành chính nhà nước có thẩm quyền
xét và cho phép hoạt động. Nếu sửa lại điều lệ cũng phải báo cáo với cơ quan nhà nước
đã cho phép thành lập. Nguyên tắc này được áp dụng đối với các hội tổ chức quần chúng
theo tính chất nghề nghiệp, không áp dụng đối với tổ chức xã hội là thành viên của Uỷ
ban mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Những hoạt động tổ chức nội bộ như bầu cử ban lãnh đạo, chi phí tài chính, phát
4



động các phong trào thi đua, sắp xếp cơ cấu do các tổ chức xã hội quyết định theo quy
định của điều lệ hoặc quyết định của đại hội đại biểu.
Các tổ chức xã hội có thể chấm dứt hoạt động khi có các cơ sở sau:
Thứ nhất, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử và tuyên bố tự giải thể. Pháp luật quy định
sau khi tuyên bố tự giải thể, chậm nhất một tháng phải nộp lên cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp giấy phép toàn bộ hồ sơ, con dấu, tài liệu thanh quyết toán tài sản chuyển giao
theo hướng dẫn của cơ quan tài chính Nhà nước.
Thứ hai, hoạt động của tổ chức đó vi phạm pháp luật, vi phạm điều lệ, uy tín của tổ
chức đó suy giảm nghiêm trọng. Trong ba trường hợp nêu trên, cơ quan có thẩm quyền
cho phép tổ chức hoạt động có thể thu hồi giấy phép hoạt động.
Thứ ba, tổ chức xã hội tự ý không hoạt động mà không có lý do chính đáng. Trong
trường hợp này cơ quan nhà nước cấp giấy phép hoạt động ra quyết định giải thể tổ chức
đó.
Quyền hạn và nghĩa vụ của các tổ chức xã hội không giống nhau. Nó thể hiện ở chỗ
một số tổ chức xã hội được quyền trình dự án luật (đó là những thành viên của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam), hoặc được mời tham dự các phiên họp của Chính phủ, hoặc của các
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Nhưng ngược lại, một số hội quần chúng
không có khả năng đó. Pháp luật quy định quyền hạn khá rộng rãi cho các tổ chức công
đoàn trong việc giải quyết các tranh chấp lao động, bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, bảo
vệ các quyền, tự do, hợp pháp của công dân. Năng lực pháp lý - hành chính của tổ chức
công đoàn được thể hiện đầy đủ và rõ nét nhất trong Luật công đoàn (thông qua ngày 306-1990).
Trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước đặc trưng là quan hệ lãnh đạo. Đường
lối của Đảng được thể chế thành pháp luật, các cơ quan Đảng cao nhất lựa chọn người
vào các chức vụ chủ chốt của Nhà nước, kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện đường lối của mình.
Các tổ chức xã hội không chỉ khác nhau về năng lực pháp lý - hành chính, mà còn
khác nhau ở các sự tác động của Nhà nước đối với chúng. Nhà nước không trực tiếp lãnh
5



đạo, can thiệp vào các đoàn thể xã hội là thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam mà
chỉ quy định những quyền hạn, nghĩa vụ pháp lý. Đối với cơ quan xã hội (Liên hiệp các
tổ chức hữu nghị), cử cán bộ lãnh đạo nhà nước sang chuyên trách hoặc bán chuyên trách
ở các tổ chức xã hội, định hướng hoạt động và chỉ đạo các hoạt động cụ thể tuỳ theo tình
hình xã hội.
Sự điều chỉnh pháp lý đối với hoạt động của các tổ chức xã hội không giới hạn ở
việc quy định các quyền và nghĩa vụ, mà còn tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội phát
huy được tính tích cực chính trị tham gia vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội.
Nhà nước quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, người có chức vụ (trách
nhiệm kỷ luật, hành chính, hình sự) nếu có những biện pháp, hành vi cản trở các tổ chức
xã hội và nhân viên các tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ theo điều lệ của họ.
Đối với những hội quần chúng ở các địa phương, các cơ quan nhà nước có nhiệm vụ
tạo điều kiện để các hội đó nắm được chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
phối hợp cùng với hội động viên các hội viên hăng hái thực hiện các chủ trương, chính
sách, pháp luật và thu thập ý kiến hội viên đóng góp với cơ quan nhà nước trong quá trình
xây dựng và thực hiện chính sách, nhiệm vụ công tác của ngành và địa phương.
III - Những hình thức quan hệ giữa các tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước
Đặc trưng cơ bản của mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội và các cơ quan nhà nước
là sự hợp tác. Điều này xuất phát từ sự thống nhất về mục đích của các tổ chức trong hệ
thống chính trị ở nước ta là xây dựng chủ nghĩa xã hội, nâng cao tính tích cực xã hội của
công dân, bảo vệ các quyền, tự do cơ bản của công dân, lợi ích của Nhà nước, xã hội.
1. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình thiết lập các cơ quan, tổ chức nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc đề cử các đảng viên ưu
tú vào các chức vụ quan trọng của bộ máy nhà nước.
Các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn, Đoàn thanh niên cũng có quyền giới
thiệu thành viên của mình ứng cử các chức vụ trong bộ máy nhà nước. Đồng thời, trên
thực tế, việc bổ nhiệm, nâng bậc lương, thăng chức cần có ý kiến của các tổ chức xã hội
6



trước khi thủ trưởng đơn vị ra quyết định.
Cùng với quá trình dân chủ hoá xã hội, vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội
trong việc thiết lập cơ quan nhà nước ngày càng cao, sự hợp tác ngày càng chặt chẽ hơn,
không chỉ bao gồm đưa các thành viên của tổ chức chính trị - xã hội vào cơ quan nhà
nước mà cả sự đánh giá, góp ý kiến hay đề nghị xử lý các cán bộ, công chức nhà nước vi
phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, cản trở hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội.
2. Sự hợp tác phát sinh trong quá trình xây dựng pháp luật
Thực tế quản lý hành chính nhà nước đã áp dụng các hình thức ra văn bản pháp luật
liên tịch giữa cơ quan quản lý hành chính nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội. Các
cơ quan lãnh đạo của các tổ chức chính trị - xã hội cũng tham gia trực tiếp vào việc dự
thảo các quyết định quản lý, các văn bản pháp luật. Trong nhiều trường hợp, chính các tổ
chức chính trị - xã hội chủ động đưa ra những kiến nghị đối với các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành những quyết định, nghị định, và những văn bản khác của Chính
phủ.
Đối với những quyết định quản lý hành chính nhà nước liên quan đến lợi ích và hoạt
động của tổ chức chính trị - xã hội thì cần phải tham khảo ý kiến của các tổ chức chính trị
- xã hội. Ví dụ: Công đoàn tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật, chính
sách, chế độ về lao động, tiền lương, bảo hộ lao động và các chính sách xã hội khác liên
quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động (Phần 2, Điều 5 Luật
Công đoàn).
Pháp luật nước ta quy định nhiều tổ chức chính trị - xã hội có quyền trình dự án
luật. Song song với điều này, các tổ chức đó có thể đưa ra dự thảo luật của mình và tham
gia tích cực vào quá trình thảo luật các dự án luật, các dự án khác.
3. Sự hợp tác trong lĩnh vực thực hiện pháp luật
Trên thực tế, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước thu hút các tổ chức chính trị
- xã hội để thảo luận và tìm ra các biện pháp tối ưu trong việc giải quyết các nhiệm vụ
quản lý cũng như thi hành pháp luật. Các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn và
Đoàn thanh niên đóng vai trò to lớn trong việc phát động các phong trào quần chúng,

7


tuyên truyền trong nội bộ tổ chức đường lối, pháp luật của Nhà nước và thực hiện các
biện pháp nhằm thiết lập trật tự kỷ luật. Trong các bộ, ngành luôn luôn có sự hợp tác
thường xuyên giữa thủ trưởng đơn vị với lãnh đạo các tổ chức xã hội để tìm ra các biện
pháp thực hiện tốt các quyết định quản lý, pháp luật của Nhà nước. Các tổ chức chính trị xã hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được tham dự các kỳ họp của Chính phủ khi cần
thiết.
4. Quan hệ kiểm tra lẫn nhau
Mối quan hệ này thể hiện ở hai chiều:
- Các tổ chức xã hội kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước;
- Các cơ quan nhà nước kiểm tra tính hợp pháp trong việc thành lập, hoạt động của
các tổ chức xã hội.
Trong các quan hệ kiểm tra, các cơ quan Đảng có vai trò quan trọng trong kiểm tra
việc thực hiện đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng trong hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, cũng như kiểm tra các đảng viên làm việc trong các cơ quan đó.
Vai trò của Công đoàn trong việc giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước
được thể hiện trong các lĩnh vực bảo hiểm lao động, bảo vệ các quyền lao động của công
nhân, cán bộ, công chức, tính hợp pháp trong việc xử lý kỷ luật công nhân, cán bộ, công
chức, phân phối quỹ phúc lợi. Đặc biệt, các tổ chức công đoàn có quyền yêu cầu những
cơ quan nhà nước và người có chức vụ tạm ngừng những hoạt động không an toàn lao
động nếu trong quá trình kiểm tra xét thấy nguy hiểm cho tính mạng người lao động.
Các tổ chức xã hội khác cũng thực hiện kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà
nước trong phạm vi có liên quan đến tổ chức mình. Ví dụ: Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
kiểm tra chế độ, chính sách đối với phụ nữ trong các xí nghiệp, cơ sở, trường học và đưa
ra kiến nghị với thủ trưởng đơn vị.
Các tổ chức thanh tra nhân dân ở cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng trong kiểm tra
việc thực hiện pháp luật của những người có chức vụ và nhân viên nhà nước, chống các
biểu hiện quan liêu, hống hách, cửa quyền. Các tổ chức này cùng với Thanh tra Nhà nước
giải quyết các đơn khiếu nại, tố cáo của công dân.

8


Trong một số trường hợp, các cơ quan nhà nước cùng với tổ chức xã hội tiến hành
kiểm tra hoạt động của cơ quan nhà nước. Điều này giúp cho các cơ quan nhà nước khắc
phục ngay những thiếu sót của mình, góp phần làm trong sạch, lành mạnh hoá bộ máy
nhà nước.
Các cơ quan nhà nước cũng kiểm tra tính hợp pháp trong hoạt động của các tổ chức
xã hội. Theo pháp luật, cơ quan nào có thẩm quyền cho phép tổ chức xã hội hoạt động thì
kiểm tra tính hợp pháp của chúng. Song, không can thiệp vào công việc nội bộ của các tổ
chức xã hội.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa các tổ chức xã hội với các cơ quan quản lý hành chính
nhà nước còn thể hiện ở chỗ là:
- Những người đứng đầu các đoàn thể nhân dân được mời dự các phiên họp của các
cơ quan nhà nước khi bàn các vấn đề có liên quan.
- Các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận tổ chức, động viên nhân dân tham gia xây
dựng và củng cố chính quyền nhân dân; tổ chức, thực hiện chủ trương, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử, cán bộ,
công chức nhà nước.
- Các cơ quan nhà nước còn thông báo tình hình mọi mặt của cả nước, hay địa
phương cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên Mặt trận, có trách
nhiệm giải quyết và trả lời các kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
đó.
Như vậy, sự phối hợp của các cơ quan nhà nước với các tổ chức xã hội rất đa dạng,
phong phú. Phát huy tốt các mối quan hệ giữa chúng sẽ tạo ra động lực thúc đẩy quá trình
dân chủ xã hội, dân chủ hoá trong quản lý hành chính nhà nước.

9




×